Phần mở đầu
Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Đặc điểm kinh tế của các quốc gia trên thế giới hiện nay đang cố gắng không ngừng để tìm kiếm xây dựng những mô hình thể chế kinh tế thích hợp để đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao trong đó mô hình có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi.
ở nước ta sau một thời gian duy trì nền kinh tế tập trung cao đã thấy xuất hiện những mặt không phù hợp của nó. Sau Đại hội VI (1986), Đảng và nhà nước ta mở r
31 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Xã hội chủ nghĩa là giải pháp cơ bản chuyển từ SX nhỏ lên sản xuất lớn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a con đường XHCN của đất nước bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu và bước đầu có ý nghĩa rất lớn nhưng hiện nay chúng ta đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn, cái cũ và cái mới đan xen nhau triệt tiêu lẫn nhau. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho cái mới cái tiến bộ thay thế cái cũ nhưng không có nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ, nhận thức được điều này em đã chọn đề tài “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay” làm đề tài cho tiểu luận của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên cứu đề tài nâng cao hiểu biết của mình về kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, giúp cho em trong quá trình học tập tại trường và hiểu biết thêm về hiện trạng của đất nước để sau khi ra trường có thể góp một phần công sức của mình xây dựng đất nước giàu đẹp.
Đây là đề tài đầu tay của em trong bộ môn này nên chắc chắn không tránh khỏi những sai sót mong được sự góp ý nhiệt tình của thầy giáo .
Em xin chân thành cảm ơn !
Nội dung
I. Cơ sở lí luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH nói chung.
1/ Lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về sự phát sinh phát triển của sản xuất hàng hoá:
a/ Sự ra đời của sản xuất hàng hoá:
Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên mà loài người sử dụng để giải quyết vấn đề sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
Sản xuất tự cung tự cấp là kiểu tổ sản xuất mà trong đó sản phẩm của người lao động làm ra được dùng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng cho nội bộ gia đình, từng công xã hay từng cá thể riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp còn được gọi là sản xuất tự cấp tự túc hoặc kinh tế tự nhiên.
Đây là kiểu tổ chức sản xuất khép kín nên nó thường gắn với bảo thủ trì trệ, nhu cầu thấp, kỹ thuật thô sơ, lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại ở các giai đoạn phát triển thấp của xã hội( công xã nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến )
ở Việt Nam hiện nay, kinh tế tự nhiên vẫn còn tồn tại ở vùng sâu vùng xa vùng núi phía Bắc, Tây Nguyên, đồng bào dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên khi lực lượng sản xuất phát triển cao, phân công lao động xã hội được mở rộng thì dần xuất hiện trao đổi hàng hoá khi trao đổi hàng hoá trở thành mục đích thường xuyên của sản xuất hàng hoá thì lúc đó sản xuất hàng hoá ra đời.
Sản xuất hàng hoá : là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi để bán trên thị trường, sản phẩm ở đây không phải là sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu nội bộ của người sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi.
Cơ sở kinh tế- xã hội của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này và người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Phân công lao động là việc phân chia người sản xuất vào các ngành nghề khác nhau của xã hội hoặc nói cách khác đó là chuyên môn hoá sản xuất.
Do chuyên môn hoá nên mỗi người chỉ sản xuất một hay một vài sản phẩm nhất định.Song nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của mọi người đều có nhiều loại sản phẩm vì vậy họ đòi hỏi phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau, phân công lao động là điều kiện của sản xuất hàng hoá. Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ khác nhau về tư liệu sản xuất quy định.
Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất làm họ tách biệt nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau, sản phẩm lao động đây trở thành hàng hoá.
Khi sản phẩm lao động xã hội trở thành hàng hoá thì người sản xuất trở thành người sản xuất hàng hoá, lao động của người sản xuất hàng hoá vùa có tính chất xã hội vừa có tính chất tư nhân cá biệt.
Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá thể hiện ở chỗ do phân công lao động xã hội nên sản phẩm lao động của người này trở nên cần thiết cho người khác, cần cho xã hội.
