LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Làm thế nào để thu hút được nhà đầu tư đến với TTCK và quan trọng nâng cao được lòng tin của giới đầu tư đối với thị trường này?
Đây là một câu hỏi lớn đặt ra cho bất cứ TTCK nào. Đối với TTCK Việt Nam, một thị trường còn non trẻ thì câu hỏi này càng trở nên có ý nghĩa.
Tạo điều kiện cho công chúng đầu tư tham gia vào thị trường và một khi họ đã chấp nhận tham gia thị trường rồi thì phải làm thế nào để “giữ họ” ở lại lâu dài là một công việc hết sức
103 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1739 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khó khăn. Chính vì thế hoạt động tư vấn đầu tư cho nhà đầu tư của các Công ty chứng khoán lại trở nên cần thiết và không thể thiếu được. Bởi lẽ đây là một hoạt động có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao văn hóa đầu tư cho công chúng và việc tạo lòng tin của họ vào TTCK. Tuy nhiên, TTCk Việt Nam hiện nay hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán cho nhà đầu tư chưa được Chính phủ và các cơ quan quản lý, các Cty chứng khoán quan tâm đúng mức, ngay cả chính các nhà đầu tư cũng chưa nhận ra được lợi ích của tư vấn đầu tư chứng khoán. Hoạt động này vì vậy còn nhiều vấn đề tồn tại cần phải xem xét, nghiên cứu sâu hơn.
Những suy nghĩ trên cùng với quá trình quan sát trực tiếp việc triển khai hoạt động này trong thời gian thực tập tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương đã dẫn tôi đi đến quyết định lựa chọn đề tài “ Phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương”
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Đề tài “ Phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương “ được thực hiện với mục đích nghiên cứu lý luận hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại công ty chứng khoán nói chung và nghiên cứu thực trạng hoạt động nay đang diễn ra tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương nói riêng từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển hoạt động này tại Công ty
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này, đối tượng nghiên cứu của nó là lý thuyết về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán – một trong những hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán và thực tế của hoạt động này tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương.
Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có rất nhiều mảng nhưng trong phạm vi của đề tài này tôi chỉ tập trung nghiên cứu nội dung tư vấn đầu tư cho nhà đầu tư cá nhân. Đây là một trong những vấn đề hiện nay chưa được quan tâm đúng mức và còn nhiều những bất cập. Nhìn nhận từ thực tế hiện trạng TTCK Việt Nam hiện nay cho thấy tư vấn đầu tư cổ phiếu cho nhà đầu tư cá nhân là hình thức tư vấn phổ biến và cần thiết nhất nên đề tài nghiên cứu sâu hơn hình thức tư vấn này.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được xây dựng trên các quan điểm duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và các phương pháp nghiên cứu khác: phương pháp thống kê toán, tổng hợp so sánh, phân tích các số liệu.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của công ty chứng khoán
Chương 2: Thực trạng hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương
CHƯƠNG 1:
CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
1.1. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
Khái niệm, đặc điểm và vai trò của công ty chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm công ty chứng khoán
Thị trường chứng khoán là hình thức phát triển bậc cao của nền kinh tế thị trường. Một trong những chỉ tiêu quan trọng và chính xác để đo lường mức độ phát triển của một nền kinh tế đó là sự phát triển của TTCK.
Sản phẩm trên TTCK không giống với các hàng hóa thông thường khác ở chỗ chúng là những hàng hóa đặc biệt. Đó không phải là những sản phẩm hữu hình có thể cầm, nắm, sờ, ngửi, nếm hay cân đo đong đếm được mà đó là những sản phẩm tài chính còn được gọi với tên phổ biến là chứng khoán. Thực ra hình thức thể hiện của chứng khoán cũng giống như tiền – tức là không có giá trị nội tại. Giá trị của nó chính là các cam kết lợi ích mà tổ chức phát hành mang lại với những điều kiện ràng buộc cụ thể. Thuộc tính gắn liền với chứng khoán là tính sinh lợi, tính rủi ro và tính thanh khoản. Chính vì những đặc điểm này đã làm chứng khoán trở thành một loại hàng hóa cao cấp, mà việc xác định giá trị thật không đơn giản. Trên TTCK, không phải trực tiếp những người muốn mua hay bán chứng khoán trao đổi với nhau mà mọi giao dịch phải được thực hiện qua khâu trung gian, đó là các công ty chứng khoán. Trung gian là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTCK để đảm bảo tính trật tự trên thị trường, hỗ trợ cho công tác quản lý thị trường đồng thời đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư. Chính vì thế trên TTCK phải có các nhà môi giới để đảm nhiệm khâu trung gian này.
Lịch sử hình thành và phát triển của TTCK cho thấy ban đầu các nhà môi giới thường là cá nhân hoạt động độc lập sau đó trải qua quá trình hoạt động cùng với sự tăng lên của quy mô và khối lượng giao dịch các nhà môi giới có xu hướng tập hợp theo một tổ chức nhất định – đó là các công ty chứng khoán. Điều này chứng tỏ rằng người môi giới có thể là thể nhân hoặc pháp nhân nhưng trên thực tế môi giới pháp nhân được nhà đầu tư và pháp luật tin tưởng hơn.
Theo Giáo trình Thị trường chứng khoán xuất bản năm 2002 của Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội “ Công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK ”. Ở Việt Nam, Cty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Căn cứ vào loại hình kinh doanh chứng khoán nhất định mà Cty chứng khoán thực hiện, người ta có thể chia Cty chứng khoán thành các loại sau:
- Công ty môi giới chứng khoán: là Cty chứng khoán chỉ đơn thuần thực hiện lệnh mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí.
- Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: bảo lãnh phát hành chứng khoán là nghiệp vụ hoạt động chính của Cty chứng khoán và họ sẽ thu phí hoặc hưởng chênh lệch giá từ hoạt động này.
- Công ty kinh doanh chứng khoán: là loại Cty chứng khoán dùng vốn tự có của công ty tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường vì mục tiêu lợi nhuận.
- Công ty trái phiếu: là Cty chứng khoán chuyên mua bán các loại trái phiếu
- Công ty chứng khoán không tập trung: là các Cty chứng khoán hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và đóng vai trò là nhà tạo là nhà tạo lập thị trường.
Như vậy, Cty chứng khoán là một chủ thể quan trọng không thể thiếu trên TTCK. Họ là tổ chức trung gian kết nối giữa tổ chức phát hành với nhà đầu tư, họ cũng có thể là nhà tạo lập thị trường và đồng thời là tổ chức cung cấp các dịch vụ cần thiết phục vụ cho hoạt động giao dịch chứng khoán trên thị trường.
1.1.1.2. Đặc điểm của công ty chứng khoán
Là một chủ thể kinh doanh, Cty chứng khoán cũng có những điểm tương đồng với các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, sản phẩm và dịch vụ mà Cty chứng khoán cung cấp đều liên quan đến chứng khoán đã làm cho Cty chứng khoán mang những đặc trưng khác riêng. Không những thế các Cty chứng khoán ở các nước khác nhau cũng có thể có điểm khác nhau, thậm chí ở trong cùng một quốc gia các Cty chứng khoán vẫn có nhiều sự khác biệt tùy thuộc vào tính chất hoạt động của Cty và mức độ phát triển của thị trường. Song xét về bản chất các Cty chứng khoán có một số đặc trưng cơ bản sau :
Về loại hình tổ chức của Cty chứng khoán
Trong lịch sử và trên thực tế, Cty chứng khoán đã từng được tồn tại dưới nhiều loại hình tổ chức như công ty cổ phần, doanh nghiệp góp vốn, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp liên doanh. Mỗi loại hình này đều có những ưu thế, bất lợi riêng, trong đó loại hình doanh nghiệp: công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn với những ưu điểm về quyền sở hữu, khả năng huy động vốn, năng lực điều hành, tư cách pháp lý… rất phù hợp với nghiệp vụ chứng khoán đã trở thành sự lựa chọn phổ biến ở các quốc gia.
Về mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán
Việc xác định mô hình tổ chức kinh doanh của Cty chứng khoán không đơn giản chỉ là quyết định của bản thân công ty mà hơn thế nó mang tính pháp luật, thể hiện ở chỗ: những người làm công tác quản lý Nhà nước sẽ cân nhắc, lựa chọn ra mô hình phù hợp nhất với đặc điểm của hệ thống tài chính, hệ thống pháp luật, mức độ phát triển của nền kinh tế. Từ đó, các Cty chứng khoán chỉ được phép hoạt động theo những mô hình đã lựa chọn.
Hiện nay, trên thế giới có hai mô hình phổ biến về Cty chứng khoán:
- Mô hình công ty chuyên doanh chứng khoán.
Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các Cty chứng khoán độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không đuợc tham gia vào kinh doanh chứng khoán.
Với ưu điểm hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho TTCK phát triển, mô hình này đang được nhiều quốc gia trên thế giới áp dụng, trong đó có các nước phát triển như: Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Canada, Thái lan…
Những năm gần đây, các nước áp dung mô hình này có xu hướng nới lỏng dần những hạn chế đối với ngân hàng thương mại trong nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán, từng bước xóa bỏ hàng rào ngăn cách giữa loại hình kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chứng khoán.
- Mô hình công ty đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ
Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại được phép thực hiện các nghiệp vụ chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia thành 2 loại:
+ Loại đa năng một phần: Muốn tham gia kinh doanh chứng khoán trên TTCK, các ngân hàng thương mại phải thành lập Cty chứng khoán trực thuộc, hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với hoạt động kinh doanh tiền tệ.
+ Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng thương mại được phép tham gia hoạt động kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật
Mô hình đa năng có ưu điểm là các ngân hàng thương mại có thể thực hiện đa dạng hóa, giảm bới rủi ro, tăng khả năng chịu đựng những biến động của thị trường tài chính. Bên cạnh đó, ngân hàng còn tận dụng được thế mạnh về chuyên môn, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn, mạng lưới khách hàng để kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như không thúc đẩy được thị trường cổ phiếu phát triển vì các ngân hàng có xu hướng bảo thủ thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán như: bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Và một khi thị trường có biến động thì nó có thể ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng nếu các ngân hàng không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh tiền tệ và kinh doanh chứng khoán.
Về tính chuyên môn hóa và phân cấp quản lý
Các Cty chứng khoán chuyên môn hóa ở mức độ cao trong từng bộ phận, từng phòng ban, từng đơn vị kinh doanh nhỏ.
Nếu như ở các doanh nghiệp sản xuất, trong quy trình sản xuất sản phẩm giữa các khâu phải có mắt xích kết nối, một sản phẩm ra đời nó phải trải qua tất cả các công đoạn một, không thể thiếu một công đoạn nào. Trong khi đó, toàn bộ các nghiệp vụ của Cty chứng khoán đều phục vụ cho các giao dịch chứng khoán những mỗi một nghiệp vụ lại liên quan đến một góc cạnh riêng. Các phòng ban khác nhau đảm nhiệm các công việc khác nhau như: môi giới, tự doanh,bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán và ngay cả trong từng bộ phận các công việc đều được phân công cụ thể, rõ ràng đến từng nhân viên.
Từ trình độ chuyên môn hóa cao độ dẫn đến phân cấp quản lý và làm nảy sinh việc có quyền tự quyết. Các bộ phận trong Cty chứng khoán nhiều khi không phụ thuộc lẫn nhau ( ví dụ bộ phận môi giới và bộ phận tự doanh, hay môi giới và bộ phận bảo lãnh phát hành ). Giữa các phòng ban có một sự độc lập tương đối, mối liên kết không phải mật thiết, hữu cơ như trong các doanh nghiệp sản xuất khác,. Chính vì vậy hoạt động hay cơ cấu của phòng ban này không tác động nhiều đến phòng ban khác.
Về nhân tố con người
Sản phẩm càng trừu tượng thì nhân tố con người càng quan trọng. Chứng khoán là một loại tài sản tài chính đặc biệt mà việc thẩm định chất lượng của nó không phải giống như hàng hóa thông thường. Sự có mặt của môi giới trên TTCK là cần thiết khi người đầu tư không biết được nhiều thông tin hay không có khả năng phân tích thông tin một cách thích hợp để từ đó đánh giá và quyết định hướng sử dụng vốn của mình.
Đối với các Cty chứng khoán, với chức năng là tổ chức trung gian tài chính thì khách hàng là mục tiêu số một, mục tiêu quan trọng nhất. Khách hàng của Cty chứng khoán gồm các công ty phát hành chứng khoán, nhà đầu tư chứng khoán. Như vậy, khách hàng của Cty chứng khoán cũng là chủ thể tham gia trên TTCK có tư cách là người đại diện cho nguồn cung hoặc nguồn cầu chứng khoán. Để có thể tồn tại và phát triển, Cty chứng khoán phải thực hiện nguyên tắc “biết khách hàng của mình”, nắm rõ khả năng tài chính của khách hàng, tư vấn cho khách hàng, giữ gìn đạo đức kinh doanh và tôn trọng khách hàng, luôn luôn đặt khách hàng lên trên hết.
