Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta

A. LỜI MỞ ĐẦU Cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản trong nền kinh tế nước ta sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiến ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển, Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số 1 đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải

doc16 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của nước ta trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay mà Đảng và nhà nước ta đã xác định. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ ĐI LÊN CNXH NÓI CHUNG. 1. Lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin về sự phát sinh và phát triển của sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá, sự khác biệt giữa chúng để làm rõ vấn đề đã nêu ở trên Trước khi đi vào nghiên cứu sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá ta cần hiểu rõ hàng hoá là gì? - Hàng hoá là sản phẩm của lao động mà. Một là: nó có thể thoả mãn được nhu cầu nào đó của con người; Hai là: nó được sản xuất ra không phải để người sản xuất ra nó tiêu dùng mà là để bán. Vì vậy hàng hoá trước hết là một đối tượng bên ngoài, là một vật nhờ có thuộc tính của nó mà thoả mãn được bất cứ loại nhu cầu nào của con người. Dù nhu cầu đó là do dạ dày hay do ảo tưởng mà có, thì tính chất của những nhu cầu đó không làm cho vấn đề thay đổi gì cả. - Hàng hoá có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Trong đó giá trị sử dụng là thuộc tính tự nhiên còn giá trị là thuộc tính xã hội của hàng hoá, hai thuộc tính là hai mặt đối lập cùng tồn tại trong hàng hoá. + Giá trị sử dụng của hàng hoá: Đó là những công dụng khác nhau do thuộc tính tự nhiên của vật mang lại có thể thoả mãn một nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: cơm để ăn, áo để mặt, máy móc, thiết bị nguyên nhiên vật liệu để sản xuất… Hàng hoá phải có giá trị sử dụng nhưng không phải mọi vật có giá trị sử dụng lại là hàng hoá. Ví dụ: không khí, ánh sáng.. + Giá trị của hàng hoá: giá trị của hàng hoá là một phạm trù rất trìu tượng bởi vì nó là thuộc tính xã hội của hàng hoá và muốn hiểu được giá trị của hàng hoá chúng ta phải xuất phát từ việc nghiên cứu giá trị trao đổi. Khái niệm giá trị trao đổi: giá trị trao đổi đó là quan hệ tỷ lệ về lượng mà một giá trị sử dụng này được trao đổi với một giá trị sử dụng khác mà phương thức biểu hiện giá trị trao đổi có dạng. Ví dụ như: 1 rìu = 20kg thóc. a. Sự ra đời và phát triển của sản xuất hàng hoá: - Quá trình chuyển từ sản xuất tự cung tự cấp lên sản xuất hàng hoá. + Khái niệm sản xuất tự cung tự cấp: đó là một kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó sản phẩm của lao động làm ra để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của nội bộ của từng hộ gia đình, từng công xã hay từng cá nhân riêng lẻ. Sản xuất tự cung tự cấp hay còn được gọi là sản xuất tự túc tự cấp hoặc nền kinh tế tự nhiên. Đây là kiểu tổ chức khép kín tức là không có sự giao lưu với bên ngoài vì vậy nó thường gắn liền với sự bảo thủ, trì trệ, bị giới hạn bởi nhu cầu hạn hẹp, kỹ thuật thô sơ lạc hậu. Nền kinh tế tự nhiên tồn tại trong các giai đoạn phát triển thấp của xã hội: thời nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến. Nhưng ở nước ta hiện nay thì kinh tế tự nhiên vẫn còn tồn tại ở các vùng sâu, vùng xa, vùng núi phía bắc, tây nguyên,vùng đồng bào các dân tộc thiểu số. + Sự xuất hiện của sản xuất hàng hoá. Trong quá trình sản xuất công cụ dần dần được cải tiến, lực lượng sản xuất phát triển làm cho sản phẩm sản xuất ra được nhiều nhiều hơn điều đó dẫn tới việc trao đổi hàng hoá và dẫn tới sự ra đời của nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá là nền sản xuất trong đó người ta sản xuất ra những sản phẩm để mang ra trao đổi trên thị trường. Sản xuất hàng hoá được ra đời khi có đầy đủ 2 điều kiện sau: Phải có sự phân công lao động sản xuất: đó là việc mỗi người sản xuất hoặc mỗi ngành sản xuất chỉ chuyên môn sản xuất ra một loại sản phẩm nào đó cho nhu cầu của xã hội. Cho đến nay trong lịch sử đã diễn ra ba cuộc phân công lớn đó là: làm cho việc chăn nuôi ra khỏi trồng trọt, làm cho thủ công nghiệp tách ra khỏi nông nghiệp hình thành các ngành sản xuất độc lập như: rèn, gồm…, Dẫn tới làm xuất hiện ngành thương nghiệp. Sự phân công lao động dẫn tới kết quả là tạo nên sự phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất bởi vì mỗi người sản xuất chỉ làm ra một loại sản phẩm nhất định nhưng trong đời sống của người đó phải cần đến nhiều loại sản phẩm vì vậy họ có nhu cầu cần trao đổi sản phẩm của mình với sản phẩm của những người khác. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Tức là tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu của từng cá nhân và vì vậy người ta có quyền chi phối đối với sản phẩm làm ra. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất đã làm cho những ngành sản xuất trở thành độc lập với nhau trong điều kiện đó để thoả mãn các nhu cầu khác của mình thì người sản xuất có quyền sử dụng sản phẩm của mình để trao đổi với các sản phẩm khác. Hai điều kiện trên làm cho những người sản xuất vừa phụ thuộc lẫn nhau và vừa độc lập đối với nhau. Đây là một quan hệ mang tính thuẫn và để giải quyết mâu thuẫn này người ta phải tiến hành trao đổi hàng hoá. Vì vậy muốn có sản xuất hàng hoá phải có đầy đủ cả hai điều kiện nêu trên. - Ưu thế của sản xuất hàng hoá. + Sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động ngày càng phát triển. Làm cho trình độ chuyên môn hoá, hợp tác hoá ngày càng nâng cao. Thiết lập mối liên hệ giữa các ngành, các vùng, các đơn vị sản xuất như vậy nó sẽ xoá bỏ được tính tự túc tự cấp sự bảo thủ trì trệ và góp phần vào việc đẩy mạnh quá trình sản xuất hàng hoá. + Sản xuất hàng hoá buộc những người sản xuất phải cạnh tranh trên thị trường bằng cách phải cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất để hạ giá thành. Nâng cao chất lượng hàng hoá. Những việc làm đó có tác dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hoá càng phát triển quy mô của nó càng lớn thì hiệu quả kinh tế của nó đối với xã hội càng lớn và ưu thế của nó so với sản xuất nhỏ cũng tăng lên. + Sản xuất hàng hoá góp phần vào việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất mở rộng giao lưu kinh tế trong nước và nước ngoài, hoà nhập vào kinh tế thế giới. Với những tác dụng kể trên hiện nay trên thế giới có nhiều nước (trong đó có nước ta) tập trung vào phát triển kinh tế hàng hoá. b. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ nói chung và ở Việt Nam - Ở Anh, Đức kinh tế hàng hoá xuất hiện từ cuối chế độ cộng sản nguyên thuỷ và phát triển tới ngày nay. Ở mỗi nước tính chất và phạm vi của kinh tế hàng hoá có mức độ khác nhau. Hiện nay hầu hết trên thế giới các nước đều thực hiện kinh tế hàng hoá đó là mô hình kinh tế mà giai đoạn phát triển cao là kinh tế thị trường. - Nền kinh tế đa và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Công nghệ mới, trình độ quản lý nhằm tạo cơ sở để phát triển hàng hoá. Trong thời kỳ quá độ từ TBCN lên XHCN, xét về mặt sở hữu đó là quá trình chuyển từ sở hữu tư nhân về TLSX lên sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất. Cho nên trong nền kinh tế sẽ tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Do vậy ứng với nó là nền kinh tế nhiều thành phần do đặc điểm của thời kỳ quá độ: đặc điểm nổi bật nhất của nền kinh tế là sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần và ứng với nó là một xã hội có nhiều giai cấp. + Thành phần kinh tế: đó là những tổng thể kinh tế bao gồm những cơ sở về nền kinh tế với những quan hệ kinh tế có những đặc trưng nhất định và những quan hệ kinh tế này là do chế độ sở hữu TLSX quyết định. Khi cách mạng vô sản thành công thì chúng ta phải cải tạo nền kinh tế dựa trên chế độ tư hữu. Bao gồm hai loại chính sau: Tư bản lớn: Nguyên tắc cải tạo: phải quốc hữu hoá các tư liệu sản xuất và phải tiến hành qua nhiều giai đoạn trong 1 thời gian dài, tiến hành bằng nhiều biện pháp thích hợp. Vì vậy trong thời kỳ quá độ vẫn tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân và người ta hướng thành phần này theo con đường CNTB nhà nước. Tư hữu nhỏ: là tư hữu của những người sản xuất cá thể, những người sản xuất hàng hoá nhỏ. Với loại này về nguyên tắc thì không tịch thu các TLSX của họ mà cải tạo họ một cách dần dần thông qua công cuộc hợp tác hoá. Vì vậy trong thời kỳ quá độ tồn tại nền kinh tế hợp tác xã. Hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: hiện đại có, thô sơ có, nửa cơ khí có. Vì vậy việc thiết lập quan hệ sở hữu đối với TLSX cũng phải đa dạng do đó ở nước ta còn nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình xây dựng nên kinh tế mới thì có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước. + Cơ cấu thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Theo tư tưởng của Lênin và căn cứ vào điều kiện kinh tế của nước ta, tại Đại hội VIII của Đảng thì ở nước ta đang tồn tại 5 thành phần kinh tế: Thành phần kinh tế nhà nước (kinh tế quốc doanh) Thành phần kinh tế hợp tác xã Thành phần kinh tế tư bản nhà nước Thành phần kinh tế cá thể và tiểu thủ Thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Vai trò và tác dụng: trong thời kỳ quá độ ở nước ta thành phần này giữ vai trò là những hình thức kinh tế giữ sinh ra để chuyển biến từ những thành phần kinh tế phi XHCN thành thành phần kinh tế XHCN: nó tạo thêm công ăn việc làm, làm tăng thêm sản phẩm xã hội và nó là điều kiện để chúng ta tiếp xúc với công nghệ mới, cách thức quản lý mới và qua đây ta hoà nhập được với thế giới. II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN PHẢI PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƯỚC TA Nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại và phát triển ở nước ta là tất yếu khách quan bởi vì: nền kinh tế nhiều thành phần là một cái tồn tại khách quan của lịch sử và trong thời kỳ quá độ thì có những thành phần kinh tế vẫn có lợi cho sự phát triển đất nước: kinh tế cá thể. Phát triển như vậy nhằm thực hiện nhu cầu của quy luật mà là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và sự phát triển của lực lượng sản xuất. Phát triển kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là nhằm cho sản xuất phát triển liên tục không bị gián đoạn. Phát triển như vậy là nhằm tạo ra sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong cơ chế thị trường hiện nay 1. Do yêu cầu của việc phát triển lực lượng sản xuất và thực chất của nó là chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn (XHCN) Về phương diện kinh tế, có thể khái quát rằng lịch sử phát triển sản xuất và đời sống xã hội của nhân loại đã và đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội, hai thời đại kinh tế khác hẳn nhau về chất. Đó là thời đại kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp; và thời đại kinh tế hàng hoá. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội đầu tiên của nhân loại. Đó là phương thức sinh hoạt kinh tế ở trình độ thấp ban đầu là sử dụng những tặng vật của tự nhiên và sau đó được thực hiện thông qua những tác động trực tiếp vào tự nhiên để tạo ra những giá trị sử dụng trong việc duy trì của con người. Nó được bó hẹp trong mỗi quan hệ tuần hoàn khép kín giữa con người và tự nhiên. kinh tế tự nhiên lấy quan hệ trực tiếp giữa con người và tự nhiên mà tiêu biểu là giữa lao động và đất đai làm nền tảng. Hoạt động kinh tế đó gắn liền với xã hội sinh tồn, với kinh tế nông nghiệp, tự cung, tự cấp. Nó đã tồn tại và thống trị trong các xã hội: Cộng sản nguyên thuỷ, nô lệ, phong kiến và tuy không còn giữ địa vị kinh tế. Kinh tế tự nhiên, hiện vật,sinh tồn, tự cung, tự cấp, gắn liền với kém phát triển và lạc hậu. Kinh tế hàng hoá bắt đầu bằng kinh tế hàng hoá đơn giản, ra đời từ khi chế độ công sản nguyên thuỷ, dựa trên hai tiền đề cơ bản đó là có sự phân công lao động xã hội và có sự tách biệt về kinh tế do chế độ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự cung, tự cấp sang kinh tế hàng hoá là đánh dấu bước phát triển rất lớn của lực lượng sản xuất, bước chuyển sang thời đại kinh tế của sự phát triển, thời đại văn minh của nhân loại. Sự ra đời