Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế

Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế có diện tích là 22.000 ha với chiều dài 68 km được cấu thành bởi các phần lãnh thổ của 5 huyện với 31 xã. Bờ Đông phá là cồn cát ngăn cách đầm phá với biển Đông và bị gián đoạn qua 5 cửa biển: Hải Dương, Thuận An, Hòa Duân (đã được nhà nước lấp cửa lại vào tháng 8/2000), Tư Hiền và Vinh Phong (trong đó có ba cửa mới được mở trong đợt lụt 1999). Bờ Tây tiếp xúc với các cánh đồng lúa và ba cửa sông lớn là: sông Ô Lâu, sông

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1372 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bồ và sông Hương nên được gọi là vùng đầm phá Tam Giang. Đây là vùng đầm phá lớn nhất khu vực Đông Nam á. Vùng đầm phá Tam Giang có nguồn lợi thủy sản phong phú với 12 loài tôm, 18 loài cua, 233 loài cá (trong đó có 20 - 23 loài được coi là có giá trị kinh tế cao). Sản lượng khai thác bình quân hàng năm là 2.500 tấn, cùng với sản lượng nuôi trồng và khai thác trên biển đã đóng góp gần 50% toàn bộ kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Vùng đầm phá còn có vai trò to lớn đối với nghề nuôi trồng thủy sản, là vị trí chiến lược giao thông, du lịch quan trọng, là nơi sinh sống của trên 30% dân số Thừa Thiên - Huế. Nhưng theo điều tra của nhiều nhà nghiên cứu thì đa số dân cư vùng đầm phá này đều thuộc diện nghèo đói. Đời sống của dân cư nói chung còn gặp nhiều khó khăn thu nhập thấp và bấp bênh, các mặt khác của đời sống kinh tế xã hội như: văn hóa, giáo dục, y tế... còn rất lạc hậu thậm chí còn xuống cấp. Cũng chính những điều đó lại tác động tiêu cực đến việc bảo vệ, khai thác, quản lý các nguồn lực kinh tế vốn còn rất nhiều tiềm năng ở vùng đầm phá. Gần mười lăm năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách, biện pháp nhằm chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Nền kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế cũng đã có nhiều khởi sắc, tạo sự sống động đa dạng trong hoạt động sản xuất kinh doanh theo quy luật sản xuất hàng hóa, tạo tiền đề cho các quan hệ kinh tế xã hội phát triển. Phát triển sản xuất hàng hóa đối với tỉnh vừa là mục tiêu vừa là nhiệm vụ cấp thiết hiện nay để nâng cao đời sống cho nhân dân cả về vật chất lẫn tinh thần. Tuy nhiên, đối với vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế sản xuất ở đây còn mang tính tự cung tự cấp, manh mún, phát triển kinh tế hàng hóa vẫn còn là vấn đề mới. Do đó nghiên cứu thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá đang là yêu cầu khách quan cần thiết cho vùng kinh tế được coi là một trong những trọng điểm kinh tế của tỉnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XI của Tỉnh Đảng bộ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong nhiều năm qua đã có nhiều nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước đã tiến hành nghiên cứu vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. - Luận chứng "Bảo vệ tự nhiên đất ngập nước đầm phá Tam Giang - Cầu Hai tỉnh Thừa Thiên - Huế" của ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế tháng 10/ 1998. Do Sở Khoa học, công nghệ và môi trường thực hiện. - Dự án "Nghiên cứu quản lý nguồn lợi sinh học hệ đầm phá Tam Giang" của tổ chức IDRC Canađa tài trợ do Đại học Huế thực hiện. - Chuyên đề "Điều tra phương tiện, công cụ khai thác biển và đầm phá" của ủy ban nhân dân tỉnh do Sở Thủy sản thực hiện. - Hội thảo khoa học về "Đầm phá Thừa Thiên - Huế" do Bộ Khoa học công nghệ - môi trường, Trung tâm Khoa học tự nhiên và Bộ Thủy lợi phối hợp tổ chức. - Chuyên đề "Điều tra đánh giá hiện trạng khai thác đầm phá" của ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế. - Đề án "Định canh định cư dân đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế thời kỳ 1996 - 2000" của Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế. - "Quản lý nguồn lợi thủy sản hệ đầm phá Tam Giang" của Nguyễn Quang Vinh Bình, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế 1996. Và nhiều đề tài khác của Đại học Huế, Viện Hải dương học Hải Phòng, Nha Trang, Đại học Thủy lợi Hà Nội đã nghiên cứu. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu đó chủ yếu mới chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể của đầm phá hoặc nặng về nghiên cứu ứng dụng, hoặc về nghiên cứu triển khai, hoặc về quản lý. Cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể về thực trạng và hệ thống các giải pháp nhằm phát triển kinh tế vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế theo hướng sản xuất hàng hóa. Chính vì vậy trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của những kết quả đã nghiên cứu và bằng những nghiên cứu mới của mình tác giả chọn đề tài "Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế" làm đề tài nghiên cứu, nhằm đóng góp những ý kiến nhỏ bé vào phát triển kinh tế xã hội của vùng đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn Mục đích của luận văn là luận giải những cơ sở khoa học về mặt kinh tế - xã hội, môi trường và sinh thái cho giải pháp tổng thể khi xây dựng vùng đầm phá Tam Giang thành vùng kinh tế hàng hóa phát triển. Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ sau đây: + Xác định cơ sở lý luận, quá trình hình thành và phát triển kinh tế vùng theo hướng sản xuất hàng hóa. + Đánh giá được thực trạng phát triển kinh tế của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế những năm trước và sau trận lụt lịch sử, đồng thời xác định rõ nguyên nhân của những tồn tại và những vấn đề bức xúc đặt ra hiện nay. + Trình bày những định hướng và giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế trong thời gian tới. 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài Đề tài được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu những nhân tố, yếu tố kinh tế xã hội tác động đến việc phát triển sản xuất thủy sản hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. Thời gian nghiên cứu chủ yếu từ năm 1995 đến nay. Không gian nghiên cứu là vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn Cơ sở lý luận chủ yếu của luận văn là hệ thống những quan điểm cơ bản của kinh tế chính trị học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về kinh tế và các vấn đề liên quan đến kinh tế. Luận văn được nghiên cứu từ góc độ kinh tế chính trị học, sử dụng hệ thống các phương pháp: phân tích và tổng hợp, lôgíc, lịch sử và phương pháp so sánh... Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp đặc thù như thống kê, mô hình hóa, điều tra khảo sát thực tế nhằm làm sáng tỏ các vấn đề đặt ra. 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn Nghiên cứu một cách tổng thể thực trạng kinh tế - xã hội, đề xuất những giải pháp có tính khả thi phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn bao gồm phần mở đầu, 3 chương 6 tiết, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Chương 1 Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng và sự cần thiết phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế 1.1. Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng 1.1.1. Khái niệm kinh tế hàng hóa vùng, kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế Mỗi quốc gia là sự hợp thành của các lãnh thổ địa phương khác nhau. Mỗi nền kinh tế cũng là sự hợp thành của các ngành, các lĩnh vực và vùng kinh tế. Theo cấp độ bộ phận hợp thành, vùng kinh tế và các lãnh thổ địa phương có chung các đặc điểm và tính chất của các tiểu hệ thống trong hệ thống lớn theo qui mô cả nước. Tuy nhiên lãnh thổ của mỗi địa phương là địa giới không gian và nội dung quản lý của nhà nước trên không gian xác định đó. Còn vùng kinh tế lại thể hiện giới hạn của một không gian vận động và phát triển của các ngành, các yếu tố và các lĩnh vực kinh tế. Trên thực tế quá trình phát triển của nền kinh tế chính là tổng hợp sự phát triển của các vùng kinh tế hợp thành. Mọi hoạt động của bất cứ chủ thể kinh tế nào cũng đều vận động và phát triển trên những địa bàn nhất định. Các chương trình dự án phát triển chỉ được tiến hành và đạt kết quả cụ thể trong mỗi vùng kinh tế cụ thể. Do những phương pháp xác định và phân định vùng không giống nhau nên có các quan niệm khác nhau về vùng kinh tế. Tuy nhiên, đặc trưng của các vùng kinh tế là phải gắn với một lãnh thổ địa bàn không gian nhất định, trên đó có những hoạt động phát triển kinh tế xã hội đặc thù. Một vùng kinh tế nhất thiết phải là một quy mô lãnh thổ, song không nhất thiết phải xác định một cách ràng buộc theo quy mô diện tích lớn hay nhỏ; vấn đề là ở chỗ các hoạt động kinh tế xã hội trên đó phải được tiến hành phát triển một cách bình thường trong những điều kiện bình thường so với các vùng khác. Trong tác phẩm "Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở Nga" Lênin đã đưa ra khái niệm về vùng kinh tế hàng hóa đặc trưng, thông qua việc phân tích về các "vùng ngũ cốc thương phẩm", "miền chăn nuôi có tính chất thương phẩm", "sự phân hóa của nông dân trong vùng sản xuất sữa", "vùng trồng lanh", "nghề trồng rau và nghề trồng cây ăn quả để bán". Lênin không giới hạn ở khuôn khổ phân chia địa giới hành chính, Người viết: "Vùng ngũ cốc thương phẩm - vùng này bao gồm những miền biên khu phía Nam và phía Đông phần nước Nga thuộc Châu Âu, các tỉnh thảo nguyên xứ Nga mới và Đông sông Vôn - ga. Tại đây đặc điểm của nông nghiệp là có tính chất quảng canh và sản xuất ra rất nhiều lúa mì để bán" [28, 312]. Lênin đã lấy 8 tỉnh và chỉ rõ ở đó người ta trồng nhiều nhất là lúa mì, tức là loại lúa chủ yếu để xuất khẩu. Với diện tích đất trồng lúa mì chiếm "37,6% đến 58,8%" [28, 312]. Theo Lênin việc xác định vùng kinh tế trong điều kiện cụ thể của nước Nga Xô viết, với qui mô đang được nói đến là kinh tế miền Nam, có thể căn cứ vào nguyên tắc kinh tế chuyên môn hóa gắn với tính chất thương phẩm của các ngành kinh tế và đồng thời cũng căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế được xác định trong vùng. Chung quy lại là việc phân định vùng kinh tế căn bản dựa trên nguyên tắc kinh tế, không phụ thuộc vào địa giới lịch sử hành chính. Các tỉnh khác nhau nhưng có điều kiện phát triển sản xuất những loại hàng hóa giống nhau tạo thành vùng kinh tế hàng hóa. Đặc thù của mỗi vùng kinh tế là cơ sở phát triển riêng có của vùng đó như tài nguyên, nhân văn, tỷ trọng khác nhau giữa các ngành hay tiểu vùng. Mức độ tương đồng nhất định về cơ cấu kinh tế của mỗi vùng được bố trí phù hợp với sự phân công và chuyên môn hóa chung trong nền kinh tế lại tạo nên những tiền đề của mối liên hệ giữa các vùng, là cơ sở của mối liên kết, ràng buộc lẫn nhau của các vùng. Sự khác nhau giữa các vùng kinh tế chủ yếu là ở những hoạt động kinh tế đặc thù nhất định của vùng, làm cho mỗi vùng hoàn toàn không đồng nhất với các vùng khác: "Chúng ta nói sang một miền khác rất quan trọng của CNTB nông nghiệp ở Nga, tức là: miền ở đó không phải ngũ cốc chiếm ưu thế, mà sản phẩm chăn nuôi chiếm ưu thế... Năng suất của súc vật ở đây là nhằm phục vụ công nghiệp sữa và toàn bộ nông nghiệp đều nhằm đạt được thật nhiều sản phẩm hàng hóa thật quý thuộc loại đó" [28, 319]. Trạng thái phát triển đặc thù trong phân công lao động xã hội đã quy định tính độc lập của các vùng chỉ ở mức độ tương đối. Chính đặc điểm thống nhất nhưng không đồng nhất này là yếu tố căn bản, quyết định các vùng trở thành các tiểu hệ thống trong hệ thống chung của nền kinh tế. Là tiểu hệ thống nên mỗi vùng cũng có cấu trúc hệ thống riêng đặc thù, bao gồm các tiểu vùng, hợp thành từ các địa phương với những đặc điểm và điều kiện phát triển trên cùng không gian vùng, song lại có những dị biệt nhất định, hoặc về tài nguyên sinh thái hoặc về đặc điểm nhân văn, hoặc về trình độ công nghệ kỹ thuật. Song mức độ khác