Tinh chất tư nhân cá biệt thể hiện ở chỗ sản xuất ra cái gì bằng công cụ nào, phân phối cho ai là công việc cá nhân của chủ sở hữu tư liệu sản xuất, do họ định đoạt. Tính chất xã hội của lao động sản xuất hàng hoá chỉ được thưà nhận khi họ tìm được người mua trên thị trường và bán đưọc hàng hoá do họ sản xuất ra.
Vì vậy, lao động của người sản xuất hàng hoá bao hàm sở hữu thống nhất giữa hai mặt đối lập là tính chất xã hội và tính chất cá biệt của lao động.
Mâu thuẫn giữa tính chất xã hội và tính chất cá biệt của lao động sản xuất hàng hoá là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá. Những mâu thuẫn này được giải quyết trên thị trường , đồng thời nó được tạo ra một cách liên tục thường xuyên với tư cách là mâu thuẫn của nền kinh tế hàng hoá nói chung. Chính mâu thuẫn này là nguyên nhân kinh tế của khủng hoảng sản xuất thừa.
Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử sở hữu lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hoá giản đơn dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Nhưng khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kỳ quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản.
b/ Hàng hoá:
+ Hàng hoá là vật phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và được sản xuất ra để bán
Hàng hoá có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng.Trong đó giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên, còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá. Hai thuộc tính này là 2 mặt đối lập cùng tồn tại trong hàng hoá, cũng từ hai thuộc tính này mà lao động sản xuất hàng hoá mang tính hai mặt lao động cụ thể là lao động cụ thể và lao động trừu tượng.
Giá trị và giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng là những công dụng khác nhau của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của nó mang lại.
Giá trị sử dụng của vật phẩm được thể hiện ra khi ta mang tiêu dùng chúng. Khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày càng phát triển dần dần người ta tìm thấy thêm được nhiều thuộc tính có ích. Giá trị sử dụng của hàng hoá rất phong phú, vừa thả mãn nhu cầu về vất chất vừa thoả mãn nhu cầu về mặt tinh thần. Nó là một phạm trù vĩnh viễn, nhưng trong nền kinh tế hàng hoá giá trị sử dụng đồng thời là vật mang giá trị trao đổi.
Giá trị hàng hoá là một phạm trù rất trừu tượng vì nó là thuộc tính xã hội của hàng hoá và muốn tìm hiểu được giá trị hàng hoá ta phải xuất phát từ việc nghiên cứu giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị sử dụng này trao đổi với một giá trị sử dụng khác
Ví dụ : 1 rìu = 20 kg thóc
hai hàng hoá có công dụng khác nhau mà có thể trao đổi cho nhau là do chúng có chung một thuộc tính chung duy nhất, chúng đều là sản phẩm của lao động của con người.
+ Tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá
Lao dộng cụ thể là lao động được tiến hành dưới một hình thức nhất định, có mục đích, phương pháp hoạt động đối tượng và kết quả riêng biệt
Mỗi loại lao động cụ thể tạo ra một giá trị sử dụng nhất định có bao nhiêu loại sản phẩm hàng hoá thì có bấy nhiêu loại lao động cụ thể khác nhau, các loại lao động đó hợp thành hệ thống phân công lao động ở từng quốc gia. Xã hội càng phát triển thì phân công lao động càng cao. Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh viễn nó tạo ra giá trị sử dụng cho hàng hoá
Lao động trừu tượng : Đó là hao phí lao động nói chung của người sản xuất hàng hoá ( hao phí thần kinh và cơ bắp ). Khi có những lao động nào sản xuất ra hàng hoá thì mới quy thành lao động trừu tượng. Không phải có hai lao động cùng kết tinh trong một hàng hoá mà là lao động mang tính chất hai mặt.
+ Thời gian lao động xã hội cần thiết
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để làm ra 1 hàng hoá trong những điều kiện sản xuất trung bình xã hội với một trình độ khéo léo trung bình, cường độ lao động trung bình của người sản xuất.
Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá có xu hướng nghiêng về thời gian lao động cá biệt của những người sản xuất mà họ cung cấp một hàng hoá nào đó trên thị trường.