và phát triển của kinh tế hàng hoá là quá trình kinh tế khách quan. Nó bắt đầu khi kinh tế tự nhiên phát triển với trình độ làm xuất hiện những tiền đề của kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử những quan hệ hiện vật, tự nhiên và quan hệ hàng hoá tồn tại đan xen và mâu thuẫn với nhau. Sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá cũng chính là sự xuất hiện tiền đề phủ định kinh tế tự nhiên và khẳng định kinh tế hàng hoá. Mỗi bước phát triển của kinh tế hàng hoá là một bước đẩy lùi kinh tế tự nhiên. Như vậy, trong quá trình vận động và phát triển kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên như vậy trong quá trình vận động và phát triển, kinh tế hàng hoá đã phủ định dần kinh tế tự nhiên và khẳng định mình là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội độc lập. Quá trình xuất hiện, vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra với sự tác động mạnh mẽ của những tiền đề sau: phân công lao động xã hội, sự độc lập tương đối về kinh tế giữa mọi người, lưu thông hàng hoá và lưu thông tiền tệ, hệ thống thông tin và giao thông vận tải. 2. Do nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Nền kinh tế nước ta trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI gắn liền với việc thực thi chính sách công cộng hoá, hiện vật hoá trong cơ chế quản lý hành chính tập trung. Cùng với thời gian, tính chất và cơ chế quản lý đó ngày càng bộc lộ thêm nhiều khuyếm khuyết. Vì vậy, đến Đại hội VII, quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần được thực hiện trên thực tế trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế đổi mới. Đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tất yếu đưa đến sự cấu trúc lại nền kinh tế, từng bước chuyển nền kinh tế thuần khiết chủ yếu với hai thành phần kinh tế là nhà nước và tập thể sang nền kinh tế thị trường hỗn hợp gồm nhiều thành phần, nhiều khu vực kinh tế và nhiều hình thức sở hữu tồn tại đan xen lẫn nhau. Sở dĩ nước ta hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế vì: hiện nay ở nước ta còn tồn tại nhiều trình độ phát triển của lực lượng sản xuất: hiện đại có, thô sơ có, nửa cơ khí có vì vậy việc thiết lập quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất cũng phải đa dạng do đó ở nước ta còn nhiều thành phần kinh tế. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế mới thì có thể xuất hiện thêm một số thành phần kinh tế khác: kinh tế nhà nước, kinh tế tư bản nhà nước. Ở nước ta hiện nay, quan hệ, hình thức, quy mô sở hữu đối với tư liệu sản xuất luôn là căn cứ cho việc phân định các thành phần kinh tế khác nhau. Ở dạng tổng quát nhất, có thể nói rằng trong nền kinh tế nước ta đang tồn tại 3 hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu nhà nước (toàn dân), sở hữu tư nhân và sở hữu hỗn hợp (gồm giữa nhà nước với nước ngoài, giữa nhà nước với tư nhân nước ngoài và trong nước, giữa nhà nước và tư nhân trong nước, giữa tư nhân với tư nhân, giữa nhà nước với tư nhân và người lao động..). Từ ba hình thức sở hữu tư bản đó đã hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và những loại hình doanh nghiệp đa dạng và phong phú. 3. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta nó đòi hỏi phải nâng cao đời sống nhân dân Mặc dù nền kinh tế nước ta đang nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển nhưng khi nước ta chuyển sang phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường thì thế giới đã chuyển sang giai đoạn kinh tế thị trường hiện đại. Bởi vậy chúng ta không thể và không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường tự do mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị trường hiện đại. Đây là nội dung và sự yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt khác thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, cho nên sự phát triển kinh tế xã hội nước ta phải theo định hướng XHCN là cần thiết, khách quan và cũng là nội dung, yêu cầu của sự rút ngắn. Sự nghiệp "dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh" vừa là mục tiêu, vừa là nội