Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

Tài liệu Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên: ... Ebook Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên

doc116 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hợp tác xã (HTX) là tổ chức kinh tế tập thể có vai trò đặc biệt quan trọng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, chuyển nền kinh tế sang hoạt động theo cơ chế thị trường, HTX cũng được đổi mới cả về nội dung, hình thức hoạt động, biểu hiện cụ thể ở việc ban hành Luật HTX (năm 1996). Tuy nhiên, trong thực tế hoạt động theo mô hình HTX kiểu mới của các HTX nông nghiệp vấp phải rất nhiều khó khăn làm cho hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp. Tổng kết 5 năm thực hiện chuyển đổi HTX theo Luật HTX (1996), Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (3/2002) đã ra Nghị quyết về : Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT), trong đó nhấn mạnh Nhà nước phải tạo điều kiện thuận lợi cho HTX nông nghiệp phát triển. Trên cơ sở Nghị quyết của Đảng và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI (ngày 26/11/2003) đã thông qua Luật HTX mới (Luật HTX năm 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004). Đã hơn 2 năm trôi qua mà tinh thần của Luật HTX năm 2003 vẫn chưa được phát huy mạnh mẽ trong thực tiễn. Điều đó cho thấy, để phát triển HTX, trong đó có HTX nông nghiệp, cần tiếp tục nghiên cứu, đổi mới chính sách. Tỉnh Phú Yên nói chung, địa bàn Tuy Hòa nói riêng, là vùng có nền kinh tế nông nghiệp tương đối phát triển ở đồng bằng duyên hải miền Trung, có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Để giúp nông dân khai thác triệt để tiềm năng ấy, cần phát triển HTX trong nông nghiệp. Từ khi triển khai thực hiện Luật HTX năm 1996 và năm 2003 đến nay, HTX nông nghiệp ở Tuy Hòa có bước phát triển mới, đã đáp ứng được một phần nhu cầu của nông dân, của hộ sản xuất-kinh doanh nông nghiệp, đóng góp quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế-xã hội của địa bàn. Tuy nhiên, HTX nông nghiệp ở Tuy hòa cũng còn tồn tại một số yếu kém như: một số HTX chuyển đổi còn mang tính hình thức, năng lực nội tại của HTX còn hạn chế, số HTX làm ăn hiệu quả còn ít, lợi ích đem lại cho các xã viên chưa nhiều, HTX nông nghiệp phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và vai trò kinh tế-xã hội vốn có của nó… Những hạn chế yếu kém của HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân về phía Nhà nước. Để phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa phù hợp với nhu cầu và tiềm năng, cần khắc phục những nguyên nhân đó. Với những lý do nêu trên, “Phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên” được tác giả chọn làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề tài Đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả HTX nông nghiệp là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước quan tâm. Trong suốt quá trình cách mạng XHCN ở nước ta, vấn đề HTX nông nghiệp là chủ đề được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc độ, phạm vi và mức độ khác nhau. Có thể nêu một số công trình tiêu biểu như: - Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã, “Đổi mới tổ chức và quản lý HTX trong nông nghiệp nông thôn”, Nxb Nông nghiệp, 1999. Các tác giả đã khái quát tòan bộ quá trình phát triển của các hình thức tổ chức, quản lý các HTX trong nông thôn Việt Nam từ trước đến khi chuyển sang kinh tế thị trường và phân tích thực trạng mô hình tổ chức quản lý các HTX ở một số địa phương tiêu biểu. Trên cơ sở đó phác họa một số phương hướng và giải pháp chủ yếu để xây dựng mô hình tổ chức có hiệu quả cho các loại hình HTX. - Nguyễn Văn Bình, Chu Tiến Quang, Lưu Văn Sùng, “ Kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở Việt Nam- Thực trạng và định hướng phát triển”, Nxb Nông nghiệp, 2001. Các tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển các lọai hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã trên thế giới và ở Việt Nam với những thành công và tồn tại, từ đó nêu lên định hướng phát triển phù hợp đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta. - Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ, “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp nước ta hiện nay”, Nxb Chính trị quốc gia, 2003. Các tác giả tập trung trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn về kinh tế hợp tác, HTX; sự cần thiết khách quan phải lựa chọn các mô hình kinh tế hợp tác, HTX phù hợp với đặc điểm, điều kiện nông nghiệp, nông thôn nước ta, đề xuất những giải pháp phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, HTX trong nông nghiệp, nông thôn Việt Nam hiện nay. - Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả Trần Minh Tâm, năm 2000, về “ Phát triển kinh tế hợp tác ở ngọai thành thành phố Hồ Chí Minh - Thực trạng và giải pháp”. Tác giả nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động của kinh tế hợp tác xã ở thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất các giải pháp phát triển. - Luận văn thạc sĩ kinh tế của tác giả Lê Thùy Hương, năm 2003, về “ Kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương, thực trạng và giải pháp”. Tác giả trình bày vai trò, tính tất yếu khách quan của việc phát triển kinh tế tập thể; đánh giá thực trạng và giải pháp phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Hải Dương. - PGS.TS. Vũ Văn Phúc, “Về chế độ kinh tế hợp tác xã ở nước ta”; Tạp chí Lý luận chính trị, số 1/2002. Nguyễn Văn Tuất, “ Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long- Nhìn từ thực tiễn”; Tạp chí Khoa học về chính trị, 2002, số 3. Một số bài viết của các tác giả như: Trần Ngọc Dũng, Mai Công Hòa, Hoàng Việt… Nhìn chung, các công trình kể trên đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của hợp tác xã nông nghiệp; trong đó, các công trình nghiên cứu trước năm 2001 chủ yếu đi vào làm rõ những yếu kém của mô hình hợp tác xã kiểu cũ, luận giải sự cần thiết, thực trạng chuyển đổi mô hình HTX theo Luật HTX (1996); các công trình nghiên cứu sau năm 2001, nghiêng về nghiên cứu sự phát triển của kinh tế tập thể theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX. Cho đến nay chưa có đề tài nghiên cứu cụ thể về HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn Mục đích của luận văn là vận dụng lý luận HTX nông nghiệp để khảo sát, đánh giá hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên từ năm 1997 dến nay và đề xuất một số phương hướng, giải pháp tiếp tục phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa trong thời gian tới. Phù hợp với mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Khái quát các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về HTX nông nghiệp kiểu mới theo Luật HTX năm 2003 và Nghị quyết Hội nghị TW 5 (khóa IX). - Phân tích thực trạng hoạt động của HTX nông nghiệp kiểu mới ở địa bàn Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên từ 1997 đến nay. - Đề xuất phương hướng, giải pháp phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa-Phú Yên trong thời gian tới. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Thời gian nghiên cứu giới hạn từ năm 1997 đến 2010. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần với đề tài. - Về phương pháp nghiên cứu; vận dụng phương pháp chung như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát vấn đề. 6. Dự kiến đóng góp của luận văn - Phân tích có phê phán cơ sở lý thuyết của mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới ở nước ta. - Phác họa bức tranh nhiều chiều về HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa, Phú Yên. - Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát triển mạnh hơn nữa HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa, Phú Yên trong thời gian tới. 7. Kết cấu của uận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8 tiết. Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI Ở NƯỚC TA 1.1. HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI THEO TINH THẦN LUẬT PHÁP VIỆT NAM 1.1.1. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp 1.1.1.1. Khái niệm hợp tác xã và phân loại hợp tác xã theo luật pháp Việt Nam * Khái niệm HTX ở một số nước: HTX là một loại hình kinh tế hợp tác, là một tổ chức kinh tế có đặc thù riêng. Ở nhiều nước trên thế giới, hợp tác xã đã hình thành và phát triển hơn 100 năm. Trong Luật hợp tác xã của các nước đều đưa ra định nghĩa về hợp tác xã. Luật Hợp tác xã của CHLB Đức định nghĩa: “ Hợp tác xã đăng ký là những tập thể với đa số thành viên không hạn chế nhằm khuyến khích việc sản xuất, kinh doanh của các thành viên, thông qua các cơ sở sản xuất, kinh doanh chung”. Luật Hợp tác xã của INĐÔNÊXIA định nghĩa: “Hợp tác xã INĐÔNÊXIA là tổ chức kinh tế của nhân dân mang tính xã hội, gồm những người hoặc những tổ chức ở địa phương và thành viên lập nên một hệ thống kinh tế như là nỗ lực chung đặt trên cơ sở nguyên tắc của tình anh em”. Luật Hơp tác xã của PHILIPPIN định nghĩa: “Hợp tác xã là sự hiểu biết của những người có cam kết chung và tập hợp nhau lại một cách tự nguyện để đạt được mục đích xã hội hoặc kinh tế chung, có sự đóng góp công bằng vào vốn và chấp nhận phần đóng hợp lý vào các công việc và phần lợi ích của việc kinh doanh theo nguyên tắc hợp tác xã đã được chấp nhận chung”. Các nước: Thụy Điển, Canađa quan niệm HTX là một tập hợp gồm những người có nhu cầu chung về kinh tế và xã hội để thành lập một doanh nghiệp phù hợp với các nguyên tắc hoạt động của HTX, nhằm đáp ứng nhu cầu của họ. Như vậy, HTX là một tổ chức doanh nghiệp khác về cơ bản với công ty cổ phần. Đặc trưng của HTX là thông qua hoạt động kinh doanh để liên kết các thành viên với nhau và hạn chế phân chia lợi nhuận theo cổ phần đã đóng. Từ những định nghĩa hợp tác xã nêu trên, có thể hiểu hợp tác xã là một tổ chức kinh tế của những cá nhân, tập thể tự nguyện liên kết với nhau nhằm mục đích chung, thoả mãn nhu cầu chung, nhằm hổ trợ, giúp đỡ lẫn nhau tiến hành công việc kinh doanh có hiệu quả nhất theo nguyên tắc liên kết tự nguyện. * Khái niệm Hợp tác xã ở Việt Nam: Luật Hợp tác xã (năm 1996) đã nêu định nghĩa về Hợp tác xã: Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ do những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và cải thiện đời sống, góp phần phát triển kinh tế xã hội của đất nước [36, tr.8]. Theo định nghĩa này, HTX là một tổ chức kinh tế có tổ chức chặt chẽ, có tư cách pháp nhân, được đăng ký kinh doanh theo qui định của luật pháp. Vì vậy, mục tiêu của HTX trước hết là phải kinh doanh có hiệu quả, trên cơ sở đó mà thực hiện các mục tiêu xã hội, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các xã viên. HTX cũng là phương tiện để kết hợp sức mạnh của từng xã viên và sức mạnh của cả tập thể, thông qua kết quả kinh doanh của HTX mà cải thiện đời sống của xã viên và góp phần phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Để phù hợp với Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX và thực tiễn hoạt động của HTX kiểu mới, Luật HTX (năm 2003) đã đưa ra khái niệm HTX: HTX là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân (sau đây gọi chung là xã viên) có nhu cầu, lợi ích chung, tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của Luật này để phát huy sức mạnh tập thể của từng xã viên tham gia HTX, cùng giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. HTX hoạt động như một loại hình doanh nghiệp, có tư cách pháp nhân, tự chủ, tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vị vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác