Phát triển kinh tế tư nhân, lý luận, thực trạng, giải pháp trong giai đoạn hiện nay

A. Lạm phát - kẻ thù của tăng trưởng và ổn định nền kinh tế Lạm phát là một hiện tượng kinh tế phức tạp gắn liền với sự tăng lên đồng loạt của giá cả và sự mất giá của tiền tệ . Nói đến lạm phát chúng ta không thể không quên bóng ma lạm phát ba con số vào những năm 1980 vẫn còn ám ảnh trong tâm khảm nhiều người.Tuy nhiên dù đã từng xảy ra nhưng khi nó trở lại vẫn gây ra những khó khăn,lúng túng, lo lắng để giải quyết . Lạm phát mỗi lần xuất hiện đều mang theo một sức mạnh tàn phá tiềm ẩn , làm

doc18 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1482 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế tư nhân, lý luận, thực trạng, giải pháp trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rối loạn nền kinh tế , làm phức tạp xã hội , làm giảm mức sống người dân và có thể nếu ở một mức nào đó thì lạm phát gây ra rối ren chính trị xã hội . Lạm phát là một phạm trù kinh tế vĩ mô , chứa đựng nội hàm phức tạp . Lạm phát là một căn bệnh tiềm ẩn đối với các nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường , nó xuất hiện khi nền kinh tế chứa đựng các dấu hiệu mất cân đối, mất cân đối giữa cung cầu hàng hoá , mất cân đối giữa cung cầu tiền tệ v.v…Lạm phát là một vấn đề lớn , khó và phức tạp nên mỗi khi nó xuất hiện lại đòi hỏi nhiều tâm trí và sức lực của các nhà kinh tế , các nhà khoa học , các nhà chính trị và các nhà quản lý lao tâm , khổ trí nhằm tìm ra các giải pháp kiềm chế nó để tránh hậu quả do nó gây ra. Những tưởng lạm phát ở Việt Nam đã đi vào dĩ vãng trong lịch sử phát triển kinh tế và đến nay nền kinh tế nước ta đã bước vào thời kỳ ổn định hưng thịnh , mọi suy nghĩ không phải để lo chống lạm phát mà là để đề ra các giải pháp, chính sách thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và ổn định . Tuy nhiên , suy nghĩ đó lại chưa phù hợp . Một lần nữa phải quay trở lại thực tế tìm giải pháp kiềm chế lạm phát . Trước tình hình đáng báo động đó , ổn định lạm phát là một vấn đề cực kỳ quan trọng, bởi lẽ lạm phát là một trong những chỉ tiêu vĩ mô đánh giá sức khỏe của một nền kinh tế bên cạnh các chỉ tiêu tăng trưởng và thất nghiệp. Nếu không có những giải pháp kiềm chế lạm phát kịp thời nền kinh tế khó tránh khỏi rối loạn . Với khuôn khổ bài tiểu luận này , người viết không thể đề cập hết hành trình lạm phát tại Việt Nam xuyên suốt lịch sử phát triển kinh tế mà chỉ muốn nhấn mạnh đến tình hình lạm phát , thực trạng và giải pháp của cơn lạm phát hiện tại từ 2004 – nay . Bên cạnh sự phát triển mạnh của nền kinh tế trong giai đoạn 2001 – 2004 , thì lạm phát có nguy cơ tái diễn . Cơn bão lạm phát liên tục tăng từ một con số thành hai con số . Với tư cách là một sinh viên đang theo học trường đại học Kinh tế Quốc dân , nghiên cứu nền kinh tế đất nước , học tập đúng vào thời điểm nhạy cảm khi chỉ số lạm phát liên tục tăng cao , và cũng là một trong những người phải chịu hậu quả từ cơn bão này , người viết thấy thật sự cần thiết viết bài tiểu luận này nhằm có một đánh giá tổng quan về tình hình lạm phát đất nước và hi vọng đưa ra những giải pháp đóng góp giúp hạn chế lạm phát ở đất nước . Hiện nay nhiều người cho rằng có lẽ nên đánh đổi một vài năm lạm phát để tránh được suy thoái kinh tế nhẹ. Nhưng có lẽ họ đã quên mất những cái giá phải trả do lạm phát cao và việc khó khăn thế nào để giải quyết được tình trạng đó. Xuất phát từ đó , bài tiểu luận này được chia thành 2 chương : Chương I : Lý luận chung về lạm phát . Phân tích và tổng hợp những vấn đề , phương pháp lụân về lạm phát . Những trường phái và quan điểm khác nhau của lạm phát . Chương II : Thực trạng, tình hình lạm phát từ năm 2004 – nay . Nguyên nhân và giải pháp khắc phục . B . Lý luận về lạm phát tiền tệ .Thực trạng và giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát ở nước ta hiện nay ..1 1. Chương I : Lý luận về lạm phát tiền tệ 