Mở đầu
Đặc điểm kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây dựng mô hình kinh tế có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần lầ cốt lõi . ở nước ta sau một thời gian duy trì kinh tế tập trung cao độ đã thấy sự không phù hợp của nó . Từ sau đại hội VI (1986) Đảng ta đã mở ra con đường XHCN của đất nước bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của nhà nước.
Sau khi có c
26 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1369 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính sách đổi mới chúng ta đã đạt được những thành tựu bước đầu có ý nghĩa rất lớn. Nhưng hiện chúng ta đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn, cái cũ và cái mới đan xen nhau, triệt tiêu lẫn nhau. Bổn phận của chúng ta là phải làm sao cho cái mới cái tiến bộ thay thế cái cũ nhưng không có nghĩa là phủ định hoàn toàn cái cũ . Nhận thức được điều này em đã chọn đề tài “Phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận độngtheo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay“ làm đề tài cho tiểu luận của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên cứu đề tài nâng cao hiểu biết của mình về kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, giúp ích cho em trong quá trình học tập tại Trường Học viên ngân hàng và hiểu biết thêm về hiện trạng của đất nước để sau khi ra trường có thể qóp một phần công sức của mình xây dựng đất nước giàu đẹp.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nội dung
I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ qúa độ ở nước ta.
Bất cứ nền kinh tế nào cũng bắt đầu dưới dạng mầm mống, tiền đề trong nền kinh tế cũ , dần dần phát triển và chiến thắng kinh tế cũ thi mới trở thành nền kinh tế mới . Dưới chế độ công xã nguyên thủy trong điều kiện những công cụ lao động quá thô sơ lúc bấy giờ, một cá nhân không thể sống và lao động độc lập được, bởi vậy họ buộc phải liên kết lao động tập thể để chống lại sự uy hiếp của thiên nhiên, của thú dữ và những cộng đồng người khác. Người nguyên thuỷ không có quan niệm tư hữu, tất cả các tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt đều thuộc sở hữu của công cộng, của thị tộc và bộ lạc. Đây là nền sản xuất tự cung tự cấp. Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nền kinh tế cũng chưa phải là nền kinh tế hàng hóa. Khi đó kinh tế hàng hóa mới chỉ xuất hiện với tư cách là mầm mống, là tiền đề, và nó vẫn bị nền kinh tế tự nhiên chi phối. Chỉ đến khi xã hội tư bản ra đời thì kinh tế hàng hóa mới giữ vai trò chi phối đời sống kinh tế xã hội và khi đó mới thực sự là nền kinh tế hàng hóa.
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Trước hết ta có khái niệm của sản xuất hàng hóa: Là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi để bán trên thị trường, sản phẩm ở đây không phải sản xuất ra để thoả mãn nhu cầu nội bộ của người sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi. Ví dụ như ở sản xuất tự cung tự cấp thì người nông dân vừa phải tạo công cụ lao động như quốc, xẻng ... vừa trồng lúa còn trong nền sản xuất hàng hóa thì người nông dân chỉ phải trồng lúa còn người thợ rèn sản xuất ra quốc, xẻng để đổi lấy lúa gạo của người nông dân.
Việc người nông dân từ việc vừa phải sản xuất công cụ lao động, vừa phải trồng lúa đến chỉ phải trồng lúa và trao đổi lấy công cụ quốc xẻng của người thợ rèn chính là phân công lao động xã hội đó là sự chuyen môn hóa người sản xuất thành những ngành nghề khác nhau, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm, song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu họ cần có sự trao đổi sản phẩm với nhau. Nhưng nếu chỉ có phân công lao động thôi thì chưa đủ để có sản xuất hàng hóa, đây mới chỉ là điều kiện cần của sản xuất hàng hóa. Nếu chỉ có phân công lao động và tất cả tư liệu sản xuất đều là của chung như vậy mỗi người sản xuất cung cấp sản phẩm cho xã hội và xã hội cung cấp sản phẩm cho cá nhân tiêu dùng bởi vậy ở đây không có sự mua bán, trao đổi hàng hóa với nhau nên chỉ có phân công lao động xã hội thì chưa đủ để có được nền sản xuất hàng hóa.