Làm được điều này, Cty chứng khoán phải dựa vào chất lượng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ nhân viên và cán bộ quản lý trong công ty. Do đó, ở bất kỳ thời điểm nào Cty chứng khoán cũng thực sự chú trọng đến nhân tố con người, thể hiện ở những điểm sau:
+ Thuê nhân viên phù hợp
+ Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
+ Có chế độ đãi ngộ và khuyến khích nhân viên
+ Có chính sách ưu đãi đối với nhân viên phù hợp với chiến lược quản lý nhân lực
Có một điểm đặc biệt mà Cty chứng khoán khác với các công ty khác, đó là trong công ty chứng khoán việc thăng tiến cất nhắc lên những vị trí cao hơn là không quan trọng. Các chức vụ quản lý hay giám đốc trong công ty còn có thể nhận được ít thù lao hơn so với một số nhân viên cấp dưới.
Về ảnh hưởng của thị trường tài chính
Rõ ràng, Cty chứng khoán tham gia hoạt động trực tiếp trên TTCK thì bất kỳ một biến động nào của TTCK nói riêng và thị trường tài chính nói chung đều tác động sâu sắc đến chuyên môn, sản phẩm, dịch vụ và doanh thu của Cty chứng khoán.
Thị trường tài chính, TTCK càng phát triển càng tạo ra nhiều công cụ tài chính, có thêm nhiều dịch vụ, mở rộng phạm vi kinh doanh và quan đó một mặt tạo cơ hội thu lợi nhuận cho Cty chứng khoán, mặt khác buộc các Cty chứng khoán phải cải tiến, sáng tạo không ngừng để thích nghi với môi trường hoạt động.
Tùy thuộc vào mức độ phát triển, quy mô của thị trường, phương thức kinh doanh của chủ sở hữu, khách hàng… cơ cấu tổ chức của các Cty chứng khoán cũng khác nhau để đáp ứng những nhu cầu riêng, từ đơn giản đến phức tạp. Nếu ở một số nước như Mỹ, Nhật Bản Cty chứng khoán có cơ cấu tổ chức rất phức tạp thì ở các nước mới có TTCK như ở Đông Âu, Trung Quốc cơ cấu tổ chức của các Cty chứng khoán lại đơn giản hơn nhiều.
Về cơ cấu tổ chức của Cty chứng khoán
Cơ cấu tổ chức của Cty chứng khoán phụ thuộc vào quy mô kinh doanh và các nghiệp vụ mà công ty được phép hoạt động. Mặt khác nó còn căn cứ vào tính chất sở hữu của Cty chứng khoán.
Theo thông lệ quốc tế, cơ cấu tổ chức của một Cty chứng khoán chia thành 2 khối chủ yếu: khối nghiệp vụ và khối phụ trợ.
- Khối nghiệp vụ: khối này thực hiện các giao dịch chứng khoán và tạo ra phần lợi nhuận chủ yếu cho công ty. Tương ứng với các nghiệp vụ do khối này đảm nhiệm sẽ có những phòng ban nhất định, gồm
+ Phòng môi giới
+ Phòng tự doanh
+ Phong bảo lãnh phát hành
+ Phòng quản lý danh mục đầu tư
+ Phòng tư vấn tài chính và tư vấn đầu tư chứng khoán
+ Phòng ký quỹ
- Khối phụ trợ: khối này không trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh mà có chức năng phụ trợ cho các nghiệp vụ này. Thông thường khối này bao gồm các phòng:
+ Phòng nghiên cứu và phát triển
+ Phòng phân tích và thông tin thị trường
+ Phòng kế hoạch công ty
+ Phòng phát triển sản phẩm mới
+ Phòng công nghệ tin học
+ Phòng pháp chế
+ Phòng kế toán, thanh toán và kiểm soát nội bộ
+ Phòng ngân quỹ
+ Phòng tổng hợp hành chính nhân sự
1.1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán
Khi xuất hiện Cty chứng khoán với tư cách là tổ chức trung gian tài chính thì Cty chứng khoán đã góp phần làm cho kênh huy động vốn trung và dài hạn trở nên thông suốt, dễ dàng hơn, san sẻ bớt gánh nặng cho hệ thống ngân hàng thương mại.
Trên TTCK, Cty chứng khoán có 3 chức năng cơ bản sau:
- Tạo cơ chế huy động vốn bằng cách làm cầu nối gặp gỡ giữa những người có tiền nhàn rỗi với những người cần vốn.
- Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch
- Tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán
Xem xét tất cả các khía cạnh của Cty chứng khoán, từ đặc điểm đến chức năng cho ta thấy được vai trò quan trọng không thể thiếu được của Cty chứng khoán đối với sự tồn tại và phát triển của TTCK
Vai trò đối với các tổ chức phát hành
Trên lý thuyết, khi doanh nghiệp cần huy động vốn bằng cách phát hành chứng khoán, họ có thể tự chào bán khối lượng chứng khoán đến các nhà đầu tư. Tuy nhiên, họ khó có thể làm tốt điều này bởi một lẽ họ không có bộ máy chuyên nghiệp. Cần có những nhà chuyên nghiệp mua bán chứng khoán cho họ. Mặt khác nguyên tắc trung gian của TTCK không cho phép nhà đầu tư và nhà phát hành trực tiếp mua bán chứng khoán mà phải thông qua tổ chức trung gian mua bán. Do vậy, các Cty chứng khoán với cơ cấu tổ chức thích hợp, trình độ chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành giúp di chuyển dòng vốn từ nhà đầu tư đến tổ chức phát hành.
Vai trò đối với nhà đầu tư
Trên TTCK, giá cả các loại hàng hóa biến động thường xuyên. Trong khi đó các nhà đầu tư không phải ai cũng có đủ điều kiện, khả năng nắm bắt hoặc xử lý được các thông tin, diễn biến trên TTCK để xác định đúng giá trị các chứng khoán đó.
Cty chứng khoán có đặc thù riêng. Cty chứng khoán trở thành nơi tập hợp những nguồn thông tin đáng tin cậy nhất của thị trường, họ có trình độ và kỹ thuật sàng lọc thông tin từ đó làm cơ sở cho tư vấn. Từ đó, thông qua các nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư, quản lý danh mục đầu tư cac Cty chứng khoán cung cấp một cơ chế giá cả giúp nhà đầu tư đưa ra được nhận định đúng giá trị khoản đầu tư của mình cũng như giảm chi phí và thời gian giao dịch.
Bên cạnh đó, với trình độ của một chuyên gia tài chính các Cty chứng khoán giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách có hiệu quả.
Sự uy tín của các Cty chứng khoán làm khơi dậy niềm tin và quan trọng hơn nữa là tạo ra nhu cầu đầu tư vào TTCK của công chúng.
Vai trò đối với TTCK
- Thứ nhất, Cty chứng khoán góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh chứng khoán cho các tổ chức phát hành, Cty chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá chào bán hợp lý đối với các chứng khoán. Thông thường mức giá phát hành do các Cty chứng khoán xác định trên cơ sở tiếp xúc, tìm hiểu và thõa thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành đó và tư vấn cho tổ chức phát hành.
Trên thị trường thứ cấp, dù là thị trường đấu giá hay thị trường đấu lệnh, Cty chứng khoán luôn có vai trò giúp các nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về các khoản đầu tư của họ, bởi vì giá đó được xác định theo quy luật cung cầu thị trường.
Như vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các Cty chứng khoán.
Ngoài ra, ở một số nước theo quy định của pháp luật các Cty chứng khoán phải dành một tỉ lệ nhất định trong giao dịch của mình để mua vào khi giá chứng khoán giảm và bán ra khi giá chứng khoán tăng. Hoạt động này đã có tác dụng lớn trong việc điều tiết giá chứng khoán, bình ổn thị trường.
- Thứ hai, tạo tính thanh khoản cho các tài sản tài chính
Các Cty chứng khoán thực hiện cơ chế giao dịch chứng khoán trên cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Từ đó, các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại một cách thuận tiện, nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém và ít thiệt hại nhất.
Vai trò đối với cơ quan quản lý thị trường
Cty chứng khoán là thành viên hoạt động thường xuyên, liên tục trên TTCK theo nguyên tắc công khai và trung gian. Với ưu thế nắm rõ tình hình các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư thông qua vai trò bảo lãnh phát hành, trung gian mua bán, Cty chứng khoán là nơi cung cấp tình hình về các giao dịch, về các loại chứng khoán, về tổ chức phát hành, về nhà đầu tư, về các biến động của thị trường một cách cập nhật, chính xác và tổng hợp nhất. Dựa vào nguồn thông tin này, cơ quan quản lý thị trường có thể theo dõi giám sát toàn cảnh hoạt động trên thị trường chứng khoán để từ đó đưa ra các quyết định, chính sách đúng đắn, phù hợp, kịp thời đảm bảo cho thị trường diễn ra một cách trật tự, khuôn khổ và có hiệu quả.
Các hoạt động của Công ty chứng khoán
1.1.2.1. Các hoạt động chính
Cty chứng khoán có thể thực hiện một hoặc một số hay tất cả các nghiệp vụ trên TTCK hay không không chỉ phụ thuộc vào quy mô, năng lực của công ty mà còn tuân thủ quy định của pháp luật về điều kiện hành nghề.
Hiện nay, trên TTCK Cty chứng khoán đảm nhận các hoạt động cơ bản sau:
Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động cơ bản đầu tiên của Cty chứng khoán. Trong loại hình kinh doanh này, Cty chứng khoán đại diện cho khách hàng thực hiện các lệnh mua, lệnh bán chứng khoán do khách hàng yêu cầu để hưởng phí giao dịch. Ở đây, quyết định mua bán là do khách hàng đưa ra do đó khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình, việc hạch toán các giao dịch phải được thực hiện trên các tài khoản thuộc sở hữu của khách hàng và Cty chứng khoán chỉ được thu phí môi giới theo thỏa thuận trong hợp đồng.
Ở Việt Nam, theo Nghị định số 144/2003/NĐ – CP về chứng khoán và thị trường chứng khoán thì “Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng phí”.
Hành nghề môi giới có thể ở tư cách pháp nhân hoặc thể nhân và dù ở tư cách nào thì theo quy định chung cho nghề môi giới chứng khoán đều phải có một số vốn nhất định (ở Việt Nam mức vốn pháp định cho loại hình kinh doanh môi giới là 3 tỷ VNĐ).
Hoạt động môi giới không đơn thuần chỉ nhận lệnh mua bán cho khách hàng, mà hơn thế, để góp phần nâng cao uy tín cho công ty, thu hút khách hàng thì nhân viên môi giới phải thực hiện vai trò là người tư vấn đầu tư có hiệu quả. Nhằm bảo vệ quyền lợi cho khách hàng cũng như đảm bảo tính ổn định hiệu quả cho TTCK, pháp luật có những yêu cầu rất cao đối với nhà môi giới. Người môi giới, trước hết phải được tín nhiệm, phải có lòng tin của khách hàng. Tiếp đó họ phải có năng lực, kinh nghiệm nghề nghiệp, có khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp. Chẳng hạn tại Pháp, hành nghề môi giới phải được Liên đoàn những người môi giới chấp nhận và là một chức danh được Nhà nước công nhận.
Hoạt động môi giới vừa kết nối giữa những người bán và người mua mà còn giới thiệu với khách hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính. Các nhà môi giới dù hoạt động trên thị trường tập trung hay thị trường OTC đều phải đăng ký và được cấp giấy phép hành nghề.
Tính chất công việc đã tạo nên những đặc trưng riêng của nghề môi giới, đó là:
- Áp lực công việc, tập trung cao độ, lao động cật lực bù lại thù lao xứng đáng
- Do đặc thù là sản phẩm tư vấn nên đòi hỏi hàm lượng kiến thức lớn
- Có khả năng giao tiếp và khả năng thuyết trình tốt
- Sản phẩm của môi giới là các dịch vụ tài chính đòi hỏi thường xuyên phải đổi mới. Do vậy nhà môi giới phải không ngừng sáng tạo, tìm tào tạo ra các sản phẩm mới
- Đối mặt với nhiều xung đột, nhà môi giới đứng giữa quyền lợi của công ty và quyền lợi của khách hàng
- Nghề môi giới có tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp. Các nhà môi giới luôn phải xây dựng cho mình những tiêu chuẩn đạo đức này và phải xây dựng cho mình một hình ảnh đẹp về nghề môi giới
Hoạt động tự doanh
Theo Nghị định số 144/2003/NĐ –CP “ Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua và bán chứng khoán cho chính mình “
Song song với hoạt động môi giới, tự doanh chứng khoán cũng là một hoạt động chủ yếu của Cty chứng khoán. Trên TTCK, Cty chứng khoán là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp không có lý do gì mà họ không tự đầu tư cho chính mình. Với hoạt động này họ trở thành nhà đầu tư lớn – nhà đầu tư có tổ chức, góp phần làm sôi động thị trường.
Tự doanh là kinh doanh cho chính mình và vì mục tiêu lợi nhuận nên mức độ rủi ro lớn do đó muốn thực hiện hoạt động tự doanh Cty chứng khoán phải có một số vốn đủ lớn, thường lớn hơn nhiều so với hoạt động môi giới. Mặt khác để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường các Cty chứng khoán còn phải tuân thủ những yêu cầu nhất định của pháp luật, trong đó 2 yêu cầu cơ bản là vốn và con người. Chỉ khi Cty chứng khoán đáp ứng được mức vốn pháp định thì họ mới được phép tiến hành hoạt động này. Pháp luật Việt Nam quy định mức vốn quy định cho hoạt động tự doanh là 12 tỷ VNĐ. Bên cạnh đó, nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải có một trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và đặc biệt là tính nhạy cảm trong công việc. Tại một số nước ( như Mỹ, Thái lan ) nhân viên tự doanh của Cty chứng khoán phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm làm việc lâu năm trong ngành, phải có bằng thạc sỹ trở lên và phải có một số chứng chỉ chuyên môn.