1.1 - Phần I : Khái niệm về lạm phát . Thước đo , nguyên nhân và hậu quả của lạm phát 1.1.1 - Khái niệm về lạm phát : Lạm phát là sự gia tăng liên tục (persistent) của mức giá chung (price level) trong nền kinh tế (Dermot McAleese, 2002)hoặc là quá trình đồng tiền liên tục giảm giá . Những điều này chưa nói lên nguyên nhân và hậu quả của lạm phát . Trong thực tế , dù có bất kỳ sự tăng giá của một vài hàng hoá riêng lẻ nào đó thì chưa thể gọi là lạm phát , khi gía của một vài hàng hoá lại giảm mà mức giá chung không tăng . Chỉ có kết luận là có lạm phát khi mức giá chung tăng lên . “ Lạm phát có thể định nghĩa đúng nhất là xu hướng duy trì mức giá chung cao ” (R.Jackman , C.Muley và J.Trevithick ). Lạm phát làm cho đời sống kinh tế giảm sút , tình trạng thất nghiệp tăng lên , bất bình xã hội nhiều thêm . Do vậy , lạm phát là “ nguyên nhân chính gây ra sự rối loạn chính trị ” (Pridman , 1974 ) và là một vấn đề đặc thù ở các nước đang phát triển . “Nó gây ra nhiều tranh cãi về những nguyên nhân , giải pháp và các chính sách phù hợp ” (P.Cook và C.Kirpatrick , 1990 ). 1.1.2 - Thước đo lạm phát : Các nhà kinh tế thường đo lạm phát bằng hai chỉ tiêu cơ bản là CPI (Consumer price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator). Cách tính thứ nhất sẽ dựa trên một rổ hàng hóa tiêu dùng (goods basket) và giá cả của những hàng hóa trong rổ ở hai thời điểm khác nhau. Còn cách tính thứ hai thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau, thông thường theo ngôn ngữ thống kê là giá cố định (constant price) và giá hiện hành (current price). Về cơ bản thì hai cách tính này không có sự khác biệt lớn. Phương pháp GDP deflator sẽ tính lạm phát chính xác hơn theo định nghĩa của lạm phát. Tuy nhiên CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào căn cứ vào rổ hàng hóa, còn GDP deflator thì chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi có báo cáo về GDP của năm đó. Như vậy, những thông tin về thước đo lạm phát đến dân chúng hàng ngày chủ yếu được tính từ phương pháp CPI. Nhưng CPI lại không thể đo lạm phát một cách chính xác bởi nó bị tác động bởi hai yếu tố gây sai lệch. Những yếu tố gây sai lệch này chủ yếu đến từ rổ hàng hóa được qui định trước. Sai lệch cơ cấu (composition bias) vì rổ hàng hóa chậm thay đổi, nó không bao gồm những hàng hóa tiêu dùng mới phát sinh nhưng được đa số người tiêu dùng sử dụng. Ví dụ ở TP.HCM khi mọi người đều có mobile phone, giá của mặt hàng này đang giảm theo thời gian nhưng nó lại không nằm trong rổ hàng hóa. Sai lệch thứ hai là sai lệch thay thế (substitution bias), khi giá cả một loại hàng hóa nào đó trong rổ gia tăng, dân chúng sẽ chuyển sang tiêu dùng mặt hàng hóa thay thế với giá rẻ hơn. Ví dụ khi thịt gà trở nên mắc hơn do dịch cúm thì người tiêu dung sẽ chuyển sang ăn cá biển với mục đích là cung cấp chất đạm cho cơ thể. Từ hai sai lệch trên chúng ta nhận thấy rằng, nếu tính lạm phát từ CPI thì có thể dẫn đến một dự báo lạm phát quá mức (overstated inflation) vì những mặt hàng trong rổ đang tăng giá còn những mặt hàng ngoài rổ lại đang giảm giá. Theo một nghiên cứu tại Mỹ (Boskin và cộng sự, 1995) thì CPI đã dự báo lạm phát cao hơn mức lạm phát thực tế trung bình 1,1% so với cách tính GDP deflator. Tại Việt Nam, khi CPI đang tăng gần 10 % tính đến cuối tháng 9 năm 2004 nhưng chính phủ và Ngân hàng nhà nước vẫn cho rằng lạm phát cơ bản vẫn ở mức kiểm soát được và đưa ra con số thấp hơn là 3% cho 06 tháng đầu năm. Điều này có thể lý giải rằng CPI đã tính cao hơn so với thực tế ở một mức độ nào đó và cách tính của chính phủ cũng như Ngân hàng nhà nước dựa vào một thước đo cơ bản hơn. Tuy nhiên đừng vội lạc quan và đổ thừa cho những yếu tố làm sai lệch lạm phát từ chỉ tiêu CPI. Trong rổ hàng hóa tính CPI tại Việt Nam thì hàng lương thực - thực phẩm chiếm 48%, các mặt hàng này thực sự đã tăng giá khá cao trong những tháng vừa qua. Ví dụ như chỉ số giá lương