biệt này không tạo nên những phân biệt rõ rệt trong trạng thái phát triển và bên cạnh đó, mức độ gắn kết giữa các tiểu vùng dựa trên những cơ sở vững chắc hơn do có chung những đặc điểm đặc trưng của toàn vùng. Sau cách mạng Tháng Mười khi thực hiện kế hoạch "điện khí hóa toàn Nga" Lênin cho rằng vấn đề phân định và phát triển các vùng kinh tế một cách khoa học có ý nghĩa lớn lao và Người tán thành bản báo cáo về phân vùng kinh tế của ủy ban kế hoạch nhà nước gửi cho hội nghị lần thứ III của Ban chấp hành trung ương toàn Nga. Bản báo cáo cho rằng: Vùng kinh tế là một tổng thể sản xuất đặc biệt, nó có thể cho phép liên hợp cao độ các nhiệm vụ kinh tế, đó là nội dung biện pháp xây dựng vùng kinh tế mà các công trình của chúng ta lấy làm cơ sở. Biện pháp đó cho phép phân chia quốc gia ra thành các vùng thực hiện những chức năng riêng trong bộ máy kinh tế chung của đất nước, có nghĩa là biến quốc gia thành một bộ máy kinh tế hoàn chỉnh dựa vào sự hợp tác của vùng sản xuất. Nhờ đó mà kết hợp được sự thống nhất giữa phân công lao động xã hội với việc mở rộng sáng kiến của các địa phương trên cơ sở kế hoạch chung. Thực tiễn của nền kinh tế Xô viết về bố trí cơ cấu và phát triển các vùng kinh tế theo các năng lực kinh tế và chuyên môn hóa đã hoàn toàn chứng minh sự đúng đắn của Lênin về vấn đề này. Tuy nhiên, với bản chất không ngừng phát triển và hoàn thiện, học thuyết Mác - Lênin cũng như các luận thuyết kinh tế của học thuyết này đòi hỏi phải thường xuyên được bổ sung bằng thực tiễn kinh tế xã hội đang không ngừng vận động phát triển và gắn liền với những thành tựu tiên tiến của khoa học, kỹ thuật. Do đó, cho đến nay, với bối cảnh quốc tế có nhiều thay đổi, bên cạnh những nguyên tắc không thể phủ định của việc phân định và bố trí phát triển các vùng kinh tế và thực tiễn phát triển của kinh tế thị trường; cơ sở phát triển các vùng kinh tế lãnh thổ đã và đang tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện, nhằm phát huy tối ưu các nguồn lực phát triển của các vùng, nâng cao trình độ phân công và chuyên môn hóa trong nền kinh tế, phát triển đất nước bền vững. Trong kinh tế học phát triển, khi phân tích về kinh tế vùng người ta đã lưu ý đến khái niệm vùng thông qua việc phân định các loại vùng. Có nhiều quan điểm khác nhau: Quan điểm dựa trên chiến lược phát triển cụ thể trong từng giai đoạn của quốc gia đã phân loại vùng trọng điểm hay vùng chương trình. Vùng này nằm trong quy hoạch chiến lược phát triển dài hạn của đất nước, là trung tâm có tác dụng thúc đẩy các vùng khác trong tổng thể nền kinh tế phát triển. Vùng chương trình có thể là vùng phát triển toàn diện các ngành kinh tế, nhưng cũng có thể lựa chọn các ngành mũi nhọn cho từng giai đoạn phát triển của vùng phù hợp với nhu cầu của quốc gia. Các quan điểm khác xem xét mối tương quan giữa thành thị và nông thôn lại phân chia vùng kinh tế thành thị và vùng kinh tế nông thôn ngoại vi, theo đó ngoại vi được bố trí trong chiến lược phát triển đô thị và phục vụ cho quá trình đô thị hóa... Qua sự phân tích lý luận về kinh tế vùng trên đây theo chúng tôi có thể rút ra một số điều kiện phân định vùng kinh tế là: - Một lãnh thổ có các điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tương đồng nhau. - Trình độ phát triển kinh tế tương đối đồng nhất trong địa bàn. - Có đặc trưng của các nguồn lực phát triển tương đồng nhau. - Các nhóm xã hội và xu hướng vận động của các nhóm xã hội. Quan hệ kinh tế của các nhóm xã hội, của các doanh nghiệp, của các đơn vị hành chính... có tác dụng thúc đẩy hay kìm hãm sự phát triển của các vùng lân cận. - Đặc trưng khác biệt của vùng với các vùng khác. - Các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Như vậy, có thể hiểu vùng kinh tế (hay tiểu vùng kinh tế) là một lãnh thổ có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý tương đồng nhau, có các nguồn lực phát triển tương đồng nhau với trình độ phát triển kinh tế tương đối đồng nhất, có các nhóm xã hội quan hệ với nhau có tác dụng thúc đẩy kinh tế của vùng và của các vùng lân cận. Đối với nước ta sau khi giành chính quyền đất nước được phân định thành các liên khu, phù hợp với điều kiện quản lý hành chính và kinh tế trong thời gian đó. Sau khi hòa bình được lập lại yêu cầu của công cuộc khôi phục đất nước và phát triển nền kinh tế đã đặt ra nhiệm vụ xác định nhu cầu và năng lực phát triển của đất nước trên từng vùng lãnh thổ, khả năng bố trí các ngành kinh tế trọng điểm trên mỗi địa phương, mỗi khu vực. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III đã đề ra nhiệm vụ: phải phân bố hợp lý sức sản xuất ở đồng bằng, trung du và miền núi, điều chỉnh sức người giữa các vùng, quy hoạch từng bước các vùng kinh tế, thực hiện sự phân công phối hợp giữa các vùng với nhau. Đến Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 5 (khóa III) tháng 7/1961 về phát triển nông nghiệp đã đặt vấn đề phân vùng nông nghiệp và xác định cách phân vùng nông nghiệp, sử dụng một cách hợp lý nhất các tài nguyên phong phú của đất nước và sức lao động của nhân dân. Thời gian này ủy ban Kế hoạch Nhà nước phối hợp với Bộ Nông nghiệp xây dựng dự án phân chia miền Bắc thành bốn vùng nông nghiệp lớn và gồm 46 tiểu vùng. Dự án này đã được chính phủ xem xét nhưng chưa được chính phủ phê chuẩn. Sau năm 1975 Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã đặc biệt chú ý đến vấn đề phát triển vùng và xác định tiến hành phân vùng, quy hoạch sản xuất để phát triển tất cả các vùng, sớm hình thành những khu vực lớn, sản xuất tập trung, chuyên môn hóa. Đại hội đã phân định nước ta thành bốn vùng kinh tế lớn là: Vùng đồng bằng, vùng trung du, vùng miền núi và vùng miền biển. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V đã phân định nước ta thành bảy vùng kinh tế gồm: Đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam Bộ, Duyên hải Trung bộ, Khu bốn cũ và Thanh Hóa, miền núi và trung du phía bắc, Tây Nguyên. Đại hội VI và Đại hội VII của Đảng kế thừa cách phân định vùng kinh tế của Đại hội V. Đến Đại hội VIII của Đảng, việc phân định các vùng kinh tế cơ bản lại được đề cập theo quan điểm là dựa trên cơ sở tiềm năng và chuyên môn hóa hoàn toàn, không phụ thuộc vào không gian địa lý lãnh thổ theo đó nền kinh tế quốc dân được phân định thành bốn vùng lớn là: Vùng kinh tế đô thị, vùng đồng bằng, vùng miền núi, vùng kinh tế biển. Theo cách phân loại này chỉ có thể làm căn cứ cho việc đánh giá và sử dụng một cách tổng hợp các nguồn lực tài nguyên phục vụ cho công tác quản lý vĩ mô, nhưng lại gặp trở ngại trong quá trình quy hoạch và thực thi phát triển các dự án theo chiến lược phát triển tổng thể của cả nước. Vì vậy trên thực tế chính phủ đã tiến hành tổ chức nền kinh tế trên quy mô lãnh thổ bao gồm tám vùng: 1. Vùng Tây Bắc, 2. Vùng Đông Bắc, 3. Vùng đồng bằng sông Hồng, 4. Vùng Bắc Trung bộ, 5, Vùng Nam Trung Bộ, 6. Vùng Tây Nguyên, 7. Vùng Đông Nam Bộ, 8. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng đã nêu định hướng phát triển các vùng lãnh thổ theo 6 vùng, đó là: 1- Vùng trung du và miền núi Bắc Bộ 2- Đồng bằng sông Hồng và vùng trọng điểm Bắc Bộ. 3- Duyên hải Trung Bộ và vùng trọng điểm miền Trung. 4- Vùng Tây Nguyên. 5- Vùng miền Đông Nam Bộ và trọng điểm phía Nam. 6- Đồng bằng sông Cửu Long. Từ năm 1993 bắt đầu một giai đoạn mới về phát triển kinh tế vùng ở nước ta. Về quy mô, thời gian và không gian tất cả các vùng kinh tế này đều đồng thời được tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển tổng thể, thực hiện các cuộc điều tra cơ bản và toàn diện để lập nên các căn cứ khoa học và thực tiễn cho quá trình đầu tư phát triển kinh tế vùng. Việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế đất nước, trong đó có kinh tế vùng không chỉ là những nỗ lực quan trọng của công tác quản lý và chỉ đạo phát triển kinh tế nói chung, mà thực sự là bước nhảy vọt trong lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế vùng. Quá trình phân vùng đã chú trọng đến các chỉ tiêu giá trị theo tính chất đặc thù về kinh tế sinh thái và nhân văn của mỗi vùng để tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn hóa theo quy mô vùng. Lần đầu tiên trong nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện các vùng kinh tế phát triển trọng điểm (còn gọi là các tam giác tăng trưởng) đó là: 1. Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. 2. Thành phố Hồ Chí Minh - Biên Hòa - Bà Rịa Vũng Tàu. 3. Quảng Nam - Đà Nẵng - Dung Quất Cách xác định các vùng kinh tế phát triển trọng điểm này phản ánh rõ đặc trưng bố trí các cực phát triển chủ yếu của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Nó cũng phù hợp với các điều kiện địa lý không gian của nước ta theo ba miền Bắc, Trung, Nam. Đây là ba vùng kinh tế trọng điểm có điều kiện tăng trưởng kinh tế nhanh hơn nhịp độ chung của cả nước, cung ứng cho cả nước nhiều sản phẩm và dịch vụ cần thiết, phát huy vai trò trung tâm về công nghiệp, dịch vụ, thương mại, tài chính, khoa học kỹ thuật, là cửa ngõ giao lưu quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay nhiều tỉnh có hàng loạt các đô thị mới đã được hình thành trên cơ sở phân định ranh giới hành chính và nâng cấp quản lý đầu tư các trung tâm phát triển mũi nhọn, việc "phát triển ba vùng trọng điểm phải kết hợp chặt chẽ, phục vụ và thúc đẩy cho sự phát triển các vùng khác và cả nước, tạo điều kiện để các doanh nghiệp ở vùng trọng điểm mở rộng kinh doanh và đầu tư ra các vùng khác" [18, 214]. Kinh tế vùng trọng điểm phát triển trên cơ sở phát triển mạnh sản xuất hàng hóa. Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử phát triển và thay thế nhau của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao. Hình thức tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của loài người là kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp. Kinh tế hàng hóa là sự phát triển kế tiếp kinh tế tự nhiên trên cơ sở phân công lao động đã phát triển trong nền kinh tế tự nhiên và dần dần mang tính đối lập với kinh tế tự nhiên. Các Mác cho rằng, phân công lao động xã hội là cơ sở của mọi nền sản xuất hàng hóa: "lao động được phân công một cách có hệ thống, nhưng sự phân công này được thực hiện không phải bằng cách các công nhân trao đổi những sản phẩm của cá nhân họ với nhau. Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa" [29, 61]. Như vậy vừa có sự phân công lao động vừa phải có những người chủ sở hữu khác nhau có tính tách biệt tương đối giữa các chủ thể sản xuất họ trao đổi sản phẩm cho nhau nhằm thỏa mãn nhu cầu của người mua nó. Theo Lênin: "Sản xuất hàng hóa chính là cách tổ chức của nền kinh tế xã hội, trong đó sản phẩm đều do những người sản xuất cá thể riêng lẻ sản xuất ra, mỗi người chuyên làm ra một thứ sản phẩm nhất định, thành thử muốn thỏa mãn các nhu cầu của xã hội thì cần phải có mua bán sản phẩm (vì vậy sản phẩm trở thành hàng hóa) trên thị trường" [27, 106]. Đó là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong mối quan hệ giữa người với người thể hiện thông qua quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa trên thị trường. Thị trường vừa là môi trường lưu thông hàng hóa đồng thời nó là một nhân tố của quá trình tái sản xuất xã hội, là sự giao tiếp giữa người sản xuất với người tiêu dùng. Trong nền kinh tế hàng hóa, thị trường trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô công nghệ và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Tiểu vùng kinh tế là một bộ phận trong kết cấu chung của vùng kinh tế. Phát triển kinh tế hàng hóa của vùng hay tiểu vùng đều nhằm thúc đẩy việc tích tụ, tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất, không ngừng cải tiến kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức sản xuất vừa để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm vừa giảm chi phí sản xuất hạ giá thành sản phẩm. Xác định ngành mũi nhọn đối với từng vùng để sản xuất, cải tạo phương pháp tập quán sản xuất, thực hiện chuyên môn hóa sản xuất... đồng thời phát triển nhiều ngành nghề khác, thúc đẩy việc trao đổi hàng hóa, mở rộng thị trường. Kinh tế hàng hóa của vùng phát triển sẽ thúc đẩy và mở rộng việc giao lưu kinh tế, văn hóa của vùng với các vùng khác trong địa phương cũng như trong cả nước, góp phần tạo nên sự phát triển kinh tế xã hội mạnh mẽ của cả nước. Muốn vậy phải "tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng để hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý" [18, 209] Vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế (hoặc gọi là tiểu vùng trong vùng kinh tế nói chung) có đặc điểm, điều kiện tự nhiên, địa lý, địa hình... hình thành nên một vùng riêng biệt có điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa với những tiềm năng vốn có của vùng. Đầm phá Tam Giang có địa hình ven bờ với độ cao không quá 10 m, lòng đầm phá hình lòng chảo hợp thành từ các con sông, có độ sâu từ 0, 5 đến 1, 5 m; hình thành một lạch triều ngầm có độ sâu trung bình 2m sâu dần về phía cửa Thuận An đạt 4,5 đến 5 m. Đầm phá Tam Giang là một hệ thống gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau: khu hệ thực vật bao gồm thực vật phù du, thực vật nhỏ sống ở đáy, rong biển, thực vật thủy sinh bậc cao, thực vật bậc cao. Khu hệ động vật có: động vật phù du, động vật đáy, khu hệ cá và chim. Do đặc điểm địa hình hệ sinh thái phức tạp, đan xen nhau nên có nhiều cách hiểu và xác định phạm vi về vùng đầm phá khác nhau: Theo ngư dân qua kinh nghiệm sống bằng nghề chài lưới trên vùng đầm phá cho rằng: Đầm phá Tam Giang là một hệ thống nối liền nhau, "đầm" có mức nước cạn hơn phá (độ sâu 0,5 đến 1,5 m), còn "phá" sát với biển hơn và có các cửa thông ra biển, đầm có độ rộng phẳng hơn so với phá. Có nơi địa hình của đầm khép kín có lạch thông ra phá (như đầm Lăng Cô) ở đây đầm được hiểu như là ao, chuôm... - Theo cách tiếp cận của các nhà khoa học môi trường trong việc quản lý các dự án về đầm phá cho rằng: Đầm phá Tam Giang là một hệ thống gồm nhiều hệ sinh thái khác nhau, có quan hệ chặt chẽ tác động qua lại lẫn nhau, phụ thuộc vào nhau. Nằm giữa biển và lục địa, giữa nước mặn và nước ngọt, giữa hữu hạn và vô hạn là nơi giao lưu của cái này và cái kia, và tất nhiên đầm phá cũng có cái riêng của mình. Chính sự phức tạp của tự nhiên mà tạo nên sự phức tạp trong các vấn đề xã hội. - Theo các nhà nghiên cứu kinh tế - xã hội cho rằng xét việc phát triển kinh tế - xã hội của một vùng sẽ chịu tác động của các nhân tố chủ trương, đường lối, chính sách và đầu tư theo góc độ hành chính nên phạm vi vùng sẽ được xác định theo đường ranh giới hành chính cấp xã. Do vậy đầm phá Tam Giang bao gồm phần đất liền của 31 xã ven đầm phá và phần vực nước của đầm phá. - Cũng có cách nhìn đầm phá từ góc độ khác cho rằng: Đầm phá Tam Giang là một tạo hình thủy vực độc đáo được coi như một vụng biển ven bờ biển nhiệt đới ẩm, gồm bốn yếu tố cấu thành: Vực nước, cồn cát, cửa biển, và các cửa sông chính đổ vào đầm phá. Vận dụng tư tưởng của Lênin về kinh tế vùng và từ các cách tiếp cận ở các góc độ khác nhau cho thấy vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế cũng có các đặc trưng của một vùng kinh tế, do vậy nó có đủ các nhân tố hình thành một tiểu vùng kinh tế hàng hóa, là một bộ phận của kinh tế xã hội tỉnh Thừa Thiên - Huế đầm phá có giới hạn trong một khu vực địa lý riêng biệt mang tính đặc thù. Vì vậy, theo chúng tôi, vùng kinh tế đầm phá Tam Giang có các đặc trưng của một tiểu vùng kinh tế hàng hóa: đó là một lãnh thổ trong vùng kinh tế biển miền Trung thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, có điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá mang tính chất của vùng biển và đồng bằng. Đặc trưng của nguồn lực phát triển kinh tế là thủy sản. Nó được hình thành tổng hợp từ các loại hình kinh tế phổ biến là kinh tế hợp tác và cá thể tiểu chủ tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời, tác động qua lại lẫn nhau thúc đẩy sự phát triển của vùng đầm phá và của các vùng lân cận cũng như nền kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế. 1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế Thừa Thiên - Huế là tỉnh có vị thế địa lý quan trọng, là một trong bốn tỉnh nằm trong vùng phát triển kinh tế trọng điểm của miền Trung và nằm ở trung độ của cả nước. Có đường quốc lộ số 1 và đường sắt quốc gia đi qua nối hai miền Nam Bắc; nằm trên dải đất hẹp với chiều dài 127 km, chiều rộng trung bình 60 km, với các dạng địa hình rừng núi, gò đồi, đồng bằng, đầm phá và biển... Trong đó rừng núi chiếm 70% diện tích tự nhiên. Địa hình phức tạp thấp dần từ Tây sang Đông và bị chia cắt mạnh, phần phía Tây của tỉnh chủ yếu là núi đồi, tiếp đến là lưu vực của các con sông tạo nên các bồn trũng đồng bằng, ven biển nhỏ hẹp và vùng đầm phá rộng lớn với diện tích 22.000 ha. Có cửa biển và cảng Thuận An, có vịnh Chân Mây với độ sâu 10 - 14 m có khả năng xây dựng cảng biển nước sâu cho khu vực miền Trung. Huế có sân bay Phú Bài thuận lợi cho giao lưu trong cả nước và quốc tế. Thừa Thiên - Huế có diện tích tự nhiên 5.009,2 km2 chiếm 1,51% tổng diện tích tự nhiên của cả nước. Theo tổng điều tra nông nghiệp, nông thôn năm 1994, phân bố diện tích đất tự nhiên của Thừa Thiên - Huế như sau: Bảng 1: Phân bố diện tích đất tự nhiên của Thừa Thiên - Huế Tổng diện tích đất tự nhiên Đất khu dân cư Đất nông nghiệp Đất lâm nghiệp Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản Đất chuyên dùng Đất chưa sử dụng Cả nước - Số tuyệt đối (ha) 32.835.964 732.842,9 6.342.693,5 12.055.239 318.342,6 1.218.625,9 12.168.219 - Cơ cấu (%) 100 2,2 19,3 36,7 1,0 3,7 Khu Bốn cũ - Số tuyệt đối (ha 5.053.827 125.838 590.732 2.146.038 16.930 180.323 - Cơ cấu (%) 100 2,5 11,6 42,5 0,3 3,6 Thừa Thiên - Huế - Số tuyệt đối (ha 454.945 9.088,4 41.306,2 214.474 854,2 15.214 174.008,7 - Cơ cấu (%) 100 2,0 9,1 47,1 0,2 3,3 38,2 Nguồn: [15, 160]. Qua số liệu của bảng cho thấy, đất nông nghiệp Thừa Thiên - Huế chiếm tỷ lệ 9,1% diện tích đất tự nhiên thấp hơn so với tỷ lệ bình quân của cả nước và khu Bốn cũ - đất lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao nhất 47,1% trong khi đó của cả nước là 36,7%, khu Bốn cũ là 42,5%. Với diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản hầu hết là vùng đầm phá chiếm 0,2% diện tích đất tự nhiên. Thừa Thiên - Huế có trên 100 điểm khoáng sản chiếm tỷ trọng lớn có giá trị kinh tế đáng kể. Biển và đầm phá có nhiều chủng loại thủy hải sản với trên 500 loài tôm cá trong đó có 35 - 40 loài có giá trị kinh tế cao. Trữ lượng khai thác hàng năm 30 - 40 nghìn tấn. Thừa Thiên - Huế có ưu thế nuôi trồng thủy sản với diện tích 22.000 ha mặt nước vùng đầm phá có khả năng đánh bắt và nuôi trồng nhiều loại thủy sản có giá trị kinh tế cao như tôm sú, tôm bạc, cua, sò huyết, vẹm xanh... có rong câu chỉ vàng là nguồn nguyên liệu phong phú cho công nghiệp chế biến agar. Từ năm 1996 đến nay nền kinh tế của tỉnh tiếp tục giữ được nhịp độ tăng trưởng. Tổng sản phẩm xã hội thời kỳ 1996 - 2000 tăng 35,4% (nhưng do thiệt hại của trận lụt lịch sử cuối năm 1999 nên bình quân mỗi năm chỉ đạt 6,3%). Hầu hết các ngành và các thành phần kinh tế đều có mức tăng trưởng khá. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 289 USD năm 1995 lên 378 USD năm 2000, gấp 1,7 lần so với năm 1990 (chưa đạt so với kế hoạch năm 2000 thu nhập bình quân là 460 USD). Những nhân tố phát triển kinh tế hàng hóa của tỉnh trong các ngành nghề được thể hiện: - Công nghiệp: Chiếm 32,7% trong GDP năm 2000, tăng 6,3% so với năm 1995. Giá trị sản xuất tăng bình quân hàng năm 17,1%, đóng góp 60% tổng thu ngân sách. Một số ngành có lợi thế so sánh được chú trọng đầu tư tạo năng lực sản xuất mới, phát triển quy mô đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ. - Nông nghiệp: Bao gồm nông - lâm - thủy sản chiếm 22,3% trong GDP, giảm 8,2% so với năm 1995. Giá trị xuất._. khẩu tăng 1,7% năm. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi đã chuyển dịch ổn định theo hướng sản xuất hàng hóa. - Du lịch - dịch vụ: Năm 1995 chiếm tỷ trọng 43,1%, tăng lên 45% năm 2000. Đây là ngành Thừa Thiên - Huế có thế mạnh, cơ sở vật chất dịch vụ du lịch được tăng cường các loại hình du lịch ngày càng đa dạng, hấp dẫn như: du lịch sinh thái, du lịch nhà vườn, du lịch nghỉ dưỡng, du lịch lễ hội ... Thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển đa dạng, bảo đảm nhu cầu phục vụ sản xuất và đời sống. Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển đúng hướng, nền kinh tế chuyển mạnh sang sản xuất hàng hóa. Kinh tế nhà nước chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế của tỉnh. Năm 1995 chiếm 30% GDP, tăng lên 37,41% năm 2000. Doanh nghiệp nhà nước đảm nhận các khâu then chốt và các lĩnh vực trọng yếu như: sản xuất công nghiệp, xây dựng hạ tầng cơ sở, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm ... giữ vai trò tác động, thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển. Kinh tế hợp tác được củng cố và tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã góp phần quan trọng trong việc củng cố quan hệ sản xuất định hướng XHCN. Các hình thức hợp tác trong sản xuất và kinh tế hộ ngày càng phát triển dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú. Kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển mạnh trong hoạt động thương mại, tiểu thủ công nghiệp. Kinh tế tư bản tư nhân hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng, dịch vụ kinh doanh thương mại, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Cả hai thành phần kinh tế tư nhân và cá thể quy mô sản xuất chưa lớn, nhưng đã phát huy tính năng động, tự chủ trong sản xuất kinh doanh, góp phần tăng sản phẩm cho xã hội, giải quyết việc làm. Chiếm tỷ trọng từ 47 - 48% trong GDP của tỉnh. Kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tuy số lượng không nhiều nhưng được đầu tư công nghệ tiến bộ, có năng lực quản lý nên đạt tốc độ tăng trưởng cao, mức tăng bình quân 34,8%/năm. Chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị sản xuất và nộp ngân sách của tỉnh [46, 2-7]. Trong năm năm từ 1996 - 2000 tỉnh đã chú trọng đến việc xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở, đó là điều kiện rất cơ bản bảo đảm cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là phát triển kinh tế hàng hóa trên địa bàn của tỉnh. Chương trình điện khí hóa đã cơ bản hoàn thành. Toàn tỉnh đã có 90,16% số xã có điện và 76% số hộ sử dụng điện. Hệ thống cấp nước phát triển mạng lưới phân phối được cải tạo, số hộ được sử dụng nước sạch ngày càng tăng. Giao thông phát triển cả ở đô thị và nông thôn phục vụ nhu cầu đi lại, giao lưu kinh tế văn hóa của nhân dân. Hệ thống thủy lợi được ưu tiên đầu tư và đang từng bước phát huy tác dụng trong phục vụ sản xuất nông nghiệp, môi trường sinh thái. Cơ sở vật chất của các ngành giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hóa, y tế, thể dục - thể thao đều được tăng cường. Văn hóa - xã hội là nhân tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa. Vì vậy trong những năm vừa qua tỉnh đã tập trung phát triển sự nghiệp giáo dục cả về quy mô, chất lượng, hình thức đào tạo và cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng lớn của nhân dân. Các trung tâm y tế huyện, xã được xây dựng và nâng cấp. Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được triển khai thực hiện tốt, tỷ lệ tăng dân số năm 1999 đạt 1,78%. Hoạt động văn hóa thông tin có nhiều đóng góp tích cực trong việc tuyên truyền đường lối đổi mới của Đảng, xây dựng nền văn hóa mới như: làng văn hóa, bưu điện văn hóa xã, gia đình văn hóa mới, cụm dân cư không có người sinh con thứ ba ... Khơi dậy và phát huy truyền thống nhân ái giúp đỡ nhau trong những khi hoạn nạn thiên tai. Chương trình xóa đói giảm nghèo được triển khai mạnh mẽ, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 23,5% năm 1996 xuống 17% năm 1999. Giải quyết việc làm cho 12000 lao động/năm, trong đó kinh tế tư nhân và hợp tác chiếm 90%. Công tác chăm sóc người có công, các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn được quan tâm thu hút sự tham gia rộng rãi của các cơ quan, đoàn thể và toàn dân. Các hoạt động từ thiện đem lại kết quả thiết thực. Việc cứu nạn, cứu trợ đồng bào bị thiên tai trong cơn lũ 1999 được quan tâm kịp thời có hiệu quả. Những nhân tố trên đây đã tác động rất mạnh đến quá trình phát triển kinh tế hàng hóa của tỉnh nói chung và kinh tế vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế nói riêng. Kinh tế vùng đầm phá chịu ảnh hưởng chi phối rộng lớn của cơ cấu kinh tế của tỉnh. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh có xu hướng tốt, bước đầu phát huy được thế mạnh của tỉnh, góp phần thu hút lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Trong đó, dân cư vùng đầm phá cũng được giải quyết một phần cơ bản. Doanh nghiệp nhà nước giữ vai trò tác động thúc đẩy kinh tế vùng đầm phá như: xây dựng hạ tầng cơ sở, tài chính, tín dụng, điện phục vụ sản xuất và sinh hoạt, khoa học kỹ thuật, cơ sở vật chất cho giáo dục đào tạo, văn hóa, y tế, thể dục thể thao... tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa vùng phát triển. Ngoài sự tác động chung của các nhân tố trên còn có những nhân tố cụ thể tác động đến sự phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đó là: - Về điều kiện tự nhiên: vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế nằm trong ô tọa độ vào khoảng 16015' -16042' vĩ bắc và 107022' - 107057' kinh đông là một vùng đất ngập nước cỡ lớn kéo dài 68 km theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, cách thành phố Huế 7 km và các huyện lỵ ven bờ 0,5 - 9 km về phía Tây Nam. Vùng đầm phá Tam Giang nối đường thủy của 5 trong 8 huyện của tỉnh gồm các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Phú Lộc. Căn cứ vào nguồn gốc phát sinh vùng đầm phá Tam Giang thuộc đất ngập nước tự nhiên và là nước lợ. Căn cứ vào tính chất phân dị, chức năng sinh thái có thể phân chia chúng thành 10 kiểu thuộc 4 nhóm là: Nhóm đất ngập nước phủ thực vật, nhóm đất ngập nước không phủ thực vật, đất ngập nước thường xuyên và đất ngập nước khác đã được sử dụng. Bao gồm Phá Tam Giang, đầm Sam, đầm Hà Trung, đầm Chuồn, đầm Thủy Tú, đầm Cầu Hai, đầm Lăng Cô tạo thành hệ đầm phá. Đất đai vùng đầm phá chủ yếu là đất xấu nghèo chất dinh dưỡng gồm các nhóm đất: đất cát biển, đất cát mặn, đất lầy và than bùn, đất đầm phá nuôi trồng thủy sản, các loại đất khác... đất ở đây cho năng suất thấp, muốn canh tác có hiệu quả đòi hỏi phải được cải tạo tích cực. Vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế có khí hậu khắc nghiệt, bức xạ mặt trời của khu vực thuộc loại cao có thể đạt 234,15 kcal/cm2/năm. Mùa hè lượng mây thấp (4/10) nắng nhiều đạt trung bình 170 giờ - 240 giờ/tháng. Mùa đông lượng mây cao(8/10) gây mưa nhiều trung bình 2744 mm/năm cao hơn so với cả nước (1900 mm/năm). Nhiệt độ không khí trung bình 25,20C bằng trung bình so với cả nước nhưng cao hơn so với miền Bắc, nhiệt độ thấp nhất 8,80C, cao nhất 400C. Vùng đầm phá chịu ảnh hưởng chung của gió Đông Bắc (mùa đông) và gió Tây Nam (mùa hè). Đặc biệt là chịu ảnh hưởng của từ 0 - 4 cơn bão kèm theo mưa lớn và dài ngày gây thiệt hại nặng nề về người, tài sản, tư liệu sản xuất đánh bắt và nuôi trồng thủy sản cũng như nông nghiệp nói chung. Thủy văn vùng đầm phá chịu ảnh hưởng sâu sắc của chế độ thủy văn (sông) và hải văn (biển), mực nước đầm phá biến đổi không đồng nhất giữa các vị trí trong đầm phá và giữa đầm phá với biển. Mùa nắng mức nước đầm phá luôn thấp hơn mức nước biển từ 5 cm - 15 cm (so với đỉnh triều) ở phá Tam Giang và 25cm - 30 cm ở đầm Cầu Hai. Mùa mưa mức nước cao hơn mức nước biển từ 70cm - 97cm. Dòng chảy trong đầm phá hỗn hợp nhiều thành phần gồm dòng chảy sông, dòng chảy gió và các dòng triều phân với tốc độ và hướng thay đổi theo mùa. Sự trao đổi nước giữa đầm phá và biển qua cửa biển thay đổi phức tạp theo mùa tác động đến các yếu tố thủy hóa của toàn vùng. Vùng cửa sông gần như ngọt về mùa mưa và không còn phân tầng, độ muối trong khoảng 0,02% - 0,2% và lợ về mùa khô khoảng 1,3% - 11,4%. Vùng lòng chảo đầm phá có độ muối cao hơn và phân tầng về mùa khô. Độ muối trong khoảng 18,2% - 24,1% (tầng mặt), 22,2% - 25,4% (tầng đáy) và về mùa mưa 3,4% - 11,9% (tầng mặt) và 5,2% - 12,1% (tầng đáy). Vùng cửa phá 27,2% - 32,4% (tầng mặt) và 29,4 - 32,3% (tầng đáy) vào mùa khô. Còn mùa mưa 15,1% - 22,6% (tầng mặt), 23,2% - 23,5% (tầng đáy). Độ muối cao nhất ở cửa phá và thấp nhất ở cửa sông. - Về nguồn lợi thủy sản: vùng đầm phá là nơi giàu nguồn lợi thủy sản và tài nguyên khác. Khu hệ cá đầm phá Tam Giang phong phú và đa dạng với 233 loài cá thuộc 125 giống, 62 họ khác nhau chúng gồm có ba nhóm sinh thái: Nhóm cá biển chiếm 65% tổng số loài Nhóm cá nước lợ khoảng 19,3% số loài Nhóm cá nước ngọt chiếm 15,7% số loài. Nguồn lợi này cho sản lượng cao và có thể đánh bắt quanh năm(như bộ cá trích, cá mối, cá đồi, cá dìa, cá chép, cá dầy, cá bống, cá song, cá hồng, cá khế, cá liệt ...). Cá đầm phá không to bằng cá biển nhưng ngon nên được tiêu thụ mạnh và một số loài đang là đối tượng thủy sản xuất khẩu. Vùng đầm phá có 12 loài tôm thuộc 3 họ trong đó có nhiều loài có giá trị cao như tôm sú, tôm bạc, tôm rằn, tôm đất ... có thể khai thác quanh năm đặc biệt là tháng tư và tháng chín. Ngoài cá và tôm vùng đầm phá còn có cua, trai, vẹm xanh, sò huyết... có giá trị kinh tế cao. Vùng đầm phá Tam Giang có 73 loài chim trong đó có 34 loài di cư và 39 loài định cư trong đó có 28 loài có giá trị kinh tế cao, 25 loài được ghi trong danh mục bảo vệ nghiêm ngặt của cộng đồng châu Âu, một loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam. Vùng đầm phá có nhiều loài thực vật có giá trị thực tiễn lớn được khai thác dùng làm phân bón gồm tảo biển, thực vật có hoa. Các loài thực vật là đối tượng khai thác để sản xuất agar như rong câu thuộc ngành tảo đỏ. Vùng cát trắng ven phá giáp với biển là nguồn nguyên liệu dồi dào cho sản xuất thủy tinh pha lê, ngoài ra còn có một số vùng cát đen là nguyên liệu sản xuất titan. Tiềm năng lớn về nguồn lợi thủy hải sản là điều kiện thuận lợi để phát triển công nghiệp chế biến các loại sản phẩm phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Sự kết hợp hài hòa cảnh quan thiên nhiên và cảnh quan văn hóa xã hội tạo ra sự phong phú trong du lịch sinh thái. Khả năng phát triển du lịch ở vùng biển và đầm phá là rất lớn, đặc biệt là các loại hình du lịch bằng tàu thuyền trong sự liên quan mật thiết với trung tâm du lịch Huế. Từ vùng đầm phá các tuyến du lịch có thể thông ra biển và nhiều vùng du lịch trong toàn tỉnh bằng đường thủy rất thuận lợi. Vùng đầm phá còn là nơi cung cấp nguồn đặc sản thủy sản phục vụ khách du lịch. Cảng Thuận An là nơi ra vào của hàng nghìn tấn hàng của các con tàu từ biển vào đất liền trên phá Tam Giang. Chân Mây là vịnh nước sâu đã được Chính phủ cho phép tỉnh đầu tư xây dựng vào tháng 7/2000. - Về điều kiện kinh tế - xã hội: vùng đầm phá có tổng dân số là 314.500 người, chiếm trên 30% dân số của toàn tỉnh. Có 39.025 hộ gia đình, bình quân 8 người/1 hộ. Tỷ lệ lao động chiếm khoảng 40,9% dân số trong đó lao động nữ chiếm 55,9%. Lao động nông nghiệp cao nhất ở các xã thuộc huyện Phong Điền chiếm 85%; thấp nhất ở các xã thuộc huyện Phú Lộc là 42%. Lao động thủy sản trung bình chiếm 20%. Mật độ dân số trung bình 399 người/km2; tỷ lệ tăng dân số 1,9%. Trong cộng đồng dân cư các xã vùng đầm phá có một bộ phận sống du cư trên mặt nước với khoảng 1.200 hộ (10.000 người). Đông nhất là dân thủy diện huyện Phú Vang có 652 hộ (3.512 người) và 1.479 lao động; sau đó là huyện Phú Lộc có 3.304 dân cư thủy diện. Thực tế cho thấy ngư dân thủy diện đầm phá là những người có tín ngưỡng và tâm linh sâu đậm hướng vào nghề đánh bắt trên đầm phá. Với những trắc ẩn của thiên nhiên vốn chứa đựng nhiều yếu tố thần linh, vô hình, siêu hình... trình độ dân trí thấp, đa số mù chữ, trẻ em thất học nhiều, dân số tăng nhanh, các tệ nạn xã hội phát triển. Những năm vừa qua chương trình phổ cập giáo dục tiểu học đã được triển khai ở hầu hết các xã, tuy nhiên vẫn còn hạn chế. Dân cư đầm phá Thừa Thiên - Huế nói riêng và dân cư Huế nói chung cuộc sống ảnh hưởng tư tưởng của Nho giáo và Phật giáo từ bao đời nay. Văn hóa làng, xã với nếp sống truyền thống luôn tôn vinh quá trình giáo dưỡng cho nhân dân đạo lý làm người, có ý thức tôn sư trọng đạo, xây dựng thực hiện kỷ cương gia đình và xã hội. Vùng đầm phá có lợi thế về giao thông nhưng chưa khai thác được cho nên việc đi lại của dân còn cách trở dẫn đến tình trạng yếu kém về trình độ văn hóa, mức sống của dân cư trong vùng nói chung còn thấp và không đồng đều giữa các khu vực, điều kiện hưởng thụ văn hóa thấp, tỷ lệ mù chữ cao so với toàn tỉnh. Nhìn chung, đời sống văn hóa, tinh thần của dân cư vùng đầm phá còn nghèo nàn lạc hậu. Tình hình an ninh trật tự an toàn xã hội vùng đầm phá tương đối ổn định. Tuy nhiên, số người vượt biên khá lớn sau năm 1975, hiện nay hồi hương trở về ngày càng đông. Trên địa bàn có nhiều hoạt động viện trợ nhân đạo, hoạt động từ thiện... của các tổ chức phi chính phủ, tổ chức tôn giáo ở quy mô nhỏ; trong đó có cả việc vận động dân cư đi chùa, đi nhà thờ ngày càng nhiều. Về hệ thống giao thông phát triển ở cấp huyện, vùng đầm phá chủ yếu là đường cấp phối liên thôn liên xã. Điện lưới về hầu hết các xã trong các huyện, trên thực tế chỉ khoảng 45% - 50% dân số các xã dùng điện cho sinh hoạt và sản xuất thấp hơn mức chung của cả tỉnh. Nguồn nước ngọt cho sinh hoạt rất khó khăn trong mùa hè. Thông tin liên lạc còn hạn chế tuy nhiên các trung tâm dân cư ven biển và đầm phá đều có trung tâm bưu chính viễn thông. Hệ thống cơ sở chăm sóc sức khỏe cộng đồng trên toàn vùng đã được hình thành, nhưng hạ tầng kỹ thuật của các bệnh viện, trạm xá bị xuống cấp nghiêm trọng, đội ngũ y, bác sĩ thiếu... Như vậy với điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của vùng đầm phá nếu khai thác đúng và hết tiềm năng to lớn của vùng sẽ trở thành những yếu tố rất tích cực đối với quá trình hình thành và phát triển kinh tế hàng hóa của vùng. - Các mối quan hệ cơ bản: mối quan hệ gắn bó giữa các vùng, các ngành, các khâu, các yếu tố là cơ sở để phát huy và khai thác có hiệu quả lợi thế của vùng, nâng cao khả năng chuyên môn hóa của vùng, góp phần làm tăng tính hiệu quả của các hoạt động trong nền kinh tế. Mối quan hệ liên kết vùng không những khơi dậy các nguồn lực phát triển nội tại của vùng, mà còn tạo nên các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng mới có tác dụng kích thích các hoạt động kinh tế của các vùng khác ngành khác cùng phát triển. Vai trò quan trọng nhất của mối quan hệ giữa vùng kinh tế là phát huy được lợi thế so sánh đặc thù của mỗi vùng. Đồng thời còn trở thành một trong những ngoại lực tác động trực tiếp vào cấu trúc kinh tế của vùng và kết cấu xã hội của vùng tạo nên những cấu trúc hợp lý tương quan giữa "nội lực" và "ngoại lực" trong quá trình phát triển của từng vùng và của nền kinh tế. Các mối quan hệ cơ bản nhằm phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế đó là: Thứ nhất, mối quan hệ giữa các yếu tố của quá trình sản xuất, bao gồm các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất và tái sản xuất như: sức lao động, tư liệu sản xuất (tàu thuyền, lưới các loại, te, rớ, nò sáo...), yếu tố về vốn khoa học kỹ thuật tạo điều kiện cho đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi trồng thủy sản hiện nay. Lưu thông hàng hóa là một trong những nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ quá trình sản xuất hàng hóa "Trước khi trao đổi những vật A và B chưa phải là hàng hóa và chỉ có nhờ sự trao đổi thì chúng mới trở thành hàng hóa" [29, 119]. Nền sản xuất hàng hóa càng phát triển cao thị trường lưu thông hàng hóa càng đóng vai trò quan trọng. Trong nền kinh tế hàng hóa thị trường là "bàn bay vô hình" điều tiết và kích thích sản xuất, tiêu dùng thông qua tác động của giá cả và quan hệ cung cầu hàng hóa ở thị trường. Vì vậy tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm hết sức quan trọng. Mặt khác thông qua thị trường đòi hỏi người sản xuất luôn phải cải tiến kỹ thuật tăng năng suất lao động từ nuôi trồng, đánh bắt đến chế biến sản phẩm, từ đó giảm giá thành sản phẩm hàng hóa. Các yếu tố của quá trình sản xuất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nếu ách tắc ở yếu tố nào đó sẽ dẫn đến thiệt hại lớn, vì do đặc điểm của sản phẩm là sản phẩm tươi sống. Thứ hai, mối quan hệ giữa các ngành tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa vùng đầm phá phát triển. Trước đây dân cư đầm phá sống chủ yếu dựa vào trồng trọt và đánh bắt thủy sản mang tính tự cung tự cấp. Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh từ năm 1995 đến nay đã đem lại hiệu quả kinh tế cao và có khả năng làm giàu cho các hộ nuôi trồng. Vì vậy phát triển ngành thủy sản của vùng đầm phá có mối quan hệ với các ngành khác đó là: quan hệ với ngành chế biến "Phát triển công nghiệp chế biến thực phẩm và công nghiệp hàng tiêu dùng nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, đồng thời hướng mạnh về xuất khẩu, ưu tiên phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và hiệu quả cao" [18, 179]. Đối với thủy sản vùng đầm phá nhiều loại có giá trị cao, phát triển công nghiệp chế biến đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Chế biến thủ công phổ biến hiện nay của ngư dân ven phá chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh và một số tỉnh miền Trung. Quan hệ với ngành trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp trồng rừng ven biển đầm phá, đánh bắt hải sản ven bờ và xa bờ. Đây là những ngành mà ngư dân vừa đánh bắt nuôi trồng vừa kiêm thêm các nghề đó, tạo thu nhập bảo đảm đời sống cho dân cư, từ đó tạo điều kiện cho sản phẩm nuôi trồng được đem ra trao đổi mua bán thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Điều kiện tự nhiên vùng đầm phá cho phép phát triển du lịch sinh thái góp phần tạo nên sự phong phú đa dạng trong ngành du lịch của Thừa Thiên - Huế đó là: các lăng tẩm, các chùa, suối, thác biển, vườn quốc gia Bạch Mã, khu bảo tồn tự nhiên trên vùng đầm phá... Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải thuận lợi tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa ngành đánh bắt nuôi trồng thủy sản phát triển cùng với sự phát triển, mở rộng của ngành du lịch. Dân cư vùng đầm phá còn có các ngành nghề khác như: chằm nón Huế, làm thợ xây, thợ mộc, đan tre mây, đan vá lưới... Tuy nhiên các nghề này phát triển tự phát và còn rất nhỏ bé từ đời này sang đời khác là ngành nghề truyền thống nhưng chưa phát triển theo sản xuất hàng hóa, chủ yếu tranh thủ thời gian nông nhàn để làm, do đó chưa tính đến giá thành của sản phẩm, chủ yếu lấy công làm lãi và sản xuất phục vụ nhu cầu tiêu dùng, góp thêm vào phần thu nhập của gia đình. Thứ ba, vùng đầm phá trải qua 5 trong 9 huyện, thành phố của Thừa Thiên - Huế. Vì vậy mối quan hệ giữa vùng đầm phá với các huyện rất chặt chẽ thông qua sự quản lý hành chính của 5 huyện và tỉnh. Chiếm 1/3 dân số của tỉnh, vùng đầm phá là thị trường tiêu thụ các sản phẩm khác của các vùng khác trong toàn tỉnh. Đồng thời sản phẩm của vùng đầm phá hầu hết có mặt trên thị trường tiêu thụ của các chợ địa phương trong tỉnh. Đặc sản của đầm phá cung cấp cho các khách sạn, nhà hàng phục vụ khách du lịch tại Huế. Chính điều đó tạo điều kiện cho sản xuất của vùng phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Thứ tư, mối quan hệ của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế với các vùng khác trong cả nước như: Khánh Hòa, Đà Nẵng, Thanh Hóa, Tiền Giang là những vùng đã cung cấp tôm, cá, sò... giống cho vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. Thông qua ngành công nghiệp chế biến sản phẩm của đầm phá Thừa Thiên - Huế được tiêu thụ ở nhiều tỉnh trong cả nước và xuất khẩu ra thị trường nước ngoài chủ yếu sang thị trường EU, Nhật Bản, Đài Loan, Singapo. Thứ năm, vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế có mối quan hệ trực tiếp với thành phố Huế, là địa bàn được các tổ chức kinh tế - xã hội trên địa bàn thành phố Huế quan tâm như: giáo dục, y tế, thông tin liên lạc, kết cấu hạ tầng, chương trình xóa đói giảm nghèo... Các cơ quan kinh tế chi phối trực tiếp đến vùng đầm phá như Sở Thủy sản, Sở Khoa học, công nghệ và môi trường, Sở Tài chính, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Nông nghiệp phát triển nông thôn... đã tạo điều kiện cho kinh tế hàng hóa vùng đầm phá phát triển. Đầm phá là nơi có khả năng thu hút nguồn đầu tư vốn, khoa học kỹ thuật, con người từ thành phố nhằm phát triển kinh tế vùng; đầm phá còn là nơi tạo ra sự phong phú thêm trong du lịch của thành phố Huế. Thành phố Huế là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm của đầm phá tạo điều kiện khuyến khích sản xuất hàng hóa vùng đầm phá phát triển thị trường. Thành phố Huế là nơi cung cấp hầu hết tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng cho dân cư vùng đầm phá. Thành phố Huế cũng là nơi giải quyết một phần lao động dư thừa cho vùng đầm phá, thu hút họ vào các ngành nghề thủ công như: may mặc, nghề thêu, nghề mộc, nghề thợ xây, sửa chữa xe các loại và thu hút vào thương nghiệp buôn bán thủy hải sản cũng như buôn bán nhỏ các mặt hàng khác. Các công ty chế biến thủy sản chủ yếu đóng trên địa bàn thành phố Huế. Vì vậy vùng đầm phá là nơi cung cấp nguồn nguyên liệu tạo điều kiện cho các công ty chế biến trên địa bàn thành phố Huế hoạt động. Tóm lại, từ sau khi mở rộng thị trường, lấy thị trường làm điểm xuất phát của sản xuất. Các mối quan hệ kinh tế vùng đầm phá ngày càng được mở rộng cùng với việc thực hiện đa dạng hóa sản phẩm, đã tạo ra được vùng nuôi trồng thủy sản hàng hóa có sản lượng cao và tốc độ tăng trưởng nhanh, làm thay đổi cơ cấu kinh tế ở nông thôn vùng đầm phá, biến các vùng đất hoang vu trước đây trở thành vùng sản xuất hàng hóa. Thực hiện chuyển đổi từng bước cơ cấu kinh tế trong vùng cho phù hợp với lợi thế của đầm phá. Nuôi trồng thủy sản của vùng đã và đang trở thành ngành sản xuất hàng hóa phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu. Những nhân tố phát triển kinh tế hàng hóa nói chung và những nhân tố phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá của tỉnh Thừa Thiên - Huế được đề cập ở trên đã tác động một cách tích cực đến phát triển kinh tế hàng hóa của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. Khai thác tốt điều kiện tiềm năng của vùng đầm phá sẽ thúc đẩy kinh tế hàng hóa vùng phát triển. 1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, phát triển kinh tế hàng hóa là một tất yếu khách quan do lực lượng sản xuất nước ta còn rất thấp, còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập. Trong điều kiện đó việc trao đổi sản phẩm giữa các chủ thể sản xuất với nhau phải thông qua thị trường, sản phẩm trở thành hàng hóa. "Các hàng hóa không thể tự mình đi tới thị trường và trao đổi với nhau" [29, 114]. Vì vậy các chủ thể trong quá trình sản xuất phải chú ý đến thị trường, tuân theo quy luật kinh tế thị trường về giá cả, lợi nhuận, cạnh tranh và quan hệ cung cầu để có thể tồn tại và phát triển. Đó cũng là tất yếu để phát triển kinh tế hàng hóa. Nằm trong nền kinh tế hàng hóa nói chung việc phát triển kinh tế hàng hóa vùng nói riêng cũng là tất yếu khách quan. Kinh tế vùng muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động. Quá trình đó chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa, chỉ có đẩy mạnh sản xuất hàng hóa mới làm cho kinh tế vùng phát triển năng động. Trong nền kinh tế tự nhiên do bản chất của nó tự cung, tự cấp cho nên chỉ duy trì tái sản xuất giản đơn. Trong cơ chế thị trường người sản xuất tự chịu trách nhiệm về sản phẩm do mình làm ra, sản xuất chịu sự tác động của quy luật giá trị, do đó người sản xuất luôn quan tâm đến việc tiêu thụ hàng hóa trên thị trường sao cho sản phẩm của mình được xã hội thừa nhận. Điều đó làm cho kinh tế vùng trở nên sôi động; quá trình phân công lao động trong vùng phát triển, sản phẩm trong vùng được tạo ra ngày càng phong phú đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của con người. Nông sản hàng hóa bán ra ngày càng nhiều làm tăng thu nhập cho người lao động, các ngành nghề phát triển tạo nhiều việc làm cho nông dân. Quá trình phát triển kinh tế vùng thành kinh tế hàng hóa cũng là quá trình thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật của vùng, hình thành nên những nhân tài quản lý kinh tế và lao động thành thạo cho vùng là dấu hiệu quan trọng sự tiến bộ kinh tế của vùng. Phát triển kinh tế hàng hóa vùng là một tất yếu khách quan, một nhiệm vụ cấp bách, để chuyển vùng kinh tế từ lạc hậu thành vùng kinh tế sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển hiện đại, hòa nhập vào nền kinh tế hàng hóa đang từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước ta. Phát triển kinh tế hàng hóa là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của vùng. Thực tiễn gần mười lăm năm đổi mới đã chỉ ra rằng việc chuyển sang mô hình kinh tế hàng hóa là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình đó đối với kinh tế vùng chúng ta bước đầu đã khai thác được tiềm năng trong vùng đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật ở các vùng khác trong nước cũng như thu hút sự đầu tư vốn, kỹ thuật của nước ngoài đối với vùng, giải phóng được năng lực sản xuất phát triển lực lượng sản xuất của vùng. Vùng đầm phá Tam Giang là một bộ phận lãnh thổ quan trọng của tỉnh Thừa Thiên - Huế trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng. Vùng đầm phá Tam Giang có nhiều tiềm năng về: nguồn lợi thủy sản phong phú, có nhiều loại đặc sản có giá trị kinh tế cao, có thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, có nhiều khoáng sản quan trọng với trữ lượng khai thác khá lớn, chất lượng tốt. Đầm phá là vùng du lịch sinh thái hấp dẫn có lợi thế trong giao thông thủy, có cảng nước sâu... với tiềm năng thế mạnh đó Nghị quyết số 11-NQ/TU của tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế về phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và đầm phá Thừa Thiên - Huế giai đoạn 1998 - 2005 đã nêu rõ "Phát huy mọi tiềm lực và lợi thế, tập trung xây dựng và phát triển kinh tế xã hội vùng biển và đầm phá trở thành vùng phát triển năng động toàn diện, bao gồm thủy sản, du lịch, nông - lâm - công nghiệp chế biến, từng bước hình thành vùng kinh tế mở để thu hút đầu tư nước ngoài, thực sự là địa bàn chiến lược về kinh tế và an ninh quốc phòng, có môi trường sinh thái bền vững" [45, 3]. Vì vậy, phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá là cần thiết khách quan nhằm khai thác mọi tiềm năng vốn có của vùng, phát huy cao độ nội lực và lợi thế so sánh của vùng. Kết hợp khai thác, đánh bắt, nuôi trồng và chế biến thủy sản, sử dụng tối đa mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản. Tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước hiện đại hóa phương tiện khai thác, phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá, tạo sự chuyển biến về cơ bản và toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời bảo đảm giữ gìn, bảo vệ và phát triển môi trường sinh thái, bảo vệ nguồn lợi, tránh khai thác cạn kiệt hủy hoại tài nguyên. Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của môi trường, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, động viên nhân dân huy động sức lao động và đồng vốn vào phát triển sản xuất. Nhanh chóng tạo ra các yếu tố bên trong vững mạnh để tranh thủ lợi thế bên ngoài, thu hút nhiều nguồn vốn đầu tư và công nghệ mới với lợi thế so sánh của vùng nhằm phát triển vùng với tốc độ ngày càng cao. Hiện nay, đa số dân cư vùng đầm phá ở Thừa Thiên - Huế thuộc diện đói nghèo, ngoài nghề đánh bắt nuôi trồng thủy sản và làm nông nghiệp, các nghề thủ công khác vẫn mang tính tự cấp tự túc. Do vậy phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá nhằm khắc phục tình trạng tự túc tự cấp, du canh du cư trên đầm phá của hàng nghìn hộ dân đưa về định cư, đẩy mạnh phân công lao động xã hội phát triển ngành nghề, tạo việc làm cho người lao động. Trình độ dân trí vùng đầm phá còn rất thấp kém vì vậy phát triển kinh tế hàng hóa của vùng cũng nhằm góp phần thực hiện xóa mù nâng cao sự hiểu biết của người dân, kích thích họ thực hiện chuyên môn hóa và hợp tác hóa trong sản xuất, ứng dụng công nghệ mới vào sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Đồng thời mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa... của vùng với các ngành, các vùng, các địa phương khác, giữa kinh tế trong vùng với kinh tế của tỉnh và của cả nước. Kinh tế đầm phá phát triển góp phần thúc đẩy vùng kinh tế nông thôn của các huyện có đầm phá, vùng thành thị và các vùng khác trong tỉnh cùng phát triển. Kinh tế hàng hóa vùng đầm phá phát triển sẽ tạo nguồn lực cho sự phát triển kinh tế của tỉnh Thừa Thiên - Huế, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong thu chi tài chính của tỉnh, góp phần tăng tỷ trọng xuất khẩu cho tỉnh nói riêng và cả nước nói chung. Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, cải tạo phương pháp tập quán sản xuất, tập quán sinh sống làm cho năng suất lao động cá nhân và xã hội tăng dần. Tạo ra sản phẩm đa dạng, dồi dào phong phú cho xã hội góp phần thúc đẩy phân công lao động xã hội, thúc đẩy trao đổi hàng hóa mở rộng thị trường. Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá thực hiện quyền tự chủ, bình đẳng trong kinh doanh theo pháp luật là cơ sở quan trọng để bảo đảm dân chủ, bình đẳng thực sự trong lĩnh vực kinh tế góp phần khắc phục ảnh hưởng của cơ chế quan liêu bao cấp còn tồn tại. Nó là cơ sở quan trọng để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá vừa nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất vùng, vừa nhằm đưa bộ phận dân cư có đời sống thấp kém nhiều mặt hòa nhập vào cộng đồng xã hội tức là nhằm vào mục tiêu gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội. Tạo việc làm nâng cao thu nhập từ đó nâng cao mức sống cho dân cư, giải quyết chính sách xã hội tăng cường xóa đói giảm nghèo, giảm bớt chênh lệch về mức sống giữa các tầng lớp dân cư trong vùng, chênh lệch mức sống giữa vùng đầm phá với các vùng khác trong tỉnh cũng như trong toàn xã hội. Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế làm cho những ngành nghề mới phát huy lợi thế của vùng. Như vậy, từ sự phân tích trên cho thấy phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá là nhu cầu cần thiết và mang tính khách quan. Tóm lại, kinh tế vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế là một tiểu vùng kinh tế so với các vùng kinh tế lớn trong cả nước. Nó có đầy đủ các điều kiện để hình thành một tiểu vùng kinh tế; có các nhân tố, các mối liên hệ để phát triển kinh tế vùng trên cơ sở khai thác các lợi thế của mỗi bộ phận, mỗi vùng trong nền kinh tế có tác dụng trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh tế của vùng. Cấu trúc đan xen giữa vùng kinh tế hành chính và vùng kinh tế đặc trưng của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế sẽ khắc phục trở ngại giữa tổ chức ._.ác hộ nuôi ươm giống với quy mô nhỏ. Do vậy cần phải tăng cường sản xuất tôm giống khuyến khích, tạo điều kiện về vốn, về cơ chế để thu hút đầu tư của các tổ chức, cá nhân vào nuôi ươm giống. Phải xây dựng trại tôm giống do doanh nghiệp nhà nước đảm nhận, hoạt động công ích nhằm cung cấp giống cho ngư dân. Trong khi nguồn giống tại chỗ chưa đủ cần tìm thị trường giống đáp ứng đúng yêu cầu và thời điểm thả nuôi tạo điều kiện cho thị trường giống phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Đối với sản xuất và cung ứng thức ăn hiện nay trong tỉnh chưa có xí nghiệp chế biến thức ăn. Nguồn thức ăn chủ yếu hiện nay là của Thái Lan, Đà Nẵng, thức ăn tự chế biến. Để đáp ứng nhu cầu nuôi trồng thủy sản tỉnh đã có kế hoạch xây dựng nhà máy chế biến thức ăn tổng hợp cho nuôi trồng thủy sản. Cần sớm đưa dự án vào xây dựng giúp ngư dân giảm thức ăn tự chế biến gây ô nhiễm môi trường cho năng suất không cao. + Công tác thú y: tổ chức kiểm dịch các loại tôm giống với độ tin cậy cao, có thông tin kịp thời và biện pháp xử lý khi có dịch bệnh tôm. Đòi hỏi phải theo dõi tình hình diễn biến của môi trường sinh thái, cải tạo môi trường trước khi nuôi. + Công tác khuyến ngư: tăng cường đội ngũ cán bộ khuyến ngư hướng dẫn kỹ thuật cho ngư dân; tư vấn cho ngư dân những điều cần biết trong nuôi trồng tôm. Giúp ngư dân có trình độ hiểu biết nắm bắt kỹ thuật công nghệ mới đưa vào sản xuất, nâng cao chất lượng tôm nuôi. + Vốn: là điều kiện không thể thiếu đối với sản xuất; vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế là vùng nghèo, vì vậy phải có sự giúp đỡ hỗ trợ của nhà nước. Tạo điều kiện cho dân vay vốn với lãi suất ưu đãi, lãi suất thấp, thủ tục vay đơn giản không thế chấp thực hiện tín chấp. Kêu gọi vốn trong dân, khuyến khích động viên những người có nguồn tiền nước ngoài gửi về đầu tư vào sản xuất. + Thị trường tiêu thụ: đối với mặt hàng tôm tương đối ổn định thị trường đầu ra do có Công ty chế biến thủy sản mua thường xuyên. Nhưng trong chế biến cần đổi mới công nghệ tăng giá trị của tôm chế biến, tìm thị trường tiêu thụ tốt hơn để từ đó nâng giá mua cho ngư dân nuôi trồng tạo điều kiện kích thích nuôi trồng thủy sản hàng hóa phát triển. Trong tất cả các khâu, quy trình nuôi và tiêu thụ tôm hàng hóa tìm khâu, điểm đột phá cho nuôi tôm phát triển nhằm phát huy nội lực của vùng, theo chúng tôi đó là vấn đề khoa học kỹ thuật, công nghệ mới đưa vào nuôi trồng thủy sản. Bên cạnh đó chúng ta không thể xem nhẹ các khâu các yếu tố khác. Tìm hiểu thực tế nuôi tôm ở một số xã trong huyện Phú Vang, Phú Lộc, Quảng Điền cho thấy nếu không bị thiên tai lụt bão thì hầu hết là có lãi, lãi cao hay thấp tùy thuộc vào ngư dân nắm kỹ thuật đến mức độ nào, một số hộ hòa vốn, hoặc lỗ do kỹ thuật yếu, nhờ có khoa học kỹ thuật làm cho năng suất sản lượng tăng. Như vậy với diện tích có khả năng đưa vào sử dụng từ nay đến năm 2005 nếu được đầu tư khoa học kỹ thuật tốt sẽ huy động được mọi nguồn lực tham gia vào phát triển sản xuất, phát huy nội lực của vùng thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển. 3.2.2. Nhóm giải pháp tạo điều kiện môi trường để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế - Xây dựng cơ chế chính sách cho kinh tế hàng hóa vùng phát triển Giải pháp tạo điều kiện môi trường cho kinh tế hàng hóa vùng đầm phá phát triển là phải xây dựng được cơ chế chính sách. Phát huy nội lực tạo điều kiện cho mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển sản xuất nhằm ngăn chặn sự giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế, khuyến khích đổi mới thiết bị công nghệ, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Huy động nguồn vốn trong nước và nước ngoài tạo điều kiện cho việc xây dựng hạ tầng cơ sở, phát triển các ngành hàng, mặt hàng có lợi thế cạnh tranh thông qua việc phát huy sức mạnh tổng hợp của Trung ương- địa phương và của nhân dân cho phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá. + Đối với chính sách vốn: Các giải pháp cho chính sách này là xây dựng chính sách cho vay vốn theo các mô hình nuôi trồng thủy sản: mô hình nuôi công nghiệp, nuôi bán thâm canh, thâm canh... để từ đó tính toán định mức cho vay theo mô hình là bao nhiêu từ các nguồn: ngân hàng nông nghiệp phát triển nông thôn, từ quỹ tín dụng, từ các tổ chức xã hội... kêu gọi các nguồn vốn ODA - FDI đầu tư vào vùng đầm phá. Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên để tạo vốn, liên kết giữa các địa phương, các ngành, các thành phần kinh tế bằng nhiều hình thức nhằm khai thác đúng đắn hợp lý vốn, công sức, quỹ thời gian, vốn vật chất từ các cộng đồng dân cư. Các hộ gia đình phải biết tiết kiệm sử dụng lao động và tiền vốn của mình để phát triển mạnh kinh tế hộ gia đình, tiến tới thành lập nhiều trang trại nuôi trồng thủy sản có chính sách thu hút đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, sản xuất kinh doanh và bảo vệ môi trường. Nhà nước cần tập trung nguồn vốn từ ngân sách quốc gia theo chương trình với một tỷ lệ thích đáng thực hiện những dự án trọng điểm về nuôi trồng thủy sản và kết hợp định canh định cư. + Giải pháp về thị trường sản phẩm: Sản xuất kinh doanh vùng đầm phá đại đa số các xã thuộc vùng sâu, vùng xa nên còn gặp rất nhiều khó khăn trên mọi lĩnh vực hoạt động. Cách xa trung tâm thành phố, vì vậy giá bán sản phẩm thấp, giá mua giống, thức ăn cao. Điều đó cho thấy giá cả không có lợi cho ngư dân nuôi trồng thủy sản làm ảnh hưởng đến thu nhập và đời sống của ngư dân. Để khắc phục tình trạng này cùng với việc xây dựng chiến lược sản xuất, chế biến sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị hiếu của thị trường. Cần tổ chức nghiên cứu để có chính sách thị trường thích hợp. Xác lập các loại hình tổ chức, hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư, bằng cách hình thành những hợp đồng sản xuất và bao tiêu lớn, tạo điều kiện cho các hộ, các đơn vị sản xuất kinh doanh hạn chế mức độ thiệt hại. Có chính sách tạo điều kiện nâng cấp hệ thống đường liên thôn liên xã, cải tạo chợ nông thôn, tạo điều kiện cho lưu thông hàng hóa thuận lợi, thị trường hàng hóa phát triển. + Giải pháp về chính sách khoa học kỹ thuật và công nghệ: Chính sách về khoa học công nghệ của vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế phải lấy việc ứng dụng công nghệ là chính. Trong đó tập trung vào công nghệ sinh học. Nhà nước và tỉnh cần dành một phần ngân sách cho các công trình nghiên cứu về đầm phá. Nâng cao chất lượng của hoạt động khoa học công nghệ môi trường, có nội dung đáp ứng được yêu cầu đặt ra của thực tế và giải quyết được những khó khăn nảy sinh trong đời sống. Gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất, tuyên truyền giáo dục đưa khoa học công nghệ đến với ngư dân áp dụng vào nuôi trồng thủy sản. Đồng thời phải làm cho người sản xuất tìm đến với khoa học kỹ thuật và công nghệ, ngư dân biết chọn lọc, tìm giống cho phù hợp... tạo năng suất cao. Phải tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm việc thực hiện chương trình khuyến ngư để triển khai nhân rộng trên toàn vùng. Có chính sách thỏa đáng tạo sự hấp dẫn thu hút cán bộ nghiên cứu khoa học của ngành về tỉnh, thu hút cán bộ tận tụy, say sưa nghiên cứu vùng đầm phá. Có chính sách sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ đang nghiên cứu cho vùng. Tăng cường trang thiết bị, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của cán bộ nghiên cứu khoa học cho vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế. Có chính sách đổi mới nội dung, hình thức hoạt động thông tin phổ cập kiến thức khoa học và kinh nghiệm sản xuất cũng như quản lý làm cho người dân dễ hiểu, dễ tiếp thu và dễ thực hiện. Chú trọng các hình thức phổ biến kiến thức kinh nghiệm trên các phương tiện thông tin đại chúng, hướng dẫn kỹ thuật bằng tài liệu, bằng trao đổi kinh nghiệm, tham quan thực tế, tổ chức hội thảo... nhằm chuyển giao công nghệ nhanh chóng. + Giải pháp về chính sách nguồn nhân lực: Đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ vững mạnh đủ sức giải quyết những vấn đề đặt ra trong chương trình phát triển khoa học công nghệ. Phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài, chú trọng các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, quản lý kinh tế, xã hội và quản trị sản xuất kinh doanh như văn kiện Đại hội VIII đã nêu. Đối với vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế hiện tại trình độ dân trí còn thấp lao động qua đào tạo còn quá ít, chất lượng đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời gian tới phải thực hiện đào tạo nâng cao trình độ dân trí bằng nhiều hình thức. Tổ chức đào tạo bồi dưỡng kiến thức khoa học và công nghệ cho các hộ ngư dân nuôi trồng và khai thác thủy sản. Đặc biệt quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ quản lý ở địa phương. Có chế độ ưu đãi đối với cán bộ làm công tác khuyến ngư và cán bộ bảo vệ nguồn lợi thủy sản. + Có các biện pháp khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển: Trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo do trình độ phát triển lực lượng sản xuất của vùng vẫn còn thấp do vậy cần chú trọng phát triển các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư nhân, hợp tác cho phù hợp, khuyến khích kinh tế hộ phát triển sớm hình thành kinh tế trang trại. Trong quá trình phát triển cần có sự định hướng giúp đỡ của kinh tế nhà nước để các thành phần đi theo định hướng XHCN. Đồng thời có chính sách hỗ trợ về vốn và kinh nghiệm đối với các hộ nghèo gặp khó khăn, cần có sự giúp đỡ của các tổ hợp, các nghiệp đoàn trong nuôi trồng thủy sản để từng bước đi vào làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, hoạt động theo luật hợp tác xã. Đổi mới hệ thống doanh nghiệp thủy sản hoạt động trong cả lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, làm đầu mối liên doanh với các doanh nghiệp, đơn vị kinh tế ngoài tỉnh, liên doanh hợp tác với nước ngoài. Tích cực hỗ trợ định hướng cho các thành phần kinh tế khác thông qua nhiều hình thức liên kết, liên doanh, đóng cổ phần, hình thành các tổ chức sản xuất kinh doanh kiểu hiệp hội. + Chính sách sử dụng đất: Thi hành luật đất đai và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật đất đai về giao đất, mặt nước cho các hộ nuôi trồng thủy sản thời gian 20 năm với đủ 5 quyền sử dụng đất: quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế và thế chấp. Trong thời gian 20 năm mức hạn điền là 20 ha, trên mức hạn điền vẫn được tiếp tục sử dụng và phải nộp thuế bổ sung cho phần vượt mức hạn điền theo quy định của pháp luật. Thời gian sử dụng đất vượt mức hạn điền là 10 năm. Đổi mới công tác kế hoạch hóa theo quan điểm phát triển kinh tế hàng hóa, tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống quản lý nối liền các khâu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Xây dựng quy chế thực hiện chính sách thuế của nhà nước theo hướng khuyến khích nghề nuôi trồng phát triển. + Chính sách bảo vệ nguồn lợi thủy sản: thực hiện theo Pháp lệnh "Bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản" tăng cường công tác bảo vệ nguồn lợi một cách nghiêm ngặt, chống đánh bắt mang tính hủy diệt thi hành nghiêm chỉnh Chỉ thị 01/1998/CT-TTg ngày 2/1/1998 của Thủ tướng Chính phủ về sử dụng chất nổ, xung điện để khai thác. Hạn chế và nghiêm cấm một số nghề khai thác đã được ủy ban nhân dân tỉnh đưa vào danh mục nghề cấm. Tiếp tục tổ chức điều tra nguồn lợi thủy sản hệ đầm phá Tam Giang để xác định trữ lượng và phương thức sử dụng bền vững nguồn lợi thủy sản. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục cho nhân dân nhận thức trong công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản cho cộng đồng. Xây dựng mô hình tự bảo vệ nguồn lợi thủy sản của ngư dân. + Chính sách xã hội: Thực hiện đồng bộ và lồng ghép các chương trình xóa đói giảm nghèo sát với từng địa phương. Thực hiện tốt các chính sách đối với người có công, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng. Quan tâm những người già neo đơn, người tàn tật, kịp thời cứu trợ xã hội cho những người gặp hoàn cảnh rủi ro. Hình thành và sử dụng tốt các quỹ bảo trợ xã hội ở địa phương. Thực hiện tốt chính sách dân số kế hoạch hóa gia đình. - Xây dựng kết cấu hạ tầng Huy động vốn và các nguồn lực trong vùng, trong tỉnh và đầu tư nước ngoài để xây dựng mới đi đôi với nâng cấp, cải tạo hệ thống kết cấu hạ tầng bị thiệt hại do lũ lụt 1999. Hoàn chỉnh quy hoạch thủy lợi cho nuôi trồng thủy sản, đây là giải pháp quan trọng để đầu tư xây dựng hệ thống thủy lợi, đê bao và ao hồ nuôi trồng thủy sản. Hình thành các tuyến đê ngăn mặn và phòng chống lũ lụt, xây dựng hệ thống ao hồ mới, cải tạo ao hồ cũ để nuôi trồng thủy sản. Xây dựng hệ thống giao thông đường thủy vùng đầm phá theo các tuyến đò dọc nối đầm phá với thành phố Huế, các tuyến đò ngang nối các khu vực với nhau đáp ứng nhu cầu đi lại của dân cư trong vùng và vận chuyển hàng hóa thuận lợi. Đầu tư nâng cấp cảng Thuận An; xây dựng các bến neo đậu tàu thuyền, xây dựng bến cá phục vụ mua bán hàng hóa tươi sống một cách nhanh chóng thuận tiện, phục vụ sản xuất và đời sống của nhân dân, nhanh chóng khởi công xây dựng cảng Chân Mây. Xây dựng hệ thống giao thông đường bộ vùng biển, đầm phá, hình thành hệ thống giao thông đường bộ liên huyện, liên xã dọc ngang trong nội bộ vùng và nối với trung tâm thành phố Huế. Xây dựng tàu tốc độ nhanh phục vụ đi lại của nhân dân và phục vụ du khách. Từ nay đến năm 2005 cần có kế hoạch dự án đề nghị chính phủ cho xây dựng một số cầu vượt phá Tam Giang. Thông tin liên lạc được trang bị tương đối hiện đại và đến hầu hết các xã. Hệ thống trường học, cơ sở giáo dục và dạy nghề đang gặp nhiều khó khăn cần được đầu tư xây dựng trường lớp, cần có chính sách thu hút giáo viên về công tác tại vùng này. Hệ thống bệnh viện trạm xá đã được xây dựng phục vụ chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cộng đồng trên toàn vùng. Tuy nhiên điều kiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật của các bệnh viện, trạm xá bị xuống cấp nghiêm trọng. Trình động và số lượng đội ngũ y, bác sĩ thiếu, vì vậy cần phải đầu tư cho lĩnh vực này tạo điều kiện chăm sóc sức khỏe, tạo nguồn nhân lực cho toàn vùng phục vụ phát triển kinh tế hàng hóa. - Xây dựng các mối liên hệ cơ bản nhằm phát triển kinh tế hàng hóa Xây dựng các mối liên hệ giữa đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất. Phát triển đồng bộ thị trường vốn, sức lao động, tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng... thực hiện lưu thông thông suốt cho tư liệu sản xuất và sản phẩm được lưu thông dễ dàng thuận lợi. Xây dựng mối quan hệ giữa ngành thủy sản với các ngành khác trên cơ sở liên kết hỗ trợ nhau cùng phát triển. Giải quyết tốt mâu thuẫn giữa việc sử dụng đất cho nuôi trồng thủy sản với nhu cầu đất canh tác cho nông nghiệp. Thực hiện trồng rừng bảo hộ ven biển đầm phá. Ngành chế biến phải kịp thời tiếp nhận và chế biến sản phẩm tránh chậm trễ gây thiệt hại. Thực hiện đầu tư tạo nguồn nguyên liệu, tạo mối quan hệ gắn bó giữa chế biến với nuôi trồng thủy sản. Đầu tư phát triển du lịch, quy hoạch chi tiết các cụm, điểm du lịch vùng đầm phá để đưa vào sử dụng mở rộng giao lưu văn hóa đối với vùng. - Giải pháp về công tác quản lý của các ngành các cấp có liên quan Thực hiện giải pháp này nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả trong quản lý, chỉ đạo và phát triển kinh tế xã hội, động viên tối đa các nguồn lực, từng bước hình thành sự phân công phối hợp trong tổ chức sản xuất, đào tạo và sử dụng lao động, khai thác tài nguyên... Hình thành cơ chế phối hợp trong quản lý tạo điều kiện tốt cho kinh tế hàng hóa vùng đầm phá phát triển. Thực hiện sự chỉ đạo từ tỉnh xuống cơ sở phải có sự kiểm tra kiểm soát việc thực hiện các quy định, chỉ thị một cách thường xuyên. Các ban ngành có liên quan cần phối hợp chặt chẽ trong quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Ngành tài chính, ngân hàng tạo điều kiện thuận lợi và kịp thời cho dân vay vốn nuôi trồng thủy sản. UBND các huyện, các xã tổ chức và thực hiện tốt việc giao mặt nước cho ngư dân nuôi trồng thủy sản. Tăng cường kinh phí cho hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Xử lý nghiêm minh những vụ vi phạm khai thác nguồn lợi thủy sản, tổ chức cộng đồng bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đặc biệt kết hợp "luật" và "lệ" trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, kiểm soát ngư cụ đánh bắt. Thực hiện phân chia mặt nước để quản lý. Muốn quản lý tốt, sự phối hợp chặt chẽ của các ngành các cấp cần có các điều kiện, phương tiện trong hoạt động. Vì vậy phải có nguồn kinh phí để công tác này thực hiện liên tục có hiệu quả. Kết luận Chuyển từ nền kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa là một quá trình phát triển theo quy luật của lịch sử. Trong sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định phải chuyển nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp với cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước định hướng XHCN là phù hợp với quy luật phát triển của xã hội loài người. Hiện nay ở nước ta do nhiều nguyên nhân khác nhau nền kinh tế có xu hướng phát triển chậm và có mặt giảm sút. Khắc phục tình trạng trên đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực để tạo động lực ngày càng lớn. Nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế phát huy lợi thế so sánh, mở rộng nhiều hình thức thu hút vốn trong nước cũng như từ bên ngoài. Vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế là một tiểu vùng kinh tế so với các vùng kinh tế lớn của cả nước, nhưng với diện tích 22.000 ha vùng này lại là vùng lớn nhất khu vực Đông Nam á, là vùng có điều kiện tự nhiên, có vị trí địa lý thuận lợi, có nguồn lợi thủy sản phong phú. Đây là các tiềm năng cơ bản nếu khai thác tốt sẽ trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nói chung và vùng đầm phá nói riêng. Trong thời gian tới để kinh tế vùng đầm phá phát triển thực sự trở thành vùng kinh tế trọng điểm, đòi hỏi phải có sự quy hoạch tổng thể, đầu tư cải tạo đầm phá, thực hiện tốt công tác thủy lợi phục vụ cho nuôi trồng thủy sản. Đẩy mạnh sản xuất giống, thức ăn, tổ chức tốt công tác thu mua chế biến thúc đẩy sản phẩm trọng điểm phát triển mạnh tạo điều kiện cho phát triển kinh tế toàn vùng. Các nhà lãnh đạo phải tìm cho vùng các bước đi thích hợp phù hợp với điều kiện của vùng trên cơ sở khai thác triệt để các tiềm năng và lợi thế. Từng bước khắc phục khó khăn nhằm tạo ra các điều kiện, môi trường thuận lợi để kinh tế hàng hóa của vùng tiếp tục phát triển góp phần xây dựng nền kinh tế của tỉnh ngày càng vững mạnh. Thực hiện sự nghiệp chung của đất nước với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Ngoài những giải pháp đã nêu ở trên, theo chúng tôi, muốn phát triển kinh tế vùng đầm phá thành vùng sản xuất hàng hóa có hiệu quả đề nghị tỉnh cũng như Trung ương nghiên cứu: Xây dựng một cơ chế đặc thù cho vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế, có thể giống như đặc khu kinh tế Phú Quốc - Hà Tiên (Kiên Giang). Quản lý vùng đầm phá theo phương pháp tự quản của ngư dân thông qua việc