dung nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo đinh hướng XHCN ở nước ta. Đảng và nhà nước khuyến khích mọi người dân trong xã hội làm giầu một cách hợp pháp. Dân có giầu thì nước mới mạnh, nhưng dân giầu phải làm cho nước mạnh, đảm bảo độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia. Nhà nước ta quản lý nên kinh tế là nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân do dân và vì dân. Thành tố quan trọng mang tính quyết định trong nền kinh tế hàng hoá vận hành trong nền kinh tế thị trường hiện đại là nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác với nhà nước của nhiều nền kinh tế trên thế giới, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân và vì dân, nhà nước công nông. Nhà nước của đại đa số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bàn lĩnh, khả năng và đang đổi mới để bảo đảm và giữ vững định hướng XHCN trong việc phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một tiền đề cho sự khác biệt về mô hình kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mô hình kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới. Mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là một nội dung quan trọng của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta. Quá trình phát triển của nó đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở phát triển của kinh tế thị trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội. Tiến trình xã hội hoá trên cơ sở của phát triển nền kinh tế thị trường là không có biên giới quốc gia về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng quan trọng của kinh tế thị trường hiện đại là việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu vực hoá và toàn cầu hoá đang ngày càng phát triển và trở thành xu thế tất yếu trong thời đại của cuộc cách mạnh khoa học và công nghệ hiện nay. Tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không muốn phải ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội, tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện đại. Việt Nam không thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong trạng thái tự cung, tự cấp mà phải mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập được thực hiện trên 3 nội dung chính là: thương mại, đầu tư và chuyển giao khoa học công nghệ. Tuy nhiên, sự mở cửa hội nhập không có nghĩa là sự hoà tan, đánh mất mình mà phải trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. III. NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN KINH TẾ HÀNG HOÁ VIỆT NAM 1. Nội dung của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa - Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta . Về mặt lịch sử giai đoạn này được bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là nghị quyết hội nghị BCH trưng ương lần thứ VI ( khoá VI ) tháng 9 năm 1979. Về mặt logic, giai đoạn này bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ, vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là khắc phục tính hiện vật của quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường . Nội dung trên được thực hiện với những giải pháp chủ yếu sau: Một là, hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ. Cả về lý luận và thực tiễn đều cho thấy không thể có được nền kinh tế hàng hoá nếu như không có đơn vị sản xuất hàng hoá. Những tưởng kinh tế quan trọng của hội nghị TW VI (khoá VI) có liên quan tới giải pháp trên là: Thừa nhận thành phần kinh tế tư nhân và thị trường tự do là bộ phận của nền kinh tế quốc dân và của thị trường xã hội . Bảo đảm quyền tự chủ về tài chính cho các cơ sở kinh tế. Nhà nước để những cơ sở này được chủ động phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhấn mạnh lợi ích cá nhân người lao động và lợi ích của các đơn vị sản xuất cơ sở. Bãi bỏ chế độ giao nộp nông sản đối với nông dân, chuyển sang chế độ thu mua nông sản theo hợp đồng 2 chiều. Thực hiện nghị quyết hội nghị Trung ương VI sản xuất được bung ra kể cả sản xuất của quốc doanh, tập thể, tư nhân. Tuy nhiên trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá vẫn