Ngoài điều kiện phân công lao động xã hội thì cần phải xuất hiện chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau của tư liệu sản xuất và sản phẩm thì mới có được sản xuất hàng hóa, đây là điều kiện đủ để có được sản xuất hàng hóa. Ta đặt vấn đề ngược lại, nếu chỉ có điều kiện các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm thì có thể có được sản xuất hàng hóa hay không? Câu trả lời là không vì nếu chỉ có sản xuất hàng hóa điều kiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà không có sự phân công lao động xã hội thì chưa thể có sản xuất hàng hóa, người nông dân vừa dệt vải, vừa tự rèn lấy công cụ và trồng lúa. Tức là sản xuất tự cấp tự túc hoàn toàn thì sản xuất đó không phải là nền sản xuất hàng hóa.
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở để có được sản xuất hàng hóa còn chế độ tư hữu làm cho việc trao đổi sản phẩm mang hình thức trao đổi hàng hóa. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì không thể có sản xuất hàng hóa.
2. Lý luận của Mac - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hóa và kinh tế hàng hóa.
Phát triển sản xuất hàng hóa là sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội cũng là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, ở chế độ công xã nguyên thuỷ, lực lượng sản xuất phát triển còn thể hiện ở phân công lao động xã hội thay thế cho phân công tự nhiên. Một số bộ lạc do điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho vịec trồng trọt ngũ cốc, chuyên đi sâu vào sản xuất nông nghiệp, một số bộ lạc khác do điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho việc chăn nuôi với số lượng lớn nên đã tách ra khỏi các bộ lạc nông nghiệp và lấy chăn nuôi làm ngành lao động chủ yếu, điều này đã lam tăng năng suất lao động, con người có thể sản xuất được nhiều tư liệu sinh hoạt hơn số tư liệu sinh hoạt cần thiết cho bản thân họ, do đó suất hiện sản phẩm thặng dư và và sự trao đổi sản phẩm suất hiện một cách ngẫu nhiên, sau đó trao đổi sản phẩm trở thành thường xuyên dần dẫn đến trao đổi hàng hóa, lúc bấy giờ bộ lạc chăn nuôi sản xuất thịt, sữa, da thú … nhiều hơn và những bộ lạc trồng trọt nông ngiệp cũng sản xuất ra nhiều lương thực thực phẩm hơn do vậy việc trao đổi trở nên đều đặn thường xuyên và sản phẩm trở thành hàng hóa.
Lực lượng sản xuất phát triển thêm một bước khi công cụ lao động bằng đồng và sắt suất hiện, khi các nghề dệt và thủ công khác đã phát triển và ngày càng được chuyên môn hóa, tình trạng kết hợp nghề nông với nghề thủ công trở nên khó khăn và thủ công nghiệp tách khỏi nông nghiệp. Nền sản xuất xã hội được chia thành hai ngành chính nông nghiệp và thủ công nghiệp giờ đây sản xuất hàng hóa suất hiện không những trong nội bộ bộ lạc, giữa các bộ lạc với nhau mà cả các nước với nhau từ đấy việc sản xuất để trao đổi và việc trao đổi đã trở thành một điều kiện tất yếu , sống còn của xã hội.
Sản xuất nhỏ có hai trình độ sản xuất: Sản xuất nhỏ ở trạnh thái tự cấp, tự túc và sản xuất nhỏ ở trạng thái sản xuất hàng hóa giản đơn. Bước đi tất yếu và tự phát của sản xuất tự cấp tự túc là tiến lên sản xuất hàng hóa giản đơn (sản xuất hàng hóa nhỏ) dựa ttrên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và lao động cá nhân của người sản xuất.
Nền sản xuất hàng hóa nhỏ của nông dân và thợ thủ công đã có bứơc phát triển mới. Những người thợ cả giàu có bắt đầu mở rông quy mô , thuê thêm nhân công và kéo dài ngày lao động , dần dần họ trở thành nhà tư bản bóc lột người lao động làm thuê. Sản xuất hàng hóa nhỏ phát triển thành qui mô lớn và chỉ khi đó sản xuất hàng hóa mới trở thành kinh tế hàng hóa (sản xuất hàng hóa giản đơn vẫn chưa phải là kinh tế hàng hóa ).