Cty chứng khoán có thể mua bán trên thị trường tập trung hay thị trường OTC. Một số TTCK hoạt động tự doanh của Cty chứng khoán còn được thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Khi đó, Cty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số luợng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiên mua bán với các khách hàng nhằm hưởng chênh lệch giá.
Đối với những Cty chứng khoán mà thực hiện đồng thời cả 2 nghiệp vụ môi giới và tự doanh thì thường xảy ra xung đột lợi ích, lợi ích của công ty và lợi ích của khách hàng. Bởi vì khi tiến hành mua bán chứng khoán cả khách hàng và Cty chứng khoán đều đóng vai trò là nhà đầu tư, đều phải thực hiện đặt lệnh và trường hợp nhân viên môi giới ưu tiên cho bộ phận tự doanh là có thể xảy ra do vậy làm ảnh hưởng đến quyền lợi của khách hàng. Thực tế này buộc pháp luật phải can thiệp nhằm bảo vệ nhà đầu tư bằng cách buộc các Cty chứng khoán phải tách bạch giữa nghiệp vụ môi giới và tự doanh. Thậm chí ở một số nước còn quy định có hai loại hình Cty chứng khoán là Cty chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và Cty chứng khoán chỉ có chức năng tự doanh.
Trong quá trình thực hiện hoạt động tự doanh, ngoài những yêu cầu ban đầu là vốn và con người thì các Cty chứng khoán còn phải đáp ứng những yêu cầu pháp lý sau:
Tách biệt quản lý
Để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động, các Cty chứng khoán phải tách biệt giữa hoạt động tự doanh và hoạt động môi giới. Sự tách biệt này bao gồm các yếu tố: con người, quy trình nghiệp vụ, vốn và tài sản của khách hàng và công ty.
Cty chứng khoán hải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ môi giới và tự doanh. Tại Thái lan, Cty chứng khoán thực hiện hoạt động tự doanh còn phải tuân thủ nguyên tắc phân chia ranh giới một cách rõ ràng. Nhân viên của bộ phận này không được trao đổi hay sang khu vực làm việc của khu vực khác. Thêm vào đó, Cty chứng khoán không được sử dụng tài sản của khách hàng để tiến hành hoạt động tự doanh nếu chưa được sự đồng ý của khách hàng.
Ưu tiên khách hàng
Do có lợi thế về nghiệp vụ, chuyên môn, thông tin Cty chứng khoán có thể mua tranh bán cướp với khách hàng. Nhằm thiết lập sự công bằng và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư, pháp luật quy định Cty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc: lênh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty.
Góp phần bình ổn thị trường
TTCK luôn ẩn chứa nhiều biến động bất thường. Để có thể can thiệp theo hướng điều chỉnh làm ổn định thị trường cần thiết phải có những nhà đầu tư lớn – đó là các ngân hàng, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm và các Cty chứng khoán. Bởi vì Cty chứng khoán hội tụ đủ những điều kiện như vốn, trình độ có thể thông qua hoạt động tự doanh tác động đến cung – cầu điều tiết giá chứng khoán. Phần lớn các nước phát triển đều quy định: Các Cty chứng khoán nếu có nghiệp vụ tự doanh chứng khoán phải tham gia can thiệp trên TTCK để điều tiết giá chứng khoán bằng việc mua chứng khoán vào khi giá chứng khoán giảm và tung chứng khóan dự trữ ra khi giá chứng khoán tăng. Ở Mỹ, các Cty chứng khoán phải dành một tỉ lệ 60% giao dịch của mình cho hoạt động có tính chất ổn định thị trường.
Hoạt động bảo lãnh phát hành
Nguyên tắc trung gian trên TTCK yêu cầu trên thị trường sơ cấp, các nhà đầu tư không mua chứng khoán trực tiếp của các nhà phát hành mà mua từ các nhà bảo lãnh. Điều này lý giải tại sao các doanh nghiệp khi muốn phát hành chứng khoán phải thông qua các tổ chức bảo lãnh như ngân hàng đầu tư và Cty chứng khoán. Trong đó với đội ngũ chuyên gia giỏi về chứng khoán, am hiểu thị trường, có tiềm lực tài chính, các Cty chứng khoán hoạt động rất mạnh mẽ về nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. Còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các Cty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác.
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Như vậy bảo lãnh phát hành gồm:
- Nghiên cứu và tư vấn cho tổ chức phát hành về các thủ tục và phương pháp phát hành, loại chứng khoán phát hành, cơ cấu giá
- Thỏa thuận với các nhà bảo lãnh khác trong việc tiếp thị, phân phối chào bán chứng khoán
- Quản lý phân phối và thanh toán chứng khoán
- Thực hiện các công việc hỗ trợ cho trị trường và dịch vụ sau khi phát hành
- Đại lý phân phối chứng khoán
Thực tế chỉ có những Cty chứng khoán lớn mới có thể thực hiện loại hình bảo lãnh phát hành bởi vì người bảo lãnh phải có năng lực tài chính mạnh. Ở Việt Nam, một Cty chứng khoán muốn được bảo lãnh phát hành phải có một số vốn tối thiểu là 22 tỷ VNĐ.
Qua hoạt động bảo lãnh phát hành, các Cty chứng khoán thu phí bảo lãnh. Do tính chất hoạt động khó khăn và phức tạp nên mức phí này cao, là loại phí chiếm tỉ trọng lớn nhất trong toàn bộ chi phí mà tổ chức phát hành phải bỏ ra (phí bảo lãnh phát hành thường chiếm 7% giá trị hợp đồng bảo lãnh, có khi xê dịch từ 5% đến 10%). Vì vậy nghiệp vụ này đóng góp một tỉ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của Cty chứng khoán.
Cam kết bảo lãnh phát hành của tổ chức bảo lãnh đối với tổ chức phát hành là đảm bảo thực hiện thành công việc phát hành chứng khoán bằng cách:
- Hứa mua trực tiếp toàn b._.ộ hay một phần số chứng khoán được phát hành
- Đảm bảo bán chứng khoán với giá nhất định
- Cam kết mua lại số chứng khoán không bán được
Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Theo giáo trình Thị trường chứng khoán của Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội “ Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hành “
Trong hoạt động tư vấn tồn tại hai chủ thể chính: người cần được tư vấn và những nhà tư vấn. Sản phẩm tư vấn có thể bao gồm: tư vấn phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư cổ phiếu, trái phiếu, tư vấn toàn danh mục.
Tính đa dạnh và phong phú của hoạt động tư vấn được thể hiện qua một số tiêu chí phân loại sau:
Theo hình thức hoạt động tư vấn
- Tư vấn trực tiếp: khách hàng gặp gỡ trực tiếp với nhà tư vấn hoặc sử dụng các phương tiện liên lạc như: điện thoại, fax…
- Tư vấn gián tiếp: nhà tư vấn tư vấn cho khách hàng thông qua các ấn phẩm, sách báo hoặc đưa thông tin lên các phương tiện truyền thông như Internet
Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn
- Tư vấn gợi ý: theo cách thức này, người tư vấn chỉ nêu lên những ý kiến của mình về diễn biến trên thị trường, đưa ra những cách thức, phương pháp xử lý các vấn đề, tình huống nhưng quyền quyết định là của khách hàng.
- Tư vấn ủy quyền: người tư vấn vừa đưa ra những tư vấn của mình vừa quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng.
Theo đối tượng tư vấn
- Tư vấn cho người phát hành: hoạt động này rất đa dạng, từ việc tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành; xây dựng hồ sơ, bản cáo bạch vừa giúp tổ chức phát hành trong việc lựa chọn tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán đến việc phân tích tình hình tài chính, xác định giá trị doanh nghiệp, giúp tổ chức phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, chia tách, thâu tóm, sát nhập, hợp nhất doanh nghiệp, niêm yết chứng khoán. Công việc này đòi hỏi Cty chứng khoán phải nắm rõ quy trình tư vấn, các quy định liên quan, tìm hiểu về nhà phát hành có hội đủ những tiêu chuẩn đáp ứng yêu cầu của luật pháp và luật chứng khoán hay không?, hiểu rõ thực trạng tài chính của khách hàng đồng thời tình hình của thị trường.
- Tư vấn đầu tư: là hoạt động nhà đầu tư tư vấn cho khách hàng về thời gian mua bán, nắm, giữ, loại chứng khoán, giá trị của chứng khoán, cung cấp các thông tin.
Hoạt động tư vấn chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn trong các phần tiếp theo đây của chuyên đề.
Hoạt động quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là nghiệp vụ quản lý vốn ủy thác của khách hàng để đầu tư vào chứng khoán thông qua danh mục đầu tư nhằm sinh lợi cho khách hàng trên cơ sở tăng lợi nhuận và bảo toàn vốn cho khách hàng.
Đây cũng là một dịch vụ tư vấn của Cty chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này Cty chứng khoán tiến hành đầu tư trên nguồn vốn của khách hàng theo thỏa thuận giữa hai bên.
Quy trình thực hiện hoạt động quản lý danh mục đầu tư có thể gồm những bước sau:
Xúc tiến tìm hiểu và nhận yêu cầu quản lý
Có những khách hàng có vốn nhàn rỗi muốn tìm kiếm một hình thức đầu tư có mức sinh lợi cao hơn so với gửi tiết kiệm ngân hàng và họ có khả năng chấp nhận rủi ro lớn hơn. Tuy nhiên họ lại không có đủ thời gian, kiến thức chuyên môn để tự chính mình tiến hành đầu tư nên họ tìm đến Cty chứng khoán nhờ đầu tư hộ. Cty chứng khoán sẽ tìm hiều về năng lực tài chính, mức sinh lời kỳ vọng, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng để đưa ra các hình thức quản lý danh mục phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
Ký kết hợp đồng quản lý
Sau khi thiết kế được hợp đồng cho khách hàng thì Cty chứng khoán và khách hàng sẽ ký kết hợp đồng quản lý đó. Hợp đồng này được thảo ra trên nguyên tắc của luật dân sự và tuân thủ các quy định của ngành chứng khoán. Nội dung của hợp đồng bao gồm: số vốn ủy thác, thời gian ủy thác, mục tiêu đầu tư, quyền và trách nhiệm của các bên, phí quản lý danh mục đầu tư.
Trong hợp đồng, Cty chứng khoán phải xác định rõ với khách hàng là họ không đảm bảo về lợi nhuận đầu tư và mọi rủi ro của hoạt động đầu tư sẽ do khách hàng gánh chịu. Mức độ ủy quyền của khách hàng cũng được đề cập rõ ràng. Khách hàng có thể ủy quyền toàn bộ cho Cty chứng khoán, tức cho phép Cty chứng khoán có quyền quyết định về đối tượng đầu tư, danh mục gồm những chứng khoán nào, thời điểm nào mua bán. Hợp đồng quản lý danh mục đầu tư cũng có thể là hợp đồng ủy quyền một phần, trong đó khách hàng quy định rõ Cty chứng khoán chỉ được phép thay mặt mình thực hiện một số hoạt động nào đó. Các hoạt động này phải được liệt kê đầy đủ trong hợp đồng quản lý danh mục đầu tư và Cty chứng khoán phải tuân thủ các yêu cầu này.
Thực hiện hợp đồng quản lý
Cty chứng khoán tiến hành đầu tư vốn của khách hàng theo hợp đống đã ký kết. Lúc này Cty chứng khoán là một nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường, họ phải đánh giá các cơ hội đầu tư, lựa chọn chứng khoán cho danh mục, xác định thời điểm mua bán và thường xuyên kiểm tra lại sự tối ưu của danh mục.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng, Cty chứng khoán phải đảm bảo thực hiện các quy định về quản lý vốn, tài sản tách biệt giữa khách hàng và chính công ty.
Kết thúc hợp đồng quản lý
Khi kết thúc thời hạn hợp đồng khách hàng có nghĩa vụ thanh toán các khoản phí theo hợp đồng đã ký kết và xử lý các trường hợp khi Cty chứng khoán bị ngưng hoạt động, giải thể hoặc phá sản.
Hoạt động quản lý danh mục đầu tư cũng có một số mâu thuẫn với hoạt động môi giới và hoạt động tự doanh. Đó là Cty chứng khoán có thể tiến hành nhiều giao dịch cho khách hàng trên mức cần thiết để thu phí môi giới. Ngoài ra, khi công ty tiên hành hoạt động tự doanh có thể lợi dụng tài sản của khách hàng để kiếm lợi cho mình. Đây là một trong nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cơ quan quản lý thị trường đặt ra những quy định đối với Cty chứng khoán buộc các Cty chứng khoán phải tách biệt các nghiệp vụ này và phải quản lý chặt chẽ.
Các hoạt động phụ trợ
1.1.2.2.1. Lưu ký chứng khoán
Là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán cho khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Khi thực hiện dịch vụ lưu ký, Cty chứng khoán sẽ nhận được các khoản phí lưu ký chứng khoán, phí gửi và phí chuyển nhượng chứng khoán.
1.1.2.2.2. Quản lý thu nhập của khách hàng:
Thông qua tài khoản lưu ký của khách hàng, Cty chứng khoán sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng.