Hai nhân tố ảnh hưởng đến thời gian lao động xã hội cần thiết là năng suất lao động và cường độ lao động.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động hay sức sản xuất của lao động. Luồng giá trị của hàng hoá thay đổi theo tỉ lệ nghịch với năng suất lao động xã hội.
Cường độ lao động là mức tiêu hao về lao động trong một đơn vị lao động. Nó cho biết mức độ khẩn trương của lao động.
+ Lao động giản đơn và lao động phức tạp.
Lao động giản đơn là sự tiêu hao sức lực giản đơn mà bất kỳ một người bình thường nào không cần biết đến tài nghệ đặc biệt đều có thể tiến hành được để làm ra hàng hoá.
Lao động phức tạp là loại lao động phải đòi hỏi đào tạo tỉ mỷ công phu và có sức khéo léo, tài nghệ, phải có sự tích luỹ lao động. Trong cùng một đơn vị thời gian, lao động phức tạp sáng tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn. Vì vậy lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn.
+ Thị trường và cơ chế thị trường
Thị trường là một hình thức trao đổi hàng hoá mà trong đó các chủ thể kinh tế cạnh tranh với nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá làm ra.
Thị trường thường gắn với một địa điểm cụ thể nhất định như chợ, cửa hàng, văn phòng giao dịch… Thị trường đầu ra bao gồm : lương thực thực phẩm và những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu. Cơ chế thị trường là một hình thức tổ chức kinh tế trong đó các vấn đề kinh tế được giải quyết thông qua thị trường ( mua bán và trao đổi hàng hoá ). Cơ chế thị trường hoàn toàn đối lập với nền kinh tế tự nhiên. Trong cơ chế thị trường người sản xuất và người tiêu dùng thường tác động qua lại lẫn nhau để giải quyết ba vấn đề trung tâm của một tổ chức kinh tế: Sản xuất cho ai, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào.
Trong thị trường có 3 yếu tố chính : hàng hoá, tiền tệ, người mua bán, . Động lực hoạt động của con người trong cơ chế thị trường là lợi nhuận, nó bị chi phối bởi một số quy luật như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật lưu thông tiền tệ.
c/ Kinh tế hàng hoá:
Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó hình thái phổ biến của sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán trên thị trường.
Kinh tế hàng hoá đối lập với kinh tế tự nhiên và kinh tế chỉ huy, khi sản xuất hàng hoá lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng đồi dào phong phú, thị trường được mở rộng, khái niệm thị trường được hiểu ngày càng đầy đủ hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. ở đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Để phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta, cần đẩy mạnh và chú trọng phát triển các loại thị trường. Quá trình chuyển đổi ở nước ta cần phải từng bước hình thành thị trường thống nhất thông suốt cả nước. Từng bước hình thành và mở rộng đồng bộ thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ, thị trường vốn tiền tệ… Cần phải mở rộng giao lưu hàng hoá, phát triển thị trường trong nước chú trọng nông thôn, miền núi xoá bỏ triệt để mọi hình thức chia thị trường theo địa giới hành chính. Đồng thời gắn thị trường trong nước với thị trường quốc tế, giải quyết mối quan hệ giữa tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Các chính sách khuyến khích sản xuất nội địa để phát triển mạnh mẽ thị trường nước ta hội nhập với thị trường khu vực và thế giới.