3.Ưu thế của sản xuất hàng hóa
Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là từ sản xuất tự cấp, tự túc tiến lên sản xuất hàng hóa (hay từ kinh tế tự nhiên lên kinh tế hàng hóa). So với nền sản xuất tự cấp tự túc thì sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt.
Thứ nhất, nền sản xuất tự cấp tự túc là nền sản xuất khép kín làm cho nền sản xuất bị hạn chế không phát triển mặt khác sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên bởi vậy nó là động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển .
Thứ hai , sản xuất tự cấp tự túc là sản xuất trong một môi trường không có cạnh tranh, sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới kỹ thuật và phát triển sản xuất hơn nữa, những nguồn lực tự nhiên thì bị sử dụng một cách rất lãng phí. Còn môi trường hoạt động của sản xuất hàng hóa là một môi trường cạnh tranh gay gắt, qui mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, điều này buộc những người sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh độnh trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trái với sản xuất tự cấp tự túc, đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội.
Thứ ba, đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản phẩm ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng với nhau, đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần rất nghèo nàn và thấp kém, không có sự giao lưu trao đổi văn hóa giữa các vùng. Nhưng sản xuất hàng hóa khắc phục được tình trạng này, do sản xuất hàng hóa phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lưu văn hóa, kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân đều được nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho phát triển độc lập, tự do bình đẳng của mỗi cá nhân.
Thứ tư , nền sản xuất tự cấp tự túc khép kín đã cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hóa các ngành sản xuất, làm cho các ngành sản xuất ngày càng được chuyên môn hóa và phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, trên thế giới hiện nay khoa học ky thuật phát triển vô cùng nhanh chónh nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin, điện tử...
4.Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hóa tronh thời kỳ quá độ.
Ta thấy rằng, từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển như một hệ thống thế giới cho đến trước thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tài tranh luận trong giới nghiên cứu lý luận Mac xít. Nhìn chung, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm: kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển theo quy luật cân đối và có kế hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến các quan hệ trao đổi hàng hóa trên thị trường. Kinh tế hàng hóa bị coi nhẹ, được coi là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản cần phải được hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhưng trên thực tế chính điều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ , kìm hãm đưa một số nền kinh tế của các quốc gia xã hội chủ nghĩa đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên ta thấy quan điểm cho rằng “sản xuất hàng hóa là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản” là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo C.Mac sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hóa tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì:
Thứ nhất, khi mà phân công lao động xã hội phát triển kéo theo chuyên môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những mối liên hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội.
Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội, do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hóa tức là phải có sản xuất hàng hóa.
Thứ ba, quan hệ hàng hóa tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự tách biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hay hiệp tác với nhau, nó còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu qủa sản xuất kinh doanh dẫn đến có sự khác biệt nhau về lợi ích kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân, cào bằng ở đây được.
Thứ tư, sản xuất hàng hóa và quan hệ hàng hóa tiền tệ còn chính là điều kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hóa.
Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hóa tồn tại là một tất yếu và cần thiết không thể cưỡng lại và không thể dùng mệnh lậnh để ngăn cấm, xóa bỏ sản xuất hàng hóa.
II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam.
Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung và xã hội hóa quan hệ sở hữu mà đỉnh cao của nó là sở hữu toàn dân. Sự hình thành của các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hóa quan hệ sở hữu ở một trình độ nhất định. Khi mà lực lượng sản xuất đang ở mức thấp thì tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu nhỏ và phân tán.
Thế giới ngày nay do phát triển lực lượng sản xuất của khoa học, công nghệ mà giàu có rất nhanh nhưng đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng nhiều, sự giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà ngày càng phát triển, để giải quyết mâu thuẫn này không có cách nào khác là khi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, nhưng giải quyết công bằng xã hội ở đây không có nghĩa là cào bằng, sự siêng năng, tích cực và biếng nhác, làm ăn có hiệu quả đều được hưởng như nhau, làm như vậy sẽ làm triệt tiêu động lực phấn đấu của con người, ở đây cần phải dùng quan hệ hàng hóa tiền tệ để phân chia quyền lợi, chỉ có làm như vậy mới giảm bớt được bất công của xã hội. Hơn nữa trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta còn ở mức rất thấp, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập, do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện bằng cách nào khác là thực hiện trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ.
Trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải nâng cao xã hội hóa và chuyên môn hóa lao động mà điều này chỉ có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trường.
Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lượng sản xuất của khoa học công nghệ, đang có xu hướng quốc tế hóa đời sống nhân loại, xu hưóng này mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực và tiêu cực tác động đến con người, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lưu hợp tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát triển sản xuất hàng hóa ở nước ta để việc giao lưu, hợp tác với các nước khác trên thế giới được dễ dàng, tiện lợi.
Mặt khác, sản xuất hàng hóa phát triển kéo theo lực lượng sản xuất phát triển làm sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của con người.
2.Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế.
Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hóa tiền tệ, quản lý bằng phương pháp kinh tế là chủ yếu đã được đặt nền tảng tư tưởng bởi nghị quyết đại hội VI (năm 1986) có tính quyết định cho việc lựa chọn chuyển hoạt động của nước ta sang cơ chế thị trường nhằm nhanh chóng đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Từ những quan điểm đó chính phủ đã chủ trương chuyển việc mua bán tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng ... từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông qua thị trường .
Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tương ứng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở kinh tế gắn liền với nó là sự tồn tai và phát triển kinh tế hàng hóa. Đối với nền kinh tế nước ta với lực lượng sản xuất chưa đồng đều chúng ta đã nhận định được rằng chỉ có phát triển kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng khắc phục được tình trạng không đồng đêù đó của lực lượng sản xuất.
Hiện nay, nước ta vẫn đang phải gánh chịu những hậu qủa nặng nề do sự sai lầm về đường lối, chính sách thời trước đổi mới, hậu qủa chúnh ta phải gánh chịu đó là nền kinh tế kèm phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và những tác dụng tích cực của kinh tế hàng hóa. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt (huy động được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật và phát huy được mọi tiềm năng của con người Việt Nam) có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua đựơc tình trạng thấp kém đưa nền kinh tế hàng hóa phát triển ngay trong điều kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp.
Một điều có ý nghĩa khá lớn mà chúng ta đã nhận định đượ đó là : do trong nền kinh tế hàng hóa chịu sự tác dụng của sự thay đổi cơ cấu ngành theo hướng ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động dịch vụ trong ngành dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ, góp phần giải quyết được vấn đề công ăn việc làm ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng làm cho kinh tế hàng hóa và dịch vụ phát triển.
Vậy đối với nước ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nhu cầu khách quan, là xu thế tất yếu hợp với thời đại.
3.Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân
Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc ta bị sống đoạ đày dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong ách áp bức bóc lột nhiều phong trào yêu nước đã kế tiếp nhau diễn ra để chống lại bọn cướp nước và bè lũ bán nước nhưng những phong trào đó lần lượt bị thất bại do không tìm được ra con đường đúng đắn. Trong bối cảnh đó Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm đường cứu nước tại bến cảng nhà Rồng và người đã tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Ngày từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng mới giành được, người đã nêu bật một chân lý “nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì” và người thường căn dặn “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối khó nhưng thắng nghèo nàn, lạc hậu mới khó khăn hơn nhiều”.
Đối với nước ta trong thời kỳ trước đổi mới (1986) do những sai lầm trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa, cho rằng kinh tế hàng hóa là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng , lạm phat gia tăng một cách khủng khiếp (có thời kỳ lên tới 600 – 700%) đời sống nhân dân khổ cực.
Trước những thực trạng đó của đất nước Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã đề ra phương hướng đổi mới đất nước đó là vận hành nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kể từ sau đại hội VI (1986). ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hóa và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nông sản đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên một cách đánh kể.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn tòan đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó mà những năm vừa qua, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn kỹ thuật nước ngoài, phát triển lực lượng sản xuất.
Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa.
1.Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay.
1.1.Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới.
