LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việc hình thành và phát triển Thị trường chứng khoán (TTCK) là một bước phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Việt Nam với nền kinh tế vận hành theo cơ chế Thị trường cũng đòi hỏi phải có TTCK để làm cầu nối giữa một bên là các nhà đầu tư (bao gồm các tổ chức kinh tế - xã hội và dân chúng) với bên kia là các doanh nghiệp cần vốn kinh doanh và Nhà nước cần tiền để thỏa mãn các nhu cầu chung của đất nước. Đến nay, TTCK Việt Nam đã trải qua hơn 7 năm đầu t
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động tự doanh tại Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (HabuBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên trong lịch sử phát triển của mình. Bẩy năm qua là bảy năm làm quen với hoạt động của TTCK, bảy năm vượt qua bao khó khăn thăng trầm để từng bước phát triển thị trường. Bước đầu công chúng đầu tư đã làm quen với phương thức đầu tư trên TTCK, các doanh nghiệp đã làm quen với phương thức huy động vốn thông qua TTCK.
Nhưng để các hoạt động trên thị trường chứng khoán có thể diễn ra suôn sẻ thì mọi hoạt động mua bán diễn ra trên TTCK tập trung đều phải thông qua tổ chức tài chính trung gian đó là các Công ty chứng khoán
Công ty chứng khoán (CTCK) là một tổ chức tài chính trung gian nhằm thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán như cung cấp các dịch vụ môi giới, tư vấn, bảo lãnh... cho các nhà đầu tư và các tổ chức.Bên cạnh đó, công ty cũng thực hiện kinh doanh chứng khoán cho chính mình thông qua hoạt động tự doanh. Hàng năm, hoạt động tự doanh chứng khoán đã mang lại cho công ty những khoản lợi nhuận lớn song nó cũng tiềm ẩn những rủi ro như các hoạt động kinh doanh khác. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này nên em đã chọn đề tài:
“Phát triển hoạt động tự doanh tại công ty chứng khoán ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài này em chỉ nghiên cứu hoạt động tự doanh tại công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) Nhà Hà Nội có trụ sở tại 2C Vạn Phúc, Ba Đình, Hà Nội.
3. Kết cấu đề tài
Với đối tượng và phạm vi nghiên cứu ở trên, kết cấu đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề chung về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội
Chương 3 : Giải pháp phát triển hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội.
Do nguồn tài liệu thu thập được có giới hạn, khả năng hiểu biết của em về chứng khoán và thị trường chứng khoán còn nhiều hạn chế, để có thể hoàn thành được đề tài này, em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của PGS.TS.Trần Đăng Khâm và sự giúp đỡ của tất cả các anh, chị phòng môi giới và phòng kinh doanh của CTCK MHTMCP Nhà Hà Nội.
Chương I : NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1. Những vấn đề chung về công ty chứng khoán
1.1.1. Khái niệm về Công ty chứng khoán
Nguyên tắc trung gian là một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản nhất của TTCK. Theo nguyên tắc này, mọi hoạt động mua bán diễn ra trên TTCK tập trung đều phải thông qua tổ chức trung gian, đó là công ty chứng khoán.
Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán.
Với vai trò là một tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhận một hoặc nhiều trong số các hoạt động chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán.
Theo Luật chứng khoán, công ty chứng khoán là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập theo pháp luật Việt Nam và được Uỷ ban chứng khoán cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán.
Về mô hình tổ chức kinh doanh chứng khoán có thể khái quát thành hai mô hình đó là: Mô hình công ty chứng khoán đa năng và mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh
Mô hình công ty chứng khoán đa năng:
Theo mô hình này, công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức một tổ hợp dịch vụ tài chính tổng hợp bao gồm kinh doanh chứng khoán, kinh doanh tiền tệ và dịch vụ tài chính. Theo đó, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư các là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình công ty chứng khoán này được thể hiện dưới hai hình thức:
Công ty chứng khoán đa năng một phần: Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con hạch toán độc lập và hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ.
Công ty đa năng toàn phần: Các ngân hàng trực tiếp kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ cũng như các dịch vụ khác.
Mô hình này có ưu điểm là ngân hàng có thể đa dạng hoá, kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi ro do hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến biến động của TTCK là cao. Mặt khác, các ngân hàng tận dụng được thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán, khách hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hàng.
Tuy nhiên, mô hình này cũng bộc lộ một số hạn chế như không phát triển được thị trường cổ phiếu do các ngân hàng có xu hướng bảo thủ, thích hoạt động tín dụng truyền thống hơn là bảo lãnh phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Mặt khác, theo mô hình này, các ngân hàng cũng rất dễ gây lũng đoạn thị trường, và nếu có biến động trên TTCK sẽ ảnh hưởng mạnh đến hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng, dễ dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính do không tách bạch giữa hai loại hình kinh doanh.
Do những hạn chế trên mà trước đây Mỹ và nhiều nước khác đã áp dụng mô hình này, nhưng sau cuộc khủng hoảng năm 1933, đa số các nước đã chuyển sang mô hình chuyên doanh chứng khoán, chỉ có Đức vẫn duy trì đến ngày nay.
Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh:
Hoạt động của các công ty chứng khoán sẽ do các công ty độc lập và chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm trách, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán.
Ưu điểm của mô hình này: Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hoá cao hơn. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada...
Tại Việt Nam, do quy mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất nhỏ bé, đặc biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu trong lĩnh vực thương mại ngắng hạn, trong khi hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn dài hạn. Khả năng khắc phục những yếu điểm này của ngân hàng Việt Nam còn rất lâu dài. Do đó, để bảo vệ an toàn cho các ngân hàng, pháp luật Việt Nam có quy định các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra một phần vốn tự có của mình thành lập một Công ty chứng khoán chuyên doanh trực thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng
1.1.2. Phân loại công ty chứng khoán
Do đặc điểm của CTCK, mỗi công ty có thể thực hiện kinh doanh trên một lĩnh vực, loại hình nhất định. Vì vậy, hiện nay, có quan điểm chia CTCK thành các loại hình sau
Công ty môi giới chứng khoán: là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện việc trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng
Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí và chênh lệch giá.
Công ty kinh doanh chứng khoán: là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh nghĩa là tự bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh.
Công ty kinh doanh trái phiếu là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu.
CTCK không tập trung là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường.
1.1.3. Vai trò của công ty chứng khoán
Vai trò của CTCK được thể hiện qua các hoạt động của CTCK. Thông qua các hoạt động này, CTCK đã thực sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. CTCK đã trở thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong quá trình phát triển của TTCK.
Đối với các tổ chức phát hành
Trên lý thuyết khi doanh nghiệp cần huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán thì họ có thể tự chào bán chứng khoán của mình đến các nhà đầu tư. Tuy nhiên, trên thực tế, các tổ chức phát hành không thể làm tốt điều này do họ không có một bộ máy chuyên nghiệp trong lĩnh vực này để thực hiện. Do đó, họ cần một tổ chức chuyên nghiệp đứng ra để mua bán chứng khoán cho họ. Mặt khác, một trong những nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK đó là nguyên tắc trung gian. Theo nguyên tắc này, các nhà phát hành và nhà đầu tư không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Vì vậy, các CTCK với cơ cấu tổ chức phù hợp, trình độ chuyên môn, thành thạo nghiệp vụ sẽ thực hiện vai trò trung gian cho nhà đầu tư và các chủ thể phát hành. Thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các tổ chức phát hành.
Đối với các nhà đầu tư
Trên TTCK, giá cả chứng khoán thường xuyên biến động cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho những nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian để tìm hiểu thông tin trước khi đưa ra các quyết định đầu tư.