ở nước ta kinh tế hàng hoá mà Đảng chủ trương xây dựng và phát triển trong thời kỳ quá độ lên CNXH là “nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước”
+ Ưu thế của sản xuất hàng hoá
Lịch sử phát triển của xã hội là từ sản xuất tự cấp tự túc tiến lên sản xuất hàng hoá. So với nền sản xuất tự cấp tự túc thì sản xuất hàng hoá có những ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt
Thứ nhất : nền sản xuất tự cấp tự túc là nền sản xuất khép kín làm cho nền sản xuất bị hạn chế không phát triển, mặt khác sản xuất hàng hoá là sản xuất ra hàng hoá để đem đi bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên bởi vậy nó là động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thứ hai : nền kinh tế tự nhiên tự cấp tự túc không có sự thay đổi kỹ thuật và phát triển, hơn nữa những nguồn tự nhiên thì bị sử dụng một cách rất lãng phí. Còn môi trường họat động cuả sản xuất hàng hoá là một môi trường cạnh tranh gay gắt, quy mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, điều này buộc các nhà sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh động trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên trái với sản xuất tự cấp tự túc. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội
- Thứ ba : đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản phẩm ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng với nhau đời sống vật chất, văn hoá tinh thần nghèo nàn thấp kém, không có sự giao lưu, trao đổi văn hoá giữa các vùng. Nhưng sản xuất hàng hoá đã khắc phục được tình trạng này, do sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu nên giao lưu văn hoá kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân đều được nâng cao ngày càng phong phú đa dạng, tạo điều kiện cho phát triển độc lập, tự do, bình đẳng của mỗi cá nhân
Thứ tư : nền sản xuất tự cấp tự túc thấp kém đã cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hoá các ngành sản xuất làm cho các ngành sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá và phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao. Trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử.
+ Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kì quá độ
Ta thấy rằng, từ khi CNXH ra đời và phát triển như một hệ thống thế giới cho đến trước thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tài tranh luận trong giới nghiên cứu lý luận macxít. Nhìn chung về phương diện lý luận quan điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm kinh tế XHCN là nền kinh tế phát triển theo quy luật cân đối và có kế hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của CNXH. Nhà nước có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến những trao đổi hàng hoá trên thị trường. Kinh tế hàng hoá bị coi nhẹ được coi là đặc trưng riêng của CNTB cần phải được hạn chế và đi tới xoá bỏ.
Nhưng trên thực tế chính diều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ, làm kìm hãm đưa một số nền kinh tế của các quốc gia XHCN đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên quan điểm cho rằng “ sản xuất hàng hoá là đặc trưng riêng của CHTB” là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo Các Mác sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hoá tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì:
Thứ nhất : khi mà phân công lao động xã hội phát triển cao kéo theo chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó nảy sinh thêm những mối quan hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội.
Thứ hai: đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong hệ thống phân công lao động xã hội. Do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuợc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá tức là phải có sản xuất hàng hoá.
Thứ ba : quan hệ hàng hoá tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cạnh tranh hay hiệp tác với nhau, nó còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu quả sản xuất kinh doanh dẫn đến có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân san bằng ở đây được.
Thứ tư : sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ còn chính là điều kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn còn là một quốc gia riêng biệt là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hoá.
Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hoá tồn tại là một tất yếu cần thiết không thể cưỡng lại được và không thể dùng mệnh lệnh để ngăn cấm, xoá bỏ sản xuất hàng hoá.
II. Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam
1/ Phát triển kinh tế hàng hoá do yêu cầu của sự phát triển lực lượng sản xuất. Thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Xuất phất từ quy luật chung phổ biến. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thật vậy mỗi thành phần kinh tế bao giờ cũng thích ứng với một tính chất trình độ nhất định của lực lượng sản xuất, theo đó lực lượng sản xuất là nội dung và luôn có vai trò quyết định tới quan hệ sản xuất và đồng thời với các thành phần kinh tế.
ở nước ta hiện nay do tính đa dạng về trình độ của lực lượng sản xuất nên về hình thức quan hệ sản xuất và thành phần kinh tế được đa dạng hoá là tất yếu.
Vì vậy khi xác định các thành phần kinh tế cần phải xem xét đến tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất và tất nhiên phải xem xét trong trạng thái động.
Một trong những tư tưởng xuyên suốt do hội nghị lần thứ 4 ban chấp hành TƯ Đảng khoá VIII nhằm cụ thể hoá và thực hiện thành công những mục tiêu kinh tế xã hội mà Đại hội VIII của Đảng đề ra là ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng quan hệ sản xuất cho phù hợp theo định huớng XHCN. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta đã bắt nguồn từ việc tất yếu phải giải phóng mọi năng lực sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng việc nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Xét từ quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất luôn là yếu tố động nhất, quyết định đối với sự phát triển của sản xuất xã hội.