thực đã tăng trên 10% do thất bát vụ mùa ở miền Trung, thu hoạch lúa muộn ở miền Bắc, giá thực phẩm tăng cao hơn do dịch cúm gia cầm (theo số liệu 5 tháng đầu năm 2004 thì giá lương thực tăng 10,9%, giá thực phẩm tăng 12,6 %). Chỉ số giá hàng lương thực thực phẩm tăng cao như vậy có tác động rất sâu sắc đến đời sống dân chúng vì những người dân có thu nhập thấp chi tiêu cho lương thực thực phẩm có khi lên đến 70% trong tổng chi tiêu. Nỗi lo tâm lý về lạm phát từ phía công chúng ngoài nguyên nhân lịch sử thì nguyên nhân khác có lẽ đã bắt đầu từ đây và ổn định lạm phát là một nhiệm vụ quan trọng đặt nặng trên vai chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. 1.1.3 – Nguyên nhân gây ra lạm phát : Có ba loại lạm phát chủ yếu trong nền kinh tế. Loại lạm phát thứ nhất là lạm phát tiền tệ (monetary inflation). Loại lạm phát này xảy ra khi tốc độ tăng trưởng cung tiền vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sự của nền kinh tế. Đơn giản hơn là tiền trong lưu thông tăng nhanh hơn số lượng hàng hóa và dịch vụ được sản xuất ra trong nền kinh tế. Ví dụ như tốc độ tăng trưởng cung tiền là 10% nhưng tốc độ tăng trưởng thực của nền kinh tế 7% thì lạm phát tiền tệ là 3%. Loại lạm phát này thường xảy ra tại các nước đang phát triển khi các nước này theo đuổi cơ chế áp chế tài chính (Financial repression) hoặc trong trường hợp quốc gia đang theo đuổi chính sách tiền tệ mở rộng. Áp chế tài chính là tình trạng ngân hàng trung ương tài trợ cho thâm hụt ngân sách chính phủ bằng cách in tiền, quá nhiều tiền trong lưu thông vượt quá tốc độ tăng trưởng thực sẽ dẫn đến lạm phát. Chính sách tiền tệ mở rộng sẽ kích thích tổng cầu hang hóa dịch vụ trong nền kinh tế, khi tốc độ tăng trưởng tổng cầu cao hơn tốc độ tăng trưởng tổng cung, thì cũng dẫn đến lạm phát. Lạm phát thứ hai là lạm phát cầu kéo (Demand pull – inflation). Loại lạm phát này xuất phát từ sự thay đổi hành vi tổng cầu mang tính đột biến trong nền kinh tế. Các nguyên nhân có thể là do chính phủ chi tiêu quá mức khi thực hiện chính sách thu chi ngân sách mở rộng, hoặc tăng chi tiêu tiêu dùng quá mức bình thường do khu vực hộ gia đình quá lạc quan, hoặc do khu vực hộ gia đình có nguồn thu nhập từ trên trời rơi xuống (winfalls) như viện trợ nước ngoài, thu nhập do giá cả xuất khẩu tăng đột biến . . . Loại lạm phát thứ ba là lạm phát chi phí đẩy (cost push – inflation). Lạm phát chi phí đẩy là loại lạm phát do thu hẹp tổng cung hoặc do các doanh nghiệp buộc lòng phải nâng cao giá bán sản phẩm vì những lý do bất lợi. Khác với hai loại lạm phát trên, thì loại lạm phát này chủ yếu đến từ phía cung và nguyên nhân chủ yếu từ xuất phát từ hiện tượng tăng chi phí sản xuất không mong đợi từ phía các doanh nghiệp. Tăng chi phí không mong đợi từ phía doanh nghiệp tạo ra những cú sốc tổng cung bất lợi. Công nhân đình công đòi tăng lương ở diện rộng, giá nguyên liệu gia tăng đột biến, thảm họa tự nhiên làm đình trệ hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp là những ngòi nổ của loại lạm phát này. Khi giá dầu thô tăng từ 30 USD lên 50 USD / thùng sẽ dẫn đến chi phí sản xuất của hầu hết các doanh nghiệp khác đều tăng theo. Ví dụ giá phân bón, thuốc trừ sâu, giá vận chuyển, giá sắt thép và cement sẽ tăng lên do giá nhiên liệu tăng và chi phí sản xuất lúa của nông dân sẽ tăng lên là điều hiển nhiên. Phản ứng dây chuyền này sẽ làm cho doanh nghiệp đứng trước hai lựa chọn, hoặc đóng cửa nếu giữ giá bán như cũ, hoặc tăng giá nếu muốn giữ nguyên sản lượng như cũ. Việc đóng cửa doanh nghiệp sẽ làm thiếu hụt hàng hoá so với cầu và kéo theo tăng giá chung trong nền kinh tế và lạm phát xảy ra. Việc tăng giá ở nhiều doanh nghiệp sẽ dẫn đến lạm phát vì tăng giá diện rộng sẽ làm tăng mức giá chung trong nền kinh tế. Hệ quả là nền kinh tế sẽ rơi vào một tình trạng tồi tệ mà các nhà kinh tế học gọi là “Đình đốn - lạm phát” (Stagflation) vì vừa có thất nghiệp do cắt giảm sản lượng và vừa có lạm phát do tăng mức giá chung. 