CTCK lại có những đặc thù riêng. Do họ có trình độ chuyên môn cao và có một hệ thống thu thập và xử lý thông tin để làm cơ sở cho hoạt động tư vấn điều mà các nhà đầu tư cá nhân không thể có được nên CTCK trở thành nơi cung cấp những nguồn thông tin đáng tin cậy nhất.
Vì vậy, thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn đầu tư, CTCK giúp nâng cao hiệu quả của các khoản đầu tư bằng cách giảm chi phí và thời gian giao dịch.
Vai trò đối với thị trường chứng khoán: Đối với TTCK, công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính:
Thứ nhất: CTCK góp phần tạo lập thị trường thông qua việc điều tiết thị trường và tạo lập giá cả.
Trên thị trường sơ cấp, khi thực hiện hoạt động bảo lãnh chứng khoán cho các tổ chức phát hành, CTCK thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá chào bán hợp lý đối với các chứng khoán. Thông thường, mức giá phát hành do các CTCK xác định trên cơ sở xác định giá trị của doanh nghiệp và thông qua việc tiếp xúc, tìm hiểu và thoả thuận với các nhà đầu tư tiềm năng lớn trong đợt phát hành và tư vấn cho tổ chức phát hành. Mặt khác, CTCK cũng là những thành viên của thị trường, do vậy, họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua hoạt động đấu giá.
Trên thị trường thứ cấp, dù đó là thị trường đấu giá hay đấu lệnh, giá chứng khoán được xác định theo quy luật cung cầu của thị trường, do đó với hoạt động tư vấn của mình, CTCK đã luôn giữ vai trò giúp nhà đầu tư đánh giá đúng và chính xác về khoản đầu tư của họ.
Bên cạnh đó, để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích cho chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường.
Thứ hai, CTCK góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính.
Như chúng ta đã biết, TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản cho các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là những người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường.
Trên thị trường sơ cấp, do thực hiện các hoạt động bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các CTCK không những huy động được một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho các tổ chức phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán trên thị trường thứ cấp. Điều này làm giảm tính rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư chứng khoán.
Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua bán, các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại một cách thuận tiện, nhanh chóng, ít tốn kém và ít thiệt hại nhất. Chính những hoạt động này đã làm tăng tính thanh khoản của những tài sản tài chính.
Đối với các cơ quan quản lý thị trường
Các CTCK có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thị trường. Thật vậy, các CTCK là thành viên hoạt động thường xuyên, liên tục trên TTCK theo nguyên tắc trung gian và công khai. Với ưu thế nắm rõ tính hình của các tổ chức phát hành cũng như các nhà đầu tư thông qua hoạt động bảo lãnh phát hành, trung gian mua bán, CTCK là nơi cung cấp các thông tin về các loại chứng khoán, các giao dịch, về tổ chức phát hành, nhà đầu tư và các biến động của thị trường một cách cập nhật, chính xác và tổng hợp nhất. Dựa vào nguồn thông tin này, cơ quan quản lý thị trường có thể theo dõi, giám sát toàn cảnh hoạt động của TTCK để từ đó đưa ra các quyết định, chính sách phù hợp, đúng đắn, kịp thời, đảm bảo cho hoạt động của TTCK diễn ra một cách trật tự, an toàn và hiệu quả.
Như vậy, thông qua trung gian là các CTCK, các cơ quan quản lý nâng cao được nâng cao năng lực quản lý để duy trì sự hoạt động lành mạnh của một thị trường tự do nhất trong tất cả các thị trường.
1.1.4. Những hoạt động của công ty chứng khoán
1.1.4.1. Hoạt động môi giới chứng khoán
Môi giới chứng khoán là hoạt động kinh doanh của CTCK trong đó CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Khi thực hiện hoạt động môi giới, CTCK phải mở tài khoản giao dịch chứng khoán và tiền cho từng khách hàng trên cơ sở hợp đồng ký kết giữa khách hàng và công ty. Trên cơ sở đó, các CTCK sẽ là cầu nối giữa những nhà đầu tư có nhu cầu mua chứng khoán và các nhà đầu tư có nhu cầu bán chứng khoán.
Trên thực tế, không chỉ trên thị trường chứng khoán mới có nghề môi giới chứng khoán. Với tư cách là khâu trung gian giúp thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá bằng cách rút ngắn khoảng thời gian tìm kiếm để gặp gỡ giữa người mua bà người bán, nghề môi giới đã tồn tại từ lâu trong nền kinh tế hàng hoá, nhất là đối với những hàng hoá mà người mua và người bán không dễ dàng gặp nhau. Song trên thị trường chứng khoán, nghề môi giới chứng khoán không chỉ đơn thuần là khâu đưa sản phẩm, dịch vụ từ người bán đến người mua. Những đặc trưng riêng của một thị trường cao cấp, những sản phẩm và dịch vụ phức tạp, đa dạng ở đây đòi hỏi ở nghề môi giới chứng khoán, cụ thể hơn là những công ty chứng khoán và những người môi giới chứng khoán, những đặc điểm về tổ chức và và vận hành, những phẩm chất, kỹ năng và điều kiện hoạt động hết sức đặc thù.
Ngoài ra, với vai trò là nhà môi giới chứng khoán, CTCK còn cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược, và giúp cho người đầu tư thực hiện các giao dịch theo cách có lợi nhất.
Tuỳ theo quy định của mỗi nước, cách thức hoạt động của từng Sở giao dịch chứng khoán mà người ta có thể phân chia thành nhiều loại môi giới khác nhau như môi giới dịch vụ, môi giới độc lập, hay môi giới hai đô la, nhà môi giới chuyên môn.
1.1.4.2. Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh là hoạt động mà trong đó CTCK thực hiện mua và bán chứng khoán cho chính mình. Chứng khoán ở đây có thể là chứng khoán niêm yết hoặc chưa niêm yết. Ngoài ra, CTCK có thể tự doanh chứng khoán lô lẻ của khách hàng, sau đó tập hợp lại thành lô chẵn để giao dịch trên thị trường chứng khoán. Mục đích của CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh là nhằm thu lợi hoặc đôi khi nhằm mục đích can thiệp điều tiết giá trên thị trường.
Theo khoản 1 điều 34 quy chế tổ chức và hoạt động CTCK số 27/2007/NĐ-CP ngày 24/4/2007 quy định về hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán như sau: CTCK phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của mình.
Hoạt động tự doanh hiện nay được xem là một trong những hoạt động quan trọng nhất của CTCK tại Việt Nam trong việc nâng cao lợi nhuận. Tuy nhiên, do hoạt động tự doanh và môi giới dễ nảy sinh xung đột lợi ích nên các nước thường quy định các CTCK phải tổ chức thực hiện hai hoạt động ở hai bộ phận riêng biệt nếu CTCK đó được thực hiện cả hai hoạt động và CTCK phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình.
1.1.4.3. Hoạt động bảo lãnh và phát hành chứng khoán
Theo điều 6 Luật chứng khoán quy định “Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết với tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành hoặc hỗ trợ tổ chức phát hành trong việc phân phối chứng khoán ra công chúng”.
Theo nguyên tắc trung gian, trên TTCK yêu cầu các nhà đầu tư không được mua chứng khoán trực tiếp từ các nhà phát hành mà mua chứng khoán thông qua các nhà bảo lãnh. Điều này lý giải tại sao các tổ chức khi muốn phát hành chứng khoán phải thông qua các tổ chức bảo lãnh phát hành như ngân hàng đầu tư hoặc CTCK. Tổ chức bảo lãnh phát hành được hưởng phí hoặc một tỷ lệ hoa hồng nhất định trên số tiền thu được từ đợt phát hành.