chưa có những thay đổi đáng kể. Hai là: Đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm mở rộng thị trường Ba là: chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Bốn là đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang. - Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN: Đại hội VI của đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan điểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta quan điểm này được tái khảng định rõ hơn ở đại hội lần thứ VII và lần thứ VIII của đảng ta. Nội dung chủ yếu của giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta là: Phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ tạo tiền đề cho kinh tế hàng hoá phát triển. Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN: Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoá các quan hệ kinh tế tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập vớ kinh tế thế giới. Nội dung này được thực hiện với những giải pháp then chốt sau đây: Một là, phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân. đây là giải pháp có tính thời đại. Cần lựa chọn các dự án đầu tư nước ngoài trên các mặt: kinh tế, môi trường, công nghệ theo hướng bảo đảm lợi thế so sánh và chủ quyền của nước ta. Hai là, hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, về sức lao động và các điều kiện vật chất khác cho sản xuất; Cần tạo các điều kiện để tăng nhanh tính cơ động của các nguồn nhân lực. Nhà nước chủ động điều tiết và kiểm soát các nguồn nhân lực thông qua kế hoạch đào tạo và các quy chế về tiền lương, về thuế thu nhập và luật lao động. Cần hình thành nhanh chóng thị trường tiền vốn. Ba là, lựa chọn chính sách khoa học công nghệ vì mục tiêu phát triển. Cần quan niệm khoa học và công nghệ là biến số có ý nghĩa chiến lược của sự phát triển. Tiêu chuẩn quan trọng để lựa chọn cơ cấu công nghệ là phù tính phù hợp và tính hiệu quả. Hướng công nghệ được lựa chọn ở tầm quốc gia là công nghệ điện tử, tin học, công nghệ sinh học và gia công vật liệu …. Hướng công nghệ này sẽ khắc phục sự khan hiếm các nguồn lực và đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu trong đó lao động trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. 2. Các giải pháp cụ thể Để thực hiện được nội dung nói trên, chúng ta đã và đang thực hiện những giải pháp chủ yếu dưới đây: Một là : chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Yêu cầu của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là: Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần tăng trưởng và phát triển, bảo đảm sự ổn định của hệ thống kinh tế quốc dân cũng như sự ổn định về mặt chính trị xã hội, bảo đảm công bằng xã hội và sự vững bền của môi trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải bảo đảm sự phát triển, tăng trưởng đồng bộ và cân đối, tạo điều kiện thúc đẩy những ngành trọng điểm mũi nhọn nhằm tạo ra tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải dẫn tới sự giải phóng sức sản xuất xã hội, khai thác có hiệu quả những tiềm năng của đất nước, thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải đáp ứng tối đa nhu cầu của thị trường trong và ngoài nước, đồng thời hạn chế sự phát triển tự phát dẫn theo lợi nhuận trước mắt phá huỷ môi trường sinh thái trong quá trình kinh doanh. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải tạo điều kiện thực hiện nền kinh tế mở, tranh thủ những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ hiện đại nhằm đưa lại năng xuất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Để bảo đảm thực hiện những yêu cầu nói trên, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã được thực hiện cả về cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu kinh tế hướng ngoại. Hai là chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường, đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường. Trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá được phản ánh qua trình độ phát triển của các quan hệ thị trường. Sự phát triển của thị trường lại thúc đẩy hàng hoá phát triển hơn. Thị trường vừa