của HTX theo qui định của pháp luật [12, tr.7-8]. Theo khái niệm này, ngoài những tính chất và đặc thù do Luật HTX (năm 1996) qui định, HTX kiểu mới do các thành viên bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, cả người có ít vốn và người có nhiều vốn, có thể góp sức hoặc góp vốn xây dựng nên, trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc: tự nguyện, bình đẳng cùng có lợi và quản lý dân chủ. HTX được thừa nhận hoạt động theo điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường như các thành phần kinh tế khác; được khẳng định quyền “tự chủ” trong sản xuất kinh doanh; được huy động “các nguồn vốn khác theo qui định của pháp luật” như các loại hình doanh nghiệp khác. Trước đây, luật không qui định điều này. Theo định nghĩa này, HTX được vay vốn bình đẳng như đối với doanh nghiệp của các thành phần kinh tế khác, các HTX được thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay để vay vốn ngân hàng, được vay vốn bằng tín chấp và vay theo dự án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, các HTX được tham gia các chương trình dự án quốc gia của Chính phủ và các tổ chức phi chính phủ. Ngân hàng Nhà nước phải có hướng dẫn chỉ đạo chặt chẽ đối với các hoạt động tín dụng trong nội bộ HTX; khuyến kích phát triển quỹ tín dụng nhân dân một cách vững chắc. Đây là tư tưởng đối mới của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế hợp tác và HTX phát triển. * Phân loại HTX: Từ các tiêu thức phân loại khác nhau đã hình thành nhiều loại hình HTX với những đặc điểm và nội dung hoạt động, cơ cấu tổ chức, vai trò tác dụng và tên gọi khác nhau tương ứng với những điều kiện cụ thể của từng loại hình HTX. Ở nhiều nước, người ta thường phân loại HTX theo mục đích, chức năng hoạt động, theo đặc điểm về qui mô, tính chất và hình thức pháp lý. Có một số nước việc xác định các loại hình HTX được nêu ngay trong Luật HTX như: Luật HTX của Philippin, Inđônêxia, Thái Lan, Cộng hòa Liên bang Đức.… Thông thường, có các loại hình HTX: HTX tín dụng; ngân hàng; HTX sản xuất; HTX mua- bán; HTX đa chức năng; HTX dịch vụ; HTX sản xuất tập trung; HTX cấp I; cấp II; cấp III; HTX trách nhiệm hữu hạn; HTX trách nhiệm vô hạn v.v… Trong tác phẩm: Đường Cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sử dụng tên gọi các loại hình HTX: “HTX tiền bạc” (tín dụng, ngân hàng); “HTX sinh sản” (sản xuất); HTX mua- bán. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, để phân loại HTX, thường căn cứ vào chức năng hoạt động, tính chất trình độ xã hội hóa, qui mô và đặc điểm hình thành HTX. - HTX dịch vụ: bao gồm 3 loại: HTX dịch vụ từng khâu, HTX dịch vụ tổng hợp đa chức năng và HTX dịch vụ “đơn mục đích” hay HTX dịch vụ “chuyên ngành”. + HTX dịch vụ từng khâu còn gọi là HTX chuyên khâu có nội dung hoạt động tập trung ở từng lĩnh vực trong quá trình tái sản xuất hoặc từng khâu công việc trong quá trình sản xuất và phục vụ cho sản xuất. + HTX dịch vụ tổng hợp- đa chức năng có nội dung hoạt động đa dạng, gồm nhiều khâu dịch vụ cho sản xuất, cung ứng vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm (đầu ra), dịch vụ giống, phòng trừ sâu bệnh, tưới tiêu,v.v… + Hợp tác xã dịch vụ “ đơn mục đích” hay hợp tác xã dịch vụ “chuyên ngành”. Hợp tác xã loại này được hình thành từ nhu cầu của các hộ thành viên cùng sản xuất – kinh doanh một loại hàng hóa tập trung hoặc cùng làm một nghề giống nhau (HTX trồng rừng, HTX trồng mía, HTX trồng chè.v.v…). Hợp tác xã thực hiện các khâu dịch vụ của kinh tế hộ như chọn giống, cung ứng vật tư, trao đổi hướng dẫn kỹ thuật, dịch vụ vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, đại diện các hộ thành viên quan hệ với cơ sở chế biến, ngân hàng.v.v… - Hợp tác xã sản xuất kết hợp dịch vụ. Hợp tác xã loại này có đặc điểm: nội dung hoạt động sản xuất là chủ yếu, dịch vụ là kết hợp. - Hợp tác xã sản xuất-kinh doanh ở mức độ hợp tác toàn diện. Đặc điểm cơ bản của mô hình hợp tác xã lọai này là: cơ cấu tổ chức, nội dung hoạt động, bộ máy quản lý và chế độ hạch toán, kiểm kê, kiểm soát, phân phối theo nguyên tắc của Hợp tác xã kiểu mới và tương tự một “ doanh nghiệp” tập thể. + Sở hữu tài sản trong hợp tác xã gồm hai phần: sở hữu tập thể và sở hữu cổ phần. Xã viên hợp tác xã tham gia lao động trong hợp tác xã được hưởng thu nhập theo nguyên tắc phân phối theo lao động và hưởng lãi cổ phần (ngoài phúc lợi tập thể của HTX). + Hợp tác xã hoạt động sản xuất- kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận nhằm phát triển kinh tế hợp tác xã và đem lại lợi ích cho xã viên. + Hợp tác xã lọai này thích hợp với lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp xây dựng, khai thác, sản xuất vật liệu xây dựng, nuôi trồng thủy sản, nghề làm muối, đánh cá [4, tr. 24, 30]. 1.1.1.2. Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp. Các lọai hình hợp tác xã nông nghiệp * Khái niệm hợp tác xã nông nghiệp Hợp tác xã nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự chủ do nông dân và những người lao động có nhu cầu, lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo quy định của pháp luật để phát huy sức mạnh tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ hỗ trợ cho kinh tế hộ gia đình các xã viên và kinh doanh trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản và các ngành-nghề khác; cải thiện đời sống xã viên; góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngoài những đặc điểm chung của HTX như: Xã viên liên kết với nhau vì ít nhất một lợi ích chung và theo đuổi mục tiêu cải thiện điều kiện kinh tế- xã hội của mình. Xã viên có cùng sở hữu và mục đích của HTX là sử dụng có hiệu quả vốn quỹ, phục vụ hoạt động kinh tế của xã viên. Lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất của HTX. HTX nông nghiệp còn có những đặc điểm: Là một tổ chức kinh tế tập hợp đông đảo nông dân, những người thường thiếu vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật và trình độ dân trí thấp. Mặt khác, đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cây trồng, vật nuôi cho nên quá trình hoạt động không những HTX nông nghiệp bị chi phối bởi các quy luật kinh tế mà lại còn bị ảnh hưởng bởi điều kiện tự nhiên. Đây là những đặc điểm có ảnh hưởng nhất định đến kết quả hoạt động của HTX nông nghiệp mà cán bộ lãnh đạo, quản lý phải quan tâm để có biện pháp giúp đỡ,hổ trợ HTX nông nghiệp phát triển. * Các loại hình HTX nông nghiệp: Theo cách phân loại đã nêu trên, có thể chia HTX nông nghiệp thành 3 loại hình: - Hợp tác xã nông nghiệp chuyên ngành. - Hợp tác xã nông nghiệp dịch vụ đơn thuần. - Hợp tác xã nông nghiệp sản xuất kinh doanh và dịch vụ tổng hợp. 1.1.2. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2003 1.1.2.1. Đặc trưng của mô hình hợp tác xã nông nghiệp mới HTX nông nghiệp kiểu mới đăng ký hoạt động theo Luật HTX có sự đổi mới về chất so với HTX kiểu cũ được thành lập trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Về chi tiết mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới có nhiều điểm khác biệt so với HTX kiểu cũ. Dưới đây chỉ nêu lên những khác biệt cơ bản nhất đó là: - Về cách thức thành lập: HTX kiểu cũ được thành lập theo kiểu áp đặt từ trên xuống. HTX nông nghiệp kiểu mới được thành lập do các thể nhân và pháp nhân tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra. - Về tính chất của tổ chức: HTX kiểu cũ vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ chức xã hội ở địa phương. HTX nông nghiệp kiểu mới, trước hết là tổ chức kinh tế, vì sự phát triển của kinh tế hộ xã viên HTX. Vì nhiều lý do khác nhau, các HTX nông nghiệp trước đây phải gánh vác các nghĩa vụ xã hội rất nặng. HTX nông nghiệp kiểu mới đăng ký hoạt động theo Luật HTX tuy vẫn có chức năng xã hội, nhưng trước hết là một tổ chức kinh tế, HTX chỉ thực hiện các nghĩa vụ xã hội trên cơ sở hoạt động kinh tế có hiệu quả và những chăm lo về mặt xã hội trước hết cũng dành cho xã viên HTX. Đây cũng là đặc điểm mới mà chính quyền các cấp cần phải lưu ý trong khi thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với HTX. - Về cơ chế hoạt động của HTX: HTX nông nghiệp kiểu cũ hoạt động trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh cũng như hoạch toán lỗ lãi, phân phối, giá cả … đều theo kế hoạch nhà nước. Hoạt động mang tính hành chính, độc quyền. HTX nông nghiệp kiểu mới hoạt động theo quan hệ kinh tế. HTX là một đơn vi kinh doanh độc lập trong cơ chế thị trường, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như phân chia lỗ lãi, đảm bảo hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước và trách nhiệm đối với xã viên. Do vậy, HTX nông nghiệp kiểu mới đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý cũng như xã viên phải có tính chủ động cao, trình độ kinh doanh giỏi, năng động, sáng tạo hơn so với HTX trong cơ chế cũ. - HTX kiểu cũ nói chung và HTX nông nghiệp cũ nói riêng, một mặt nhằm mục đích tập hợp lại để đẩy mạnh sản xuất, từng bước xoá bỏ kinh tế cá thể, do đó hình thức HTX chủ yếu là trong lĩnh vực sản xuất. Phương hướng phát triển chủ yếu của HTX cũ là từ HTX bậc thấp lên HTX bậc cao để khi có điều kiện sẽ chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. HTX kiểu mới đa dạng hơn về mặt tổ chức và định hướng hoạt động; bên cạnh những HTX tổ chức sản xuất tập trung trong lĩnh vực công nghiệp sẽ khuyến khích phát triển các HTX để làm dịch vụ hỗ trợ cho các hộ cá thể kinh doanh được tốt hơn. Loại hình HTX dịch vụ được định hướng phát triển trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, kể cả trong nông nghiệp, thương mại, giao thông vận tải … Do hình thức tổ chức thay đổi cho nên vấn đề sở hữu của các HTX kiểu mới cũng có nhiều thay đổi. Như trên đã đề cập, trong HTX kiểu cũ, tư liệu sản xuất là của tập thể (tập thể hoá tư liệu sản xuất); chính điều này đã làm nảy sinh tình trạng vô chủ và sự thiếu trách nhiệm của xã viên đối với tài sản HTX. HTX kiểu mới làm cho xã viên thực sự là chủ nhân của HTX thông qua quy định góp vốn, góp sức xây dựng HTX; quyền lợi trách nhiệm của xã viên gắn liền với kết quả hoạt động kinh doanh của HTX. - Về nội dung hoạt động: HTX nông nghiệp kiểu cũ trực tiếp tổ chức sản xuất, lao động tập trung, thủ tiêu sự độc lập của kinh tế hộ. HTX nông nghiệp kiểu mới có nội dung hoạt động đa dạng, có thể làm dịch vụ hoặc vừa làm dịch vụ, vừa sản xuất kinh doanh đa ngành nghề, song đều hướng vào hỗ trợ kinh tế hộ tự chủ phát triển. - Nguyên tắc hoạt động của HTX kiểu mới thực sự là một đơn vị tự chủ, một điều kiện hoạt động bình đẳng với các loại hình doanh nghịêp khác trong cơ chế thị trường. Tuy các HTX cũ cũng được quy định tổ chức theo các nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi nhưng trong thực tế các nguyên tắc này nhiều khi đã bị vi phạm, chính quyền các cấp nhiều khi can thiệp quá sâu vào công việc nội bộ của HTX. Trong HTX kiểu mới, các nguyên tắc HTX được tôn trọng. - Về phân phối: trong HTX nông nghiệp cũ, phân phối bình quân, bao cấp. HTX nông nghiệp kiểu mới phân phối theo vốn, lao động và mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. - Phạm vi hoạt động: HTX nông nghiệp kiểu cũ thường bị giới hạn trong địa giới hành chính xã, phường. HTX kiểu mới không bị giới hạn bởi địa giới hành chính. Vì vậy, hoàn toàn có thể tổ chức một HTX để tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trong phạm vi một huyện hoặc một số xã tuỳ theo yêu cầu thực tế. - Về tổ chức bộ máy quản lý HTX: HTX nông nghiệp kiểu cũ, chức năng quản lý và điều hành trong HTX được lồng ghép. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, Trưởng Ban quản trị kiêm chủ nhiệm HTX. Công tác cán bộ HTX được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ và chính quyền địa phương, các chức danh chủ chốt của HTX do Đảng uỷ chỉ định và nhất thiết phải do đảng viên và người trong nội bộ HTX nắm giữ. Đối với HTX nông nghiệp kiểu mới chức năng quản lý và điều hành được tách biệt rõ ràng. Bộ máy quản lý của HTX bao gồm Ban quản trị, Ban kiểm soát, Ban chủ nhiệm, Chủ nhiệm HTX có thể do Trưởng Ban quản trị kiêm nhiệm hoặc là người do HTX thuê. HTX được quyền tự chủ trong công tác cán bộ của mình, các chức danh chủ chốt không nhất thiết do đảng viên hay người trong nội bộ HTX nắm giữ. - HTX kiểu mới cũng khác với công ty cổ phần. HTX do các thành viên tự nguyện tập hợp, liên kết lại để cùng kinh doanh hoặc hỗ trợ nhau kinh doanh. Mỗi thành viên tham gia dù ít hay nhiều vốn đều bình đẳng với nhau trong quyết định các vấn đề chung của HTX, với nguyên tắc cơ bản “mỗi người một lá phiếu”. (nguyên tắc “đối nhân”); trong khi đó, công ty cổ phần do các nhà đầu tư đứng ra thành lập, tổ chức hoạt động lấy mục tiêu là lợi nhuận, thành viên tham gia (các cổ đông) chỉ có quyền tham gia quyết định các vấn đề của công ty theo mức độ góp vốn (nguyên tắc “đối vốn”). Công ty cổ phần phân phối theo tỷ lệ vốn góp; còn HTX phân phối theo tỷ lệ vốn góp, theo lao động và mức độ tham gia các dịch vụ. 1.1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản trong xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới HTX nông nghiệp tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc sau: - Tự nguyện gia nhập và ra HTX; tất cả nông dân và người lao động có điều kiện theo quy định của Luật HTX, tán thành Điều lệ HTX nông nghiệp đều có thể trở thành xã viên HTX nông nghiệp; xã viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ từng HTX nông nghiệp. - Quản lý dân chủ, bình đẳng và công khai: Xã viên HTX nông nghiệp có quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của HTX và có quyền ngang nhau trong biểu quyết; thực hiện công khai phương hướng sản xuất, kinh doanh, tài chính, phân phối và những vấn đề khác quy định trong Điều lệ HTX nông nghiệp. - Tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cùng có lợi: HTX tự chủ và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh; tự quyết định về phân phối thu nhập, bảo đảm HTX và xã viên cùng có lợi. Sau khi thực hiện xong nghĩa vụ nộp thuế và trang trải các khoản lỗ của HTX; lãi được trích một phần vào các quỹ của HTX, một phần chia theo vốn góp và công sức đóng góp của xã viên, phần còn lại chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của HTX. - Hợp tác và phát triển cộng đồng: Xã viên phải có ý thức phát huy tinh thần xây dựng tập thể và hợp tác với nhau trong HTX, trong cộng đồng xã hội; HTX giữa các HTX trong nước và ngoài nước theo quy định của pháp luật. 1.1.3. Vai trò của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới Kinh tế hợp tác trong lịch sử được phát triển nhiều hình thức từ thấp đến cao: từ tổ vần công, đổi công đến tổ đoàn kết sản xuất, chuyển sang các hình thức HTX dịch vụ, các HTX sản xuất hoặc các HTX vừa sản xuất vừa làm dịch vụ. Kinh tế hợp tác, HTX nói chung và HTX nông nghiệp nói riêng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội. HTX nông nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp. HTX nông nghiệp làm được những việc mà từng người, từng hộ không làm được hoặc làm không có hiệu quả. HTX nông nghiệp thúc đẩy phát triển kinh tế hộ phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ trang trại liên kết, hợp tác, thành lập HTX. HTX nông nghiệp góp phần nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm được nhiều khoản chi phí trong đầu tư cho sản xuất, kinh doanh; huy động được nhiều vốn, nhiều nhân lực, chế ngự được thiên tai địch hoạ, đáp ứng kịp thời yêu cầu sản xuất, kinh doanh; cung cấp sản phẩm cho xã hội, góp phần tăng trưởng kinh tế, góp phần vào ngân sách nhà nước. HTX nông nghiệp khai thác đựơc tiềm năng trong dân cư để mở mang ngành nghề, phát triển sản xuất, tăng nguồn hàng xuất khẩu, đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế- xã hội. HTX nông nghiệp hỗ trợ người nghèo, giúp đỡ họ cùng phát triển. Bởi lẽ HTX nông nghiệp không chỉ gắn bó các thành viên về kinh tế mà còn được hình thành và phát triển trên cơ sở tình làng nghiã xóm, góp phần thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn như cung ứng các mặt hàng chính sách cho vùng miền núi, dân tộc, vùng thiên tai bão lụt, tham gia xoá đói, giảm nghèo, khắc phục bần cùng hoá; phòng chống các tệ nạn xã hội. Kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp còn tạo điều kiện cho những người lao động, những người sản xuất nhỏ phát triển marketing, nhờ đó những khả năng mở rộng được thị trường trong và ngoài nước đảm bảo sự cân bằng và chẳng những có thể trụ vững trong thị trường cạnh tranh, mà còn không ngừng phát triển, không bị phá sản trở thành gánh nặng lao động thất nghiệp cho xã hội. HTX nông nghiệp là mô hình tổ chức sản xuất có tính xã hội chủ nghĩa. Trước hết, đó là các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, vệ tinh của các doanh nghiệp nhà nước; là đơn vị liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế khác và có thể là đơn vị xuất nhập khẩu. Tính xã hội của hợp tác xã nông nghiệp được thể hiện ở chỗ là một tổ chức kinh tế của những người lao động, tập hợp được đông đảo mọi người tham gia nhằm giúp đỡ lẫn nhau, tăng thêm sức mạnh trong sản xuất kinh doanh, dịch vụ góp phần tạo công ăn việc làm và thu nhập chính đáng và ở việc HTX hỗ trợ người nghèo. Trong mọi hoạt động của mình, HTX còn có nghĩa vụ giáo dục tinh thần hợp tác cho xã viên, khuyến khích sự hợp tác không chỉ trong nội bộ xã viên của HTX mà còn giữa các HTX. Ngoài chăm lo về mặt kinh tế, HTX còn chăm lo cả về mặt tinh thần cho xã viên thông qua các hoạt động chung của HTX. Tuy nhiên tất cả những hoạt động xã hội phải được tiến hành trên cơ sở hoạt động kinh tế có hiệu quả. Những hoạt động này sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng, góp phần dân chủ hoá đời sống xã hội, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc phòng. Ngoài ra, HTX nông nghiệp còn có vai trò tạo điều kiện thuận lợi đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật, quản lý, công nghệ mới vào sản xuất. Tiến hành chuyên môn hoá, tập trung hoá, phát triển hợp lý các ngành sản xuất, dịch vụ và thâm canh khoa học. Khai thác tiềm năng về vốn, lao động và công nghệ, đảm bảo môi trường sinh thái, có khả năng đào tạo và bồi dưỡng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. 1.1.4. Những yếu tố tác động đến sự phát triển của hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới ở nước ta 1.1.4.1. Trình độ phát triển nông nghiệp hàng hoá Lý luận và thực tiễn chứng tỏ là khi nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp, tự túc, mục tiêu của người nông dân là tối đa hoá lợi ích, chứ không phải tối đa hoá lợi nhuận nên nhu cầu hợp tác của họ chủ yếu ở khâu đầu vào, với qui mô rất nhỏ bé. Do đó các hình thức tổ chức kinh tế hợp tác thường rất đơn giản. Khi sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, mục tiêu của người dân là tối đa hoá thu nhập, nên nhu cầu hợp tác của họ ở đầu ra nảy sinh và ngày càng bức xúc trên qui mô lớn. Điều đó cho thấy: Sự phát triển có hiệu quả các hình thức kinh tế hợp tác sẽ tạo điều kiện thúc đẩy nền nông nghiệp hàng hoá phát triển. Như vậy các giải pháp phát triển kinh tế hợp tác không thể tách rời giải pháp phát triển nền nông nghiệp hàng hoá, trong đó bao gồm cả biện pháp phát triển kinh tế nông hộ và trang trại sản xuất hàng hoá. Bởi vì phát triển kinh tế nông hộ, trang trại, gia đình vừa là mục tiêu, vừa là giải pháp để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của HTX kiểu mới trong nông nghiệp [4, tr.195]. 1.1.4.2. Nhu cầu và mức sống của nông dân Với quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường sẽ gay gắt hơn; mức sống của nông dân có liên quan đến sự phân hoá giàu nghèo trong._. xã hội. Nông dân có xu hướng liên kết, hợp tác với nhau để tồn tại và phát triển. Do đó nhu cầu phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới càng trở nên bức xúc, cấp thiết đối với những hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 1.1.4.3. Chính sách của Nhà nước đối với hợp tác xã nông nghiệp Đây là yếu tố tác động quan trọng đến quá trình hình thành, phát triển kinh tế hợp tác và HTX, trong đó có HTX nông nghiệp. Và là yếu tố quan trọng cho quá trình chuyển đổi, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới trong cơ chế thị trường. Lịch sử quá trình hình thành, phát triển kinh tế hợp tác, HTX nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng đã chứng minh điều đó. Những quan điểm cơ bản về hợp tác hoá nông nghiệp lần đầu tiên được nêu lên khá toàn diện và đầy đủ là Nghị quyết Trung ương lần thứ 16 khoá II với 20 điểm lớn, qui định từ mục đích yêu cầu, đường lối giai cấp trong vận động hợp tác hoá đến phương châm, nguyên tắc, bước đi, qui mô tổ chức, chính sách … trong quá trình hợp tác hoá nông nghiệp. Và ngày càng được khẳng định trong các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách của Nhà nước. Tuy vậy, mô hình HTX này đã bộc lộ nhiều nhược điểm đã kìm hãm sản xuất. Cho đến khi Chỉ thị số 100/TW, ngày 13/1/1981 của Ban Bí thư Trung ương ra đời – là một quyết định mang tính đột phá mở đầu công cuộc đổi mới kinh tế hợp tác, mà trước hết là HTX nông nghiệp. Và đây chính là điểm mở đầu cho việc ra đời Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khóa VI (4/1988), đánh dấu một giai đoạn chuyển biến quan trọng của mô hình HTX kiểu cũ, cũng chính là bước chuẩn bị quan trọng cho sự ra đời của Luật HTX (năm 1996) và sau đó là Luật HTX (năm 2003) tạo khuôn khổ pháp lý cơ bản để HTX hoạt động phù hợp với thực tiễn đặt ra. 1.1.4.4. Bối cảnh kinh tế - xã hội “Sự phát triển các lĩnh vực hợp tác, các hình thức hợp tác và quy mô hợp tác ở những mức độ khác nhau là xuất phát từ quy luật quan hệ sản xuất nhất thiết phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” [30, tr. 24]. Mặt khác, nó còn chịu sự tác động của môi trường, điều kiện đặc thù của từng địa phương, đó là trình độ dân trí, văn hóa, truyền thống, tâm lý, tính cộng đồng, sự hiểu biết, tính năng động sáng tạo trong hoạt động sản xuất-kinh doanh dưới tác động của nền kinh tế thị trường đang trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.v.v… [4, tr. 98]. 1.1.4.5. Thị trường đầu vào, đầu ra cho nông nghiệp Đối tượng sản xuất nông nghiệp là những sinh vật, cho nên cần phải theo dõi, chăm sóc tỉ mỉ, thường xuyên để đáp ứng đúng kỹ thuật, kịp thời các yêu cầu sinh học của cây trồng, vật nuôi. Điều đó quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp. Chỉ có hình thái kinh tế gia đình với cơ chế “tự thuê mướn sức lao động của chính mình”, “tự bóc lột mình” và lấy công làm lãi, nhờ gắn trực tiếp lợi ích của mỗi người và cả cộng đồng gia đình vào kết quả cuối cùng của sản xuất nông nghiệp, đã tạo ra khả năng lớn hơn các loại hình doanh nghiệp khác trong việc vượt qua tình huống rủi ro do thiên nhiên hay do thị trường gây ra. Mặt khác, kinh tế nông hộ không thể tự thân trở thành một đơn vị kinh tế hàng hóa phát triển trong nền kinh tế thị trường trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt của các doanh nghiệp lớn, trước hết trong dịch vụ “đầu vào”, “đầu ra” của kinh tế nông hộ. Do vậy, tất yếu các nông hộ phải liên kết lại với nhau trong các tổ chức kinh tế hợp tác của mình, tạo ra sức mạnh mới cạnh tranh trong thị trường, tự bảo đảm hoạt động dịch vụ “đầu vào”,” đầu ra” cho kinh tế hộ đạt kết quả cao hơn. Vì thế HTX nông nghiệp trở thành chỗ dựa vũng chắc để kinh tế hộ trở thành đơn vị sản xuất hàng hóa tự chủ có khả năng cạnh tranh đạt hiệu quả cao trong nền kinh tế thị trường. 