Hiện nay trên thế giới có một số hình thức bảo lãnh phát hành đó là: bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh theo phương thức dự phòng, bảo lãnh với cố gắng cao nhất, bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không, bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa. Riêng tại Việt Nam hiện nay chỉ áp dụng hình thức bảo lãnh với cam kết chắc chắn nhằm mục đích bảo vệ nhà đầu tư và gắn kết trách nhiệm của các CTCK. Điều này gây ra một số khó khăn cho các CTCK trong việc triển khai nghiệp vụ này
1.1.4.4. Hoạt động tư vấn đầu tư
Tư vấn đầu tư chứng khoán là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Các sản phẩm tư vấn bao gồm tư vấn tài chính doanh nghiệp và tư vấn đầu tư chứng khoán.
Đây là nghiệp vụ mà vốn của nó chính là kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp của đội ngũ chuyên viên tư vấn của CTCK. Do đặc điểm riêng của hoạt động tư vấn chứng khoán là giá cả thường xuyên biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng khoán rất khó khăn, đồng thời có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn về lợi ích. Đặc biệt là với hoạt động này, các nhà tư vấn có thể gây ra những hiểu lầm đáng tiếc về giá trị và xu hướng giá cả của các loại chứng khoán - việc này có thể do khả năng của họ hoặc do họ cố tình gây hiểu lầm để kiếm lợi. Do vậy, đây là một trong những hoạt động nghiệp vụ cần được quản lý chặt chẽ và đòi hỏi phải có những giới hạn nhất định trong khi thực hiện công việc. Theo quy định tại Việt Nam, khi thực hiện tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng, các CTCK và nhân viên kinh doanh phải:
+ Phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp
+ Bảo đảm tính trung thực, khách quan của hoạt động tư vấn
+ Không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của bất kỳ loại chứng khoán nào
+ Không được có hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay mời gọi khách hàng mua bán một loại chứng khoán nào đó
+ Bảo mật các thông tin nhận được từ người sử dụng dịch vụ tư vấn trừ trường hợp được khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác
+ Chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt động tư vấn và bồi thường thiệt hại cho người sử dụng đối với dịch vụ tư vấn khi vi phạm cam kết trong hợp đồng tư vấn
Tuy nhiên, các nhà tư vấn thường đánh giá tình huống theo kiến thức, kinh nghiệm và tư duy chủ quan của họ, do vậy việc đánh giá tình huống của mỗi nhà tư vấn là khác nhau. Tính khách quan và chính xác của các bản phân tích sẽ mang lại uy tín cho nhà tư vấn
1.1.4.5. Các hoạt động phụ trợ
Nhìn chung, các hoạt động hỗ trợ giao dịch nhằm mục đích tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Các hoạt động phụ trợ của CTCK bao gồm:
+ Hoạt động lưu ký chứng khoán:
Lưu ký chứng khoán là hoạt động nhận ký gửi, bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng của Trung tâm lưu ký chứng khoán và giúp khách hàng thực hiện các quyền liên quan đến sở hữu chứng khoán.
Theo quy định chứng khoán của công ty đại chúng và các loại chứng khoán khác niêm yết trên Sở giao dịch, Trung tâm giao dịch chứng khoán phải được lưu ký tập trung tại Trung tâm lưu ký chứng khoán trước khi giao dịch.
Việc lưu ký chứng khoán được thực hiện tại các thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Các thành viên lưu ký bao gồm các công ty chứng khoán và các ngân hàng thương mại đã được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy phép hoạt động lưu ký và đã đăng ký làm thành viên lưu ký của Trung tâm giao dịch chứng khoán. Khi thực hiện hoạt động lưu ký chứng khoán, CTCK sẽ thu phí liên quan đến lưu ký chứng khoán như phí gửi, phí chuyển nhượng chứng khoán.
Hiện nay, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh có 20 thành viên lưu ký trong đó có 17 thành viên lưu ký là các công ty chứng khoán và 3 thành viên lưu ký là các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam.
+ Hoạt động quản lý thu nhập của khách hàng
Xuất phát từ hoạt động lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình lãi, cổ tức của chứng khoán. Bên cạnh đó, CTCK còn đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng.
+ Hoạt động tín dụng:
Bên cạnh nghiệp vụ môi giới chứng khoán để hưởng hoa hồng, CTCK còn cung cấp dịch vụ cho khách hàng vay chứng khoán để thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho vay ký quỹ
Nghiệp vụ tín dụng là một hoạt động thông dụng tại các thị trường chứng khoán phát triển. Còn đối với các thị trường mới nổi như Việt Nam, hoạt động này còn bị hạn chế.
1.2. Hoạt động tự doanh của Công ty chứng khoán
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm về tự doanh chứng khoán
1.2.1.1. Khái niệm về tự doanh chứng khoán
Theo điều 6 Luật chứng khoán quy định “Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán mua hoặc bán chứng khoán cho chính mình”.
Thông thường chức năng chính của CTCK là cầu nối giữa nhà đầu tư với Sở giao dịch chứng khoán, người chơi chứng khoán sẽ phải đến các CTCK để thực hiện một số thủ tục như mở tài khoản chứng khoán, lưu ký chứng khoán. Song, với nghiệp vụ tự doanh, CTCK sẽ tham gia mua bán chứng khoán như một tổ chức độc lập, bằng chính nguồn vốn của công ty, chứ không phải bằng tài khoản của khách hàng và tự gánh chịu rủi ro. Hoạt động này là một hoạt động khó khăn phức tạp và chứa đựng nhiều rủi ro, do đó, nó đòi hỏi vốn điều lệ khá lớn là 100 tỷ đồng và theo quy định hoạt động tự doanh yêu cầu vốn điều lệ lớn thứ hai chỉ sau hoạt động bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng. Song hoạt động này có thể mang về những khoản lợi nhuận rất lớn cho công ty.
Theo Quy chế tổ chức và hoạt động của các CTCK, được Bộ Tài chính ban hành theo quyết định số 27/2007/QĐ-BTC, các CTCK phải đảm bảo có đủ tiền và chứng khoán để thanh toán các lệnh giao dịch của chính mình. Khi tiến hành hoạt động tự doanh, CTCK không được:
Đầu tư vào cổ phiếu của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của CTCK.
Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức niêm yết.
Đầu tư quá 15% số cổ phiếu đang lưu hành của một tổ chức không niêm yết.
Hoạt động tự doanh được thực hiện trên thị trường tập trung như Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm giao dịch chứng khoán hay có thể ở trên thị trường OTC. Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của các CTCK đưa vào hệ thống và được thực hiện như lệnh của khách hàng. Trên thị trường phi tập trung, CTCK có thể thực hiện giao dịch trực tiếp với đối tác hoặc thông qua hệ thống mạng thông tin. Ở một số nước, hoạt động tự doanh của CTCK còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Trong hoạt động này, với vai trò là nhà tạo lập thị trường, CTCK nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện giao dịch với khách hàng nhằm hưởng phí và chênh lệch giá.
1.2.1.2. Đặc điểm của hoạt động tự doanh
CTCK là một định chế tài chính trung gian, thực hiện các nghiệp vụ trên TTCK. Do đó, hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán của các CTCK thực hiện có những đặc điểm khác biệt so với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường.
Hoạt động tự doanh của CTCK mang tính chuyên nghiệp cao. Tính chuyên nghiệp được thể hiện trước hết ở trình độ và khả năng của các cán bộ thực hiện hoạt động tự doanh. Họ phải là những người có kiến thức chuyên sâu, có khả năng phân tích, là người có khả năng đưa ra được các quyết định đúng đắn trong kinh doanh và phải làm việc dưới những áp lực lớn. Bên canh đó, tính năng động và tự chủ của họ luôn được đề cao trong các quyết định đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Song quá trình đầu tư và kinh doanh chứng khoán này đều phải tuân theo những quy trình đầu tư chặt chẽ nhằm bảo đảm tính hiệu quả và an toàn trong đầu tư. Quy trình đầu tư đưa ra các bước cần thiết để thực hiện một phương án đầu tư, đồng thời nó cũng quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các đối tượng tham gia hoạt động tự doanh của công ty. Bên cạnh đó, hoạt động tự doanh của CTCK luôn mang tính chiến lược, có định hướng đồng thời dựa vào các phân tích thị trường và mục tiêu trong từng giai đoạn hoạt động mà CTCK có thể đưa ra các chiến lược đầu tư và chính sách quản trị danh mục đầu tư một cách phù hợp nhất.