1.1.4- Hậu quả của lạm phát : Trên phương diện lý thuyết , nếu lạm phát ở mức có thể tiên đoán được thì có thể tránh được mọi hậu quả xấu có thể xảy ra . Còn nếu lạm phát không thể tiên đoán được thì hậu quả sẽ là ghê gớm và khó có thể lường trước được . Điều này biểu hiện ở chỗ : Lạm phát cao sẽ kìm hãm sự tăng trưởng kinh tế : Khi lạm phát xảy ra nó sẽ làm lệch cơ cấu giá cả , kéo theo là nguồn tài nguyên , vốn và nguồn nhân lực không được phân bố một cách có hiệu quả, kết cục làm cho tăng trưởng chậm lại . Tính không chắc chắn của lạm phát là kẻ thù của tăng trưởng và đầu tư dài hạn : Nếu các nhà đầu tư không biết chắc chắnhoặc không thể dự đoán được mức giá cả trong tương lai, kéo theo là không thể biết được lãi suất thực thì không ai trong số họ dám liều lĩnh đầu tư , nhất là đầu tư vào các dự án dài hạn , mặc dù có thể điều kiện đầu tư khác là khá ưu đãi và hấp dẫn . Tính không chắc chắn của mức độ lạm phát sẽ đẩy lại suất thực hiện lên cao bởi chủ nợ muốn có sự bảo đảm cho mức rủi ro lớn . Mức lãi suất thực cao này sẽ kìm hãm đầu tư và làm chậm tốc độ tăng trưởng . Điều này có thể minh hoạ về tình hình lạm phát cao của Indonesia và Thái Lan trong giai đoạn 1994 – 2000 khi lạm phát cao thì tăng trưởng thấp . Năm 1994 , tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái lan 8,6 % , tỷ lệ lạm phát 4,5% . Đến năm 1998 , tỷ lệ lạm phát lên tới 8,1% , tốc độ tăng trưởng kinh tế âm . Lạm phát cao khuyến khích người dân quan tâm đến lợi ích trước mắt . Khi có lạm phát cao xảy ra ở một nước , thay cho việc kí thác tiền trong ngân hàng để hưởng lãi suất hay đầu tư vào khu vực sản xuất kinh doanh hòng tìm kiếm lợi nhuận , dân chúng có thể sẽ đổ xô mua hàng để dự trữ vì kì vọng giá hàng hoá còn tăng nữa . Điều này vô hình dung làm tăng cầu hàng hoá một cách giả tạo và do vậy càng làm cho lạm phát có nguy cơ bùng nổ đến mức độ cao hơn . Lạm phát cao ảnh hưởng tiêu cực đến toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội của quốc gia . Chính phủ các nước đã từng trải qua lạm phát cao ( Indonesia 1967 , Anh 1979 ...) đều cho rằng không kiểm soát được lạm phát là điều đáng sợ nhất . Toàn bộ hoạt động kinh tế bị méo mó , biến dạng nghiêm trọng , gây tâm lý xã hộ phức tạp và làm lãng phí ghê gớm trong sản xuất . Đặc biệt , khi lạm phát cao xảy ra , sức mua đối nội của đồng tiền giảm sút , lòng tin của dân chúng cũng như nhà đầu tư vào sự ổn định giá trị đồng tiền , vào hệ thống ngân hàng và cao hơn nữa vào chính phủ sẽ bị xói mòn . Điều này gây tác hại vô cùng lớn lao đến toàn bộ hoạt động của nền kinh tế đất nước . Vả lại từ khi vào tình trạng lạm phát cao đến khi ra khỏi tình trạng đó nhìn chung đều cần một thời gian dài với sự hao tổn lớn cả về mặt vật chất và uy tín . Lạm phát cao làm giảm các nguồn thu từ thuế cho ngân sách nhà nước .Những tác động làm giảm này xét trên cả hai phương diện trực tiếp và gián tiếp . Một mặt , lạm phát cao dẫn đến sản xuất bị đình đốn làm cho nguồn thu thuế bị giảm sút cả về mặt quy mô và chất lượng . Mặt khác , lạm phát cao đồng nghĩa với sự mất giá của đồng tiền , do vậy với cùng một lượng tiền thu từ thuế thì giá trị nguồn thu thực tế của nó giảm xuống khi có lạm phát cao . Ví dụ , ở Mexico lạm phát làm giảm nguồn thu thực tế năm 1981 là 2.6% GDP và giai đoạn 1983-1987 là 1,6% GDP. 1.2 - Phần II : Những trường phái , những quan điểm khác nhau về lạm phát : 1.2.1 - Lý thuyết cơ cấu về lạm phát : Lạm phát xuất hiện do xung đột về phân phối , được báo hiệu bởi những chuyển dịch tăng giá và một hệ thống các quy luật hình thành giá làm gia tăng thêm xung đột nêu trên thành một làn sóng tăng giá mạnh mẽ thông qua cơ chế lan truyền . Lạm phát là tất yếu của nền kinh tế khi muốn tăng trưởng cao nhưng lại tồn tại nhiều khó khăn , hạn chế và yếu kém. 1.2.2 - Trường phái tiền tệ : Các nhà tiền tệ cho rằng giá tăng nhiều hay ít là do tăng mức cung tiền quá mức cầu của nền kinh tế . Với quan điểm này , lạm phát xuất hiện khi có một lượng tiền bơm vào lưu thông lớn hơn khối lượng tiền cần thiết cho lưu thông của thị trường . 