Cho đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, hiện vật tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Việt Nam vẫn là một nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển.
Từ khi có chính sách đổi mới thành tựu nổi bật nhất đó là đẩy lùi được lạm phát, chỉ trong một thời gian ngắn hàng loạt các đơn vị của thành phần kinh tế kinh doanh thương mại được hình thành , hoạt động trên mọi lĩnh vực từ xuất nhập khẩu đến kinh doanh thiết bị nhỏ lẻ trên cả nước. Các tổ chức này ra đời đã làm cho thị trường trở nên sôi động, khối lượng hàng hóa và tiền vốn từ nhiều nguồn được huy động vào lưu thông với mức mà trước đây chưa khi nào có được. Việc ngăn sông cám chợ được xoá bỏ, việc mua bán lưu thông hàng hóa được dễ dàng, tình trạng khan hiếm hàng hóa được đẩy lùi, hiện tượng chênh lệch giá giữa các vùng, khu vực bị hạn chế, nạn độc quyền trong kinh doanh được giải quyết đáng kể, đời sống xã hội được nâng lên.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của nước ta phát triển tương đối nhanh và ổn định, lương thực từ chỗ thiếu thốn cho đến nay không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn đưa nươcông suất ta trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, nhiều công trình trọnh điểm thuộc kết cấu hạ tầng được xây dựng tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối cho bước phát triển tiếp theo.
Một thành tựu không nhỏ nữa, đó là việc xuất hiện nhiều khu công nghiệp mới, ngành nghề mới đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao động xã hội từ đó những tệ nạn xã hội cũng dần được kiềm chế, sự tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần nâng cao đời sống các tầng lớp dân cư, số hộ nghèo đói ở nước ta cũng được giảm đi đáng kể, nhiều hộ gia đình từ chỗ không đủ ăn, đến nay đã có đủ ăn thậm chí có những hộ gia đình từ khi có chính sách kinh tế mới đã mạnh dạn đầu tư sản xuất và đã trở thành những ông chủ giàu có.
1.2.Những khó khăn và thách thức mới.
Tuy rằng nhưng năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mức sống của nhân dân được nâng lên một cách đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra cho chúng ta những khó khăn và thách thức mới. Việc vực dậy nền kinh tế từ không đến có hay từ đói nghèo lên đến đủ ăn, đủ mặc, dù giai đoạn này có khó khăn nhưng cũng thuận lợi và dễ nhìn hơn giai đoạn tiếp theo đó là từ đủ ăn, đủ mặc tiến lên ăn ngon mặc đẹp ở mức cao hay một nền kinh tế từ “có” lên đến có nhiều hơn nữa và tiến lên giàu mạnh hơn nữa.
Nền kinh tế của nươc ta tuy phát triển cao nhưng chưa vững chắc, nguồn phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, huy động nguồng ở trong dân vào đầu tư thấp, chưa tạo được tâm lý yên tâm cho dân ta mạnh dạn đầu tư phát triển. Việc lưu thông hàng hóa và hoạt động thương mại chủ yếu tập trung ở những vùng thành thị, khu đông dân và những thành phố lớn, chú ý nhiều đến kinh doanh, khai thác hàng nhập khẩu. Thị trường nông thôn miền núi, hàng hóa sản phẩm trong nước nhất là hàng nông sản thì ít được chú ý. Quá trình mua bán diễn ra nhanh chủ yếu chạy theo lợi nhuận trước mắt đã làm cho thị trường tronh nước bị phân đoạn, tách rời, động lực thúc đẩy sản xuất bằng nguồn lực nội tại trong nước của thị trường không được phát huy.
Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội ở nước ta còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại thì bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Trong nhiều ngành kinh tế do máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu, nên sưc cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước còn rất yếu, số lượng chất lượng hàng hóa làm ra còn thấp, chuyên môn hóa sản xuất chưa sâu, giao lưu hàng hóa còn nhiều hạn chế hơn nữa lại bị hàng nhập khẩu chèn ép, không xuất khẩu được nên nhiều doanh nghiệp không phát huy được hết năng lực sản xuất.
Đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp thành thạo còn qúa ít, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn thực tiễn, số lượng lao động thì lớn nhưng số lương lao động được đào tạo kỹ thuật, có khả năng đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của những công nghệ hiện đại trên thế giới còn chiếm tỷ lệ quá nhỏ dẫn đến tình trạng tuy có nguồn lực dồi dào nhưng không thể khai thác triệt để vì còn thiếu nhân lực có kỹ thuật, có tay nghề. Hơn nữa, thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân lao động còn thấp, do đó sức mua hàng chưa cao làm cho dung lượng thị trường trong nước còn ở mức nhỏ hẹp.
2Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hóa Việt Nam.
2.1 Đẩy mạnh quá trình đa dạng hóa sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta.
a) Đối với kinh tế Nhà nước
Trong quá trình phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một vấn đề quan trọng cần nắm được đó là kinh tế Nhà nước phải đóng vai trò chủ đạo. Khi mà kinh tế Nhà nước đủ mạnh và giữ được vai trò chủ đạo thì sẽ lôi cuốn được các thành phần kinh tế khác theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nếu không, thì không loại trừ khả năng thành phần kinh tế tư bản tư nhân sẽ lớn mạnh hơn và kéo nền kinh tế quốc dân theo định hướng tư bản chủ nghĩa, thêm nữa thành phần kinh tế tư bản tư nhân đã, đang và sẽ được sự hậu thuẫn rất lớn của quốc tế. Nhất là trong bối cảnh nước ta hiện nay mọi thế lực chống đối, phản động đang tìm mọi cách cho kinh tế tư bản tư nhân của nước ta thắng thế.
Do vậy, để kinh tế Nhà nước thắng thế chúng ta cần phải thực hiện một số vấn đề:
Thành phần kinh tế Nhà nước phải được xác định đúng về mô hình tổ chức và định hướng phát triển, chọn đúng cán bộ tốt, có cơ chế, chính sách phù hợp để thành phần kinh tế này không ngừng được củng cố và phát triển nhằm phát huy được vai trò chủ đạo, để thực hiện và phát huy được vai troà chủ đạo thì doanh nghiệp Nhà nước cần phải được phát triển trong những lĩnh vực có ý nghĩa mở đường, dẫn dắt nền kinh tế phát triển. Nó phải đảm bảo phát triển sản xuất hàng hóa công cộng còn những lĩnh vực kinh doanh có khả năng sinh lợi thì nên để cho các thành phần kinh tế khác phát triển.
Một bộ phận quan trọng của kinh tế Nhà nước là doanh nghiệp Nhà nước phải phát triển trên nguyên tắc năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao và phải bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác (vì chỉ trên cơ sở xác định được hiệu quả kinh tế xã hội rõ ràng, cụ thể mới có tiêu chuẩn tìm chọn nhân tài, có đạo đức tốt, khả năng quản lý giỏi để đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế) phải làm sao cho doanh nghiệp Nhà nước trở thành một công cụ để Nhà nước có thể khắc phục được những khiếm khuyết của thị trường và có thể can thiệp vào nền kinh tế bất cứ lúc nào cần thiết.
Hiện nay, trong cơ cấu thành phần kinh tế khu vực doanh nghiệp Nhà nước chưa được quan tâm nhiều đến việc đầu tư đổi mới công nghệ, giải quyết vốn lưu động để phát huy năng lực sản xuất, hiện nay vẫn còn nhiều doanh nghiệp hoạt động kém hiệu qủa, còn quá nhiều doanh nghiệp nhỏ làm ăn thua lỗ kéo dài. Tuy nhiên để khắc phục tình trạng trên chúng ta cần phải xắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước theo hướng: nắm ngành, khâu, mặt hàng then chốt, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt. Việc sắp xếp lại có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau. Để kinh tế Nhà nước hoạt động có hiệu qủa hơn, phát huy được vai trò chủ đạo của mình, chúng ta cần đổi mới theo hướng sau:
Thứ nhất, hoàn thành việc phân định các doanh nghiệp hoạt động công ích và các doanh nghiệp kinh doanh hoạt đọng có hiệu qủa cũng như những doanh nghiệp kinh doanh giữ vị trí quan trọng trong nền kinh tế. Nhà nước cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có đủ số vốn lưu động cần thiết, được vay vốn ưu đãi đểb đổi mới thiết bị, công nghệ, kiện toàn tổ chức và đổi mới cơ chế quản lý. Còn đối với những doanh nghiệp kinh doanh chuyển sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần thật sự tự chủ thì phải tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt độnh của mình.