1.1.2.2.3. Nghiệp vụ tín dụng
Đây là dịch vụ mà Cty chứng khoán cho khách hàng vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc Cty chứng khoán cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ.
1.1.2.2.4. Nghiệp vụ quản lý quỹ
Ở một số TTCK, pháp luật còn cho phép Cty chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, Cty chứng khoán cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. Cty chứng khoán được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư.
1.2. HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Khái niệm tư vấn đầu tư chứng khoán
1.2.1.1. Tổng quan về hoạt động tư vấn chứng khoán
Hoạt động tư vấn thực tế không còn xa lạ gì trong cuộc sống thường ngày của chúng ta, đó có thể là tư vấn y tế, tư vấn pháp luật, tư vấn đầu tư nước ngoài…
Vậy thì tư vấn là gì?
Xét theo nghĩa rộng, tư vấn là hoạt động của những tổ chức, cá nhân có chuyên môn giúp đỡ những cá nhân, tổ chức khác không am hiểu về một lĩnh vực nào đó.
Để đáp ứng nhu cầu đầu tư của công chúng, hướng dẫn họ tham gia vào TTCK, các Cty chứng khoán đã nhanh chóng giới thiệu dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Qua hoạt động này, Cty chứng khoán tư vấn giúp khách hàng tham gia vào quá trình phân phối, mua bán, niêm yết trên TTCK nhằm thu phí hoa hồng.
Như vậy, hoạt động tư vấn cần phải có hai chủ thể: người cần được tư vấn và người tư vấn.
- Chủ thể thứ nhất bao gồm các tổ chức và các nhà đầu tư cá nhân. Trong đó, các tổ chức lại có những nhu cấu tư vấn khác nhau như: tư vấn cổ phần hóa, tư vấn phát hành, tư vấn niêm yết… Các nhà đầu tư muốn được tư vấn về các loại chứng khoán, giá cả của chúng, thời điểm mua bán…
- Chủ thể thứ hai đó chính là các Cty chứng khoán có thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán
Tư vấn cho người phát hành là một mảng hoạt động đa dạng và quan trọng có tác dụng hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và tạo ra nhiều hàng hóa có chất lượng cho thị trường.
Các loại hình tư vấn chủ yếu cho người phát hành bao gồm:
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp
Nhà tư vấn phân tích các loại chứng khoán chủ yếu bằng phương pháp đánh giá tình hình tài chính của các tổ chức phát hành chứng khoán đó. Do vậy, việc phân tích tình hình tài chính của nhà tư vấn sẽ giúp doanh nghiệp nhận thức được đúng năng lực của mình từ đó có các giải pháp cải thiện tình hình.
Xác định giá trị doanh nghiệp
Đây là một công việc phức tạp và khó khăn bởi vì tài sản giá trị của doanh nghiệp bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Đồng thời khâu xác định giá trị doanh nghiệp là bước quyết định cho việc định giá chứng khoán khi chào bán cho các nhà đầu tư.
Tư vấn về loại chứng khoán phát hành
Cty chứng khoán căn cứ vào điều kiện, khả năng cụ thể của doanh nghiệp để tư vấn doanh nghiệp đó nên phát hành loại chứng khoán nào thì phù hợp.
Tư vấn tái cơ cấu nguồn vốn
Cơ cấu nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ hoạt động và phương hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp nhận thấy cơ cấu nguồn vốn không đáp ứng được những yêu cầu phát triển và an toàn của hiện tại hay họ muốn tái cơ cấu nguồn vốn đạt mức tối ưu thì họ sẽ thực hiện cơ cấu nguồn vốn thông qua sự trợ giúp của Cty chứng khoán.
Tư vấn hợp nhất doanh nghiệp
Khi một doanh nghiệp muốn thấu tóm hay hợp nhất vối một doanh nghiệp khác họ sẽ cần đến các Cty chứng khoán trợ giúp các vấn đề về kỹ thuật, cách thức tiến hành cho phù hợp và ít tốn kém nhất, tư vấn cơ cấu nguồn vốn sau khi sát nhập hay hợp nhất
Việc Cty chứng khoán thực hiện hoạt động tư vấn cho đối tượng là nhà đầu tư cá nhân gọi là hoạt động tư vấn đầu tư. Đây là một hoạt động thông thường nhất, thường xuyên diễn ra trên TTCK. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin được tập trung trình bày hoạt động tư vấn đầu tư.
1.2.1.2. Hoạt động tư vấn đầu tư
1.2.1.2.1. Tính cần thiết
Nếu như việc tư vấn cho tổ chức phát hành chủ yếu diễn ra trên thị trường sơ cấp thì hoạt động tư vấn đầu tư lại diễn ra trên thị trường thứ cấp.
Tư vấn đầu tư bao gồm tư vấn mua bán chứng khoán, tạo dựng danh mục đầu tư và quản trị điều hành tài sản đầu tư. Các ngân hàng, các Cty chứng khoán, các công ty tư vấn đầu tư, người tư vấn độc lập đều có thể thực hiện nghiệp vụ này nếu được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động và tuân thủ theo luật định.
Đây là một nghiệp vụ rất cần thiết vì không phải ai cũng hiểu rõ về chứng khoán và TTCK. Ngay cả tại các nước phát triển người đầu tư thường không có đủ kiến thức kỹ năng phân tích, không có thời gian theo dõi thường xuyên những thông tin do khối lượng thông tin quá lớn.
Trong hoạt động tư vấn, người tư vấn có vai trò quan trọng trong việc ra quyết định đầu tư của khách hàng. Việc ra quyết định này chịu tác động của lượng thông tin mà nhà tư vấn cung cấp, thời điểm cung cấp thông tin và độ chính xác của những thông tin đó. Thông tin mà nhà tư vấn có thể cung cấp cho khách hàng bao gồm thông tin về tình hình thị trường, giá cả chứng khoán, chỉ số, thông tin về nhóm ngành cụ thể (để thấy được môi trường kinh doanh của nhóm ngành, vị trí vai trò của nhóm ngành đó đối với nền kinh tế cũng như cơ hội phát triển trong tương lai, mức độ quan tâm của công chúng). Hơn nữa, người tư vấn còn phải đảm bảo cung cấp thông tin đầy đủ cho khách hàng và giải thích rõ ràng về các rủi ro mà khách hàng có thể phải gánh chịu, đồng thời họ không được khẳng định về lợi nhuận của các khoản đầu tư mà họ tư vấn.
1.2.1.2.2. Các hình thức tư vấn đầu tư
- Tư vấn trực tiếp : hoạt động này thường diễn ra đồng thời với hoạt động môi giới trong đó nhân viên môi giới đảm nhận vai trò nhà tư vấn. Khi khách hàng tham gia giao dịch họ muốn tham khảo ý kiến của nhân viên môi giới về việc nên mua bán loại chứng khoán nào, xu hướng giá cả, thời điểm mua bán nào là thích hợp. Trong trường hợp này, nhân viên môi giới không được phép đánh giá về xu hướng giá cả của chứng khoán mà chỉ được nêu những diễn biến thực tế đã xảy ra và đưa ra những lời khuyên cho khách hàng về mức giá hợp lý để có thể mua bán được. Họ không được can thiệp vào việc mua bán của khách hàng.
Rõ ràng, việc quản lý hoạt động này không đơn giản bởi lẽ khó mà kiểm soát được những hành vi tư vấn, những lời khuyên cụ thể của nhân viên môi giới có đi quá giới hạn hay không và có những nhân viên môi giới có thể tư vấn mà không cần có giấy phép hành nghề.
Hình thức tư vấn này lại có những mâu thuẫn với hoạt động tự doanh, thể hiện ở chỗ nhà môi giới nếu cần bán một loại chứng khoán nào đó thì sẽ khuyên khách hàng mua vào, ngược lại nếu họ muốn cần mua thì lại khuyên khách hàng bán ra.
- Cung cấp thông tin và đánh giá tình hình : đây là dạng tư vấn mà các nhân viên tư vấn cung cấp thông tin cho khách hàng dưới các hình thức giấy tờ, phương tiện truyền thông và gần đây nhất là Internet. Thông tin này có thể là các số liệu về giá cả, bản cáo bạch, báo cáo tài chính của công ty niêm yết. Nhưng trên thực tế, để tăng tính hấp dẫn cho các bản tin, Cty chứng khoán thường đính kèm những lời phân tích và đánh giá tình hình thị trường, tình hình giá cả các loại chứng khoán. Nhân viên tư vấn có thể sử dụng lời bình hay biểu đồ để phân tích tuy nhiên nó đều phải dựa trên các cơ sở khách quan, khoa học.
Mỗi nhà tư vấn sẽ có những nhận định, đánh giá riêng của mình. Điều quan trọng là anh ta chỉ có thể tồn tại nếu như anh ta đưa ra được những bản tin chính xác, có chất lượng và có uy tín.
Tất nhiên không thể loại trừ trường hợp nhà tư vấn muốn thu lợi bất chính nên lèo lái những phân tích và dự đoán những xu hướng thị trường theo ý mình mà làm tổn tại đến lợi ích của nhà đầu tư. Song, so với trường hợp tư vấn trực tiếp thì việc quản lý hình thức tư vấn này cũng đỡ khó khăn hơn vì các bản tin, bản báo cáo đánh giá là những bằng chứng về hành vi của nhà tư vấn. Cơ quan quản lý nhà nước yêu cầu nhà tư vấn phải có kiến thức, kinh nghiện cũng như thái độ khách quan khi nhìn nhận sự việc.
- Tư vấn ủy quyền : thực chất của dịch vụ tư vấn ủy quyền chính là hoạt động quản lý danh mục đầu tư. Trong trường hợp này, khách hàng ủy quyền cho nhà tư vấn đầu tư trên số vốn của mình. Nhà tư vấn có quyền quyết định việc mua bán, cấn đối danh mục đầu tư của khách hàng. Một khi khách hàng tin tưởng ủy quyền đầu tư cho nhà tư vấn thì họ kỳ vọng sẽ đạt được một mức sinh lời cao hơn so với việc gửi tiết kiệm và đồng thời họ chấp nhận mức rủi ro cao hơn. Nhân viên tư vấn không những chỉ lựa chọn các loại chứng khoán phù hợp với chiến lược đầu tư, thời điểm mua vào bán ra mà còn phải chú ý đến sự tối ưu của danh mục và giảm thiểu rủi ro cho khách hàng. Họ chỉ được nhận hoa hồng nếu đầu tư có lãi cho khách hàng.
1.2.1.2.3. Nội dung của hoạt động tư vấn đầu tư
Thực tế nội dung của hoạt động tư vấn đầu tư cổ phiếu chủ yếu xoay quanh việc nhà tư vấn trả lời cho khách hàng 2 câu hỏi sau:
- Nên lựa chọn loại hàng hóa nào và tại mức giá bao nhiêu?
Dịch vụ tư vấn đầu tư luôn được thiết kế theo nhu cầu của khách hàng. Khách hàng mỗi người một nhu cầu khác nhau và họ cũng có những quan điểm khách nhau. Một loại hàng hóa đuợc coi là tốt hay không còn phụ thuộc vào cách đánh giá của mỗi nhà đầu tư. Tại cùng một thời điểm có người cho rằng cổ phiếu của công ty này là cổ phiếu tăng trưởng vì thế công ty đó là công ty tăng trưởng nên mua cổ phiếu của họ nhưng người khác lại cho rằng điều đó chưa chắc chắn vì cổ phiếu tăng trưởng có thể là do lúc đó thị trường chưa có đầy đủ thông tin về nó dẫn đến định giá cổ phiếu này thấp hơn cổ phiếu khác. Hay nhiều nhà đầu tư nhận xét công ty tốt là những công ty tăng trưởng, lợi nhuận cao và phát triển, nhà đầu tư khác họ lại thấy những công ty có nhiều tài sản, giá trị sổ sách cao là công ty tốt.
Để trả lời được câu hỏi trên quả thật không đơn giản chút nào. Bản thân nhà đầu tư khi đưa ra câu hỏi đó, họ cũng đã có những phán đoán riêng của mình nhưng họ vẫn còn phân vân và muốn tham khảo ý kiến của nhà tư vấn. Lúc này, nhà tư vấn phải nghiên cứu tất cả các thông tin liên quan đến công ty mà khách hàng muốn đầu tư để cuối cùng đưa ra được một phương án tốt nhất cho khách hàng là đầu tư vào công ty nào. Tiếp đến, nhà tư vấn còn phải tư vấn cho khách hàng mức giá có thể chấp nhận được. Đây là một lời khuyên hết sức cần thiết và quan trọng bởi vì một công ty tốt tại một mức giá quá cao sẽ không còn là một phi vụ đầu tư hợp lý nữa.
- Làm thế nào để lựa chọn được thời điểm tôt nhất để mua bán chứng khoán.
Sau khi giúp khách hàng định ra được một mức giá phù hợp, nhà tư vấn tiếp tục phân tích lựa chọn thời điểm mua chứng khoán. Có một câu ngạn ngữ đã nói rằng “ Thời điểm là tất cả “, bởi vì giá cả chứng khoán thay đổi rất nhanh. Cùng một loại cổ phiếu, cùng một mức giá hôm nay có thể là một phi vụ tốt nhưng ngày mai lại có thể trở thành một vụ đầu tư tồi. Quả thật, tìm ra được loại hàng hóa phù hợp nhưng lại để mất cơ hội mua nó với mức giá thấp trước khi giá tăng, thậm chí là không mua được nó thì rất đáng tiếc. Do đó, nhà tư vấn phải thông báo ngay cho khách hàng thời điểm thuận lợi để mua chứng khoán khi mà đã xác định được nên mua loại nào.