Thứ hai, do có tiềm lực tài chính mạnh và hoạt động có tính chuyên nghiệp cao nên quy mô đầu tư của CTCK lớn và danh mục đầu tư đa dạng. Hoạt động tự doanh của CTCK không chỉ tập trung vào một thị trường, một ngành nghề hay một công ty mà họ đầu tư trên nhiều thị trường từ thị trường tập trung đến thị trường phi tập trung cả trong và ngoài nước với nhiều ngành nghề khác nhau. Dựa vào những lợi thế có được của một tổ chức tài chính trung gian các CTCK có khả năng tìm ra những cơ hội đầu tư với chi phí thấp nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm thiểu rủi ro.
Thứ ba, hoạt động tự doanh của CTCK luôn chứa đựng nhiều rủi ro, do đó trong hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán của mình các CTCK đều sử dụng các công cụ phòng vệ như option, future... Việc sử dụng các công cụ phòng vệ của các CTCK hiệu quả hay không phụ thuộc vào nhiều yếu tố như việc sử dụng rộng rãi của các công cụ phòng vệ trong hoạt động đầu tư, chiến lược phát triển, chính sách quản lý danh mục đầu tư của công ty...
1.2.1.3. Vai trò của hoạt động tự doanh
Đối với CTCK
+ Mang lại lợi nhuận cho CTCK
Đây là một vai trò quan trọng của hoạt động tự doanh đối với CTCK. Thông qua tài khoản của họ, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán nhằm thu lợi cho chính mình.Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh chứng khoán thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lợi nhuận của CTCK. Trong các hoạt động còn lại của CTCK hầu như là cung cấp các dịch vụ từ đó nhận phí hoặc hoa hồng từ khách hàng, chỉ riêng hoạt động tự doanh là sử dụng nguồn vốn của công ty để kinh doanh và tạo ra lợi nhuận.
+ Hỗ trợ các hoạt động khác của công ty phát triển
Trên TTCK, mỗi CTCK có một thế mạnh khác nhau, tuy nhiên rất khó có một công ty nào có thể phát triển tốt được các mảng dịch vụ mà mảng tự doanh lại của công ty lại không đạt kết quả cao. Do đó, một CTCK có hoạt động tự doanh phát triển thường thúc đẩy các hoạt động nghiệp vụ phát triển. Bên cạnh đó, nó còn là một hình thức quảng cáo tốt cho tính chuyên nghiệp và khả năng phân tích của công ty.
Đối với TTCK
+ Tăng quy mô vốn trên thị trường
Tuỳ thuộc vào quy mô và chiến lược đầu tư mà mỗi CTCK có một hạn mức đầu tư và kinh doanh chứng khoán khác nhau. Tuy nhiên, lượng vốn mà các CTCK đổ vào thị trường là con số không nhỏ so với các nhà đầu tư riêng lẻ. Điều đó giúp tăng quy mô giao dịch và nâng cao giá trị vốn hoá trên TTCK.
+ Nâng cao chất lượng đầu tư trên thị trường
CTCK là tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực chứng khoán, đầu tư theo quy trình và phân tích có bài bản. Do đó, trên thị trường càng nhiều CTCK thực hiện hoạt động tự doanh thì lối đầu tư theo số đông sẽ dần được thay thế bởi một cách thức đầu tư có sự phân tích và chuyên nghiệp hơn. Có như vậy thị trường mới có thể phát triển bền vững và ổn định được.
+ Bình ổn giá trị thị trường
Với vai trò kinh doanh chứng khoán, CTCK là một thành viên quan trọng của TTCK, có tác dụng làm cho hoạt động của TTCK đều đặn, không bị gián đoạn và sôi động đồng thời góp phần bình ổn giá cả thị trường. Theo luật định, các CTCK đều phải dành một tỷ lệ % nhất định trong các giao dịch của mình cho hoạt động tự doanh nhằm bình ổn thị trường.
1.2.1.4. Nội dung của hoạt động tự doanh của CTCK
Hoạt động đầu tư ngân quỹ
Đầu tư ngân quỹ là hoạt động đầu tư nhằm đáp ứng khả năng thanh toán và tăng tính sinh lời của doanh nghiệp. Nghĩa là, khi CTCK có dư thừa ngân quỹ, công ty đầu tư vào những chứng khoán có tính thanh khoản cao tạo một khoản dự trữ thứ cấp cho nhu cầu thanh toán và dự phòng. Hoạt động đầu tư này có ít rủi ro do khi công ty có nhu cầu cấp bách về vốn thì có thể dễ dàng bán đi với chi phí thấp. Đây là những khoản đầu tư thường diễn ra trong khoảng thời gian ngắn của CTCK nhưng lại là khoản đầu tư có mức sinh lời không nhỏ, do đó, CTCK cần quan tâm hơn vào hoạt động này.
Hoạt động đầu tư hưởng lợi
Hoạt động đầu tư hưởng lợi là hoạt động đầu tư quan trọng trong nghiệp vụ tự doanh của CTCK vì nó là hoạt động có mức sinh lợi lớn nhất. Hoạt động đầu tư hưởng lợi bao gồm:
+ Hoạt động kinh doanh chênh lệch giá
Kinh doanh chênh lệch giá là hoạt động khi nhà đầu tư mua tài sản ở một mức giá thấp và bán chúng ở một mức giá cao hơn nhằm hưởng lợi, và phần lợi nhuận thu về là phần chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Đây là hoạt động chủ yếu của các CTCK hiện nay do nó có thể kiếm được những khoản lợi nhuận lớn và có vòng quay vốn nhanh nhưng lại có mức độ rủi ro lớn. Với mục đích đầu tư của loại hình chỉ quan tâm tới sự chênh lệch giá cả, do đó, chính sách đầu tư của CTCK thiên về đầu tư trong ngắn hạn và đầu tư dài hạn là rất hạn chế.
+ Đầu cơ chứng khoán
Khi nhắc đến từ “đầu cơ”, hầu như mọi người đều nghĩ ngay đến những hoạt động bất hợp pháp, lừa dối, hay chí ít cũng mang hơi hám tham lam, chê trách. Ngay cả giới quản lý cũng thích đưa ra những ý kiến theo hướng đổ lỗi cho dân đầu cơ khi giải thích một số hiện tượng không kiểm soát được giá cả trong thời gian qua. Đầu cơ có nhiều mức độ. Nếu xem xét nó như một hoạt động kinh tế thuần túy, nó chỉ là sự cân nhắc giữa rủi ro và lợi nhuận, người đầu cơ là người chấp nhận rủi ro cao hơn để trông chờ lợi nhuận lớn hơn. Ở đây yếu tố chấp nhận rủi ro và nguồn lực tài chính đóng vai trò quan trọng. Giả sử giá không lên như nhà đầu cơ dự đoán, anh ta sẽ phải chịu lỗ nặng, kể cả mất cơ hội dùng tiền vào hoạt động kinh doanh khác nhưng họ lại được nhận những khoản lợi nhuận khổng lồ nếu dự tính của nhà đầu tư chính xác. Cơ sở đầu tư của họ là: Tại một thời điểm trong tương lai giá cổ phiếu sẽ tăng so với giá hiện tại. Do đó, nhà đầu cơ sẽ mua chứng khoán nhưng không bán mà tích trữ._. ngày càng nhiều và bán ra khi chứng khoán tăng lên cao nhằm gây ra cơn sốt giá chứng khoán và nhà đầu cơ sẽ kiếm được một khoản lợi nhuận lớn.