1.3 - Phần III : Phân loại lạm phát Lạm phát thường được chia làm ba loại : lạm phát chấp nhận được ; lạm phát cao ; lạm phát phi mã .Lạm phát chấp nhận được ( lạm phát vừa phải ) là lạm phát ở mức dưới một con số ( không quá 10%); Lạm phát cao là lạm phát hai con số đến khoảng 50% .Đây là mức lạm phát báo động gây hậu quả xấu không chỉ cho nền kinh tế mà cả xã hội và đời sống của người dân . Lạm phát phi mã là lạm phát cao trên 50% . Đây là mức lạm phát pha vỡ hoàn toàn mọi cân đối và hệ thống tài chính- tiền tệ rối loạn , kinh tế - xã hội có nhiều biến động xấu . 2 – Chương II : Thực trạng và giải pháp để khắc phục tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay . 2.1- Phần I : Tình hình lạm phát của Việt nam từ 2004 – nay 2.1.1 – Lạm phát giai đoạn 2004 Từ những tháng đầu năm 2004 , tình hình giá cả trong nước và quốc tế có những diẽn biến phức tạp ; giá của một số vật tư và hàng tiêu dùng thiết yếu tăng cao ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống . Chỉ số giá tiêu dùng hầu như tăng liên tục trong cả năm 2004 . Đặc biệt trong 6 tháng đầu năm : tháng 1 tăng 1,1% , tháng 2 tăng 3% , tháng 3 tăng 0,8% ; tháng 4 tăng 0,5% ; tháng 5 tăng 0,9% cao hơn 2 tháng 3 và 4 ; tháng 6 tăng 0,8% . Chỉ số giá 6 tháng đầu năm đã tăng tới 7,2% so với tháng 12/2003. Sau một loạt biện pháp chống lạm phát đã được áp dụng thì tình hình giá cá đã được cải thiện , giá cả các tháng 6 tháng cuối năm đã tăng chậm lại và thấp hơn 6 tháng đầu năm và chỉ số giá tiêu dùng tháng 12 năm 2004 so với tháng 12 năm 2003 tăng 9,5% . Trong đó , giá lương thực thực phẩm vẫn là tăng cao nhất (15,6%). Mức độ tăng giá cao 6 tháng đầu năm và cả năm 2004 chỉ tập trung vào các nhóm hàng là lương thực thực phẩm , thuốc tân dược , giá nhà ở và vật liệu xây dựng . 6 tháng đầu năm giá lương thực tăng cao được lý giải là do dịch cúm gia cầm gây ra , tổng cung thực phẩm thấp hơn tổng cầu thực phẩm . 6 tháng cuối năm giá cả tăng chậm lại là do sự giảm bớt xuất khẩu lương thực nên sự mất cân đối giữa tổng cung và tổng cầu lương thực được cải thiện . Tháng 6 chỉ số giá đô la Mỹ giữ nguyên trong khi giá vàng đã giảm tới 1,4% .Nhưng đến tháng 7 năm 2004 , giá các mặt hàng tăng không đáng kể , giá phương tiện đi lại và bưu điện vẫn tăng cao 3% , giá vàng tăng 0,5% và giá đô la Mỹ giảm 0,1% . * Giá lương thực Cả nước 6 tháng đầu năm xuất khẩu được 2253 triệu tấn gạo , đạt giá trị 506 triệu ÚD ; tuy giảm 3,3% vầ lượng nhưng tăng tới 14,5% về mặt giá trị do xuất khẩu gạo trong quý 2 đã tăng nhanh liên tục . Tiến độ xuất khẩu gạo cao , giá xuất khẩu gạo trên thế giới tăng cao đã đẩy giá thóc gạo trong nước tăng mạnh liên tục trong thời gian nêu trên . Tháng 6 giá lúa gạo phía Bắc có giảm chút ít do nông dân bước vào thu hoạch rộ lúa Đông Xuân , nguồn cung tăng cao ; ở phía Nam thời điểm này nông dân mới thu hoạch một số ít diện tích lúa Hè thu sớm , cung vẫn ở tình trạng hạn chế trong khi nhu cầu xuất khẩu vẫn ở mức cao . Do vậy , giá lúa gạo ở các tỉnh phía Nam vẫn tiếp tục gia tăng . Đến các tháng cuối năm 2004 , xuất khẩu lương thực được điều chỉnh lại và việc mua bán lương thực xuất khẩu trên thị trường được sắp xếp điều chỉnh nên sự khan hiếm lương thực so với tổng cầu lương thực giảm xuống . Do vậy , giá cả lương thực các tháng cuối năm tăng không cao . * Giá thực phẩm : Giá các loại thực phẩm 6 tháng đầu năm 2004 luôn biến động theo hướng tăng cao . Đặc biệt giá các loại thịt ở phía Bắc tăng cao hơn các loại thịt ở phía Nam . Có thể giải thích điều này : thời tiết ở phía Bắc rét nhiều và người dân miền Bắc có tập quán tiêu dùng nhiều thịt . Cụ thẻ mức giá một số laọi thịt như sau : - Giá thịt lợn hơi tháng 6/2004 tăng từ 8-14% so với tháng 12/2003 ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long ; các tỉnh đồng bằng sông Hồng tăng 36% ( tháng 12/2003 có giá 9500-11.000 đ/kg đến tháng 6/2004 là 13000-15000 đ/kg ) - Giá thịt gà ta , giá thịt bò đùi tại các tỉnh phía Bắc tháng 6/2004 tăng khoảng 45-58% so với tháng 12/2003 ; các tỉnh phía Nam tăng 28-33% . Nguyên nhân của việc tăng giá các các loại sản phẩm thịt là : + Dịch cúm gà xảy ra với quy mô lớn , bị thiêu huỷ lên tới 44 triệu con làm giảm khoảng 20-30% thị phần thực phẩm đúng bằng thời kỳ trước và sau tết nguyên đán . Vì thế nhu cầu dồn lên các loại thực phẩm thay thế như thịt lợn , thịt bò , thuỷ hải sản ... gây sức ép tăng giá mạnh lên các loại sản phẩm này , tạo “cổng hưởng ” làm tăng thêm và lan rộng sang các mặt hàng ăn uống , thực phẩm chế biến . + Giá các sản phẩm thức ăn gia súc từ đầu năm đến tháng 6 – 2004 tăng lên , đã tác dộng làm tăng giá thành các sản phẩm chăn nuôi . Đây là một nhân tố ảnh hưởng làm tăng giá bán . Nhìn chung giá thức ăn chăn nuôi hiện nay tại Việt Nam hiện nay cao hơn so với thị trường thế giới từ 15 – 25 % đã tác động làm cho giá thành chăn nuôi cao , sức cạnh tranh yếu . * Giá thép : Tình hình giá thép và phôi thép trên thị trường thế giới biến đọng liên tục trong 6 tháng đầu năm 2004 , tác động đến giá thép trên thị trường trong nước tăng cao . Tại thời điểm vào giữa tháng 2 và đầu tháng 3 năm 2004 giá thép tròn xây dựng bán tại 2 thành phố lớn ( Hà Nội , Hồ Chí Minh ) lên trên 8 triệu đồng / tấn , tăng 40% so cùng kỳ . Theo đánh giá của tổ thị trường trong nước thì giá thép bán lẻ tháng 3 và 4 chủ yếu là giá bán đón đầu , có yếu tố đầu cơ nâng giá . Các tháng sau đó giá phôi thép trên thị trường thế giới giảm xuống dưới 400USD/ tấn . Đồng thời nhờ có sự can thiệp mạnh mẽ của chính phủ và các ngành chức năng trong điều hành giá cả ( giảm thuế nhập khẩu , cho nhập khẩu thép tròn xây dựng , hỗ trợ doanh nghiệp nhập khẩu ...) đã làm cho giá thép giảm xuống mức 7,2- 7,5 triệu đồng /tấn ( thực tế còn cao so với cùng kỳ năm 2003 trên 1 triệu đồng /tấn ) . Trong tháng 5 , Chính phủ cho tăng trở lại thuế suất thuế nhập khẩu thép , cùng với tác động tăng giá phôi trên thị trường thế giới , đầu tháng 7 các liên doanh đã nâng giá bán thép thêm 3-500.000 đồng /tấn . Giá phôi thép tăng cao làm nguyên nhân làm tăng giá thị trường , từ cuối năm 2003 đến 6 tháng đầu năm 2004 , nhất là từ sau tết âm lịch giá phôi thép tăng liên tục , có tuần tăng lên 30 – 40 USD/tấn . - Nguyên nhân chủ yếu là do nhu cầu thép trên thị trường thế giới năm 2004 tăng , đặc biệt lại tăng tập trung tại các nước có nhu cầu nhập khẩu lớn . - Nguồn cung ứng nguyên liệu thô (quặng sắt , thép phế , coke ) đang khan hiếm , giá thép phế liệu cũng đang ở mức cao . - Cước phí vận tải hàng hải tăng , an ninh trên biển cũng có nhiều phức tạp đã tác động đến việc thuê tàu . Theo cân đối tiêu dùng hàng năm thép thành phểm nhập khẩu thường chiếm trên 50% , phôi thép chiếm 75% . Do vậy sự biến động giá thép trên thị trường thế giới luôn tác động mạn mẽ đến giá cả trong nước . 2.1.2 – Tình hình biến động giá cả năm 2005 – 2006 : Theo thông báo của tổng cục Thống kê , tình hình giá cả bốn tháng đầu năm 2005, tuy còn cao nhưng thấp hơn cùng kỳ năm 2004 . Nếu tháng 2 năm 2004 chỉ số giá tiêu dùng là 3% thì tháng 2 năm 2005 chỉ ở mức 2,5 % , thấp hơn 0,5 % . Đến tháng 3 thì chỉ số này sáng sủa hơn ở chỗ chỉ tăng 0,1% , trong khi năm 2004 là 0,8% . Nhưng đến tháng 4 , chỉ số giá lại tăng lên cao ( 0,6 % ) . Sở dĩ chỉ số giá chung 4 tháng đầu năm 2005 tăng thấp hơn 4 tháng đầu năm 2004 là do giá lương thực thực phẩm giảm khá . Tốc độ tăng giá lương thực 4 tháng đầu năm 2005 ( 5,4% ) chỉ bằng 64,2% mức tăng giá trong 4 tháng đầu năm 2004 ( 8,4%) . Tốc độ tăng giá thực phẩm 4 tháng đầu năm 2005 ( 6,85 ) chỉ bằng 64,1 % mức tăng giá này 4 tháng đầu năm 2004. Có thể lý giải điều này là do ngay từ đầu năm 2005 chúng ta đã