1.2. CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI 1.2.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của hợp tác xã nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định: thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần; các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế HTX dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân, hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Kinh tế hợp tác với các hình thức đa dạng, trong đó HTX là nòng cốt. Các HTX nói chung, HTX nông nghiệp nói riêng, dựa trên sở hữu của hộ xã viên và sở hữu tập thể (các quỹ sử dụng chung trong HTX), liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn. Phát triển HTX kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành trong một vài lĩnh vực để kinh doanh dịch vụ về sản xuất, chế biến tiêu thụ và tín dụng, nhân rộng mô hình HTX liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông nghiệp. Nhà nước giúp HTX đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, giải quyết nợ nần tồn đọng, Khuyến khích việc tích luỹ, phát triển có hiệu quả vốn tập thể trong HTX. Phát huy quyền tự chủ kinh doanh của mỗi nông hộ: kinh tế tập thể không thay thế kinh tế hộ mà trái lại coi việc phát triển kinh tế hộ làm mục tiêu hoạt động và là cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của mình. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX khẳng định: Cần củng cố những tổ hợp tác, HTX hiện có, tiếp tục phát triển kinh tế hợp tác với nhiều hình thức, qui mô, trình độ khác nhau trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn có điều kiện. Kinh tế tập thể với hình thức phổ biến là các tổ hợp tác và HTX; trong lĩnh vực nông nghiệp, trước hết tập trung làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hộ thành viên, từng bước mở rộng ngành nghề sản xuất, kinh doanh tổng hợp; trong lĩnh vực phi nông nghiệp, vừa tổ chức sản xuất vừa kinh doanh dịch vụ. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết giữa tổ hợp tác, HTX với các doanh nghiệp thuộc mỗi thành phần kinh tế, nhất là với doanh nghiệp nhà nước. Khi HTX phát triển đến trình độ cao hơn thì sẽ hình thành các doanh nghiệp của HTX, các liên hiệp HTX [12, tr.29]. Mục tiêu từ nay đến năm 2010 là: “đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém hiện nay. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế” [12, tr. 29]. 1.2.2. Chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta Nhận thức rõ vai trò quan trọng của HTX trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương khuyến khích và tạo điều kiện phát triển HTX trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là các HTX nông nghiệp, để cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng kinh tế, đó cũng là nền tảng chính trị - xã hội của đất nước nhằm đạt mục tiêu dân giàu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Điều 3 Luật HTX (năm 2003) đã khẳng định chính sách của Nhà nước đối với HTX theo hướng: - Ban hành và thực hiện các chính sách khuyến khích hợp tác xã phát triển. - Bảo đảm quyền bình đẳng của HTX trong nền kinh tế nhiều thành phần. - Bảo hộ quyền lợi hợp pháp của HTX. - Tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hợp tác xã. - Đối với HTX nông nghiệp, Chính Phủ quy định cụ thể chính sách ưu đãi phù hợp với đặc thù và trình độ phát triển trong từng thời kỳ. Ngoài ra, các HTX còn được hưởng những chính sách chung khuyến khích hỗ trợ doanh nghiệp quy định ở Luật khuyến khích đầu tư hoặc các văn bản pháp quy khác. Mục tiêu của các chính sách Nhà nước đối với HTX chủ yếu thu hút ngày càng nhiều các lực lượng lao động, nhất là những hộ nông dân, những người thợ thủ công tham gia vào HTX; khuyến khích hỗ trợ và tạo những điều kiện thuận lợi để HTX được củng cố và phát triển theo định hướng quy họach, kế họach chung của cả nước cũng như từng vùng, ngành cụ thể, để làm cho HTX ngày càng có khả năng tự chủ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, giúp đỡ xã viên với hiệu quả cao nhất, góp phần phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách đó không nhằm tạo chỗ dựa để HTX ỷ lại Nhà nước, làm yếu đi tính năng động sáng tạo,tính tự chủ của HTX, mà ngược lại nhằm tạo môi trường thuận lợi và nền móng để HTX - tổ chức kinh tế của những người lao động -có mặt bằng bình đẳng trong thị trường cạnh tranh. 1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG TRONG NƯỚC 1.3.1. Kinh nghiệm của tỉnh Bình Thuận Bình Thuận là tỉnh nằm trong vùng kinh tế miền Đông Nam bộ và nằm trong khu vực ảnh hưởng của địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Diện tích tự nhiên 785.462 ha. Tốc độ tăng trưởng GDP thời kỳ 2001-2003 là 11,17%. Ngành nông nghiệp tăng 7,16%. Năm 2000 GDP bình quân đầu người 253.USD. Đến tháng 6 năm 2001, toàn tỉnh có 91 HTX nông nghiệp, trong đó có 03 HTX thành lập mới. Qua phân loại năm 2002 có 19 HTX khá, chiếm 20%; 26 HTX trung bình, chiếm 28,6%; 46 HTX vốn yếu, chiếm 50,5% so tổng số HTX nông nghiệp. Vốn hoạt động của HTX không lớn, năm 2002 bình quân 443,2 triệu đồng/ HTX, trong đó vốn lưu đọng bình quân 219, 4triệu đồng /HTX. Doanh thu bình quân 450,5 triệu đồng, tổng lãi sau thuế bình quân 24,9 triệu đồng/HTX. Tỷ lệ lãi trên vốn hoạt động bình quân đạt 5,62%/năm. HTX nông nghiệp tại Bình Thuận hoạt động kinh doanh, dịch vụ gồm 4 loại chủ yếu là: thuỷ nông, vật tư nông nghiệp, tín dụng, giống [28]. Quá trình hình thành, củng cố,đổi mới và phát triển HTX nông nghiệp ở tỉnh Bình Thuận, đã từng bước đáp ứng yêu cầu của ngưòi lao động, kinh tế hộ, khai thác được một số nguồn nhân lực mới trong các ngành, các lĩnh vực, góp phần vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Hoạt động của các HTX đã tạo lập và phát huy các mối quan hệ lành mạnh trong cộng đồng, góp phần chăm lo đến các mặt đời sống xã hội của dân cư trên địa bàn. Đáng chú ý là đã xoá được các quan hệ từng cản trở tốc độ phát triển trong HTX kiểu cũ, hạn chế nạn cho vay nặng lãi, ép giá ép cấp của tư thương. Nhiều HTX là cầu nối trong việc triển khai và tổ chức thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến các hộ sản xuất. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp được thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, tạo điều kiện tiếp tục củng cố, phát triển và nâng cao hiệu quả trong thời gian tới. Tạo lập được môi trường thuận lợi cho kinh tế tập thể phát triển. Nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về kinh tế hợp tác và HTX có chuyển biến tích cực, rõ nét hơn, xoá bỏ dần mặc cảm hoài nghi do mô hình HTX cũ để lại. Tuy nhiên, các HTX nông nghiệp tỉnh Bình Thuận còn nhiều khó khăn, yếu kém như: quy mô hoạt động của HTX nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp, thường chỉ phục vụ trong nội bộ một thôn hay một xã, thậm chí trong một nhóm xã viên; chưa đa dạng sản phẩm và ngành nghề. Hiệu quả kinh doanh dịch vụ thấp, số HTX hoạt động có lãi từ 8% / năm trở lên chỉ chiếm 39,6% tổng số HTX nông nghiệp. HTX chỉ thực hiện kinh doanh dịch vụ đầu vào, chưa quan tâm dịch vụ đầu ra. HTX thiếu vốn để hoạt động. Phần lớn các HTX không vay được vốn tín dụng do không có tài sản thế chấp hoặc không có phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ khả thi; do mức độ tín nhiệm không cao nên không thể vay tín chấp. Một số HTX không dám vay vốn vì sau khi vay mua vật tư ứng trước cho xã viên nhưng khó thu hồi. Quản lý Nhà nước đối với HTX còn hạn chế. Nhiều chính sách khuyến khích phát triển HTX chưa được triển khai thực hiện. Nguyên nhân của những tồn tại yếu kém là: Nhận thức về vị trí của HTX và kinh tế hợp tác trong một số cán bộ lãnh đạo ở các ngành các cấp chưa thật đầy đủ. Việc quán triệt chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Luật HTX và các nghị định của Chính phủ thiếu chiều sâu, một bộ phận cán bộ và nhân dân chưa thật sự tin tưởng vào hiệu quả của kinh tế HTX kiểu mới. Nhà nước thiếu quan tâm giúp HTX công tác tổ chức và đào tạo đội ngũ cán bộ. Trong một thời gian dài, công tác hợp tác hoá bị buôn lỏng, HTX rơi vào tình trạng sa sút, để lại nhiều tồn đọng, cán bộ thuyên chuyển, giảm nhiệt tình. Tỉnh cũng đã định hướng phát triển HTX nông nghiệp trong thời gian đến là: - Phát triển đa dạng các HTX nông nghiệp, đưa HTX nông nghiệp trở thành cầu nối hiệu quả giữa hộ nông dân và các đối tượng khác. - Nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội của HTX nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển nông nghiệp và nông thôn thời gian tới. - HTX phát triển trên cơ sở kinh tế hộ, kinh tế trang trại và kinh tế thị trường. Đến năm 2010, tỉnh phấn đấu đạt các mục tiêu sau: - Đưa kinh tế tập thể thoát khỏi tình trạng yếu kém. - Tốc độ tăng trưởng HTX nông nghiệp bình quân 20%, chiếm 5% GDP của tỉnh. - Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống xã viên,tăng tích luỹ và góp phần ổn định chính trị, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự xã hội ở địa phương. Ba giải pháp chính để đạt mục tiêu trên là: - Tạo khuôn khổ pháp lý và môi trường hoạt động hiệu quả cho HTX nông nghiệp. - Thiết lập hệ thống chính sách khuyến khích và hỗ trợ HTX nông nghiệp. - Tăng cường chỉ đạo của Tỉnh uỷ và UBND tỉnh đối với phát triển HTX nông nghiệp. 1.3.2. Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai Đến tháng 9 năm 2003 toàn tỉnh có 41 HTX nông nghiệp, trong đó có 40 HTX thành lập mới, 01 HTX chuyển đổi từ năm 2002. Trong 41 HTX có 29 HTX đã đi vào hạot động, 11 HTX mới thành lập đang ổn định tổ chức, chưa đi vào hoạt động và 01 HTX ngưng hoạt động. Kết quả sản xuất kinh doanh của 29 HTX được phân loại như sau: 10 HTX khá, chiếm 34,48%; 10 HTX trung bình, chiếm 34,48%; 9 HTX yếu, chiếm 31,03% so tổng số HTX nông nghiệp đang hoạt động [29]. Nhìn chung, các HTX nông nghiệp đã được thành lập trên cơ sở tự nguyện của nông dân, không có sự gò ép của chính quyền địa phương. HTX thành lập và hoạt động đã giúp cho nông dân giải quyết được một phần nhu cầu đầu vào cho sản xuất như vốn, công nghệ, giống, phân bón… nên bước đầu tạo được niềm tin trong xã viên. Một số HTX có tích luỹ, tăng vốn tự có, mở rộng lĩnh vực kinh doanh và phân phối lợi nhuận cho xã viên. Đặc biệt, một số HTX liên kết được với các doanh nghiệp nhà nước thu hút xã viên là các pháp nhân và các thể nhân có vốn và kinh nghiệm kinh doanh. Tuy vậy, đội ngũ cán bộ HTX còn rất yếu so với yêu cầu, đa số các HTX chỉ thực hiện được vài khâu dịch vụ đầu vào, chưa lo được đầu ra cho xã viên; quy mô vốn nhỏ, cơ sở vật chất kinh doanh thiếu thốn. Hướng đến, tỉnh tập trung sức hình thành các HTX ở những vùng chuyên canh sản xuất nguyên liệu cung ứng cho công nghiệp chế biến nông sản. Đồng thời củng cố hoạt động của các HTX hiện có theo hướng đổi mới nội dung hoạt động, mở rộng kinh doanh nhiều lĩnh vực dịch vụ ở nông thôn. Thu hút xã viên có tiềm lực kinh tế, có năng lực kinh doanh; đảm bảo thật tốt tính tự chủ của xã viên. Tăng cường công tác quản lý đối với HTX. 1.3.3. Kinh nghiệm của tỉnh Lâm Đồng Đến tháng 10 năm 2001, Lâm Đồng chuyển đổi theo Luật HTX được 18 HTX nông nghiệp và thành lập mới 14 HTX. Do khi chuyển đổi, thành