Công việc tiếp theo của nhà tư vấn là theo dõi chứng khoán cũng như danh mục đầu tư của khách hàng. Cập nhật thông tin và bám sát thị trường để thường xuyên thông báo cho khách hàng những diễn biến của chứng khoán. Làm thế nào để bán chứng khoán ra trước khi giá giảm xuống? Đối với các nhà đầu tư ngắn hạn thì thời điểm mua bán được họ quan tâm nhiều nhất. Mọi cố gắng lựa chọn, đặt giá, tìm mua sẽ là vô nghĩa nếu như nhà đầu tư không đưa ra một thời điểm bán thích hợp. Chính vì thế, khi đã nhìn nhận thấy thời điểm nên bán chứng khoán, nhà tư vấn không nên do dự, nhanh chóng thông báo với khách hàng.
1.2.1.2.4. Quy trình của một hoạt động tư vấn
Thông thường, quy trình của một hoạt động tư vấn diễn ra qua các bước tương tự như khi ký kết một hợp đồng quản lý danh mục đầu tư, gồm các bước cơ bản sau:
- Tiếp xúc, tìm hiểu nhu cầu khách hàng: đây là khâu đầu tiên để đưa ra những lời tư vấn. Cty chứng khoán phải nắm rõ được khách hàng về: khả năng đầu tư (số vốn bao nhiêu), mục tiêu đầu tư (đầu tư hưởng cổ tức hay hưởng chênh lệch giá), thời gian đầu tư, mức sinh lời kỳ vọng, mức độ chấp nhận rủi ro…Đồng thời Cty chứng khoán cũng cần phải tiếp thị hình ảnh của mình đến khách hàng, chứng minh cho họ thấy được tính chuyên nghiệp và uy tín của mình. Tính chuyên nghiệp được thể hiện ở chỗ công ty tìm kiếm các nguồn thông tin liên quan, tiến hành xử lý một cách logic, khoa học rồi cung cấp cho khách hàng kèm theo những khuyến nghị của mình giúp khách hàng đầu tư kiếm lợi nhuận. Uy tín của công ty chính là đạo đức nghề nghiệp, họ sẽ đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng, bảo mật thông tin và luôn tôn trọng khách hàng. Yêu cầu của bước này là nhân viên tư vấn phải “hiểu rõ khách hàng” và tạo dựng được mối quan hệ tốt giữa hai bên.
- Ký kết hợp đồng tư vấn: nội dung của hợp đồng tư vấn này đề cập đến các vấn đề như quyền hạn và trách nhiệm của các bên, phí tư vấn. Ngoài ra, hợp đồng cũng có thể quy định số vốn, thời gian ủy thác, mục tiêu đầu tư, quy trình đầu tư. Một hợp đồng đúng luật, chặt chẽ là cơ sơ để tránh được hay giải quyết được những tranh chấp có thể xảy ra.
- Thực hiện hợp đồng tư vấn: nhân viên tư vấn và Cty chứng khoán vận dụng kỹ năng và kinh nghiệm của mình để tư vấn cho khách hàng. Trong quá trình tư vấn, nhà tư vấn phải luôn luôn đặt quyền lợi của khách hàng lên trên hết, nỗ lực hết mức để thu về lợi nhuận tối đa và hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng.
- Thanh lý hợp đồng: khách hàng sẽ phải thanh toán phí tư vấn cho Cty chứng khoán. Họ có thể chấm dứt hợp đồng với công ty nếu như họ không hài lòng hoặc yêu cầu đổi nhân viên tư vấn. Nếu muốn đổi chiến lược đầu tư, khách hàng có thể làm lại hợp đồng mới.
1.2.1.2.5. Phân tích lựa chọn cổ phiếu giúp khách hàngkhi tiến hành tư vấn đầu tư
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề cũng như nhìn nhận thực trạng thị trường Việt Nam hiện nay, tôi xin được trình bày hoạt động tư vấn đầu tư thông dụng nhất, tư vấn đầu tư cổ phiếu. Đây chính là việc phân tích lựa chọn cổ phiếu nhằm hướng dẫn khách hàng kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.
Khi tiến hành đầu tư vào bất cứ chứng khoán nào, cần phải xem xét việc đầu tư đó trong mối quan hệ so sánh với các cơ hội đầu tư khác trong nền kinh tế và trên thị trường quốc tế. Do đó cần phải tiến hành phân tích chứng khoán. Việc phân tích chứng khoán bao gồm: đánh giá môi trường vĩ mô, tình hình thị trường chứng khoán, phân tích ngành nghề và phân tích công ty cùng những chứng khoán riêng lẻ.
Phân tích vĩ mô và TTCK
- Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật
Môi trường chính trị - xã hội và pháp luật luôn có những tác động nhất định đến tình hình hoạt động của TTCK. Mỗi một sự kiện chính trị - xã hội hay biến động của hệ thống pháp luật đều có thể tạo ra những thay đổi về môi trường kinh doanh theo hướng tích cực hoặc ngược lại.
- Các điều kiện kinh tế vĩ mô
Các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết định rủi ro chung của thị trường. Rủi ro này tác động đến toàn bộ thị trường, đến tất cả chứng khoán mà bản thân từng doanh nghiệp hay từng ngành không thể tránh được. Biến động của TTCK có mối liên hệ chặt chẽ tới nền kinh tế vĩ mô. Để nghiên cứu những biên động ấy chúng ta cần phải xem xét tác động của các điều kiện kinh tế vĩ mô như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỉ lệ thất nghiệp, lãi suất, tỉ lệ lạm phát, tỉ giá hối đoái, mức thâm hụt ngân sách, chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Trong đó có 3 nhân tố vĩ mô cơ bản nhất tác động trực tiếp tới các hoạt động đầu tư trên TTCK, đó là tỉ giá hối đoái, lãi suất và tỉ lệ lạm phát.
+ Tỉ giá hối đoái: khi nhà đầu tư nhận định rằng đồng nội tệ có thể bị phá giá trong thời gian tới thì nhà đầu tư đó sẽ quyết định không đầu tư vào chứng khoán hoặc sẽ tìm cách thay thế chứng khoán bằng tài sản ngoại tệ để phòng ngừa giá trị chứng khoán bị sụt giảm.
+ Lãi suất : đây là một yếu tố hết sức quan trọng trong việc quyết định giá của các chứng khoán, đặc biệt là chứng khoán có lãi suất cố định (trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi) và lãi suất yêu cầu của nhà đầu tư. Chẳng hạn, khi lãi suất tăng thì một mặt tiền gửi ngân hàng tăng một mặt chi phí vay nợ của doanh nghiệp cũng tăng, lợi nhuận của doanh nghiệp giảm, do đó giá cổ phiếu giảm. Ngược lại, lãi suất giảm, tiêng gửi ngân hàng giảm, vốn một lần nữa quay trở về với TTCK, hơn nữa chi phí vay nợ của doanh nghiệp giảm, lợi nhuận tăng làm giá chứng khoán tăng. Còn giá trái phiếu biến động ngược chiều với lãi suất, lãi suất tăng thì giá trái phiếu giảm và ngược lại.
+ Tỉ lệ lạm phát: khi nền kinh tế có lạm phát làm cho giá trị thực của khoản đầu tư (hay công ty bị giảm) nếu tỉ lệ thu nhập từ đầu tư nhỏ hơn tỉ lệ lam phát. Nếu lạm phát dự kiến tăng thì các trái phiếu có lãi suất cố định sẽ bị kém hấp dẫn hơn với các tài sản có khả năng điều chỉnh với lạm phát. Kết quả là giá trị thị trường của các chứng khoán có lãi suất cố định sẽ bị giảm và điều này làm tăng lãi suất đối với chứng khoán đó.
- Tình hình TTCK
Môi trường kinh tế vĩ mô quyết định xu thế chung của TTCK. Thông thường khi nền kinh tế tăng trưởng thì sẽ kéo theo sự phát triển của TTCK còn khi nền kinh tế ở giai đoạn sụt giảm thì TTCK đi xuống. Như vậy, nếu dự đoán đúng được xu hướng phát triển của nền kinh tế thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của TTCK. Nhưng đôi khi quan hệ giữa tình hình kinh tế với diễn biến chung của thị trường không xảy ra cùng chiều. Thực tế trên các TTCk thế giới cho thấy có những giai đoạn nền kinh tế phát triển mạnh nhưng TTCK lại đi xuống và ngược lại.
Bằng cái nhìn bao quát những sự kiện tác động đến tổng thể thị trường các nhà tư vấn sẽ tìm thấy được đâu là điểm nhấn, điểm mấu chốt của xu thế thị trường, đưa ra được những nhận xét tình hình họat động của thị trường, đang khởi sắc hay đang bão hòa. Đây được coi là bước định hình phương hướng phân tích của nhà tư vấn.
Phân tích ngành
Cùng một biến động của các điều kiện vĩ mô thì từng nhóm ngành lại chịu tác động với những mưc độ khác nhau, đó là do mỗi một ngành có những đặc trưng riêng. Chẳng hạn các ngành sản xuất ô tô hay xây dựng sẽ có lợi hơn so với nền kinh tế nói chung trong giai đoạn kinh tế tăng trưởng và ngược lại sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi nền kinh tế suy thoái. Nhưng cũng có những ngành lại chịu tác động không đáng kể của chu kỳ kinh tế như ngành y tế, giáo dục. Có thể thấy triển vọng của một ngành trong môi trường kinh doanh quyết định kết quả mà mỗi công ty có thể có được, vì vậy phân tích về ngành nên tiến hành trước khi phân tích công ty.
Các nhà tư vấn thường dựa vào những dấu hiệu sau để xem xét tình hình của một nhóm ngành:
- Môi trường kinh doanh của nhóm ngành
Dựa vào mức độ tác động của các yếu tố vĩ mô đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nhóm ngành như: yếu tố pháp lý, kinh tế , chính trị, xã hộ văn hóa, chính sách phát triển của nhà nước nhà tư vấn có thể đánh giá một cách tổng quát vị trí, vai trò của ngành nghề đối với nền kinh tế cũng như những cơ hội và thách thức trong tương lai của nhóm ngành.
- Xem xét mức độ quan tâm của công chúng đầu tư đối với nhóm ngành đang nghiên cứu
Rõ ràng khi nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa của một nhóm ngành nào đó tăng hay giảm thì kéo theo sự tăng hay giảm cùng chiều giá cổ phiếu của nhóm ngành ấy. Nhà tư vấn có thể dựa vào các số liệu thống kê như chỉ số sức mạnh tương đối của nhóm ngành, xem xét nơi dòng tiền chảy vào nhiều nhất để nhìn nhận triển vọng phát triển của từng ngành.
Phân tích công ty
Đây là bước cuối cùng và quan trọng nhất trong việc tư vấn khách hàng lựa chọn chứng khoán đầu tư. Sau khi xác định được nhóm ngành hoạt động tốt và có triển vọng nhất, nhà tư vấn sẽ tìm kiếm công ty tốt nhất trong nhóm ngành ấy.
Có hai phuơng pháp mang tính kinh điển khi tiến hành phân tích chứng khoán: phương pháp phân tích cơ bản và phương pháp phân tích kỹ thuật:
- Phân tích cơ bản:
Phân tích cơ bản là phương pháp nghiên cứu các thông tin tài chính như cổ tức, lợi nhuận, các báo cáo tài chính… nhằm xác định một giá trị hợp lý của một loại chứng khoán hoặc các chứng khoán nói chung trên thị trường.
Việc phân tích tình hình tài chính của công ty được dựa trên các số liệu tài chính cơ bản như vốn, tài sản, số nợ của công ty, doanh thu,chi phí, lợi nhuận …; các nhónm hệ số tài chính: các hệ số về khả năng thanh toán, các hệ số về hiệu quả hoạt động, các hệ số về cơ cấu vốn, các hệ số về khả năng sinh lời. Nhà tư vấn phải kiểm tra, xem xét các số liệu, con số ở hiện tại và quá khứ để đưa ra các đánh giá, dự tính các rủi ro và tiềm năng tương lai của doanh nghiệp.
Công cụ để tiến hành phân tích cơ bản là cácn báo cáo tài chính sau:
+ Bảng cân đối kế toán
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
+ Báo cáo kết quả kinh doanh
Đây là những nguồn thông tin quan trọng, kịp thời cho biết tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó có thể phản ánh thực trạng hiện tại của doanh nghiệp hoặc là dự báo họat động trong tương lai.
Sau khi nhà tư vấn giúp khách hàng trả lời được câu hỏi cổ phiếu nào tốt, chứng khoán nào xấu thì bước tiếp theo phải xác định được mức giá hợp lý của cổ phiếu. Ở đây nhà tư vấn tiếp tục việc định giá cổ phiếu dựa trên những nguyên tắc cơ bản của việc định giá tài sản nói chung, bao gồm việc định giá doanh nghiệp phát hành ra chính cổ phiếu đó.
Nhà tư vấn có thể sử dụng một trong 3 nhóm phương pháp chính sau:
+ Nhóm phương pháp chiết khấu luồng cổ tức hoặc luồng tiền.