có nhiều giải pháp chống lạm phát và đẩy mạnh phát triển sản xuất . Thứ nhất , là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn cùng kỳ năm trước . Thứ hai , sản xuất công nhiệp có tăng cao hơn , giá trị sản xuất nông nghiệp có chuyển biến tích cực tăng 5 % so với mức tăng 0,8% cùng kỳ năm ngoái . Thứ tư , kim nghạch xuất khẩu tăng 23,2% . Thứ năm , dịch cúm gia cầm được khoanh vùng và tiêu diệt nên không gây ra tổn thất lớn . So sánh mức lạm phát của quý 1 với những năm trước, tình hình kiểm soát giá năm 2006 có những dấu hiệu tốt đẹp. Giá nhóm lương thực - Thực phẩm, yếu tố ảnh hưởng đến CPI mạnh nhất đã giảm đáng kể do việc thành công giải quyết ảnh hưởng của dịch cúm gia cầm. Giá lương thực và thực phẩm giảm 0,9% trong tháng 3 và chỉ tăng 4% kể từ tháng 12 năm ngoái (so với mức tăng 6.1% cùng kỳ năm 2005). Tỷ lệ lạm phát của quý 1 thường bằng một nửa mức cả năm, cụ thể là 51% năm 2004 và 44% năm 2005. Lạm phát quý 1 năm 2006 ở mức 40% so với kế hoạch cả năm do đó đã khiến nhiều nhà phân tích lạc quan mục tiêu kiềm chế giá cả năm nay sẽ thành công trong điều kiện bình thường. Tuy nhiên, trong năm 2006 vẫn có những yếu tố gây áp lực lên mặt bằng giá thị trường. * Trước hết là việc EVN có kế hoạch tăng giá điện lên trên 8% trong năm 2006 (và tiếp tục tăng trong năm sau). * Tiếp đó là ảnh hưởng của việc tăng giá dầu trên thị trường quốc tế. Việt Nam hiện đang phải nhập khẩu 100% các sản phẩm xăng dầu do đó mức giá trong nước sẽ bám sát tình hình dao động giá thế giới. Năm ngoái, giá xăng trong nước đã phải điều chỉnh 6 lần. * Tình hình thời tiết bất thường, hạn hán, lũ lụt và sự trở lại của dịch cúm gia cầm vào cuối năm sẽ là những nhân tố tiềm ẩn gây nên cơn sốc giá, đặc biệt là mặt hàng lương thực, thực phẩm (hiện chiếm hơn một nửa giá hàng hoá dùng để tính CPI). Mặt khác, chương trình cắt giảm thuế quan trong khuôn khổ AFTA đã giúp giá nhập khẩu giảm mạnh đặc biệt là các mặt hàng tiêu dùng phần nào giúp giảm áp lực tăng giá trong nước. Giá vàng trong tháng 3 tăng 1,8% đưa tổng mức tăng từ đầu năm lên 11,6%. Tỷ giá VND/USD vẫn tiếp tục ổn định, giảm nhẹ ở mức 0,1% trong tháng 3 xuống bằng mức của tháng 12 năm ngoái. Trong khoảng thời gian 12 tháng đến tháng 3/2006, tỷ giá chỉ tăng 0,8%. 2.1.3 - Lạm phát 2007 xấp xỉ 11 – 12 % , Việt Nam dẫn đầu các nước Đông Nam Á về chỉ số lạm phát . TS. Nguyễn Minh Phong, trưởng phòng nghiên cứu kinh tế- Viện nghiên cứu phát triển kinh tế- xã hội Hà Nội cho rằng, năm 2007, thị trường giá cả trong nước phải chịu cú sốc mạnh so với năm 2006 khi mặt bằng giá mới được hình thành. Đây là nguyên nhân khiến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của VN vọt lên mức cao nhất 10 năm qua và dẫn đầu các nước Đông Nam Á Tính chung cả năm 2007, CPI ước khoảng trên 10,5- 11% đã tác động đẩy lạm phát lên cao. Dù khẳng định quan điểm, không đồng nhất CPI với lạm phát nhưng theo các chuyên gia, CPI của cả năm 2007 phản ánh tốc độ trượt giá và lạm phát năm nay. Một trong những yếu tố chi phối nổi bật đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam năm 2007 là việc Việt Nam chính thức trở thành thành viên WTO và bắt đầu thực hiện các cam kết theo lộ trình. Bên cạnh những tác động thuận chiều thì một cảnh báo tiếp tục được các chuyên gia nhắc lại trong báo cáo “ Kinh tế Việt Nam năm 2007” (8/5/2008) là việc gia nhập WTO càng làm lộ rõ hơn những yếu kém và bất cập cố hữu của nền kinh tế Việt Nam. Trước hết về thể chế, báo cáo nhấn mạnh rằng sẽ còn rất nhiều việc phải làm để tiếp tục hoàn thiện khung khổ pháp lý cho phù hợp cam kết hội nhập và các chuẩn mực kinh tế thị trường. Còn những khoảng cách khá xa giữa thực tế và yêu cầu tính chuyên nghiệp, minh bạch và khả năng giải trình của các cơ quan nhà nước. Thể chế cho sự phát triển các thị trường yếu tố sản xuất vẫn trong giai đoạn cần tiếp tục có những chỉnh sửa. Bên cạnh đó, sự hụt hẫng về kỹ năng nguồn nhân lực cũng