lập mới không tôn trọng nguyên tắc cơ bản của HTX kiểu mới, phương thức hoạt động và mô hình chưa phù hợp, phương thức sản xuất kinh doanh thiếu tính khả thi, thiếu dân chủ trong lựa chọn cán bộ, không huy động được vốn và không tổ chức được hoạt động, nên đã giải thể 8 HTX. Đến thời điểm gần cuối năm 2001, Lâm Đồng có 26 HTX nông nghiệp (trong đó, có 16 HTX chuyển đổi và 10 HTX thành lập mới), nhưng chỉ có 18 HTX hoạt động, còn 8 HTX chưa hoạt động (trong đó 01 HTX chuyển đổi). Tổng vốn của 18 HTX đang hoạt động là 41,8 tỷ đồng; trong đó vốn lưu động 14,8 tỷ đồng. Có sự chênh lệch rất lớn về vốn của các HTX, HTX Thiện Lập có tổng vốn cao nhất là 7,7 tỷ, HTX Phước Thành có tổng vốn thấp nhất là 91 triệu. Số HTX có vốn lớn hầu hết là những HTX chuyển đổi, ở vùng chuyên canh cây công nghiệp dài ngày [26]. Hoạt động chủ yếu của các HTX nông nghiệp ở Lâm Đồng là dịch vụ hỗ trợ phục vụ cho quá trình sản xuất của hộ xã viên như: cung ứng phân bón, cung ứng giống, dịch vụ tưới tiêu,cung ứng điện, hổ trợ vốn, tiêu thụ sản phẩm. Hoạt động dịch vụ của HTX đã tạo điều kiện thuận lợi để hộ xã viên yên tâm sản xuất, thay đổi cây trồng có giá trị kinh tế cao, tăng được thu nhập và góp phần xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Tuy vậy, hoạt động dịch vụ của từng HTX rất hạn chế,chỉ có 05/18 HTX thực hiện được 3 hoạt động dịch vụ, 06 HTX thực hiện 2 hoạt động dịch vụ và 07 HTX chỉ thực hiện 1 hoạt động dịch vụ. Hoạt động dịch vụ của các HTX cũng chỉ đáp ứng được từ 20% đến 60% nhu cầu của hộ xã viên. Chỉ có 1 HTX thực hiện được dịch vụ tiêu thụ nông sản. Do nội dung hoạt động của HTX hạn hẹp, nên kết quả kinh doanh thấp, lợi nhuận ít; thậm chí có HTX lợi nhuận chỉ bù đắp chi phí và trả lãi ngân hàng, không xây dựng được các quỹ, không có tích luỹ để phát triển sản xuất, kinh doanh. Một số HTX mới thành lập chưa xuất phát từ nhu cầu của nông dân, mà xuất phát từ sự gợi ý của cấp ủy, chính quyền cơ sở, nên xã viên thiếu trách nhiệm, ít gắn bó với HTX. Tỉnh cũng đã rút ra 5 nguyên nhân của tồn tại, yếu kém. Trong đó, có nguyên nhân đáng lưu ý là trong đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền các cấp vẫn cho rằng HTX là kinh tế tập thể; do đó phải sản xuất tập trung, phải tập thể hóa tư liệu sản xuất, phải quản lý theo kế họach tập trung. Để khắc phục những tồn tại, yếu kém trên; Lâm đồng xác định 5 nội dung đổi mới phương thức hoạt động các HTX nông nghiệp là: - Lựa chọn mô hình HTX: HTX dịch vụ chuyên khâu, HTX dịch vụ tổng hợp, HTX sản xuất và kinh doanh dịch vụ tổng hợp. - Phương thức huy động vốn: tăng cường tỷ lệ vốn tích luỹ của HTX và vốn góp của xã viên trong tổng vốn lưu động. - Xác định phương hướng sản xuất kinh doanh: các HTX phải xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh trong suốt nhiệm kỳ và cho từng năm. - Xác định mối quan hệ giữa HTX với hộ xã viên trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đổi mới tổ chức bộ máy quản lý hợp tác xã. 1.3.4. Bài học kinh nghiệm rút ra cho Tuy Hòa Qua kinh nghiệm phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở các tỉnh: Bình Thuận, Đồng Nai, Lâm Đồng; có thể rút ra bài học kinh nghiệm cho Tuy Hòa như sau: - Phải tạo cho được sự chuyển biến trong nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên từ huyện đến cơ sở về xây dựng HTX kiểu mới theo Luật HTX (năm 2003), nhất là đối với các HTX nông nghiệp trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. - Xây dựng HTX nông nghiệp kiểu mới phải xuất phát từ nhu cầu của nông dân, bảo đảm nguyên tắc tự nguyện gia nhập và ra HTX. Tránh chủ quan, nóng vội, gò ép, áp đặt từ trên xuống. - Mô hình nhiều người hợp lại thì kinh tế sẽ cao hơn. Do đó cần thu hút xã viên có tiềm lực kinh tế, có năng lực kinh doanh bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. - Đảm bảo tính tự chủ của xã viên; tự chủ của HTXđể đem lại hiệu quả cao bằng chính sự sáng suốt và lòng nhiệt tình của mọi người. - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa HTX với hộ xã viên trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đảm bảo hài hòa giữa các lợi ích. - Hình thành những vùng sản xuất tập trung có tính đặc trưng của địa phương để qua đó nâng vị thế của HTX nông nghiệp. - Người lãnh đạo phải hội đủ kinh nghiệm và trình độ phù hợp với hoàn cảnh thời đại. Do đó, cần quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên môn của HTX đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. - Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hổ trợ, nuôi dưỡng và phát triển phong trào HTX. Kết luận chương 1 Hợp tác xã là một loại hình tổ chức kinh tế quan trọng được nhà nước khuyến khích phát triển để cùng với kinh tế nhà nước dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Dù trong cơ chế bao cấp trước đây hoặc trong cơ chế đổi mới ngày nay, kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là trong nông nghiệp, nông thôn đều có vai trò, vị trí cần thiết để thúc đẩy kinh tế phát triển. Ở Việt Nam, nông nghiệp giữ vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế; trong tương lai, nông nghiệp cũng sẽ là ngành sản xuất chủ đạo thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Để nông nghiệp kích thích được các hoạt động kinh tế nông thôn, nâng cao mức sống của người làm nông nghiệp, góp phần chấn hưng nền nông nghiệp thì vai trò của HTX nông nghiệp là hết sức to lớn. Chính vì vậy, phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới trên địa bàn Tuy Hòa- một địa bàn có điều kiện thuận lợi để phát triển nông nghiệp hàng hóa đa dạng- là yêu cầu vừa có tính cấp thiết, vừa lâu dài. Yêu cầu đặt ra là quá trình phát triển đó phải đảm bảo đúng định hướng XHCN, phù hợp với quyền tự do kinh doanh của cá nhân, hộ kinh tế gia đình và các thành phần kinh tế khác đã được pháp luật khẳng định. Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HTX NÔNG NGHIỆP KIỂU MỚI TRÊN ĐỊA BÀN TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN 2.1. ẢNH HƯỞNG CỦA ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI CỦA TUY HOÀ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN HỢP TÁC XÃ KIỂU MỚI 2.1.1. Ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên ở Tuy Hòa đến phát triển hợp tác xã nông nghiệp Tuy Hòa là địa bàn thuộc tỉnh Phú Yên; trước đây là huyện Tuy Hòa, do có diện tích rộng, dân số đông, nên ngày 16/5/2005 Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 62/NĐ-CP chia thành 2 huyện: Đông Hòa và Tây Hòa, để có điều kiện phát triển và thuận lợi trong công tác quản lý. (Hai huyện mới chính thức hoạt động từ ngày 01.7.2005). Địa bàn Tuy Hòa phía Bắc giáp Thành phố Tuy Hòa, Đông giáp Biển Đông, Tây giáp huyện Sông Hinh, Nam giáp huyện Vạn Ninh (tỉnh Khánh Hòa). Diện tích 896,63 km2. Có chiều dài (theo đường chim bay) 28,6 km, chiều rộng rộng nhất 26 km, hẹp nhất 18 km. Chiều dài bờ biển 48km, bờ biển theo mép nước 106km. - Địa hình có phần hơi phức tạp, do ảnh hưởng những nhánh thuộc dãy Trường Sơn tách ra chạy theo hướng Đông đến sát biển tạo thành đèo cao và hiểm trở (đèo Cả, độ cao 400m). Nhìn bao quát, địa hình Tuy Hòa thấp dần từ Tây sang Đông, có 14 đỉnh núi cao chính, đỉnh cao nhất 1.397m thuộc xã Hòa Mỹ Tây. Địa mạo Tuy Hòa có thể chia thành 2 khu vực lớn: vùng núi và bán sơn địa, vùng đồng bằng. Vùng núi và bán sơn địa gồm các xã phía Tây của Tuy Hòa (nay thuộc huyện Tây Hòa). Vùng này núi non trùng điệp song không cao lắm. Địa hình phức tạp, độ cao chênh lệch nhau nhiều. Vùng đồng bằng là vùng gồm các xã, thị trấn còn lại (nay thuộc huyện Đông Hòa và một phần thuộc huyện Tây Hòa), có xu hướng nghiêng từ Tây sang Đông. Ở đây có những cánh đồng chuyên canh lúa tập trung như Hòa Bình 1, Hòa Bình 2, Hòa Thành, Hòa Vinh… Với vị trí địa lý, địa hình như vậy, nhìn chung, Tuy Hòa rất thuận lợi trong việc phát triển nông nghiệp toàn diện. Có điều đáng lưu ý là trong chỉ đạo phát triển sản xuất nông nghiệp, phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới đối với các xã phía Tây của Tuy Hòa phải có sự quan tâm đúng mức cho phù hợp với đặc điểm địa hình. Về khí hậu thủy văn: Tuy Hòa thuộc vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Nhưng do ảnh hưởng khí hậu đại dương nên khí hậu ôn hòa hơn các nơi khác trong nước. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 260C. Nhiệt độ trung bình cao nhất 29,10C. Nhiệt độ trung bình thấp nhất 22,60C. Có thể chia làm 2 mùa: Mùa khô từ tháng 01 đến tháng 9, chịu ảnh hưởng của gió Tây và gió Tây Nam. Lượng mưa trung bình trên 57mm. Tháng 4 được coi là tháng khô nhất trong năm; tháng 7,8 có gió Lào nên nóng. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 chịu ảnh hưởng có gió mùa Đông Bắc. Lượng mưa trung bình trên 290mm. Tháng 9,10,11 mưa nhiều nhất, chiếm khoảng 66% lượng mưa cả năm. Từ tháng 10 đến tháng 12 thường có bão, lụt. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1573mm, năm cao nhất là 1878mm, năm thấp nhất 1268mm. Tổng số ngày mưa trung bình là 130 ngày, độ ẩm trung bình là 80 đến 85%, số giờ nắng trung bình trong một năm từ 2.500 đến 2.700 giờ, bình quân 7 giờ trên ngày. Lượng bốc hơi trung bình nhiều năm 980mm. Với điều kiện khí tượng trên, Tuy Hoà nằm trong vùng có khí hậu mát mẻ, rất thích hợp cho sự sinh trưởng của cây trồng và gia súc, thể hiện một sự ưu đãi đặc biệt của thiên nhiên mà trong chỉ đạo phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới cần phải lưu ý. Một đặc điểm về điều kiện tự nhiên của Tuy Hoà nữa là: Tuy Hoà có 2 triền sông chính là sông Ba (còn gọi là sông Đà Rằng) và sông Bàn Thạch chảy từ Tây sang Đông nên ngắn, dốc, tốc độ dòng chảy lớn; hàng năm bồi đắp cho đồng ruộng Tuy Hoà một lượng phù sa lớn, nhưng cũng thường gây lũ lụt lớn làm thiệt hại đến mùa màng. Do ảnh hưởng của núi và tác động bào mòn của sông nên biển rất quanh co, khúc khuỷu. Dọc theo bờ biển có bãi của sông nằm dọc theo các cửa sông, khi chiều rút là một vùng đất rộng. Vùng ngập nước của bãi này nồng độ muối thấp có thể nuôi trồng nước lợ Biển Tuy Hoà thuộc hệ thống ven bờ, có độ sâu gấp, thềm lục địa, đáy biển gồ ghề, độ dốc đổ dồn từ bờ ra khơi và từ hai phía Bắc-Nam; chịu ảnh hưởng của hai dòng hải lưu chính do sự xáo trộn giữa hai dòng nước: nóng và lạnh từ ngoài khơi phía Bắc biển Đông chảy theo hướng Đông Bắc-Tây Nam suốt từ tháng 10 năm trước đến tháng 4 năm sau. Mùa hè có tác dụng của gió Tây Nam, một dòng hải lưu chính từ phía Nam biển Đông, sau khi chạm bờ biển Nam bộ chia thành hai nhánh: một nhánh men theo bờ Trung bộ đi lên phía Bắc, một nhánh về phía Đông hình thành một hoàn lưu khép kín theo chiều kim đồng hồ, suốt từ tháng 5 đến tháng 9. Thuỷ triều lên xuống điều hoà mỗi ngày hai lần. Biên độ thuỷ triều 1,5m. Nồng độ nước biển khá cao và tương đối ổn định trên dưới 34%. Đặc điểm địa lý tự nhiên nói trên tạo cho Tuy Hoà điều kiện thuận lợi để phát triển nông, lâm, ngư, công nghiệp. 2.1.2. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế- xã hội ở Tuy Hoà đến phát triển HTX nông nghiệp - Kinh tế: trong những năm chiến tranh, Tuy Hoà là vùng căn cứ cách mạng, nhiều vùng dân cư đất đai màu mỡ đã biến thành vành đai trắng. Là một địa bàn thuần nông nên xuất phát điểm kinh tế-xã hội thấp, kết cầu hạ tầng kỹ thuật yếu, có số dân đông chiếm 1/3 dân số của tỉnh, diện tích đất canh tác có hạn, lao động thiếu việc làm còn nhiều… Nhưng Tuy Hoà cũng có thuận lợi cơ bản là trên địa bàn có đường sắt Bắc- Nam và quốc lộ 1A đi qua hơn 30 km, có sân bay Tuy Hoà, cảng Vũng Rô và gần đây có khu công nghiệp đã đi vào hoạt động. Trong những năm 1996 đến 2005, kinh tế Tuy Hoà có tốc độ tăng trưởng cao và liên tục. Giai đoạn 1996 đến 2000, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 9,57%, giai đoạn 2001 đến 2005 tốc độ tăng là 21,79%/năm (do có khu công nghiệp Hoà Hiệp đi vào hoạt động, nên tăng cao) (xem bảng 2.1). Bảng 2.