+ Đầu tư phòng vệ:
Khi tham gia vào TTCK, để bảo vệ mình trước những biến động bất thường của thị trường, các CTCK cũng như nhà đầu tư có thể sử dụng các công cụ phòng vệ để tự bảo vệ mình. Các công cụ đó có là: các hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng quyền chọn... Các công cụ này sẽ góp phần bảo vệ nhà đầu tư trước những biến động theo hướng không thuận lợi của giá chứng khoán.
+ Hoạt động đầu tư giảm giá
Đầu tư giảm giá là hoạt động khi nhà đầu tư dự tính giá chứng khoán có thể xuốn thấp, do đó, nhà đầu tư sẽ vay chứng khoán sau đó bán đi ( hoạt động này gọi là bán khống) và đến thời điểm hoàn trả chứng khoán thì thực hiện mua chứng khoán vào với giá thị trường (thường là giá thấp hơn giá đã mua vào) để trả lại số chứng khoán đã đi vay. Trong pháp luật của nhiều nước không cho phép thực hiện hình thức đầu tư này, vì vậy các CTCK thường rất cân nhắc cẩn thận trước khi ra các quyết định chiến lược đầu tư theo loại hình này.
Hoạt động đầu tư nắm quyền kiểm soát
Ngoài việc đầu tư hưởng lợi, CTCK cũng có thể thực hiện giao dịch chứng khoán nhằm nắm giữ cổ phiếu và trở thành cổ đông của tổ chức phát hành. Mục đích đầu tư ở đây là thao túng và nắm quyền kiểm soát công ty phát hành. Vì vậy, CTCK chấp nhận một chi phí lớn để nắm quyền kiểm soát, từ đó có thể điều tiết hoạt động của tổ chức phát hành và thu được những nguồn lợi cao như mong muốn trong tương lai. Với các tổ chức phát hành làm ăn không hiệu quả, CTCK có thể mua lại một phần hoặc toàn bộ để đủ quyền tham gia quản lý hoặc chi phối công ty, sau đó tái cơ cấu hoạt động sản xuất kinh doanh, tài chính và hệ thống quản lý của tổ chức phát hành để có thể khôi phục vị thế của công ty trên TTCK hoặc bán lại công ty đó cho các đối tác với giá trị cao hơn. Với xu hướng như vậy, các CTCK ngày càng tiến đến hình thành một mô hình tập đoàn tài chính trung gian vừa thực hiện cung cấp dịch vụ trên thị trường chứng khoán vừa đóng vai trò là nhà đầu tư chiến lược
Tạo lập thị trường:
CTCK có thể thực hiện hoạt động tự doanh dưới hình thức là nhà tạo lập thị trường cho một hay nhiều loại chứng khoán. Nhiệm vụ quan trọng nhất của các nhà tạo lập thị trường là tạo tính thanh khoản cho thị trường thông qua việc nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định để sẵn sàng mua bán với các nhà đầu tư khi có nhu cầu. Khi đó CTCK sẽ chủ động đưa ra mức giá cao nhất sẵn sàng mua vào và mức giá thấp nhất sẵn sàng bán ra. Các mức giá này là giá yết của nhà tạo lập và họ được hưởng chênh lệch giá thông qua việc mua bán chứng khoán.
Hoạt động này của CTCK chỉ thực hiện được khi thị trường chưa niêm yết và nó đòi hỏi công ty phải có một nguồn vốn khá lớn và có mạng lưới nhà đầu tư thực hiện giao dịch đông đảo.
1.2.1.5. Mô hình tổ chức hoạt động tự doanh chứng khoán
Hoạt động tự doanh chứng khoán được thực hiện dưới hai mô hình tổ chức sau:
+ Mô hình hai cấp
Đây là mô hình trong đó trưởng phòng đầu tư hay trưởng phòng tự doanh sẽ là người trực tiếp điều hành hoạt động đầu tư, quyết định danh mục đầu tư và các chính sách đầu tư. Hoạt động tự doanh của công ty được chia thành hoạt động tự doanh về cổ phiếu trên thị trường niêm yết và chưa niêm yết, tự doanh trái phiếu, nghiệp vụ repo chứng khoán. Mỗi mảng đó sẽ do một nhóm các cán bộ tự doanh phụ trách dưới sự quản lý chung của trưởng phòng tự doanh. Từng nhóm sẽ phải có trách nhiệm phân tích, nghiên cứu và đề xuất ra các phương án đầu tư. Các phương án sẽ được trưởng phòng xem xét, đưa ra ý kiến và quyết định có thực hiện hay không. Giám đốc của Công ty là người quản lý chung và thẩm định kết quả đầu tư của phòng tự doanh. Ngoài ra, khi thực hiện hoạt động đầu tư còn chịu sự giám sát của Ban kiểm soát nhằm bảo đảm an toàn cho hoạt động của công ty.
Đặc điểm của mô hình này là gọn nhẹ, nâng cao tính độc lập và trách nhiệm của các cán bộ tự doanh trong hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, với mô hình này, tính chủ quan của trưởng phòng đầu tư ảnh hưởng rất nhiều đến các quyết định cũng như hiệu quả đầu tư, vì vậy đòi hỏi một cơ chế giám sát chặt chẽ của CTCK.
Sơ đồ 1.2.1: Mô hình tự doanh hai cấp
Phòng đầu tư (tự doanh)
Ban kiểm soát
TD cổ phiếu niêm yết (SGD)
TD cổ phiếu chưa niêm yết
Tự doanh trái phiếu
+ Mô hình ba cấp
Theo mô hình này hoạt động tự doanh của CTCK được phân chia thành hoạt động tự doanh cổ phiếu niêm yết và chưa niêm yết, tự doanh trái phiếu, repo chứng khoán. Tuy nhiên, trưởng phòng đầu tư không phải là người quyết đinh hoàn toàn chiến lược cũng như danh mục đầu tư của CTCK. Với mô hình tổ chức này, trưởng phòng chỉ quản lý hoạt động đầu tư của các nhóm cán bộ tự doanh cấp dưới và đóng góp các ý kiến giúp Hội đồng đầu tư đưa ra các chiến lược đầu tư và các chính sách quản lý danh mục đầu tư. Hội đồng đầu tư bao gồm Giám đốc Công ty, trưởng phòng đầu tư và các thành viên khác theo quy định. Hội đồng đầu tư sẽ là người ra quyết đinh cuối cùng về việc đầu tư hay không thay vì quyết định của cá nhân trưởng phòng đầu tư như mô hình hai cấp. Ban kiểm soát vẫn giữ vai trò giám sát mọi hoạt động đầu tư mà phòng tự doanh thực hiện.
Sơ đồ 1.2.2: Mô hình tự doanh ba cấp
Hội đồng đầu tư
Trưởng phòng đầu tư (tự doanh)
TD cổ phiếu niêm yết (SGD)
Tự doanh trái phiếu
TD cổ phiếu chưa niêm yết
Ban kiểm soát
Đặc điểm của mô hình ba cấp là độ an toàn cao trong hoạt động đầu tư của CTCK sẽ được nâng cao hơn so với mô hình hai cấp. Tuy nhiên, với mô hình này, tính tự chủ, độc lập và trách nhiệm của các cán bộ tự doanh trong hoạt động đầu tư sẽ bị giảm. Ngoài ra, do mọi phương án đầu tư đều phải có ý kiến của Hội đồng đầu tư mới có thể được thực hiện, do đó có thể dẫn đến mất cơ hội đầu tư do chậm trễ trong việc đưa ra quyết định.