đấu thầu nộp thuế cho Nhà nước. Chính phủ thực hiện miễn thuế trong 5 năm đầu giúp ngư dân tự làm chủ, khôi phục nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái dài hạn như thời kỳ Pháp, Mỹ đã làm. Thừa Thiên - Huế thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở mức thấp. Sau trận lụt thế kỷ đầu tư nước ngoài bị dừng lại, các nhà đầu tư không dám đầu tư. Vùng đầm phá chưa có đầu tư nước ngoài vào để nuôi nuôi trồng thủy sản, vì vậy Nhà nước cần nghiên cứu tìm giải pháp để thu hút vốn đầu tư cho vùng. Cuối cùng là giải pháp bao tiêu sản phẩm, người lao động cần được bảo vệ lợi ích trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Sản xuất có lãi mới đảm bảo việc làm ổn định lâu dài. Do đó, Nhà nước cần cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường trong nước và quốc tế, có giải pháp giúp người làm nghề nuôi trồng thủy sản tiêu thụ được sản phẩm đúng với giá trị kinh tế của nó. Danh mục tài liệu tham khảo Báo Nhân dân ngày 30-3-2000, Kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Báo Thừa Thiên - Huế ngày 25, 26, 27 tháng 1-2000, Nghị quyết hội nghị lần thứ 14 Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XI về nhiệm vụ kinh tế xã hội năm 2000. Nguyễn Quang Vinh Bình, Quản lý nguồn lợi thủy sản hệ đầm phá Tam Giang. Nxb Thuận Hóa, 1996. Bộ khoa học công nghệ - môi trường - Trung tâm khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia - Bộ thủy lợi, Báo cáo Hội thảo khoa học về đầm phá Thừa Thiên - Huế - Hải Phòng, 1994. Bộ Thủy sản, Đề án phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã thủy sản trong những năm 1998-2005. Ban hành kèm theo quyết định số 2959-1998/QĐ-BTS. Bộ Thủy sản, Một số văn bản của Nhà nước và của ngành phục vụ công tác khuyến ngư. Nxb Nông nghiệp, 1995. Bộ Thủy sản, Báo cáo tổng kết nuôi trồng thủy sản 1991-1995. Phương hướng, mục tiêu, giải pháp thực hiện chiến lược nuôi trồng thủy sản 1996-2010, H., 1996. Nguyễn Sinh Cúc, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn Việt Nam là một đòi hỏi bức bách hiện nay, Tạp chí Cộng sản, số 14, tháng 7 năm 1998. Chỉ thị 01/1998/CT-TTg ngày 2 tháng 1 năm 1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm sử dụng chất nổ, xung điện, chất độc để khai thác thủy sản. Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản - Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Khái quát về hoạt động khai thác và nuôi trồng thủy sản trên vùng đầm phá Tam Giang, năm 1999. Cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Những điều cần biết về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Nxb Nông nghiệp, 1995. Cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản, Hỏi đáp về đăng kiểm tàu cá và thú ý thủy sản. Nxb Nông nghiệp, 1998. Cục Thống kê Thừa Thiên - Huế, Niên giám thống kê, 1998. Công Văn Dị, Hộ sản xuất, nuôi trồng, đánh bắt và kinh doanh hải sản ở vùng ven biển Thái Bình: Hiệu quả kinh tế và con đường phát triển. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 222, tháng 11-1996. Lê Đăng Doanh, Nguyễn Minh Tú, Tác động xã hội của cải cách kinh tế đối với sự phát triển vùng. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1998. Đại học Huế, Báo cáo kết quả nghiên cứu giai đoạn I (1995-1997) - Dự án nghiên cứu quản lý nguồn lợi sinh học đầm phá Tam Giang. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, H., 1991. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1996. Đảng Cộng sản Việt Nam, Dự thảo các văn kiện trình Đại hội IX của Đảng tháng 7 năm 2000. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1998. Đảng Cộng sản Việt Nam, Một số văn kiện của Đảng về phát triển nông nghiệp. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1993. Nguyễn Điền, Kinh tế trang trại nuôi trồng thủy sản ở vùng ven biển nước ta. Tạp chí Thông tin lý luận, 1-2000. Nguyễn Quốc Hùng - Nguyễn Văn Huân - Nguyễn Thanh Cử, Phát triển kinh tế vùng - lý luận và thực tiễn. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 238, tháng 3/1998. Lâm Quang Huyên, Kinh tế hộ và kinh tế hợp tác trong nông nghiệp. Nxb Khoa học - xã hội, 1995. Nguyễn Đình Kháng, Vũ Văn Phúc, Những nhận thức kinh tế chính trị trong giai đoạn đổi mới ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1998. Nguyễn Văn Kỷ, Phát triển nông nghiệp hàng hóa từ thực tiễn An Giang, trong sách "Những vấn đề kinh tế phục vụ Đại hội VIII của Đảng", Trung tâm Thông tin tư liệu, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1995. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 1. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 3. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976. C.Mác, Tư bản, tập thứ nhất, quyển I, phần I. Nxb Sự thật, H., 1988. C.Mác, Tư bản, quyển I, tập II. Nxb Sự thật, H., 1975. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1996. Phan Thanh Phố (chủ biên), Những vấn đề cơ bản về kinh tế và đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, H., 1996. Nguyễn Đình Phan, Về môi trường thể chế nhằm phát triển các hoạt động dịch vụ và sản xuất phi nông nghiệp ở nông thôn. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1997. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 1990 và định hướng kế hoạch năm 1991. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 1995 và định hướng kế hoạch năm 1996. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 1996 và định hướng kế hoạch năm 1997. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 1997 và định hướng kế hoạch năm 1998. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 1998 và định hướng kế hoạch năm 1999. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh năm 1999 và định hướng kế hoạch năm 2000. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo tình hình thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh 6 tháng đầu năm 2000. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Kế hoạch 5 năm 2001 - 2005. Huế, tháng 7 năm 2000. Sở Thủy sản Thừa Thiên - Huế, Báo cáo sơ kết một năm triển khai thực hiện chỉ thị 01/1998/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Đỗ Nhật Tân, Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1996. Thông tin những vấn đề lý luận phục vụ cán bộ lãnh đạo, số 21 năm 1998, Kinh tế Việt Nam trước thế kỷ XXI cơ hội và thách thức. Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, Nghị quyết số 11-NQ/TU ngày 20-10-1998 về phát triển kinh tế - xã hội vùng biển và đầm phá Thừa Thiên - Huế giai đoạn 1998 - 2005. Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế (khóa XI) tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII. Huế tháng 8 năm 2000. Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, Văn kiện Hội nghị đại biểu Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên - Huế khóa XI. Nxb Thuận Hóa, 1996. Tổng cục Thống kê, Số liệu thống kê nông - lâm - thủy sản Việt Nam 1990 - 1998 và dự báo năm 2000. Nxb Thống kê, Hà Nội, 1999. Trung tâm Thông tin tư liệu Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nông thôn Việt Nam sau mười năm đổi mới. Thông tin chuyên đề, số 8 năm 1996. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế, Quyết định số 1577 QĐ/UBND ngày 12-7-1995 về việc ban hành quy định về quản lý, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế - Sở Khoa học công nghệ môi trường - Văn phòng đầm phá, Luận chứng bảo vệ tự nhiên đất ngập nước đầm phá Tam Giam tỉnh Thừa Thiên - Huế. Huế, 1998. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế - Sở Khoa học công nghệ môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường vùng đầm phá Tam Giang 1994-1998. Huế, 1999. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế - Sở Khoa học công nghệ môi trường - Văn phòng đầm phá và vùng Nord - Pasde Calais (Pháp), Hội thảo tổng kết giai đoạn I dự án hợp tác nghiên cứu về đầm phá tỉnh Thừa Thiên - Huế. Huế, 1999. UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế - Sở Thủy sản, Tổng quan phát triển kinh tế thủy sản tỉnh Thừa Thiên - Huế thời kỳ 1995 - 2010. Huế, 1995. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ - Trung tâm hỗ trợ Khoa học và công nghệ phát triển nông thôn, Phát triển kinh tế xã hội vùng gò đồi Bắc Trung Bộ. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1999. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Chính sách cơ cấu vùng kinh nghiệm quốc tế và sự vận dụng ở Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1996. phụ lục Phụ lục 1: Danh mục các dự án chính năm 2001 - 2005 Tên dự án Quy mô đầu tư công suất thiết kế Tổng vốn đầu tư (triệu đồng) Nguồn vốn dự kiến I Nuôi trồng thủy sản 221.000 1 Dự án quy hoạch nuôi trồng thủy sản đầm phá 6.000 ODA 2 Dự án xây dựng hệ thống thủy lợi cấp nước phát triển nuôi trồng thủy sản ở các vùng trọng điểm 6.000 Vốn ngân sách 3 Dự án phát triển nuôi trồng thủy sản kết hợp định canh định cư 700 ha, 1400 hộ 74.000 Ngân sách + tín dụng 4 Dự án nuôi tôm công nghiệp ở các vùng trọng điểm 700 ha 120.000 Tín dụng 5 Xây dựng trung tâm giống thủy sản 3.000 Ngân sách 6 Dự án xây dựng nhà máy sản xuất thức ăn nuôi tôm 3.000 tấn/năm 12.000 Tín dụng hoặc FDI II Chế biến thủy sản 7 Dự án xây dựng nhà máy đông lạnh Phú Lộc 1000 tấn/năm 15.000 ODA/tín dụng/FDI 8 Dự án nâng cấp cơ sở chế biến thủy sản Thuận An, Công ty thủy sản 400 tấn/năm 15.000 ODA/tín dụng/FDI 9 Dự án nâng cấp cơ sở chế biến Công ty xuất khẩu thủy sản Sông Hương 700 tấn/năm 20.000 ODA/tín dụng/FDI Tổng vốn đầu tư 271.000 Mở đầu 1 1. Tính cấp thiết của đề tài 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn 3 4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài 3 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 4 6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn 4 7. Kết cấu của luận văn 4 Chương 1 5 Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng và sự cần thiết phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá ở tỉnh Thừa Thiên - Huế 5 1.1. Lý luận về kinh tế hàng hóa vùng 5 1.1.1. Khái niệm kinh tế hàng hóa vùng, kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 5 1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 15 1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 28 Chương 2 33 Thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế và những vấn đề đặt ra 33 2.1. Thực trạng phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 33 2.1.1. Thực trạng các nhân tố phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 33 2.1.2. Thực trạng vai trò quản lý của nhà nước 52 2.2. Những vấn đề bức xúc đặt ra cần khắc phục để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 61 Chương 3 71 Quan điểm định hướng và những giải pháp nhằm đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 71 3.1. Những quan điểm định hướng về phát triển kinh tế hàng hóa ở vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 71 3.1.1. Phát triển nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình kinh tế để khai thác thế mạnh toàn diện theo lợi thế so sánh vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 71 3.1.2. Quan điểm tạo điều kiện môi trường để xây dựng đầm phá của tỉnh Thừa Thiên - Huế thành vùng kinh tế hàng hóa phát triển 74 3.1.3. Phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế trong tổng thể quy hoạch của tỉnh, của trung ương và kinh tế miền Trung 76 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 79 3.2.1. Nhóm giải pháp về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 79 3.2.2. Nhóm giải pháp tạo điều kiện môi trường để phát triển kinh tế hàng hóa vùng đầm phá Thừa Thiên - Huế 85 Kết luận 92 Danh mục tài liệu tham khảo 94 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2636.DOC
  • docLVTS0020.DOC
Tài liệu liên quan