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế qua các năm của Tuy Hòa Đơn vị tính: % Danh mục Tốc độ tăng 1996- 2000 2001- 2005 Gía trị tăng thêm - Nông, lâm, ngư nghiệp + Nông, lâm nghiệp + Ngư nghiệp - Công nghiệp - XD + Công nghiệp- TTCN + Xây dựng - Thương mại dịch vụ 9,57 6,82 5,45 12,19 18,07 10,39 73,06 15,37 21,79 7,69 6,51 9,94 39,92 45,2 21,2 37,99 Nguồn: Phòng Kế hoạch và Đầu tư, Phòng Tài chính- Kế hoạch huyện Tuy Hòa. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm dần từ 74,57% năm 1996 xuống còn 67,6% năm 2000 và 36,59% năm 2005. Tỷ trọng công nghiệp-xây dựng tăng từ 14,90% năm 1996 lên 18,86% năm 2000 và 33,04% năm 2005. Tỷ trọng thương mại- dịch vụ tăng từ 10,53% năm 1996 lên 13,51% năm 2000 và 30,27% năm 2005. Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng bình quân 5,6%, công nghiệp- xây dựng tăng 29,87%, thương mại dịch vụ tăng 14,46%/năm trong giai đoạn 1996 – 2000. Trong giai đoạn 2001- 2005 giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 7,69% công nghiệp- xây dựng tăng 39,92%, thương mại-dịch vụ tăng 37,99%/ năm (tính theo giá cố định năm 1994). Những năm qua kinh tế của Tuy Hoà đã từng bước phát triển theo hướng công nghiệp hoá, rõ nét nhất là trong lĩnh vực nông thôn, nông nghiệp. Việc áp dụng các giống mới và các biện pháp kỹ thuật tiên tiến đã góp phần ổn định và tăng năng suất lúa hàng năm. Năm 2005, bình quân năng suất gieo trồng lúa đạt 58,55tạ/ha/vụ, đã thực hiện cơ giới hoá khâu làm đất và một phần trong khâu thu hoạch. Một số diện tích trồng lúa kém hiệu quả được chuyển sang trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao. Đến năm 2005, đã có 16/20 xã xây dựng mô hình sản suất thử nghiệm đạt giá trị sản xuất 50 triệu đồng/ha/năm, lãi từ 40% trở lên đạt kết quả tương đối tốt. Qua thử nghiệm, có mô hình đạt xắp xỉ 80 triệu đồng/ha/năm, lãi gần 50%. Hiện nay đang cho nhân rộng một số mô hình qua thử nghiệm đạt hiệu quả cao. Ngành thuỷ sản, năng lực đánh bắt công suất lớn tăng nhanh, đến năm 2005 tổng công suất tàu thuyền tăng 68,32% so năm 2000; bình quân mã lực tàu thuyền đạt 34,8CV/chiếc, đạt mức bình quân cả nước. Kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội được đầu tư cải thiện đáng kể. Hệ thống thuỷ lợi đảm bảo nước tưới cho 11.812ha lúa 2 vụ. Chỉ tính trong 5 năm 2001-2005 đã kiên cố hoá 27km kênh mương nội đồng, với tổng kinh phí 14,58 tỷ đồng, có 19/21 xã, thị trấn thực hiện chương trình nâng cấp đường giao thông nông thôn được 72 km đường láng nhựa và bê tông xi măng theo phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm, với tổng kinh phí 43,9 tỷ đồng [20]. Bằng nguồn vốn ngân sách tỉnh, huyện, xã; trong 5 năm đã đầu tư 4,1 tỷ đồng để mở rộng nâng cấp lưới điện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, có 119/121 thôn có điện thắp sáng. Tỷ lệ số hộ dân sử dụng điện đạt 99%, có 18/21 xã, thị trấn xây dựng được trường trung học cơ sở 2 tầng, 04 xã có trường tiểu học 2 tầng, có 100% số xã thị trấn có trạm y tế và cản bộ y tế, có đường ô tô đến trung tâm xã từ những năm 80 (TKXX). Hệ thống thông tin liên lạc được nâng cấp, mở rộng; bình quân 3,1 máy điện thoại (cố định)/100 dân. Nhìn chung điều kiện kinh tế của Tuy Hoà đã góp phần không nhỏ trong phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn; nhờ đó năng suất, chất lượng, hiệu quả tăng lên, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. - Xã hội: Dân số trung bình (năm 2005) là 268.114 người, mật độ dân số 299 người/ km2. T._.ở Tài chính- Vật giá kiểm tra việc thực hiện của Sở Khoa học và Công nghệ. Hoặc chỉ đạo Sở Tài chính- Vật giá, Sở Kế họach và Đầu tư hàng năm khi cùng với huyện thảo luận về dự toán chi ngân sách cấp huyện phải bố trí nguồn chi sự nghiệp khoa học và công nghệ cho cấp huyện theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII); cho sự nghiệp khoa học và công nghệ 2% trong tổng chi thường xuyên của ngân sách; đảm bảo cho cấp huyện được chủ động và phát huy được sự sáng tạo ở cơ sở. Khuyến khích phát triển câu lạc bộ khuyến nông của các HTX nông nghiệp đồng thời với việc củng cố lại các câu lạc bộ khuyến nông đã có để làm nòng cốt trong việc cung cấp thông tin, tư vấn cho xã viên trong việc lựa chọn áp dụng các tiến bộ khoa học, công nghệ, lựa chọn áp dụng các mô hình sản xuất thử nghiệm đạt hiệu quả trên địa bàn vào quá trình sản xuất nông nghiệp của hộ xã viên. Tăng cường hoạt động của các Trạm khuyến nông trong việc hướng dẫn, phổ biến sử dụng phương pháp canh tác tiên tiến đến các hộ xã viên thông qua HTX nông nghiệp. UBND Tỉnh cùng Sở Nội vụ Tỉnh cần xem xét bố trí biên chế cán bộ khoa học và công nghệ ở cấp huyện trong phòng kinh tế huyện ít nhất từ 1- 2 biên chế. Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Phú Yên hầu như không có huyện nào có cán bộ chuyên trách về khoa học và công nghệ. Đồng thời, UBND tỉnh nên chỉ đạo, khuyến khích và tạo điều kiện cho các cơ quan nghiên cứu khoa học của tỉnh liên kết với các HTX nông nghiệp trong việc ứng dụng chuyển giao công nghệ, triển khai các công trình nghiên cứu tiên tiến hay nghiên cứu theo đơn đặt hàng của các hợp tác xã. 3.2.4.6. Chính sách thị trường Tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn thông tin từ các cơ quan chức năng của Trung ương, Tỉnh; thông tin kịp thời đến các chủ thể sản xuất nông nghiệp để họ có điều kiện tính toán kỹ hiệu quả trước khi quyết định phương án đầu tư tổ chức sản xuất. Đặc biệt, trong cơ chế thị trường, vấn đề thị trường “đầu ra” đối với các sản phẩm nông nghiệp là hết sức quan trọng; vì HTX nông nghiệp và nông dân là những chủ thể rất khó khăn về tài chính, một khi họ không nắm chắc và không nhanh chạy với sự biến động của giá cả thị trường thì thất bại là điều khó tránh khỏi. Hằng năm, Tỉnh nên ưu tiên xét duyệt bố trí kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, xây dụng thương hiệu từ quỹ xúc tiến thương mại của Tỉnh. Khuyến khích các HTX liên kết trong việc xây dựng thương hiệu, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Mở rộng các hình thức liên kết với các loại hình doanh nghiệp khác trong việc cung ứng nguyên liệu, vật tư đầu vào, tiêu thụ sản phẩm đầu ra, tham gia vào một công đoạn trong quy trình sản xuất của doanh nghiệp… thông qua các hình thức như ký kết hợp đồng bao tiêu sản phẩm, các hợp đồng gia công và đặc biệt là góp vốn mua cổ phần của doanh nghiệp. Phát triển mạng lưới chợ nông thôn đồng thời với việc quy họach sắp xếp lại các chợ hiện có trên địa bàn. Nhanh chóng hoàn thành thủ tục để xây dựng chợ nông sản tại xã Hòa Bình 2 để thu hút sự liên kết, trao đổi, mua bán từ các huyện trong tỉnh và các tỉnh Tây nguyên đến, tạo điều kiện thuận lợi cho các HTX nông nghiệp trên địa bàn trong giải quyết thị trường “đầu ra”, từ đó mới khuyến khích các HTX nhân rộng được các mô hình sản xuất đạt hiệu quả cao. 3.2.4.7. Chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ hợp tác xã và đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp Cán bộ là gốc của mọi công việc, không có cán bộ tốt thì không có phong trào tốt. Phong trào kinh tế hợp tác, hợp tác xã cũng vậy, nhất là trong cơ chế thị trường đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có năng lực quản lý, có bản lĩnh chính trị. Trình độ của cán bộ Hợp tác xã nông nghiệp còn thấp so với yêu cầu, số chưa qua đào tạo chiếm tỷ lệ khá lớn. Hầu hết không có kiến thức ngoại ngữ và tin học. Trong một thời gian dài, Nhà nước chưa quan tâm chú trọng đúng mức đến việc đào tạo cán bộ cho Hợp tác xã nông nghiệp. Vì vậy, hiện nay Nhà nước cần có cơ chế chính sách tạo điều kiện cho việc đào tạo cán bộ như: đầu tư mở trường dạy nghề, trường quản lý chuyên môn cho các HTX, tiến đến là tiêu chuẩn hóa một số cán bộ chủ chốt của HTX nông nghiệp;cần đưa một số cán bộ có chuyên môn kỹ thuật nông nghiệp (đã tốt nghiệp ở các Trường Trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học) về cơ sở, hợp tác xã trực tiếp sản xuất, quản lý và hướng dẫn cho nông dân. Kinh nghiệm của một số nơi cho thấy, các HTX nông nghiệp chỉ thành công khi nào có đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu bức xúc của xã viên, đồng thời có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp trong công việc xây dựng chương trình đào tạo cán bộ quán lý đáp ứng nhu cầu chuyển đổi, củng cố và phát triển mới HTX. Thực tế trên địa bàn Tuy Hòa trong thời gian qua cho phép khẳng định: những HTX làm ăn có hiệu quả đều có đội ngũ cán bộ được đào tạo, có trình độ chuyên môn, kỹ thuật; nhiệt tình năng động, nhạy bén và thích ứng với cơ chế thị trường, làm nhiều việc hổ trợ kinh tế hộ xã viên phát triển, được xã viên tín nhiệm. Ở HTX yếu kém phần lớn cán bộ không có năng lực, có nơi cán bộ thiếu nhiệt tình. Vì vậy cán bộ là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của HTX. Cán bộ HTX phải được bồi dưỡng, đào tạo lại và đào tạo có hệ thống, bảo đảm đủ phẩm chất và năng lực để xây dựng HTX. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của Tuy Hòa trong điều kiện hiện nay, việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX nông nghiệp là một đòi hỏi bức xúc, là động lực thúc đẩy sự đổi mới tổ chức quản lý hợp tác xã, là một nhân tố đảm bảo sự thành công của HTX khi đi vào hoạt động. Tuy Hòa cần khắc phục ngay tình trạng yếu kém về năng lực của cán bộ HTX nông nghiệp trên địa bàn. Các HTX cần dành kinh phí và bố trí thời gian để cán bộ HTX theo học các lớp chuyên môn, nghiệp vụ quản lý, kỹ thuật tại các trường chuyên nghiệp và các lớp tập huấn, bồi dưỡng ngắn ngày do các cấp mở. Về lâu dài, các cấp ủy Đảng phải có quy họach đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX, tạo nguồn cán bộ dự bị. Các HTX nông nghiệp nên xem xét và thực hiện chế độ đào tạo nhân lực thay thế trong số con em của xã viên, bằng cách dùng một phần quỹ phát triển sản xuất để phụ cấp hoặc cho vay không tính lãi để giúp người đi học trang trải chi phí học tập với cam kết sau khi tốt nghiệp về làm việc cho HTX. Trong một năm tới, vì chưa đáp ứng được các yêu cầu về đào tạo cơ bản, do vậy Tuy Hòa cần “tự lực cánh sinh” bằng cách mở lớp tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ kiểm soát của các HTX nông nghiệp đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ giám sát hoạt động của Ban quản trị và Chủ nhiệm HTX. Bồi dưỡng nghiệp vụ kế toán cho kế toán một số HTX còn hạn chế về năng lực. Tỉnh, huyện cần quan tâm có chính sách thu hút cán bộ quản lý và khoa học-kỹ thuật về công tác tại HTX nông nghiệp. Thực hiện tốt chính sách cán bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX): “cán bộ quản lý, khoa học- kỹ thuật được tăng cường về công tác ở HTX trong một thời gian nhất định được giữ nguyên lương và chế độ bảo hiểm xã hội, lương và 15% bảo hiểm xã hội nói trên do ngân sách Nhà nước cấp, được hưởng phụ cấp gắn với hiệu quả sản xuất- kinh doanh của hợp tác xã” [12, tr. 33, 34]. Đối với các cơ sở đào tạo cán bộ HTX; Chính Phủ, Tỉnh nên tiếp tục chỉ đạo các cơ sở này thực hiện đầy đủ việc giảm 50% học phí cho cán bộ HTX được cử đi đào tạo thuộc hệ thống đào tạo của nhà nước,của Liên minh HTX Việt Nam. Tại tỉnh Phú Yên, các lớp bồi dưỡng ngắn ngày do tỉnh mở cũng mới chỉ thực hiện việc giảm 50% học phí đối với một số HTX có nhiều khó khăn. Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước nên miễn toàn bộ học phí đào tạo cho cán bộ chủ chốt của HTX nông nghiệp gồm 3 chức danh: Chủ nhiệm, Trưởng Ban kiểm soát và Kế toán trưởng. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp đối với Tuy Hoà lâu nay coi như “bỏ ngõ”. Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo rất cao. Thời gian đến cần coi trọng đúng mức công tác đào tạo nghề cho lao động, phấn đấu đến năm 2010 có 40% số lao động được qua đào tạo. Trong đó, đặc biệt chú ý đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp. UBND từng huyện của địa bàn Tuy Hoà cần xúc tiến nhanh việc thành lập Trung tâm dạy nghề của huyện để đào tạo, bồi dưỡng nghề cho người lao động, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế- xã hội của địa phương trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. UBND tỉnh nên xem xét bổ sung biên chế cho cấp huyện để hình thành bộ phận quản lý HTX trong phòng kinh tế huyện ít nhất 02 biên chế. Số biên chế này là cán bộ chuyên trách để theo dõi, tham mưu UBND huyện quản lý nhà nước đối với tất cả các loại hình HTX, tham mưu công tác đổi mới phát triền kinh tế tập thể trên địa bàn. Việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp đòi hỏi các HTX phải chủ động thiết lập, tăng cường mối liên kết giữa HTX nông nghiệp với các HTX khác và các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước. Mặc khác rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước thông qua các cơ chế, chính sách thúc đẩy hình thành các mối liên kết đó. 3.2.5. Tăng cường hệ thống tổ chức quản lý nhà nước đối với kinh tế hợp tác xã nông nghiệp Trên thực tế, đến nay vẫn chưa hình thành bộ máy quản lý, chỉ đạo đổi mới HTX nông nghiệp từ Trung ương đến huyện đã ảnh hưởng không tốt đến việc củng cố, đổi mới HTX nông nghiệp. Những vấn đề mới này sinh trong hoạt động của HTX chưa được giải quyết kịp thời. Ở cấp huyện, trước đây nhiệm vụ theo dõi quản lý các HTX nông nghiệp, HTX khai thác đánh bắt thuỷ sản được giao cho phòng nông nghịêp và phát triển nông thôn; các HTX tiểu thủ công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải được giao cho phòng công thương. Ngày 29/9/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số: 172/NĐ- CP về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh trong đó: Phòng kinh tế là cơ quan chuyên môn giúp UBND huyện quản lý nhà nước về các lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ lợi, thuỷ sản, công nghiệp- TTCN, thương mại, du lịch, khoa học và công nghệ, thì phòng kinh tế thực hiện nhiệm vụ theo dõi, quản lý các loại hình HTX, nhưng không có cán bộ chuyên trách. Do đó; cần phải tập trung kiện toàn bộ máy quản lý chuyên trách thực hiện nhiệm vụ, quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tập thể tại các cấp theo Chỉ thị số 22/2003/CT-TTg ngày 03/10/2003 của Thủ tướng Chính phủ và các quy định liên quan. Thực hiện đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước về kinh tế tập thế. Trung ương, tỉnh cần xem xét khi giao chỉ tiêu biên chế hành chính của cấp huyện ít nhất phải giao từ 2- 3 biên chế mới đủ sức thực hiện nhiệm vụ tổ chức quản lý kinh tế hợp tác, HTX. Trong từng bộ, sở, ngành có liên quan, tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ nên có bộ phận hoặc cán bộ chuyên trách giúp lãnh đạo quản lý, chỉ đạo đổi mới HTX. Đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, cần tăng cường nhân lực cho phòng chính sách của Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn để đủ năng lực giúp HTX nông nghiệp về thông tin, định hướng sản xuất, thị trường tiêu thụ,kinh nghiệm làm ăn… 3.2.6. Xây dựng cơ chế phối hợp có hiệu quả giữa tổ chức Đảng, chính quyền và hợp tác xã trên từng địa bàn HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, quyền quyết định cao nhất của HTX là Đại hội xã viên. Tuy nhiên, nhằm đảm bảo định hướng XHXN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là: “Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chỉ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân” [13, tr.77]. Cho nên việc phát triển kinh tế hợp tác, đổi mới HTX cũng phải được quán triệt theo đúng định hướng trên. Chính vì vậy, các tổ chức kinh tế hợp tác, HTX phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và quản lý giúp đỡ của chính quyền. Đảng lãnh đạo HTX thông qua đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng và vai trò gương mẫu của đảng viên. Chính quyền các cấp phổ biến và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về HTX; xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển HTX, tổ chức đăng ký kinh doanh, hướng dẫn việc đăng ký kinh doanh đối với HTX, liên hiệp HTX; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao trình độ cho cán bộ quản lý và các kiến thức cần thiết cho xã viên HTX; thực hiện thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật của HTX theo quy định của Luật HTX. Đối với HTX, xác định mục tiêu kinh tế là hàng đầu; nhưng không chỉ nhằm mục tiêu kinh tế mà còn vì các mục tiêu xã hội, dựa vào tập thể mà tạo được sức mạnh trong sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, giúp nhau làm giàu chính đáng, đi đôi với việc xóa đói giảm nghèo, góp phần thúc đẩy các tiến bộ xã hội và thực hiện các chính sách xã hội trên địa bàn. Tuy nhiên, không thể biến HTX nông nghiệp thành tổ chức xã hội làm thay nhiệm vụ của hệ thống chính trị ở địa phương. Tuỳ thuộc vào đặc điểm và tình hình của từng xã, từng huyện mà lựa chọn phương pháp tiến hành cho phù hợp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổ chức đảng, chính quyền và HTX, tạo điều kiện thuận lợi cho HTX phát triển. 3.2.7.Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đoàn thể quần chúng đối với HTX nông nghiệp Các cấp ủy, và tổ chức đảng cần nâng cao trách nhiệm trong việc quán triệt, tổ chức triển khai đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về phát triển kinh tế hợp tác, HTX cho đảng viên và quần chúng; xây dựng chương trình hành động tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế HTX nông nghiệp nhằm đưa Nghị quyết về HTX nông nghiệp vào cuộc sống. Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho toàn đảng bộ và nhân dân nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của kinh tế hợp tác, HTX trong nền kinh tế thị trường. Thường xuyên kiểm tra, sơ tổng kết, nhân rộng mô hình kinh tế tập thể làm ăn có hiệu quả. Sớm có hướng dẫn để hình thành được tổ chức Đảng và các đoàn thể nhân dân trong các HTX nông nghiệp theo đúng Luật HTX mới và Qui định số 164 QĐ/TW, ngày 15/4/2006 của Ban chấp hành Trung ương Đảng qui định về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong HTX, liên hiệp HTX. Phát triển mạnh các tổ chức công đoàn ngoài quốc doanh, đặc biệt là trong HTX nông nghiệp. Mặt trận và các tổ chức thành viên của mặt trận các cấp trong phạm vi chức năng của mình, đẩy mạnh việc tham gia giúp đỡ HTX, góp ý xây dựng phương hướng sản xuất kinh doanh, nội dung hoạt động. Tuyên truyền phổ biến về Luật và Điều lệ HTX bằng các hình thức như thông qua hệ thống phát thanh, truyền thanh hoặc tổ chức lồng ghép vào các chương trình khác; vận động giáo dục nhân dân tham gia xây dựng, phát triển HTX và phát huy vai trò làm chủ trong HTX; tham gia với các cơ quan nhà nước trong việc xây dựng chính sách và giám sát thi hành pháp luật về HTX; động viên thành viên của mình gương mẫu đi đầu trong xây dựng HTX nông nghiệp kiểu mới. Kết luận chương 3 Phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới là xu hướng có tính quy luật trong nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, là chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới không đơn giản là tăng số lượng mà phải là chất lượng, hiệu quả hoạt động của các HTX. Do vậy, phương hướng phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hòa phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ. HTX nông nghiệp kiểu mới phải theo hướng kinh doanh tổng hợp, kết hợp với chuyên môn hóa theo vùng, ngành; hoạt động ngày càng gắn kết với các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế nhà nước. Tiến trình thực hiện củng cố và phát triển HTX nông nghiệp, một mặt phải chú ý thúc đẩy kinh tế hộ nông dân phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển ngành nghề phi nông nghiệp trong HTX nông nghiệp và trong nông thôn. Mặt khác, phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp, các chủ thể kinh tế về vị trí, vai trò, tính tất yếu khách quan phải phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, phát triển đa dạng mô hình tổ chức và hoạt động của HTX nông nghiệp phù hợp với tình hình thực tế; từng bước mở rộng liên kết với các thành phần kinh tế trong dịch vụ tổng hợp phục vụ cho sản xuất kinh doanh nông nghiệp; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và phát triển nguồn nhân lực đáp ứng kịp thời nhu cầu mở rộng kinh doanh của HTX nông nghiệp; đồng thời phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, sự phối hợp của mặt trận và các đoàn thể nhân dân nhằm tạo môi trường pháp lý, kinh tế, cơ chế chính sách, tâm lý- xã hội cho HTX; kịp thời tổng kết thực tiễn quá trình phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới để nêu gương, nhân điển hình và phát triển các mô hình phù hợp để giúp đỡ và tạo điều kiện cho HTX nông nghiệp trên địa bàn phát triển. KẾT LUẬN Kinh tế hợp tác và HTX, trong đó có HTX nông nghiệp là vấn đề hết sức quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đã được khẳng định trong nhiều Nghị quyết của Đảng, đã có Luật của Quốc hội và các Nghị định của Chính phủ. Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp là nhu cầu thực tế khách quan, đáp ứng đòi hỏi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế hợp tác và HTX là hình thức tổ chức kinh tế mang tính chất xã hội hóa, còn là nhân tố quan trọng để xây dựng công bằng, dân chủ, văn minh, giáo dục ý thức phát triển cộng đồng; HTX nông nghiệp là tổ chức kinh tế quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công nông. Củng cố, đổi mới và phát triển HTX là phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó kinh tế tập thể cùng với kinh tế Nhà nước ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Thực tế ở nước ta, nhất là ở lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn, với quá trình phát triển kinh tế hàng hoá, nông dân ngày càng có nhu cầu phát triển kinh tế hợp tác từ thấp đến cao, từ các tổ hợp tác đến hợp tác xã làm dịch vụ đầu vào, đầu ra phục vụ sản xuất nông nghiệp của hộ gia đình và trang trại. Đặc biệt ở nơi xí nghiệp chế biến nông sản, nông dân ngày càng có nhu cầu tổ chức HTX để tạo thuận lợi cho việc hợp đồng cung ứng nông sản cho doanh nghiệp và tiếp nhận sự hỗ trợ, giúp đỡ của doanh nghiệp về vốn và kỷ thuật. Đến nay đã có hàng nghìn HTX ra đời tự nguyện. Điều đó cho thấy nhu cầu phát triển các hình thức kinh tế hợp tác đã thực sự phố biến và bức xúc; trong đó nhu cầu và điều kiện phát triển HTX ngày càng chín muồi ở nhiều nơi. Có cơ sở dự báo rằng cùng với đà phát triển kinh tế hàng hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế, mức độ cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường sẽ gay gắt hơn, nhu cầu phát triển kinh tế hợp tác và HTX ngày càng trở nên bức xúc, cấp thiết đối với những hộ kinh doanh cá thể, các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó, chúng ta cần nhận rõ nhu cầu tất yếu khách quan đó để chủ động tạo điều