1.3. Phát triển hoạt động tự doanh của CTCK
1.3.1. Khái niệm
Phát triển hoạt động tự doanh của CTCK là việc tạo điều kiện để hoạt động tự doanh của công ty tăng cả về mặt chất lượng và số lượng.
Tăng về mặt chất lượng là việc đưa ra những danh mục đầu tư hợp lý thông qua những phân tích có căn cứ khoa học thông qua đó giúp công ty đạt được mục tiêu của mình trong hoạt động tự doanh.
Tăng về số lượng ở đây bao gồm sự tăng về quy mô vốn của hoạt động tự doanh, doanh thu do đó lợi nhuận thu về của hoạt động tự doanh sẽ tăng theo.
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của hoạt động tự doanh
Về mặt định tính
Mức độ chuyên môn hóa, chuyên nghiệp hóa trong hoạt động đầu tư
Khả năng linh hoạt trong hoạt động
Mức độ đa dạng hóa trong hoạt động
Về mặt định lượng
Quy mô của hoạt động tự doanh bao gồm:
Vốn đầu tư cho hoạt động tự doanh
Doanh số mua, bán chứng khoán
Thu lãi từ hoạt dộng tự doanh
Sự phát triển về quy mô được thể hiện ở mức độ tăng trưởng
Số lượng chứng khoán trong danh mục
Phương thức đầu tư
Với mỗi phương án đầu tư khác nhau, các tiêu chí và thứ tự ưu tiên mà HBBS sử dụng là khác nhau. Tuy nhiên, dù dựa trên tập hợp các tiêu chí nào thì tín an toàn luôn được HBBS quan tâm nhất.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK
1.4.1. Nhân tố chủ quan
+ Chính sách phát triển của công ty
Chính sách phát triển của CTCK luôn thay đổi trong từng nhằm phù hợp với mục tiêu phát triển của công ty trong từng giai đoạn hoạt động. Do đó, nó ảnh hưởng đến toàn bộ hoạt động của CTCK nói chung và của hoạt động tự doanh chứng khoán nói riêng. Chính sách phát triển đưa ra những chỉ tiêu cần đạt được trong giai đoạn tiếp theo với những chiến lược đầu tư nới lỏng hoặc thắt chặt. Đồng thời chính sách này cũng đưa ra những thay đổi về tổng lượng vốn cho hoạt động đầu tư như trong giai đoạn thị trường phát triển thì nguồn vốn dành cho hoạt động đầu tư cổ phiếu sẽ cao hơn giai đoạn thị trường ảm đạm. Ngoài ra, với những mục tiêu trong chính sách đề ra khác nhau sẽ có những quyết định khác nhau về loại hình đầu tư ví dụ như khi công ty đặt ra chiến lược phát triển ổn định, bảo đảm an toàn trong đầu tư thì loại hình đầu tư xuống giá hay đầu cơ sẽ là không phù hợp. Chính vì vậy, chính sách phát triển là một yếu tố cần xem xét đầu tiên khi nói đến hoạt động tự doanh của CTCK.
+ Quy mô vốn đầu tư
Đây là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh của CTCK. Vốn là nhân tố quyết định tới tình hình tự doanh không chỉ là quy mô vốn mà còn cả cơ cấu vốn, thời hạn vốn và quan trọng hơn đó là cơ chế quản lý vốn. Đầu tư chứng khoán đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn và dài nên một CTCK không chủ động được về vốn sẽ gặp rất nhiều rủi ro và đầu tư không hiệu quả. Mặc dù quy mô vốn đầu tư không tỷ lệ thuận với tỷ suất lợi nhuận đầu tư song rõ ràng khi vốn đầu tư càng lớn thì càng có nhiều cơ hội để công ty lựa chọn các phương án đầu tư. Ngoài ra, khi lượng vốn đầu tư lớn cũng góp phần giúp công ty chiếm được ưu thế trên thị trường ví dụ như với cùng một loại chứng khoán, nhà đầu tư nào nắm giữ với tỷ lệ lớn hơn sẽ có tác động chi phối tới giá chứng khoán đó nhiều hơn, tránh bị rơi vào thế bị động khi có nhà đầu tư khác muốn làm biến động giá để hưởng lợi.
+ Quy trình tự doanh:
Quy trình tự doanh là một quy trình trong đó có phân bổ trách nhiệm, công việc, quyền hạn và lợi ích của từng cán bộ thực hiện kinh doanh, đầu tư chứng khoán và những đối tượng khác có liên quan, đồng thời quy định chính sách giám sát kiểm tra hoạt động đầu tư của công ty. Quy trình tự doanh có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động đầu tư của CTCK. Thật vậy, nếu quy trình tự doanh không chặt chẽ, logic, bị trùng lắp thì rất dễ dẫn tới sự lãng phí nguồn nhân lực, thời gian và tiền bạc. Đặc biệt trong quy trình tự doanh không quy định rõ ràng những loại cổ phiếu thuộc thẩm quyền giao dịch của cán bộ tự doanh nào thì có thể sẽ dẫn đến việc một người thực hiện mua chứng khoán và người kia lại mua chứng khoán, và gây khó khắn trong công tác kiểm soát rủi ro. Do đó, khi công ty xây dựng được một quy trình đầu tư chứng khoán chặt chẽ, khoa học thì từng cán bộ tự doanh cũng như các cấp ra quyết định mới nhận thức được vai trò, trách nhiệm của mình, từ đó mới có thể nâng cao được hiệu quả của hoạt động tự doanh.
Quy trình phân tích thuộc quy trình tự doanh là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng đến hoạt động tự doanh chứng khoán của CTCK. Đây là các bước được sắp xếp một cách logic giúp các cán bộ tự doanh đưa ra quyết định đầu tư, mua hoặc bán loại cổ phiếu nào đó một cách thích hợp nhất. Nếu không có quy trình phân tích cụ thể mà chỉ dựa vào ý chủ quan của cán bộ tự doanh thì hoạt động kinh doanh sẽ kém hiệu quả, nghiêm trọng hơn có thể gây ra những tổn thất cho CTCK
+ Yếu tố nhân lực
Đây là một nhân tố không thể thiếu và được coi là có vấn đề có ý nghĩa sống còn của các CTCK nói chung và hoạt động tự doanh nói riêng. Đối với mảng tự doanh của CTCK, yếu tố nhân lực được nói đến ở đây bao gồm khả năng, trình độ chuyên môn của các nhân viên thực hiện tự doanh và cơ cấu tổ chức hoạt động, phân bổ công việc tại phòng tự doanh của CTCK. Người cán bộ tự doanh không chỉ có những kiến thức về tài chính, có khả năng phân tích và có kinh nghiệm thực tế trên thị trường mà còn phải là người có khả năng chịu được áp lực trong công việc và có đạo đức nghề nghiệp. Nếu một nhân viên tự doanh không có khả năng tìm kiếm những cơ hội đầu tư, không có khả năng quyết định thời điểm giao dịch thì khó có thể mang về lợi nhuận cho công ty thậm chí có thể gây thua lỗ. Tuy nhiên, nếu có khả năng song cán bộ tự doanh không chịu đựng được những áp lực trong công việc thì sẽ rất khó khăn để họ có thể hoàn thành tốt công việc.