+ Nhóm phương pháp dựa trên giá trị tài sản
+ Nhóm phương pháp dựa vào hệ số
Ngoài ra còn có các phương pháp kết hợp hoặc so sánh căn cứ vào các phương pháp cơ bản nói trên.
Không chỉ đơn thuần đánh giá công ty nhà tư vấn còn phải xem xét giá trị cổ phiếu của công ty đó có đúng với giá nó đang được mua bán hay không hay nói cách khác cần so sánh giá trị nội tại của cổ phiếu với giá trị thị trường đang giao dịch của cổ phiếu đó để giúp khách hàng đưa ra quyết định cuối cùng.
- Phân tích kỹ thuật
Phân tích kỹ thuật là một phương pháp phân tích chỉ dựa vào các diễn biến của giá và khối lượng giao dịch trong quá khứ để dự đoán xu thế trong tương lai và các áp lực cung cầu có ảnh hưởng đến giá. Bằng cách sử dụng các công cụ toán học và các đồ thị (hình mẫu kỹ thuật) các nhà phân tích kỹ thuật sẽ xác định được xu thế thị trường của một loại cổ phiếu nào đó, từ đó đưa ra quyết định thời điểm thích hợp để mua bán cổ phiếu.
Nếu như các nhà phân tích cơ bản cố tìm những thông tin cho phép dự báo giá cổ phiếu thông qua việc nghiên cứu các yếu tố vĩ mô, môi trường kinh doanh, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp thì các nhà phân tích kỹ thuật không quan tâm đến những thông tin đấy mà họ lại dựa trên nền tảng cơ bản là giá và khối lượng giao dịch rồi thể hiện chúng qua biểu đồ để từ đó nhận định được trước xu hướng vận động của giá cổ phiếu sắp tới.
Áp dụng đồng thời cả hai phương pháp phân tích này nhà tư vấn sẽ giải quyết đuợc hai vấn đề quan trọng nhất:
What to trade ( giao dịch cái gì )
When to trade ( giao dịch khi nào )
1.2.1.2.6. Vai trò của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
- Đối với nhà đầu tư: hoạt động tư vấn đầu tư là cần thiết do
+ Công chúng là người nằm giữ lượng tiền tiết kiệm rất lớn. Khi mà xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu chi tiêu của họ cũng tăng lên. Do đó, công chúng nảy sinh nhu cầu đầu tư sinh lời từ những khoản tiền tiết kiệm của mình và thực tế là nhu cầu này đang tăng lên rất mạnh.
+ Để có khoản tiền tiết kiệm thì chúng ta phải đánh đổi với việc chi tiêu vào những việc khác. Chính vì thế khi tiến hành đầu tư bằng khoản tiền tích lũy ai cũng muốn có những công cụ “bảo vệ” khoản đầu tư đó. Mức độ an toàn đối với hoạt động đầu tư rấ._.hính đem lại doanh thu cho Công ty.
Để làm được điều này, Công ty nên có kế hoạch và phương án sớm thành lập phòng Tư vấn đầu tư độc lập với phòng Môi giới. Hiện nay, Công ty chỉ mới thực hiện hình thức tư vấn miễn phí cho nhà khách hàng dưới dạng cung cấp các bản tin, các buổi phân tích, bình luận thị trường. Trong thời gian tới, Công ty nên đưa ra các hình thức tư vấn đầu tư cụ thể. Đó là, đối với việc tư vấn cho các cá nhân cấn phân biệt rõ thành hai loại hình khách hàng. Thứ nhất, những người hoàn toàn không cấn tư vấn. Thứ hai, những người cấn tưu vấn sẽ phải chịu thêm một mức phí tư vấn. Với loại hình thứ hai có thể xem xét việc phát triển loại hình tư vấn toàn phần, tức là khách hàng giao toàn quyền cho công ty mua bán và công ty chỉ được hưởng phí tư vấn trên cơ sở lợi nhuận thu được. Công ty cũng nên đặt ra mức phí phù hợp với từng hình thức tư vấn cụ thể, linh hoạt với từng đối tượng khách hàng, từng thời điểm sao cho duy trì được mối quan hệ lâu dài với khách hàng quen thuộc vừa thu hút khách hàng mới.
Ngoài ra, Công ty phải có những quy định chặt chẽ đối với cán bộ công nhân viên trong Công ty và có hình thức kỷ luật nghiêm đối với những nhân viên tư vấn vi phạm các chuẩn mực đạo đức trong kinh doanh chứng khoán, ví dụ như nhân viên tư vấn đưa ra đề xuất giao dịch nhằm thu lợi cho mình làm tổn thất tài sản của họ hay nhân viên tư vấn nhận hối lộ từ phía khách hàng nhằm mưu cầu một sự ưu đãi. Trong hợp đồng tư vấn, Công ty nên chú ý lường trước những tình huống có thể xảy ra tranh chấp giữa khách hàng và nhân viên tư vấn để từ đó thảo ra các điều khoản rõ ràng, đề xuất những phương án tranh chấp. Có như vậy mới đảm bảo được quyền lợi cho cả hai bên cũng như tránh được việc kiện cáo từ phía khách hàng làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Công ty.
3.3.2. Chính sách về nhân sự
Chất lượng dịch vụ tư vấn chính là chất lượng những lời tư vấn của các nhân viên tư vấn cho khách hàng. Điều này cho thấy con người là nhân tố quyết định đến sự thành bại của nghiệp vụ tư vấn đầu tư. Cty chứng khoán Công thương cũng gặp khó khăn giống như các Cty chứng khoán khác, đó là thiếu kinh nghiệm trong việc thực hiện tư vấn đầu tư. Nhằm khắc phục hạn chế này và nâng cao năng lực hoạt động tư vấn đầu tư Công ty cần phải xây dựng được một đội ngũ nhân viên tư vấn có trình độ chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ, có những tiêu chuẩn đạo đức nghề nghiệp. Rõ ràng là người tư vấn chuyên nghiệp phải thực sự hiểu biết sâu rộng hơn người được tư vấn về lĩnh vực mà họ yêu cầu. Có như thế người tư vấn mới có thể đưa ra được luận điểm thuyết phục, những lời khuyên có tính thực tiễn làm cho khách hàng tin tưởng và tín nhiệm.
Công ty nên có một chiến lược phát triển nguồn nhân lực với các chính sách,kế hoạch phương án đào tạo, sử dụng linh hoạt và chủ động. Vì vậy:
- Công ty phải có các phương án tuyển dụng nhân viên theo hướng chọn lọc ra những người thực sự có năng lực, có tinh thần trách nhiệm, năng động, có đạo đức nghề nghiệp.
- Chú trọng đầu tư đội ngũ nhân viên bằng cách trau dồi và bổ sung kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tiễn, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho họ. Công ty có thể cử cán bộ tham gia các khóa học do UBCKNN tổ chức, mời các chuyên gia trong và ngoài nước về giảng dạy hoặc cố gắng tạo điều kiện đưa cán bộ đi khảo sát thực tế thị trường chứng khoán các nước trên thế giới để học hỏi thêm và mở rộng tầm nhìn. Điều này, trong những năm qua Công ty đã thực hiện nhưng phần lớn mới chỉ có cán bộ quản lý được cử sang nước ngoài học tập còn các nhân viên nghiệp vụ chưa có điều kiện. Kinh phí cho kế hoạch này rất tốn kém nhưng thực tế đem lại hiệu quả cao. Vì thế, Công ty nên mạnh dạn đầu tư.
- Công ty nên thường xuyên tổ chức định kỳ các cuộc thảo luận, tọa đàm về nghiệp vụ chuyên môn. Đây được coi là chính sách tự đào tạo của công ty. Theo đó các nhân viên có thể học hỏi lẫn nhau, có điều kiện tiếp xúc gần gũi nhau hơn mà lại tiết kiệm chi phí cho Công ty. Công việc này trước đây Công ty đã tổ chức thực hiện hàng tuần và mang lại kết quả rất khả quan. Tuy nhiên gần đây do khối lượng công việc tăng lên mà số lượng nhân sự lại chưa đáp ứng kịp nên Công ty chưa bố trí được thời gian phù hợp tiếp tục tổ chức chức những buổi họp như vậy.
- Để tạo điều kiện tôt nhất cho các nhân viên phát huy tối đa năng lực, Công ty nên sắp xếp ổn đinh tổ chức, nhân sự và có các chính sách hỗ trợ trong việc thuyên chuyển , điều động theo hướng tôn trọng, phát huy thế mạnh của từng người mà vẫn đảm bảo phân tách nhân viên môi giới, tự doanh, bão lãnh phát hành và tư vấn đầu tư. Bên cạnh đó Công ty cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ. Nhân viên tư vấn thường phải chịu áp lực lớn hơn so với các nhân viên khác vì công việc của họ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của khách hàng do vậy họ phải được hưởng thù lao xứng đáng và cần được động viên, khuyến khich nhiều hơn.
3.3.3. Chiến lược khách hàng
Để thu hút được khách hàng, ngoài chất lượng dịch vụ thì Công ty còn phải đưa ra được một chiến lược khách hàng hợp lý, có tính thực tiễn. Thõa mãn nhu cầu của khách hàng, làm hài lòng khách hàng chưa đủ để cạnh tranh với đối thủ khác, Công ty còn phải hướng đến khách hàng, chủ động tìm kiếm khách hàng.
Đối với hoạt động tư vấn đầu tư, đối tượng khách hàng của từng công ty khác nhau do đo Cty chứng khoán Công thương phải có sự nghiên cứu đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của mình. Công ty có thể tiến hành những theo những bước sau đây để xác định thị trương tiềm năng cho mình:
- Phân đoạn thị trường: đây là quá trình phân chia khách hàng thành các nhóm khác biệt nhau bằng các đặc điểm, nhu cầu, tính cách hay hành vi. Các tiêu thức có thể sử dụng để phân đoạn thị trường đối với nhà đầu tư cá nhân:
Cơ sở phân đoạn
Tiêu thức phân đoạn
Địa lý
Miền (Bắc, Trung, Nam); vùng, trong nước hay nước ngoài
Dân số- xã hội
Tuổi, giới tính, thu nhập, nghề nghiệp, trình độ văn hóa…
Tâm lý
Thái độ, tính cách, lối sống, thói quen
Hành vi đầu tư
Mục đích đầu tư, lý do đầu tư…
Việc tiến hành phân đoạn thị trường giúp công xác định được nhu cầu của từng đối tượng khách hàng để từ đó Công ty đưa ra những hình thức tư vấn phù hợp. Chẳng hạn:
+ Đối với khách hàng trẻ tuổi (độ tuổi dưới 30): lứa tuổi này tiềm lực tài chính thấp, thiếu kinh nghiệm, thiếu thời gian. Tuy nhiên họ có khát vọng làm giàu, chấp nhận rủi ro cao và thích những cổ phiếu tăng trưởng, cổ phiếu có mức sinh lời kỳ vọng cao. Khách hàng này không mấy mặn mà với những lời khuyên mà họ thương tự ra quyết định lấy. Cái họ muốn là nhà tư vấn cung cấp thông tin cho họ.
+ Đối với khách hàng là người về hưu: đây là đối tượng có nhiều thời gian, thu nhập ổn định nhưng không cao, có nhiều kinh nghiệm, tâm lý bảo thủ. Họ đầu tư với mục đích có thu nhập trang trải cho lúc về già. Đối lập với đối tượng trẻ tuổi, những người này không ưa những loại hình đầu tư mạo hiểm, thích an toàn và ngại rủi ro. Sản phẩm họ lựa chọn là những chứng khoán có thu nhập ổn định như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi…
Trên cơ sở phân đoạn thị trường, Công ty phải xác định cho mình một thị trường tiềm năng phù hợp với khả năng, đặc điểm, mục tiêu của Công ty để phát triển thành thế mạnh của mình. Khi lựa chọn thị trường mục tiêu, Công ty cần phải cân nhắc những vấn đề như: giới thiệu loại hình dịch vụ nào cho khách hàng; quy mô và khả năng tăng trưởng của thị trường; khả năng thu lợi nhuận; khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Hiện nay, ở Công ty chứng khoán Công thương khách hàng cá nhân đến giao dịch có đủ lứa tuổi nhưng trong đó lứa tuổi trung niên chiếm phần trăm lớn nhất. Đây là những nhà đầu tư có nguồn vốn lớn và ổn định, có kiến thức nhất định, có địa vị xã hội, có quan hệ xã hội rộng, có kinh nghiệm, mục đích đầu tư cũng rất đa dạng (chênh lệch giá, lợi tức, nắm quyền kiểm soát). Lứa tuổi này vẫn ưa mạo hiểm nhưng đã chú ý đến đa dạng hóa danh mục đầu tư và tài sản an toàn chiếm chiếm tỉ trọng lớn. Có thể thấy nhóm khách hàng này “ khó tiếp cận nhất “vì ở độ tuổi này họ rất thích được được khen, coi trọng và không thích những lời phê bình, nhắc nhở. Chính vì thế họ chỉ tìm đến những nhà tư vấn giỏi, dày dặn kinh nghiệm, có uy tín và thường họ không chấp nhận nhà tư vấn trẻ tuổi. Họ rất thận trọng trong việc lựa chọn hàng hóa đầu tư và đòi hỏi những dịch vụ tư vấn có chất lượng cao. Nếu như các nhân viên tư vấn “chinh phục “ được họ thì không những có thể được họ tin tưởng mà chính họ sẽ là người quảng bá hình ảnh của Công ty đến với nhà đầu tư khác.