đang ngáng trở tăng trưởng có chất lượng và phát triển bền vững. Việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực liên quan đến tất cả các nhóm xã hội, trong khi đó toàn bộ hệ thống giáo dục, đào tạo đang tỏ ra xa rời với hơi thở cuộc sống và thời đại. Kết cấu hạ tầng yếu kém đã và đang  gây nhiều tổn phí cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống xã hội. Nguồn lực cần thiết cho phát triển kết cấu hạ tầng là rất lớn. Vì thế, các chuyên gia cho rằng, không thể không có tầm tầm nhìn xã rộng, những bản quy hoạch có hàm lượng chất xám và các hình thức hiệu quả trong huy động các nguồn lực. Đây chính là 3 nút thắt cổ chai của nền kinh tế. Một dẫn chứng cho thấy, việc yếu kém về thể chế, hạ tầng và nhân lực đã hạn chế việc thực hiện vốn FDI. Tỷ lệ thực hiện FDI năm 2007 chỉ là 37,8% trong khi các năm trước đó đã đạt cao hơn. Năm 2007, kinh tế Việt Nam lộ diện rõ ràng hơn những rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô. Lạm phát tính theo chỉ số tiêu dùng lên đến 12,63% là mức cao nhất từ 1997. Song có một thực tế là đến cuối 2007, Chính phủ vẫn chưa có những lập luận và giải trình hợp lý trong lựa chọn, về ngắn hạn, giữa mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, dẫn đến sự lúng túng trong điều hành kinh tế vĩ mô, đặc biệt trong bối cảnh các luồng vốn đổ mạnh vào Việt Nam. 2.1.4 – Tình hình lạm phát năm 2008 và những dự đoán về diễn biến lạm phát ở nước ta những tháng cuối năm : Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3 tiếp tục ở mức cao 2,99%, đưa chỉ số giá của 3 tháng đầu năm lên 9,19% và là tỷ lệ lạm phát cao nhất trong một quý từ năm 1995 trở lại đây. Với tốc độ 9,19%, CPI quý I đã vượt qua tốc độ tăng trưởng kinh tế theo kế hoạch của cả năm, dự kiến ở mức 8,5-9%. So với cùng kỳ năm trước, giá các mặt hàng thiết yếu tại Việt Nam đã tăng 19,39%. Theo cách tính CPI mới, giá hàng hóa trong quý I năm nay cũng tăng tới 16,38% so với quý đầu năm 2007. Gần nhất , nhà nước quyết định tháo mức giá trần lãi suất cho các ngân hàng , giá trần lãi suất hiện giờ là 18%/ năm . Cho đến ngày 19/5/2008 , các ngân hàng đã điều chỉnh mức lãi suất tín dụng lên 15% /năm nhằm tăng dự trữ tiền tệ . Tháng 5/ 2008 , nhà xuất bản Giáo dục – Cơ quan độc quyền sách giáo khoa ra thông báo tăng giá sách lên gấp 2, 3 lần khiến dư luận bức xúc , nhân dân lo lắng về tình hình giá cả ngày một leo thang , ngay cả mặt hàng đáng nhẽ ra cần được ưu đãi lại bị tăng giá quá mức . CIEM cho rằng, nhìn chung, trong năm 2008 nền kinh tế Việt Nam sẽ khó có thể tiếp tục tăng trưởng với tốc độ cao như năm 2007. Kết quả dự báo cũng cho thấy lạm phát tiếp tục đứng ở mức cao và cao hơn so với năm 2007 và nhập siêu còn lớn, chưa thể khắc phục trong ngắn hạn. Vì thế, các chuyên gia CIEM cho rằng, các mục tiêu tăng trưởng GDP và lạm phát năm 2008 cần được xem xét lại. 2.2- Phần II : Nguyên nhân gây ra lạm phát tại Việt Nam : 2.2.1- Nguyên nhân khách quan : Theo ba cách mô tả ba loại lạm phát nói trên thì khả năng lạm phát tại Việt Nam là lạm phát chi phí đẩy (cost push inflation). Lý do đơn giản là các nguyên nhân gây ra lạm phát chủ yếu từ phía cung. Giá dầu thô trên thế giới tăng lên từ 27USD/thùng đến 50USD/thùng trong 9 tháng đầu năm 2004 là một tác động chủ yếu. Cho dù người ta mong đợi giá dầu thô trên thế giới có thể êm dịu hơn, nhưng đó là điều khó và phải mất thời gian. Mọi người không còn nghi ngờ gì nữa về ảnh hưởng của cú sốc giá dầu thô vì chính phủ đã buộc lòng điều chỉnh giá xăng tiêu dùng từ 6000đồng lên 7000đồng/lít. Dữ liệu về giá xăng dầu tại Việt Nam cũng như tại các nước khác trên thế giới đã chứng minh rằng sự điều chỉnh giá này chỉ theo xu hướng tăng lên chứ ít bao giờ giảm. Lạm phát do giá cả trên thị trường thế giới tăng mạnh kéo theo tăng giá hàng nhập khẩu . Nhưng tăng giá hàng nhập khẩu làm tăng ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7402.doc
Tài liệu liên quan