Hoạt động tự doanh là một hoạt động khó khăn và phức tạp, hoạt động này có thể mang lại cho CTCK những khoản lợi nhuận lớn nhưng cũng có thể gây ra những tổn thất không nhỏ. Do vậy, để thực hiện nghiệp vụ này thành công, ngoài đội ngũ nhân viên phân tích tích thị trường có nghiệp vụ giỏi và nhanh nhậy với những biến động của thị trường, CTCK còn phải có một chế độ phân cấp quản lý và đưa ra những quyết định đầu tư hợp lý, trong đó việc xây dựng chế độ phân cấp quản lý là một vấn đề then chốt của CTCK. Một cơ cấu tổ chức tốt với tính chuyên môn hóa cao sẽ tạo ra động lực thúc đẩy các nhân viên thực hiện hiệu quả công việc.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật, thông tin
Trong thời đại thông tin cao như hiện nay thì hoạt động tự doanh chứng khoán rất cần có môi trường làm việc tốt với phương tiện và công cụ có tính kỹ thuật cao. Ở Việt Nam hiện nay, trong khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn nhất là những phương tiện có kỹ thuật cao, thì đây là vấn đề cần được quan tâm và đầu tư không những đối với CTCK mà còn đối với cả TTCK. Việc thiếu phương tiện kỹ thuật có thể sẽ làm cho thông tin đến chậm, quản lý rủi ro khó khăn do đó sẽ làm ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty trong quá trình kinh doanh chứng khoán.
+ Sự phát triển của các hoạt động khác
Trong CTCK, các hoạt động có mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Khi CTCK có hoạt động môi giới phát triển được sự tín nhiệm của khách hàng sẽ dễ dàng hơn cho cán bộ tự doanh thu thập thông tin để phân tích, đánh giá thị trường. Cũng theo số liệu thống kê ở Việt Nam cho thấy, các CTCK có mảng tự doanh đạt tỷ suất lợi nhuận cao thì đó là những công ty có hoạt động tư vấn cổ phần hóa phát triển. Điều này hoàn toàn đúng bởi vì khi thực hiện tư vấn cổ phần hóa cho các doanh nghiệp thì chính các CTCK là những người đầu tiên đánh giá được tiềm năng phát triển và những thách thức mà doanh nghiệp đó phải đối mặt. Từ đó CTCK sẽ tiến hành đầu tư vào các doanh nghiệp có tiềm năng.
1.4.2. Nhân tố khách quan
+ Môi trường đầu tư
Với bất kỳ quốc gia nào, môi trường đầu tư luôn có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động của TTCK nước đó, thậm chí gây ra ảnh hưởng đến các nước khác hoặc tác động đến TTCK toàn cầu. Những sự kiện như chiến tranh, biến động của chính trị, xã hội hay hệ thống pháp luật trong và ngoài nước cũng có thể tạo ra sự thay đổi về môi trường kinh doanh làm tăng thêm những rủi ro, sự mất ổn định về thu nhập mong đợi.
Môi trường đầu tư là các điều kiện, các yếu tố về kinh tế, xã hội, pháp lý, tài chính, hạ tầng cơ sở và các yếu tố liên quan khác mà trong đó các quá trình hoạt động đầu tư được tiến hành. Đây là một số trong những yếu tố thuộc môi trường vĩ mô tác động mạnh mẽ đến TTCK. Một trong những yếu tố hàng đầu của môi trường đầu tư liên quan đến thị trường chứng khoán là môi trường kinh tế. Chúng ta xem xét môi trường kinh tế qua các mặt: Các chỉ tiêu tổng hợp của nền kinh tế quốc dân GDP, GNP,..., lạm phát, cán cân thương mại, cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại hối...
Môi trường xã hội cũng ảnh hưởng sâu rộng đến hiệu quả hoạt động của TTCK. Ngày 5/3/1953 chỉ số TOXPIC của Nhật Bản giảm đến 8.75% và nguyên nhân là do Stalin ốm nặng. Khi Bill Clinton thú nhận trong việc bê bối với người tình Lewisky, thì chỉ số DowJones đã giảm 200 điểm. Điều đó có nghĩa là TTCK rất nhạy cảm đối với các sự kiện chính trị.
Môi trường pháp lý cũng là điều kiện rất cơ bản để TTCK hoạt động an toàn, hiệu quả. Xu hướng phát triển chung, truyền thống từ trước đến naylà cứ cho thị trường hoạt động và phát triển trước và từ đó đúc rút kinh nghiệm và xây dựng hệ thống pháp lý phù hợp sau ở các nước có TTCK truyền thống. Xu hướng thứ hai là thiết lập khung pháp lý cho TTCK trước. Việt Nam đang đi theo xu thế thứ hai vì chúng ta đi sau nên có thể thừa hưởng kinh nghiệm của các nước đi trước và rút ngắn được bước đi. Vả lại, môi trường pháp lý cũng là yếu tố rất quan trọng để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ như Singapo, nhờ môi trường pháp lý thông thoáng và hiệu quả đã trở thành điểm đến của các tâp đoàn tài chính cỡ lớn trong khu vực và toàn thế giới.
+ Sự phát triển của TTCK
Đây là một nhân tố rất quan trọng, nó không chỉ tác động đến hoạt động tự doanh của CTCK mà còn tác động rất lớn đến sự phát triển của các chủ thể tham gia TTCK. Sự tác động đó gồm:
- Số lượng và chất lượng hàng hóa trên thị trường
Một TTCK phát triển với lượng hàng hóa phong phú sẽ tạo ra rất nhiều cơ hội đầu tư cho các CTCK. Khi thị trường có nhiều loại chứng khoán của các công ty thuộc nhiều lĩnh vực thì cơ hội đầu tư của các công ty sẽ được mở rộng, đa dạng hóa danh mục đầu tư. Ngược lại, một thị trường với một lượng hàng hóa ít ỏi sẽ dẫn đến tình trạng cung không đủ đáp ứng cầu sẽ gây ra những cơn sốt giá chứng khoán, sự đồng loạt tăng giá của các chứng khoán mà không có sự phân biệt giữa cổ phiếu tốt và xấu. Do đó, các CTCK cũng không tránh được tổn thất khi tham gia vào thị trường.
- Tâm lý của nhà đầu tư
Tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường phụ thuộc vào trình độ dân trí của người dân. Với những thị trường mới phát triển như Việt Nam, sự hiểu biết của dân chúng về TTCK vẫn còn hạn chế. Nhà đầu tư nhỏ lẻ chiếm tỷ lệ lớn trên thị trường và tâm lý đầu tư theo số đông vẫn còn phổ biến.
Rủi ro chính sách:
Rủi ro chính sách là khả năng xảy ra những tổn thất mà nhà đầu tư, công ty chứng khoán phải chịu do những chính sách thay đổi không thể dự đoán được. Rủi ro chính sách cao được thể hiện ở sự can thiệp của nhà nước vào thị trường và những quy định về hoạt động tự doanh. Trên TTCK Việt Nam rủi ro chính sách là rất cao.
Rủi ro thị trường lớn:
Trên thị trường chứng khoán, rủi ro thị trường phát sinh từ những thay đổi giá cả bất thường trên toàn bộ thị trường, một lĩnh vực hay ngành nghề hoặc một loại chứng khoán đặc thù nào đó. Cho dù doanh nghiệp phát hành chứng khoán có khả năng tạo ra lợi nhuận cao hay đủ khả năng chi trả nhưng rủi ro thị trường cũng có thể làm cho thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp này giảm. Thậm chí, nhà đầu tư chọn mua một loại cổ phiếu có chất lượng cao với kỳ vọng tăng trưởng tốt và rủi ro tài chính thấp, giá cổ phiếu vẫn đi xuống nếu thị trường có xu hướng đi xuống hoặc nếu kỳ vọng của thị trường đi ngược với thực tế. Những yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thị trường có thể là sự kiện chính trị, những thay đổi kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô, hoặc tâm trạng của nhà đầu tư nói chung.