Từ những phân tích trên, Công ty có thể lựa chọn đây là thị trường tiềm năng của mình. Lựa chọn những nhân viên ưu tú, kinh nghiệm, có “kỹ năng chăm sóc khách hàng”, biết dự đoán nhu cầu của khách hàng để từ đó cung cấp những sản phẩm tốt, thiết thực nhất và có hiệu quả nhất cho họ. Làm được điều này Công ty có thể tạo nên một ưu thế cạnh tranh rất lớn và đem lại doanh thu lớn.
TTCK Việt Nam bây giờ đang gây được sự chú ý tới các nhà đầu tư, đặc biệt các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt đầu quan tâm đến thị trường mới nổi này. Đây là cơ hội tốt để Công ty hướng đến phục vụ nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng mạng lưới khách hàng của mình.
3.3.4. Đẩy mạnh hoạt động marketing
Hiện nay cơ cấu tổ chức của Công ty chưa có phòng Marketing chuyên trách nghiệp vụ marketing mà hoạt động này được thực hiện dưới hình thức kiêm nhiệm, đó là một nhân viên vừa đảm nhiệm tư vấn đầu tư vừa làm công tác tiếp thị. Đây chính là một trong những nguyên nhân làm cho marketing chưa có tính chuyên nghiệp, vai trò của nó chưa được phát huy một cách tối đa. Trong khi đó, nếu làm tốt công tác này Công ty có thể nắm bắt được chính xác nhu cầu của khách hàng từ đó đưa ra những sản phẩm, dịch vụ phục vụ họ đồng thời giới thiệu, quảng bá hình ảnh của Công ty cũng như khuếch trương uy tín của mình. Với sự phát triển mạnh mẽ của các phương tiện truyền thông như sách, báo, tạp chí, truyền hình, phát thanh, internet…, Công ty nên tận dụng sức mạnh “nghe, nhìn” này để tiếp thị hình các dịch vụ tư vấn của mình đến với khách hàng. Ngoài ra, Công ty khai thác lợi thế của Công ty mẹ là Ngân hàng Công thương có chi nhánh ở hầu khắp các tỉnh thành nhằm mở rộng mạng lưới khách hàng.
Song song với hướng đi trên, Công ty nên tổ chức các buổi hội nghị, hội thảo, họp mặt, giao lưu khách hàng làm cho khách hàng của mình cảm thấy được quan tâm và chăm sóc. Những cuộc gặp gỡ này là cơ hội để khách hàng giải quyết vướng mắc của mình với Công ty cũng như trao đổi, chia sẻ thông tin, kinh nghiệm với khách hàng khác. Đây là hoạt động thiết thực, có ý nghĩa đối với cả hai bên. Về phía khách hàng, họ sẽ biết thêm nhiều thông tin về Công ty, về các sản phẩm và dịch vụ tiện ích mà Công ty có thể cung cấp cho họ. Điều này góp phần tạo mối liên hệ gắn kết giữa Công ty với khách hàng. Về phía Công ty, gặp gỡ khách hàng là dịp Công ty tìm hiểu thêm tâm lý, nhu cầu của khách hang, đồng thời thu nhận được ý kiến phản hồi từ phía khách hàng về các dịch vụ mà Công ty cung cấp. Trên cơ sở đó, Công ty sẽ có kế hoạch nâng cao chất lượng sản phẩm và giới thiệu các sản phẩm mới.
3.4. KIẾN NGHỊ
3.4.1. Đối với Chính phủ và các Bộ, Ngành liên quan
3.4.1.1. Công tác tạo hàng hóa
Trong những năm qua, công tác tạo hàng hóa cho TTCK gặp rất nhiều khó khăn. Số lượng cổ phiếu niêm yết tăng chậm, các công ty niêm yết chủ yếu vẫn là các công ty có quy mô vốn nhỏ. Các loại trái phiếu công ty, trái phiếu công trình chưa được phát hành và niêm yết trên TTCK; khối lượng trái phiếu Chính phủ phát hành khá lớn tuy nhiên số lượng niêm yết và giao dịch tại TTGDCK chưa nhiều, tính thanh khoản không cao, trái phiếu Chính phủ chưa trở thành chuẩn mực cho các công cụ nợ khác.Việc tăng quy mô niêm yết cổ phiếu phụ thuộc chủ yếu vào việc gắn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước với niêm yết trên TTCK. Hiện nay 93% số cổ phiếu đang giao dịch trên TTGDCK là của các doanh nghiệp cổ phần hóa. Đồng thời khi cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước chủ yếu là chuyển thành công ty cổ phần nội bộ. Số cổ phiếu niêm yết thuộc sở hữu Nhà nước chưa được bán ra, hoặc thuộc sở hữu của cán bộ công nhân viên các công ty cũng không muốn bán vì họ muốn đợi giá lên cao hơn.
Do đó, các nhà đầu tư ít có cơ hội lựa chọn để tham gia đầu tư và xảy ra tình trạng chênh lệch cung – cầu chứng khoán quá lớn.
Như vậy, muốn tạo ra nhiều hàng hóa cho TTCK, Chính phủ và các Bộ, Ngành liên quan cần sớm thực hiện:
- Đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa
- Làm đa dạng loại hình doanh nghiệp cổ phần hóa
Khi đề cập đến cổ phần hóa, nhiều người chỉ nghĩ đến cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Ngoài việc này, chúng ta cũng cần cổ phần hóa cả các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh như: công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các doanh nghiệp tư nhân.
- Tiếp tục lựa chọn đưa các công ty đã cổ phần có đủ điều kiện bắt buộc phải tham gia phát hành chứng khoán qua TTGDCK. Việc bắt buộc các công ty phải niêm yết và đăng ký giao dich tại TTGDCK và đăng ký giao dịch tại TTGDCK có ý nghĩa rất lớn đối với cả công ty phát hành và người đầu tư.
3.4.1.2. Chính sách về thuế
- Tiếp tục ưu đãi thuế đối với cá nhân đầu tư trên TTCK. Với quy mô nhỏ bé của TTCK, môi trường đầu tư chứng khoán chưa hoàn thiện và hấp dẫn thì đây được coi là biện pháp khích lệ, thu hút nhà đầu tư tham gia vào thi trường. Và có một thực tế ở thị trường của chúng ta là số người giàu lên từ việc đầu tư trên thị trường chứng khoán chưa phải là nhiều.
- Ban hành thuế tài sản để chống đầu cơ đất và hướng các nguồn vốn nhàn rỗi đi vào thị trường vốn. Lý do là việc đầu cơ về đất làm giá nhà và giá đất tăng sẽ không có lợi cho phát triển kinh tế cũng như cải thiện đời sống của đa số người dân. Mặt khác nếu đất đai không được kiểm soát và quản lý hữu hiệu ở phương diện vĩ mô thì dòng vốn nhàn rỗi sẽ tập trung vào những khu vự sinh lời nhất.
3.4.1.3. Nhanh chóng hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về TTCK Việt Nam theo xu hướng hội nhập quốc tế để thực sự tạo môi trường đầu tư thông thoáng và hấp dẫn, kích thích sự tham gia của các nhà đầu tư có tổ chức và các nhà đầu tư nước ngoài, làm nền tảng để thu hút công chúng đầu tư tham gia TTCK
TTCK Việt Nam là một thị trường mới nên công chúng đầu tư chưa thực sự hiểu biết về hoạt động của thị trường cũng như chưa thấy hết được lợi ích của việc tham gia thị trường. Thị trường thiếu vắng các nhà đầu tư có tổ chức như quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán và thiếu vắng các nhà đầu tư nước ngoài. Đây là do môi trường đầu tư chứng khoán của chúng ta còn chưa hoàn thiện và hấp dẫn, chưa tạo ra sức hút với các nhà đầu tư chiến lược. Chính hạn chế này kéo theo sự thờ ơ của công chúng đầu tư.
Rõ ràng là các nhà đầu tư có tổ chức cũng như các nhà đầu tư nước ngoài họ có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và năng lực đầu tư tốt hơn nhiều các nhà đầu tư cá nhân. Một khi họ tham gia vào tiến trình cổ phần hóa và TTCK sẽ tạo ra sự quan tâm sát sao của công chúng đầu tư. Hơn thế nữa, động thái này còn có tác dụng như một sự thẩm định, là chỗ dựa cho các nhà đầu tư cá nhân.
Cùng với xu thế hội nhập của nền kinh tế đất nước, vấn đề hội nhập của TTCK Việt Nam cũng được đặt ra. Chúng ta cần nhanh chóng xây dựng Luật chứng khoán phù hợp với thông lệ quốc tế, đáp ứng được các yêu cầu về hội nhập quốc tế. Ngoài ra, chúng ta nên có những giải pháp mở cửa TTCK như áp dụng giao dịch qua mạng Internet để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài ngoài biên giới Việt Nam tham gia giao dịch chứng khoán hàng ngày và tiến hành đưa cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam ra niêm yết tại TTCK nước ngoài. Trên cơ sở này công chúng đầu tư có điều kiện được tư vấn thêm từ các tổ chức tài chính nước ngoài, có cơ sở so sánh các cơ hội đầu tư trên các thị trường.
3.4.2. Đối với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
3.4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý
Việc hoàn thiện khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong giao trên TTCK là cơ sở để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong lĩnh vực này, đồng thời định ra hướng đi đúng cho các hành vi xử sự của cá nhân, tổ chức liên quan trong khuôn khổ mà pháp luật quy định.
Riêng đối với hoạt động tư vấn đầu tư còn nhiều điều vướng mắc mà lý do là pháp luật chưa đề cập đến một cách rõ ràng, cụ thể. Đó là vấn đề pháp luật chỉ quy định khi tiến hành hoạt động tư vấn đầu tư, Cty chứng khoán được nhận phí nhưng không quy định khung giá như một số nghiệp vụ khác. Không những thế, pháp luật cũng chưa có quy định cụ thể nào về nội dung tư vấn mà các nhân viên tư vấn có thể cung cấp cho khách hàng, trách nhiệm của người tư vấn đối với nội dung tư vấn của mình, điều kiện của người thực hiện tư vấn đầu tư, căn cứ để tư vấn đầu tư…
Một khía cạnh cần nói đến nữa là nội dung về tư vấn đầu tư có bao gồm tư vấn pháp lý liên quan đến chứng khoán? Chẳng hạn một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của người sở hữu chứng khoán, tỉ lệ nắm giữ chứng khoán của các tổ chức và cá nhân, tranh chấp và giải quyết tranh chấp phát sinh liên quan đến người đầu tư chứng khoán. Theo cách hiểu hiện nay thì hoạt động này dường như chỉ liên quan đến tư vấn đầu tư tài chính đối với chứng khoán.
Về phạm vi tư vấn, pháp luật cũng chưa quy định về giới hạn tư vấn cho nên có thể xảy ra trường hợp nhân viên tư vấn tư vấn với những cam kế chắc chắn làm tổn hại đến quyền lợi của nhà đầu tư. Ở một số nước họ có biện pháp đảm bảo trong chừng mực nhất định đối với chất lượng tư vấn, thực hiện đúng các giới hạn của pháp luật như áp dụng tiền ký quỹ đối với tổ chức tư vấn và ngay cả đối với nhân viên tư vấn.
Như vậy, để sớm hoạt động tư vấn đi vào quỹ đạo chuyên nghiệp và suôn sẻ, cần phải có một hành lang pháp lý vững chắc cho nó, cụ thể cần phải làm rõ nội dung tư vấn đầu tư chứng khoán bằng các văn bản pháp luật.
3.4.2.2. Củng cố hệ thống đào tạo, cấp phép hành nghề tư vấn chứng khoán
Trong những năm qua, UBCKN đã tổ chức các khóa đào tạo ngắn hạn cho nhân viên chứng khoán. Tuy nhiên, các khóa học áp dụng chung cho tất cả các nhân viên mà chưa có chương trình riêng cho từng nghiệp vụ. Đây là một hạn chế trong công tác nâng cao kiến thức và trình độ chuyên môn cho các nhân viên tư vấn. Chính vì thế khi thị trường có những sự cố hay biến động thì họ cũng lúng túng không kém gì các nhà đầu tư.
Từ thực trạng đội ngũ nhân viên tư vấn vừa thiếu về số lượng lẫn chất lượng, UBCKNN cần có các chính sách đào tạo, cơ chế quản lý thích hợp đảm bảo tính chặt chẽ, hiệu quả mà vẫn thông thoáng.
Trước hết, UBCKNN phải vạch ra định hướng, chương trình đạo tạo cụ thể trong cả ngắn hạn và dài hạn sao cho bám sát thực tế của TTCK Việt Nam. Ngoài những chương trình đạo tạo cơ bản như hiện nay, Ủy ban cần tổ chức thêm các khóa đào tạo chuyên sâu cho từng nhân viên nghiệp vụ nói chung và nhân viên tư vấn nói chung. Đối với đội ngũ giảng viên, UBCK có thể cử người đi tu nghiệp ở nước ngoài, có thể mời các chuyên gia giỏi ở nước ngoài sang giảng dạy.
Trong quá trình đào tạo, Ủy ban phải theo dõi kiểm tra sát sao thái độ và chất lượng học tập của học viên. Kết quả của những kỳ thi sát hạch là căn cứ để UBCK cấp giấy phép hành nghề cho nhân viên. Có như thế, UBCK mới lựa chọn được những người có năng lực thực sự, có khả năng thực hiện tốt công việc.