Thứ hai, xác định loại doanh nghiệp được Nhà nước đầu tư 100% vốn, loại doanh nghiệp mà Nhà nước nắm số cổ phần khống chế và những doanh nghiệp mà Nhà nước chỉ cần giữ cổ phần ở mức thấp và đa dạng hóa sở hữ thông qua các biện pháp: cổ phần hóa, cho thuê kinh doanh, chuyển nhượng quyền sở hữu và sử dụng …trên cơ sở khắc phục mọi trở ngại khách quan và chủ quan để đẩy nhanh tiến độ phát triển. Hướng dẫn, đôn đốc việc cổ phần hóa các doanh nghiệp theo những danh mục đã xác định, đảm bảo tiến độ triển khai và kịp thời rút kinh nghiệm để tiến hành một cách vững chắc, không để xảy ra những sai lầm đáng tiếc. Đối với biện pháp tổng công ty hóa các doanh nghiệp cần được xem xét lại theo hướng thu hẹp các tổng công ty đến mức chỉ áp dụng trong những lĩnh vực phải đối diện trực tiếp với cạch tranh nước ngoài, song song với việc xây dựng các công ty đa ngành, đa sở hữu và tạo cơ chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thành viên của tổng công ty.
Đối với kinh tế hợp tác
Thành phần kinh tế hợp tác ở nước ta hiện nay còn lúng túng, số hợp tác xã hoạt động kém hình thức còn nhiều. Đây là một vấn đề cần phải tháo gỡ kịp thời để bảo đảm cho kinh tế nhiều thành phần phát triển đúng hướng xã hội chủ nghĩa. Để tháo gỡ vấn đề hoạt động kém của hợp tác xã chúng ta cần phải tổng kết kinh nghiệm phát triển các hợp tác xã kiểu cũ trong nông nghiệp, thương nghiệp... để rút ra những bài học kinh nghiệm, phát triển hợp tác xã trong những năm tới. Hiện nay, mô hìn hợp tác xã kiểu cũ không còn phù hợp với quy luật phát triển xã hội hóa sản xuất đối với sản xuất nhỏ ở nước ta. Thực tế hơn 10 năm vừa qua đã chứng tỏ hợp tác xã của những người sản xuất nhỏ là cần thiết trong các khâu dịch vụ sản xuất, các khâu đầu vào và đầu ra cho sản xuất nhỏ, bởi vậy cần phải có sự tổng kết, hưóng dẫn phát triển hợp tác xã ở các khâu này và tạo điều kiện để kinh tế tập thể góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển.
Đối với loại hình sản xuất nhỏ của người nông dân và người buôn bán nhỏ.
Như ở trên đã nói đối với những năm đổi mới của nước ta kinh tế hộ đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế ở nước ta, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp. Đối với loại hình sản xuất này Nhà nước cần có những chính sách trợ giúp cung ứng nguyên liệu đầu vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra, Nhà nước thông qua những chính sách thuế để trợ giúp cho thành phần kinh tế này, khuyến khích những người sản xuất nhỏ phát triển làm sao để kinh tế hợp tác cùng với kinh tế Nhà nước trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân
Hiện nay kinh tế tư bản tư nhân sản xuất lớn ở nước ta còn rất nhỏ bé, lại nặng về hoạt động thương mại, dịch vụ phục vụ đời sống còn trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tỷ trọng thành phần kinh tế đáng kể, một điều khó khăn của thành phần kinh tế này là tâm lý e ngại đầu tư trong nhân dân. Do vậy Nhà nước cần có chính sách khuyến khích thành phần kinh tế tư nhân tự do phát triển theo luật định không hạn chế tư nhân, các thể bỏ vốn đầu tư vào sản xuất những sản phẩm mà Nhà n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28284.doc