Chính vì vậy để đạt được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước bằng cách ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất thực chất là việc chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
2/ Phát triển kinh tế hàng hoá do ở Việt Nam tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần
Cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế đó là do còn nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đại hội Đảng VIII khẳng định : “ Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan tương ứng với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trong giai đoạn lịch sử hiện nay đó là kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản và kinh tế tư bản nhà nước.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong sự vận động của cơ chế thị trường nước ta là nguồn lực tổng hợp to lớn để đưa nền kinh tế Việt Nam vượt khỏi tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả trong điều kiện ngân sách hạn hẹp.
Để có những chính sách và chiến lược phát triển thích hợp cho từng thời kỳ ta phải tìm hiểu rõ các thành phần kinh tế đang tồn tại hiện nay.
- Thứ nhất thành phần kinh tế nhà nước là những đơn vị tổ chức trực tiếp sản xuất kinh doanh hoặc phục vụ sản xuất kinh doanh mà toàn bộ nguồn lực thuộc sở hữu nhà nước, hoặc phần của toàn nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế. Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp Nhà nước, các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước
Các doanh nghiệp nhà nước là bộ phận quan trọng cơ bản nhất của kinh tế nhà nước. Các doanh nghiệp này trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Chẳng hạn như cac nhà máy thuỷ điên Hoà Bình, công ty gang thép Thái Nguyên…
Các ngành kinh tế thuộc sở hữu nhà nước cung cấp hàng hoá hay dịch vụ cho xã hội. Bao gồm hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông, bưu điện, hệ thống ngân hàng tài chính, bảo hiểm( ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng đầu tư và phát triển, kho bạc..). Các xí nghiệp liên doanh trong đó nhà nước chiếm tỷ lệ khống chế (51%).
Những lực lượng vật chất thuộc sở hữu nhà nước bao gồm: đất đai, tài nguyên thiên nhiên, ngân hàng, tài chính, dự trữ quốc gia…
Cac doanh nghiệp ở nước ta đựoc hình thành qua ba con đường:
Nhà nước đầu tư vốn để hình thành ngay từ đầu
Nhà nước cấp vốn để liên doanh với các ngành khác
Nhà nước tiến hành việc đòi nợ, quốc hữu hoá các xí nghiệp tư bản tư
nhân
Ngoài ra với bản chất nhà nước XHCN, Nhà nước xác định đất đai tài nguyên thiên nhiên, tài chính, ngân hàng…do Nhà nước nắm giữ, chi phối để điều tiết, định hướng sự phát triển kinh tế xã hội. Kinh tế nhà nước thuộc sở hữu nhà nước, sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc hạch toán kinh tế, thực hiên phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo chủ trương của Đảng ta, kinh tế Nhà nước cần tập trung vào những ngành, lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội,hệ thống tài chính, ngân hàng, những cơ sở như giải quyết kinh doanh thương mại,dịch vụ quan trọng, những cơ sở kinh tế phục vụ an ninh quốc phòng và vấn đề xã hội, để đảm bảo cân đối lớn chủ yếu của nền kinh tế và thực hiện trò chủ đạo của nền kinh tế thị trường.
Tiếp tục đổi và phát triển kinh tế nhà nước để đảm bảo những mục tiêu kinh tế xã hội. Trước hết cần hoàn thiện chế độ chính sách luật pháp đảm bảo doanh nghiệp nhà nước thực là một đơn vị có tư cách pháp nhân. Phân định dứt khoát quyền sở hữu Nhà nước với quyền đại diện chủ sở hữu Nhà nước; quyền sở hữu Nhà nước với quyền sử dụng, quản lý…
Thứ hai, thành phần kinh tế hợp tác là sự liên minh liên kết kinh tế tự nguyện của các chủ thể kinh tế với các hình thức đa dạng, linh hoạt, phù hợp với nhu cầu, khả năng và lợi ích của các bên tham gia, có thể hoặc không dẫn tới pháp nhân.
Hình thức tồn tại của kinh tế hợp tác là: Hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng.