là điều kiện, vừa là môi trường của sản xuất. Một mặt nó cung cấp các yếu tố cho sản xuất, mặt khác nó tiêu thụ những sản phẩm do sản xuất tạo ra. Do vậy thị trường thúc đẩy quá trình tái sản xuất. Hiện nay ở thị trường đầu ra của sản xuất, khả năng cạnh tranh của hàng nội địa còn kém. Vì vậy cần chú ý giải quyết 2 vấn đề: nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và phấn đấu giảm giá cả hàng hoá. Từ đó tăng khả năng cạnh tranh của hàng nội địa. Ở thị trường đầu vào của sản xuất, cần hình thành nhanh chóng thị trường tiền vốn và thị trường sức lao động. Ba là hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân tạo lập sự ổn định tiền tệ, về giá cả và tỷ giá hối đoái, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ chế thị trường. Bốn là bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lí kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Giải pháp này có liên quan đến nhân tố con người, động lực của sự phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo và nâng cao dân trí với việc coi trọng chất lượng nhằm đào tạo nhân tài. Việc đào tạo những cán bộ quản lí kinh doanh không chỉ chú ý đáp ứng những nhu cầu của khu vực kinh tế nhà nước, mà còn phải quan tâm tới khu vực ngoài quốc doanh cũng như kinh tế nông thôn và miền núi. Năm là, tăng cường vai trò quản lí của nhà nước nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường. Xây dựng nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh việc cải cách, hoàn chỉnh, giảm bớt thủ tục trong kinh doanh. C. KẾT LUẬN Tóm lại phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN và giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Hôi nghị lần thứ VI ban chấp hành trung ương khoá VI đảng đã xác định rõ: Chính sách kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài có tính quy luật từ sản xuất nhỏ đi lên CNXH. Tới Đại hội toàn quốc lần thứ VII qua thực tiễn 5 năm đổi mới đảng ta khảng định: Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Đảng và nhà nước ta coi đó là một phương hướng quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc. để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn thì nước ta phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN đây là điều tất yếu khách quan đối với mọi quốc gia nếu như muốn đưa nền kinh tế tiến lên. Để thực hiện điều đó đảng đã phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân để phát triển lực lượng sản xuất, đưa nước ta thành nước công nghiệp hiện đại. Vì vậy phải phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo đinh hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn ở nước ta hiện nay. Ý nghĩa: Từ sự nhận thức về sự tồn tại khách quan có nhiều hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế. Để từ đó có chính sách phù hợp khuyến khích sản xuất hàng hoá tạo môi trường cho các thành phần kinh tế phát triển lành mạnh. Phải biết khai thác thế mạnh của sản xuất hàng hoá và các thành phần kinh tế để giải phóng sức sản xuất, tăng NSLĐ tạo nhiều sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm. Nhà nước có chính sách đúng đắn để quản lý các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, thấy được xu hướng phát triển, yếu điểm của từng thành phần để hạn chế ngăn chặn các tiêu cực trong xã hội. Quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. ở nước ta phải là quá trình thực hiện dân giầu nước mạnh, tiến lên hiện đại hoá trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hoá, có kỷ cương, xoá bỏ áp bức bất công, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình kinh tế chính trị học Mác Lênin. NXB Chính trị Quốc gia 1999 Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII Tư bản quyển I, Tập I Lênin toàn tập. NXB Tiến bộ Maxitcơva – 1978 Giáo trình kinh tế chính trị Mác –Lênin Đại học kinh tế quốc dân NXB Giáo dục 1998, tập I, tập II Tạp chí phát triển kinh tế Nghiên cứu – trao đổi Thương mại Tạp chí Cộng sản Thông tin lí luận Thông tin khoa học xã hội MỤC LỤC ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37348.doc
Tài liệu liên quan