kiện thuận lợi và giúp đỡ cho kinh tế hợp tác và HTX nói chung, đặc biệt là HTX nông nghiệp tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động trong nền kinh tế quốc dân. Nếu thoả mãn với những thành tựu, không thấy hết những khó khăn mới, những mâu thuẫn mới, hạn chế của kinh tế trong bước đường đi lên, không kịp tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế hợp tác và cho HTX phát triển, chúng ta sẽ không đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Kinh tế nông nghiệp và nông thôn thôn ở Tuy Hoà đang tiếp tục phát triển, trong đó có sự phát triển kinh tế hộ, trang trại và HTX nông nghiệp ngày càng giữ vai trò quan trọng, đã và đang trở thành chỗ dựa cho các xã viên; tạo động lực lớn để huy động, khai thác các nguồn lực đất đai, lao động, hình thành quan hệ sản xuất mới trong kinh tế nông nghiệp hiện nay. Đến nay, ngoài số HTX cũ chuyển đổi có hiệu quả, đã có hàng trăm tổ hợp tác với nhiều tên gọi khác nhau và hàng chục HTX ra đời một cách tự nguyện. Tuy nhiên các HTX nông nghiệp của Tuy Hoà vẫn còn nhiều yếu kém. Đáng chú ý là quyền lợi của xã viên chưa cao; năng lực, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ chủ chốt của HTX còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới; số HTX trung bình và yếu kém còn nhiều, qui mô sản xuất nhỏ bé; mô hình và phương thức hoạt động sau khi chuyển đổi còn lúng túng; vị thế của kinh tế hợp tác và HTX nông nghiệp chưa đủ sức cùng kinh tế nhà nước ngày càng trở thành nền tảng trong “nền” kinh tế của Tuy Hoà. Từ đó; nhiệm vụ đặt ra cho Tuy Hoà là phải tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đến năm 2010, trước hết yêu cầu cấp bách là cần tiếp tục củng cố, đổi mới phương thức hoạt động của HTX nông nghiệp nhằm tạo ra các nguồn lực mới để HTX phát triển, làm cho các HTX nông nghiệp thực sự có sức sống mới; khắc phục được những hạn chế hiện nay. Đồng thời khuyến khích phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới theo hướng kinh doanh tổng hợp, kết hợp với chuyên môn hoá theo vùng, ngành. Để thúc đẩy qúa trình phát triển đó cần phải thực hiện đồng bộ nhiều vấn đề có liên quan, trong đó Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho các HTX. Đây là công việc khó khăn, phức tạp đòi hỏi thời gian dài- đủ để tổng kết rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, phương hướng và giải pháp phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới ở Tuy Hoà được nêu trên mới chỉ là sự tự hoàn thiện chính mình, là sự khắc phục các nhược điểm chủ quan của HTX. Để tạo ra những điều kiện, môi trường khách quan thuận lợi giúp các HTX nông nghiệp phát triển, đề nghị Trung ương, tỉnh quan tâm giải quyết một số vấn đề sau: - Chính phủ tiếp tục thể chế hoá các quan điểm chủ trương, chính sách của Đảng về kinh tế tập thể. Đôn đốc việc thực hiện các chính sách đã ban hành; kịp thời bổ sung, sửa đổi một số chính sách chưa phù hợp trong qua trình triển khai đối với kinh tế hợp với HTX. - Chính phủ cần sớm ban hành chính sách cán bộ và đào tạo nguồn nhân lực. Đây là chính sách rất quan trọng, quyết định sự thành công của quả trình phát triển kinh tế tập thể. Trước mắt Trung ương, tỉnh, huyện cần triển khai xây dựng và thực hiện đề án tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý HTX giai đoạn 2006-2010 và tiến tới tiêu chuẩn hoá trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ quản lý HTX, đặc biệt là các chúc danh chủ chốt: chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, trưởng ban kiểm soát và kế toán trưởng HTX theo hướng phải có trình độ đào tạo ít nhất là trung học chuyên nghiệp và thực hiện miễn toàn bộ phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ HTX đối với 3 chức danh chủ chốt của HTX nông nghiệp: chủ nhiệm, trưởng ban kiểm soát, kế toán trưởng. - Sớm đưa nội dung phát triển kinh tế tập thể vào giảng dạy trong các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề. - Chính phủ, Bộ Tài chính và các bộ, ngành liên quan ban hành qui định, cơ chế tài chính và Điều lệ mẫu Quĩ hỗ trợ phát triển HTX và hỗ trợ ngân sách Trung ương để tỉnh lập quỹ này. Kiến nghị UBND tỉnh sớm hình thành quỹ này. -Trung ương xem xét giảm thuế suất thu nhập doanh nghiệp cho HTX và ban hành cơ chế bảo đảm tiền vay đối với các HTX, tạo điểu kiện thuận lợi để HTX được vay vốn phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. -Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu hướng dẫn bổ sung Thông tư liên tịch số 48 về qui định chế độ quản lý tài chính đối với HTX nông nghiệp về việc phân phối theo công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ phù hợp Luật HTX hiện hành. Đối với cán bộ quản lý HTX cần quy định tỷ lệ mức thù lao phù hợp theo trình độ được đào tạo tham gia vào quản lý HTX. - Bổ sung vào Luật HTX và Điều lệ mẫu HTX nông nghiệp biện pháp chế tài có tính khả thi đối với trường hợp xã viên cố tình chiếm dụng vốn của HTX. Tiếp tục xem xét xoá nợ cho các HTX nông nghiệp nợ các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước từ năm 1996 về trước. -Trung ương, tỉnh tăng cường thông tin, hướng dẫn, tổ chức học tập các mô hình hoạt động có hiệu quả của cả nước để huyện, xã học tập có điều kiện phát triển theo mô hình mới. Giới thiệu và giúp đỡ hợp tác phát triển khu vực kinh tế tập thể với các địa phương khác trong nước và quốc tế. Các doanh nghiệp, các cơ quan của Trung ương, của tỉnh đóng trên địa bàn Tuy Hoà, tạo điều kiện hỗ trợ để HTX nhận gia công, làm vệ tinh hoặc đại lý cho doanh nghiệp trong các lĩnh vực mà HTX có khả năng, giúp đỡ HTX trong việc thong tin về thị trường, hướng dẫn về kỷ thuật và đào tạo nghề cho lao động. Chính phủ có cơ chế điều hành hữu hiệu chính sách bình ổn gía nông sản để xã viên HTX nông nghiệp và nông dân bớt thua lỗ do tình trạng nông sản bi rớt giá. - UBND cấp huyện chỉ đạo HTX xây dựng kế hoạch và có biện pháp để giải quyết dứt điểm nợ tồn đọng trong HTX, nhất là khoản nợ phải thu khó đòi và nợ phải trả chưa xử lý từ năm 1996 về trước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ban Bí thư Trung ương Đảng (24/5/1996), Chỉ thị số 68-CT/TW, về việc phát triển kinh tế hợp tác trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế. 2. Ban chấp hành Trung ương Đảng (15/4/2006), Qui định số 164-QĐ/TW, qui định chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, (gọi chung là hợp tác xã). 3. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn và Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật bản –JICA. (2000), Giới thiệu kinh nghiệm phát triển hợp tác xã nông nghiệp Nhật bản, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 4. Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn Kỷ (2003), Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay, sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 5. Lê Thị Minh Châu (2003), “Nghị về định hướng và giải pháp phát triển kinh tế hợp tác, hợp tác xã trong lĩnh vực thương mại đến năm 2010”, Thương mại, (số 13) tr. 2- 3. 6. Chính phủ (02/01/1997) Nghị định số 02, về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý nhà nước của các Bộ, cơ quan, ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. 7. Chính phủ (21/02/1997) Nghị định số 15, về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã. 8. Chính phủ (21/02/1997) Nghị định số 16, về chuyển đổi, đăng ký hợp tác xã và tổ chức hoạt động của liên hiệp hợp tác xã. 9. Chính phủ (08/7/1999) Nghị định số 51, qui định chi tiết thi hành Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi) và Nghị định số 35 ngày 29/3/2002, sửa đổi bổ sung danh mục, A,B,C ban hành tại phụ lục kèm theo Nghị định số 51/CP. 10. Trần Ngọc Dũng (2003), “Vai trò của pháp luật với sự phát triển của hợp tác xã” Tạp chí luật học (số 01), tr. 9- 12. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương khoá IX (lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 14. Đảng cộng sản Việt Nam với phòng trào hợp tác xã (2004), tập 1, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 15. Đảng cộng sản Việt Nam với phòng trào hợp tác xã (2005) tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 16. Nguyễn Đạt (2002), Nâng cao chất lượng, hiệu quả đổi mới các hợp tác xã nông nghiệp ở Quảng Ninh, Tư tưởng văn hoá (số 5), tr. 43- 46. 17. Hà Đăng (2004), Đi lên từ sản xuất nhỏ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Thanh Hà (2000), Kinh tế hợp tác trong nên kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 19. Mai Công Hoà (29/01/2002), “Thực trạng và xu hướng phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, hợp tác xã ở nước ta hiện nay”, Báo nhân dân, tr. 2. 20. Huyện uỷ Đông Hoà và Huyện uỷ Tây Hoà (2005), Báo cáo chính trị trình đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ IX (nhiệm kỳ 2006- 2010). 21. Huyện uỷ Tuy Hoà (2001): Báo cáo tổng kết 5 năm kinh tế hợp tác hợp tác xã (1996- 2001); Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2000- 2005). 22. Luật hợp tác xã (năm 2003) Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (2004). 23. Vũ Văn Phúc (2002), “Quá trình phát triển kinh tế hợp tác xã nông nghịêp ở nước ta”, Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, số 5 (40), tr. 3- 11. 24. Vũ Văn Phúc (2002), “Về chế độ kinh tế hợp tác ở nước ta”, Lý luận chính trị (số 1), tr. 26- 29. 25. Lương Xuân Quỳ, Nguyễn Thế Nhã (1999), Đổi mới tổ chức và quản lý các hợp tác xã trong nông nghiệp nông thôn, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 26. Sở Khoa học, công nghệ và môi trường tỉnh Lâm Đồng (2001), Báo cáo kết quả đề tài: Đổi mới phương thức hoạt động các hợp tác xã nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng. 27. Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên (2005), Báo cáo kết quả tổng điều tra HTX nông nghiệp. 28. Tỉnh uỷ Bình Thuận (2004), Nghị quyết số 12 của Tỉnh uỷ về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể đến năm 2010; Báo cáo tổng kết 5 năm tình hình kinh tế hợp tác và hợp tác xã của Ban Kinh tế Tỉnh uỷ. 29. Tỉnh uỷ Đồng Nai (2002), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH TW Đảng (khoá IX) về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể. 30. Lê Trọng (2001), Kinh tế hợp tác của nông dân trong nền kinh tế thị trường, Nxb Văn hoá- dân tộc, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Tuất (2002), “Hợp tác xã nông nghiệp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long- Nhìn từ thực tiễn”, Khoa học chính trị (số 3), tr. 48- 52. 32. Đỗ Thị Tuyết, Mai Văn Nam, Phước Minh Hiệp, Bùi Văn Trịnh (2002), “Phát triển kinh tế hợp tác và hợp tác xã ở tỉnh Cần Thơ”, Nghiên cứu kinh tế (số 7), tr. 25- 35. 33. UBND huyện Đông Hoà và UBND huyện Tây Hoà (2006), Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể năm 2006, huyện Đông Hoà, huyện Tây Hoà. 34. UBND tỉnh Phú Yên (2006), kế hoạch phát triển khu vực kinh tế tập thể 5 năm giải đoạn 2006- 2010. 35. Khánh Vân (2003), “Chính sách phát triển kinh tế hợp tác xã”, Nghiên cứu lập pháp (số 10), tr. 3- 6. 36. Viện Quản lý kinh tế Trung ương (1997), Tài liệu tập huấn hợp tác xã. 37. Viện Quản lý kinh tế Trung ương (2003), “Kinh nghiệm hoạt động của một số hợp tác xã sau sáu năm thực hiện Luật hợp tác xã ở Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 38. Hoàng Việt (2002), “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác xã trong nông nghiệp”, Tạp chí Cộng sản (số 19), tr. 30- 34. 35. Hồ Văn Vĩnh, Nguyễn Quốc Thái (2005), Mô hình phát triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2462.doc