Các hợp tác xã được hình thành với các quy mô góc độ khác nhau, tuỳ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất, ở đây người lao động có quyền tự do tham gia và rút lui khỏi hợp tác xã.
Trong những năm đổi mới, kinh tế hợp tác có những thay đổi cơ bản: hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ, ruộng đất được giao sử dụng lâu dài. Thực tế xuất hiện những hình thức hợp tác giản đơn, từng khâu như hợp tác xã cổ phần, hợp tác xã dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ cho kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại phát triển.
Thứ ba, thành phần kinh tế tư bản nhà nước là sản phẩm của sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động của các tổ chức, đơn vị kinh tế tư bản trong và ngoài nước.
Thành phần kinh tế tư bản nhà nước bao gồm tất cả các hình thức hợp tác, liên doanh sản xuất kinh doanh giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư bản trong và ngoài nước, nhằm sử dụng, khai thác phát huy thế mạnh của mỗi bên tham gia, dưới sự kiểm soát giúp đỡ của nhà nước.
Thành phần kinh tế tư bản Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc huy động vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm tổ chức quản lý của các Nhà nước tư bản. Lênin chỉ rõ “ trong một nước tiểu nông .. phải đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản Nhà nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội”.
Nhà nước cần đa dạng hoá các hình thức liên doanh liên kết với các tổ chức và công ty tư bản nước ngoài, nâng dần tỷ lệ đầu tư ở phía Việt Nam. Đồng thời áp dụng nhiều hình thức góp vốn kinh doanh giữa Nhà nước và các nhà kinh doanh tư nhân trong nước dưới nhiều hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn nhằm tạo thế và lực mới cho các doanh nghiệp trong nước phát triển tăng sức cạnh tranh và hợp tác với bên ngoài.
Thứ tư thành phần kinh tế cá thể là thành phần kinh tế hoạt động sản xuất kinh doanh dựa vào kinh nghiệm của bản thân là chính.
Kinh tế cá thể, tiểu chủ của nông dân thợ thủ công những người bán buôn dịch vụ cá thể. Sở hữu của thành phần kinh tế này là sở hữu tư nhân, sản xuất kinh doanh phân tán manh mún, trình độ công nghệ kỹ thuật thủ công, mục đích kinh doanh chủ yếu là để nuôi sống mình, còn tiểu chủ, bản thân vừa lao động trực tiếp vừa thuê một số công nhân. Thế mạnh của thành phần kinh tế cá thể là phát huy nhanh, có hiệu quả, tiền vốn, sức lao động, say nghề, sản phẩm truyền thống. Vì thế nó có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, có khả năng đóng góp phát triển kinh tế xã hội.
Do các ưu thế của nó, Nhà nước và các thành phần kinh té khác không thể tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn các thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ về vốn và kỹ thuật…Để nó từng bước tham gia kinh tế hợp tác một cách tự nguyện hoặc làm “ Vệ sinh” cho các doanh nghiệp của nền kinh tế.
Thành phần kinh tế thứ năm và cũng là thành phần kinh tế cuối cùng. Thành phần kinh tế tư bản tư nhân: là các đơn vị kinh tế mà vốn do một hoặc một số nhà tư bản trong nước và ngoài nước đầu tư để sản xuất kinh doanh dịch vụ.
Kinh tế tư bản tư nhân tổ chức dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…
Từ năm 1991 sau khi có luật doanh nghiệp tư nhân ở nước ta, kinh tế tư bản tư nhân phát triển mạnh và đóng gopá nhất định vào sự phát triển kinh tế xã hội.
Cần khẳng định nhất quán chủ trương phát triển kinh tế tư bản tư nhân bình đẳng với các thành phần kinh tế khác, khuyến khích tư bản tư nhân đầu tư và sản xuất, bảo vệ quyền sở hữu và lợi ích hợp lí, tạo điều kiện thuận lợi và củng cố lòng tin cho các nhà đầu tư phát triển.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng mỗi thành phần kinh tế đồng thời vừa tồn tại độc lập tương đối vừa tác động qua lại lẫn nhau, vừa hợp tác cạnh tranh với nhau vừa thống nhất vừa mâu thuẫn trong một chỉnh thể kinh tế xã hội. Không nên hiểu mỗi thành phần kinh tế như những bộ phận tách rời, những lực lượng tự trị và theo đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là sự hợp nhất cơ học của các thành phần đó.
Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, một vấn đề có tính nguyên tắc cần phải nắm vững, đó là kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng của nền kinh tế. Nếu thành phần kinh tế Nhà nước đủ mạnh và đóng được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi kéo được các thành phần kinh tế khác theo định hướng XHCN. Nừu ngược lại, sẽ không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa sẽ lớn mạnh hơn và kéo theo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa. Cần phải luôn nhớ rằng thành phần TBCN đã đang và sẽ có sự hậu thuẫn quốc tế rất mạnh. Nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực chống phá XHCN đang tìm cách cho kinh tế tư nhân tư bản chủ nghĩa ở nước ta thắng thế.
Ta phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần để sản xuất liên tục, không bị gián đoạn, tạo sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường.
3/ Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân.
Việt Nam đi lên từ một nước phong kiến thuộc địa lạc hậu, tiếp theo đó là chiến tranh kéo dài. Khi kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam có thời gian nhìn lại mình thì đã tụt hậu về kinh tế quá xa so với thế giới. Sự hỗ trợ to lớn của các nước XHCN là hậu thuẫn mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến. Nhưng ở thời kì hoà bình xây dựng, hỗ trợ đó hầu như không có hiệu quả, thể hiện ở tình trạng lạc hậu về kỹ thuật so với các nước tư bản phát triển, ở cơ cấu kinh tế bất hợp lý, và kinh nghiệm quản lý theo nền kinh tế kế hoạch tập trung…Cùng với sự sụp đổ của hệ thống XHCN ở Đông Âu, Việt Nam đứng bên bờ của cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội. Thu nhập bình quân đầu người được đánh giá vào nhóm các nước nghèo nhất thế giới
So sánh một số chỉ tiêu kinh tế xã hội giữa Việt Nam và các nước ASEAN năm 1993
Chỉ tiêu
Việt Nam
Indônêxia
Malaixia
Philipin
Singapo
Thái Lan
GDP bình quân đầu người-USD
Phương pháp Atlas
170
730
3160
830
19310
2040
GDP bình quân đầu người USD
Phương pháp PPP
1040
3140
8630
2660
20470
6390
Chỉ số HDI
0,514
0,568
0,794
0,621
0,836
0,798
Vị trí HDI trong 176 nước
116
105
57
99
43
54
HDI: chỉ số phát triển con người
Trước đây,việc thực hiên chính sách và cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp khiến cho sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng nhanh, đới sống một bộ phận nhân dân, nhất là ở một số vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, đồng bào dân tộc, còn quá khó khăn vất vả.Chất lượng giáo dục đào tạo, y tế ở nhiều nơi rất thấp kém. Người nghèo không đủ tiền chữa bệnh và cho con em đi học. Trong khi đó nguồn tài chính từ ngân sách và các nguồn lực khác có thể huy động cho yêu cầu phúc lợi xã hội vừa hạn chế vừa chưa được sử dụng có hiệu quả. Tình trạng ùn tắc giao thông, ô nhiễm môi trường sinh thái, huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên ngày càng tăng. Văn hoá phẩm độc hại lan tràn, tệ nạn xã hội phát triển, trật tự an toàn xã hội còn nhiều phức tạp.
Xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống xã hội, để ổn định kinh tế trong nước và hội nhập quốc tế ta phải xây dựng một nền kinh tế mở, một nền kinh tế nhiều thành phần, đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Sự thành công của một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng cao mà còn ở chỗ mức sống thực tế của mọi tầng lớp dân cư đều được nâng lên, y tế giáo dục đều phát triển, khoảng cách giàu nghèo được thu hẹp, đạo đức truyền thống bản sắc văn hoá dân tộc được giữ vững, môi trường được bảo vệ.
III. Những giải pháp để phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam
Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- U0169.doc