3.4.2.3. Phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho công chúng đầu tư
Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, nặng nề và mang tính lâu dài. Bởi vì hiện nay trình độ dân trí của người dân vẫn còn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực chứ chưa nói đến các nước tiên tiến. Trong khi đó, TTCK tuổi đời mới chỉ gần 6 năm, nó vẫn còn xa lạ và mới mẻ với công chúng. Số người trong xã hội quan tâm, hiểu biết về chứng khoán và TTCK rất ít, thậm chí có một số cán bộ trí thức cũng chưa mấy chú ý đến lĩnh vực này. Những người tham gia vào thị trường thì phần lớn lại không cần tư vấn. Chính vì thế nghề tư vấn muốn hoạt động có hiệu quả cần phải có nền tảng là một hệ thống khách hàng có kiến thức chứng khoán nhất đinh. Việc tuyên truyền phổ biến kiến thức chứng khoán không chỉ là nhiệm vụ của Bộ Tài chính, UBCKNN mà còn là công việc của Chính phủ của các Bộ ngành địa phương, của doanh nghiệp nhưng trong đó nhiệm vụ chính thuộc về UBCKNN.
Để làm tốt công tác này, UBCKNN cần triển khai các chương trình đào tạo kiến thức chứng khoán và TTCK dưới nhiều hình thức khác nhau như:
- Tổ chức các lớp đào tạo miễn phí, các buổi nói chuyện chuyên đề cho công chúng đầu tư, các phóng viên báo chí, sinh viên và cung cấp các tài liệu đề cập đến các nội dung cơ bản về chứng khoán và TTCK dưới dạng tờ rơi, sách, sổ tay…
- UBCKNN có thể sử dụng các phương tiện truyền thông như phát thanh, truyền hình, báo chí, Internet xây dựng các chuyên mục riêng về phổ cập kiến thưc chứng khoán.
- Mở các khóa học về chứng khoán và TTCK cho những người có nhu cầu tìm hiểu sâu hơn về lĩnh vực này và phối hợp với các Cty chứng khoán cho các học viên đến quan sát tình hình giao dich tại các công ty, gặp gỡ các nhà đầu tư và nhân viên ở công ty để họ có cái nhìn thực tế về mảng kiến thức họ quan tâm.
Bên cạnh tuyên truyền giáo dục các kiến thức cơ bản khi tham gia vào thị trường, UBCKN cũng cần tuyên truyền văn hoá đầu tư cho công chúng để họ hình thành và nâng cao được thói quen đầu tư trên cơ sở các nghiên cứu, phân tích thoát khỏi tâm lý “đám đông”.
3.4.2.4. Tăng cường công tác quản lý và giám sát các công ty chứng khoán
Không nằm ngoài mục tiêu đảm bảo tính ổn định của thị trường và quyền lợi hợp pháp của các nhà đầu tư, công tác quản lý và giám sát các công ty chứng khoán là một biện pháp hữu hiệu mà UBCKNN phải thường xuyên thực hiện.
Việc quản lý, giám sát giúp phát hiện những sai sót hoặc sai lầm do khách quan hoặc chủ quan để từ đó kịp thời có những biện pháp xử lý thích hợp. Tùy vào nguyên nhân của sai sót là do vô tình hay cố ý, cơ quan quản lý phải giải quyết sao cho một cách công tâm, chặt chẽ và nghiêm minh nhất.
Trong hoạt động tư vấn, nhà tư vấn cũng như Cty chứng khoán có thể lợi dụng chức vụ và quyền hạn của mình để trục lợi cá nhân do đó cơ quan lý phải thường xuyên kiểm tra, phát hiện để chắc chắn rằng các Cty chứng khoán tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, các nguyên tắc đạo đức của nhà tư vấn.
Một vấn đề nữa là khi thực hiện hoạt động tư vấn do thông tin không đối xứng, do xung đột lợi ích, do hành vi gian lận có thể dẫn đến những mâu thuẫn hoặc tranh chấp giữa Cty chứng khoán với khách hàng. Chính vì thế, cơ quan quản lý phải tiến hành công tác kiểm tra, thanh tra đều đặn, liên tục. Có như thế mới nhanh chóng tìm ra được nguyên nhân và phương án xử lý, bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư luôn được tôn trọng và bảo vệ.
Với tính chất nhạy cảm của hoạt động tư vấn, công tác quản lý, giám sát càng có vai trò quan trọng hơn đối với việc thiết lập, duy trì tính pháp lý của hoạt động này và tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
3.4.3. Đối với Hiệp hội chứng khoán
3.4.3.1. Thường xuyên thực hiện các cuộc nghiên cứu, khảo sát thị trường
Thực tế cho thấy việc nghiên cứu và thiết lập môi trường kinh doanh, ứng dụng các sản phẩm dịch vụ mới, cung cấp thông tin nghiệp vụ và xác định chiến lược kinh doanh… là những vấn đề rấ cần thiết cho từng công ty chứng khoán nhưng các hoạt động này thường vượt quá xa khả năng tài chính năng lực nghiên cứu. Lý do là những công việc này phải nghiên cứu trên phạm vi lớn, trong một thời gian lâu dài, chi phí rất lớn và cần rất nhiều nhân lực.
Mặt khác, nếu từng hội viên của Hiệp hội tiến hành nghiên cứu một cách đơn lẻ sẽ dẫn đến sự lãng phí về thời gian, nhân lực và chi phí. Hơn nữa, các kết quả do việc nghiên cứu đơn lẻ đem lại sẽ phân tán, hoặc dễ bị đánh cắp và gặp khó khăn trong việc triển khai đồng bộ. Sản phẩm của các công ty chứng khoán là những sản phẩm tài chính đòi hỏi phải thường xuyên cải tiến, đổi mới nhưng lại không có bản quyền nên thường bị đánh cắp. Điều này đã làm cho các thành viên của Hiệp hội dần dần mất đi động lực nghiên cứu các sản phẩm, dịch vụ mới. Các nhược điểm này có thể khắc phục được khi có một sự hợp tác chung thống nhất giữa các hội viên. Với những lý do như vậy, Hiệp hội chứng khoán cần phải thực hiện vai trò đầu mối vận động, phối hợp hoạt động và phát huy được sức mạnh trí tuệ tập thể của các hội viên. Làm được điều này sẽ giúp cho các sản phẩm, dịch vụ trên thị trường phong phú, đa dạng và có chất lượng cao hơn.
3.4.3.2. Xây dựng và ban hành Bộ Đạo đức nghề nghiệp
Hiệp hội chứng khoán đảm đương chức năng tự quản đối với người hành nghề chứng khoán, chịu trách nhiệm trong việc thúc đầy các công ty chứng khoán thực thi pháp luật. Trong tình hình hiện nay, Hiệp hội cần phải xây dựng Bộ Đạo đức nghề nghiệp và sớm ban hành để làm cơ sở chuẩn mực cho các công ty chứng khoán áp dụng và tuân thủ.
Trước hết, Bộ Đạo đức nghề nghiệp phải dựa trên 9 nguyên tắc mà Tổ chức quốc tế các Ủy ban chứng khoán - IOSCO đã đưa ra, coi đây là các tiêu chuẩn tối thiểu đối với công ty chứng khoán nhằm bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư và đảm bảo công ty thực hiện một cách thích hợp, góp phần duy trì một thị trường công bằng, trật tự.
Cụ thể 9 nguyên tắc này bao gồm:
- Trung thực và công bằng
Điều này được thể hiện ở chỗ, khi các nhân viên tư vấn hoặc đại diện cho khách hàng họ phải đảm bảo tính độc lập, công khai và không thiên vị. Họ không được yêu cầu, nhận bất kỳ khoản thù lao nào ngoài quy định cũng như biếu quà cho khách hàng nhằm mưu cầu một sự ưu đãi. Khi tính phí, nhân viên không được tính vượt quá mức cho phép.
- Mẫn cán
Cty chứng khoán phải phải hành động vì lợi ích cao nhất của khách hàng và tiến hành hoạt động một cách thích hợp góp phần duy trì một thị trường công bằng và trật tự. Các nhân viên phải sử dụng mọi biện pháp hợp lý để thực hiện lệnh của khách hàng một cách nhanh chóng và theo điều kiện tôt nhất hiện có. Nhân viên tư vấn đầu tư không được đưa ra các đề xuất về giao dịch hoặc thực hiện giao dịch cho khách hàng trừ khi điều đó thích hợp cho khách hàng và được khách hàng đồng ý hay cho phép.
- Năng lực
Cty chứng khoán phải đảm bảo được rằng các nhân viên của công ty có đủ năng lực chuyên môn và công ty sử dụng các nguồn lực hợp lý cũng như các hoạt động đều được tiến hành một cách đúng thủ tục. Họ phải có những thủ tục kiểm soát nội bộ thích hợp để bảo vệ hoạt động, khách hàng và các công ty khác.
- Thông tin về khách hàng
Công ty chứng khoán phải có biện pháp thu thập thông tin đầy đủ về mỗi khách hàng liên quan đến các dịch vụ mà công ty cung cấp cho khách hàng.
Trường hợp tư vấn đầu tư cho khách hàng, công ty cần nắm được các thông tin sau về khách hàng: tình hình tài chính của khách hàng, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng, mục tiêu đầu tư của khách hàng.
- Thông tin cho khách hàng
Cty chứng khoán phải công khai với khách hàng tất cả thông tin liên quan đến các giao dịch với khách hàng. Họ phải cung cấp cho khách hàng đầy đủ thông tin về công ty, các điều kiện thuận lợi cũng như hạn chế liên quan tới việc hành nghề kinh doanh của khách hàng. Đồng thời, mọi thỏa thuận giữa công ty với khách hàng phải được thể hiện bằng văn bản.
- Ưu tiên khách hàng
Cty chứng khoán phải luôn đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu và lợi ích của công ty là thứ yếu và đối xử công băng đối với mọi khách hàng. Họ cũng không nên lạm dụng việc tiếp cận với thông tin nghiên cứu hoặc phân tích để gây ảnh hưởng đến giá cả của các loại chứng khoán cũng như chỉ sử dụng cho bản thân hoặc cho một số khách hàng nào đó trước khi thông tin đó được cung cấp cho khách hàng theo đúng quy trình.
- Xung đột lợi ích
Trong trường hợp nhân viên có một lợi ích trong một giao dịch với hoặc cho khách hàng (hoặc có mối quan hệ làm nảy sinh xung đột lợi ích), họ phải tự giác không được làm tư vấn cho khách hàng hoặc thực hiện giao dịch cho khách hàng, trừ khi họ đã thông báo trước cho khách hàng về lợi ích đó và được khách hàng chấp nhận
- Tài sản của khách hàng
Cty chứng khoán phải đảm bảo rằng tài sản của khách hàng được giải trình một cách nhanh chóng, thích hợp và luôn được bảo vệ cũng như tài sản của khách hàng phải được tách biệt với tài sản của công ty.
- Trách nhiệm của Ban Giám đốc Công ty
Ban Giám đốc là những người đầu tiên phải chịu trách nhiệm về các tiêu chuẩn này được duy trì và tuân thủ tại công ty của mình.
KẾT LUẬN
Thị trường chứng khoán Việt Nam đã vượt qua giai đoạn thử nghiệm với không ít gian truân nhưng gặt hái được nhiều thành quả đáng khích lệ. Đến nay sự vận hành thị trường đã và đang trở nên bài bản, ngày càng suôn sẻ và thu hút được nhiều sự chú ý của giới đầu tư trong và ngoài nước. Nhận xét một cách khách quan những nhân tố nội tại và nhân tố bên ngoài, chúng ta tin tưởng rằng khi TTCK từng bước phát triển cùng với kiến thức, kinh nghiệm đầu tư của các nhà đầu tư được nâng lên đáng kể thì lúc đó nhu cầu tham gia vào TTCK càng trở nên cần thiết đối với công chúng đầu tư. Đầu tư chứng khoán sẽ là hoạt động thường xuyên, bình thường đối với họ.
Tất nhiên, để đạt được triển vọng khả quan đấy thật không đơn giản. Trong đó cần nhiều đến vai trò xung kích của các công ty chứng khoán với trách nhiệm tư vấn đầu tư chứng khoán cho các nhà đầu tư. Bởi lẽ, một bên là Cty chứng khoán có đầy đủ các điều kiện về năng lực, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp một bên là nhà đầu tư cần có sự hướng dẫn, tư vấn thuyết phục, hợp lý và có trách nhiệm từ các công ty để đưa ra quyết định đầu tư của mình.
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Thị trường chứng khoán, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội, Nhà xuất bản Tài chính, 2002
Giáo trình những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán , UBCKNN, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002
Thị trường chứng khoán và quản trị công ty của UBCKNN, Nhà xuất bản Thống kê, 2004
Giáo trình Thị trường chứng khoán, Học viện Ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê, 2004
Tiếp cận thị trường và kinh doanh chứng khoán, Phạm Minh, Nhà xuất bản Tài chính
Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán do Chính phủ và UBCKNN ban hành
Tạp chí Chứng khoán Việt Nam
Tạp chí Thị trường Tài chính Tiền tệ
Đề tài nghiên cứu: Vai trò của Công ty chứng khoán trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng, UBCKNN, 2002
Luận văn Tốt nghiệp khóa 42, 43, Khoa Ngân hàng – Tài chính, Đại học Kinh tế quốc dân
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32445.doc