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TỰ DOANH CỦA
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
CỔ PHẦN NHÀ HÀ NỘI
2.1. Khái quát về Công ty chứng khoán Habubank
2.1.1. Sơ lược quá trình phát triển
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Theo quyết định số 14/UBCK – GPHĐKD của Chủ tịch Ủy ban chứng khoán Nhà nước, Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank Securities - HBBS) được thành lập ngày 04 tháng 11 năm 2005 và chính thức tham gia thị trường vào ngày 07 tháng 04 năm 2006. Ban đầu, Công ty chứng khoán Habubank là một tổ chức tài chính trung gian theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên với chủ sở hữu là Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà Hà Nội (Habubank) – là Ngân hàng thương mại cổ phần đầu tiên ở Việt Nam (được thành lập năm 1989), Habubank Securities đi vào hoạt động với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng và đến ngày 24/08/2007 vốn điều lệ của công ty tăng từ 50 tỷ lên 150 tỷ đồng. HBBS là công ty chứng khoán thứ 15 được thành lập và hoạt động trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Ngày 07 tháng 04 năm 2007, Habubank Securities đã kỷ niêm tròn một năm có mặt trên thị trường và trong cuộc họp đại hội cổ đông lần này đã quyết định chuyển công ty chứng khoán Habubank từ mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên sang công ty cổ phần.
Tên đầy đủ: Công ty chứng khoán Ngân hàng Thương mại cổ phần Nhà Hà Nội.
Tên giao dịch quốc tế: Habubank Securities Co (viết tắt là HBBS).
Trụ sở chính: 2C Vạn Phúc, 302 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội.
Điện thoại : 04.7262275
Fax : 04.7262305
Website : www.habubanksecurities.com.vn
Email : hbbs@habubank.com.vn
2.1.1.2. Các dịch vụ cung cấp
Việc thành lập HBBS nằm trong chiến lược phát triển phát triển Habubank thành một tập đoàn tài chính vững mạnh, cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính – ngân hàng – chứng khoán. HBBS được hưởng những lợi thế về uy tín, sự hỗ trợ về vốn, nguồn nhân lực, khả năng quản lý, các quan hệ, mạng lưới hoạt động và mạng lưới khách hàng của ngân hàng mẹ Habubank. Trước mắt kết hợp với Habubank, HBBS tiến hành cung cấp các dịch vụ sau:
Về dịch vụ đầu tư
Môi giới chứng khoán
CTCK làm nhiệm vụ trung gian đứng giữa làm cầu nối giữa các nhà đầu tư chứng khoán và nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư bằng cách cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu. Hiện nay CTCK Habubank đang triển khai 2 hình thức môi giới chính :
Môi giới giao dịch chứng khoán niêm yết
Với hình thức này, CTCK thực hiện nhận lệnh giao dịch của khách hàng và thực hiện giao dịch cho khách hàng trên sàn giao dịch của công ty.
Các dịch vụ hỗ trợ giao dịch chứng khoán niêm yết :
Giao dịch chứng khoán qua điện thoại
Ứng trước tiền bán chứng khoán
Tạm ứng tiền mua chứng khoán
Cầm cố chứng khoán niêm yết
Thông báo kết quả giao dịch, số dư tài khoản qua dịch vụ nhắn tin SMS
Môi giới giao dịch chứng khoán chưa niêm yết
Với dịch vụ này, CTCK thực hiện tìm kiếm khách hàng có nhu cầu mua, bán chứng khoán, thực hiện ghép nối 2 nhu cầu mua – bán chứng khoán.
CTCK đứng giữa thực hiện giám sát giao dịch diễn ra, giám sát quá trình thanh toán tiền và chuyển chứng khoán giữa bên bán và bên mua, đồng thời thực hiện thu phí giao dịch 0.3% giá trị giao dịch của cả 2 bên.
Tự doanh
Công ty thực hiện kinh doanh chứng khoán bằng chính nguồn vốn của công ty nhằm thu lợi cho chính mình. Các danh mục đầu tư của công ty luôn được nghiên cứu kỹ, thay đổi hợp lý phù hợp với chiến lược kinh doanh của công ty và diễn biến của thị trường.
Đầu tư vào doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, các tổ chức phát hành
Mua bán các loại công trái, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty và các loại chứng khoán niêm yết và chưa niêm yết
Mua bán kỳ hạn chứng khoán chưa niêm yết (repo OTC): Dịch vụ cho giao dịch mua bán chứng khoán chưa niêm yết có kỳ hạn, CTCK mua chứng khoán chưa niêm yết từ khách hàng và cam kết bán lại chứng khoán cho khách hàng với giá thoả thuận từ thời điểm CTCK mua.
Tư vấn đầu tư chứng khoán
CTCK cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng về thông tin, về hướng đầu tư của khách hàng trong khả năng hiểu biết của CTCK về loại chứng khoán. Hỗ trợ khách hàng trong việc ra quyết định đầu tư.
CTCK hoàn toàn không chịu bất cứ một nghĩa vụ gì cũng như bất cứ trách nhiệm gì đối với quyết định của khách hàng phát sinh từ những thông tin, những nhận định mà CTCK cung cấp.Tất cả những thông tin mà Công ty cung cấp cho khách hàng đều mang tính tham khảo.
Bảo lãnh và đại lý phát hành chứng khoán
Bảo lãnh phát hành là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thế giới, các ngân hàng đầu tư thường là những tổ chức đứng ra bảo lãnh phát hành. Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm mua hoặc chào bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán để hưởng hoa hồng.
Việc bảo lãnh chứng khoán thường được thực hiện theo một trong những cách thức sau đây:
Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ số chứng khoán phát hành cho dù có phân phối được hết chứng khoán hay không.
Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh thỏa thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: Trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định nếu không phân phối được hết sẽ hủy toàn bộ đợt phát hành.
Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không.
Ngoài ra, trong hoạt động của mình, HBBS còn có thể đóng vai trò là tổ chức đại lý phân phối chứng khoán.
Mời chào, lựa chọn các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức tham gia mua chứng khoán củ tổ chức phát hành.
Tổ chức chào bán chứng khoán.
Nhận mua toàn bộ số chứng khoán dự định phát hành để phân phối lại hoặc cam kết mua lại số chứng khoán chưa được phân phối hết theo phương thức bảo lãnh phát hành
Lưu ký chứng khoán
CTCK thực hiện lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua tài khoản lưu ký chứng khoán. HBBS nhận lưu ký tất cả các chứng khoán trên thị trường với một mức phí lưu ký cố định, không kể số lượng nhiều hay ít, với mức phí thấp.
Nhận lưu giữ và bảo quản an toàn chứng khoán của các tổ chức, cá nhân tại kho lưu ký của Công ty và tái lưu ký tại Trung tâm lưu ký quốc gia
Cung cấp thông tin định kỳ và theo yêu cầu về tài khỏan lưu ký cho khách hàng
Quản lý danh sách cổ đông theo nhu cầu của Công ty cổ phần bằng công nghệ tin học.
Thay mặt tổ chức phát hành thực hiện việc chi trả cổ tức, trái tức hàng năm cho cổ đông, làm trung gian chuyển nhượng cổ phiếu, trái phiếu hàng năm cho cổ đông.
Công ty còn thực hiện cung cấp dịch vụ nộp tiền, giao chứng khoán cho các khách hàng. Khách hàng có thể nộp tiền vào tài khoản giao dịch chứng khoán của Khách hàng tại tất cả các chi nhánh của Ngân hàng Habubank trên cả nước, thực hiện nhận chuyển khoản, chuyển khoản tiền, chứng khoán một cách nhanh nhất theo đúng quy định của TTGDCK và của hệ thống ngân hàng.
Về dịch vụ nghiên cứu phân tích
Nghiên cứu phân tích vĩ mô nền kinh tế Việt Nam và thế giới
Nghiên cứu các ngành nghề kinh tế, doanh nghiệp, các loại chứng khoán và về thị trường chứng khoán.
HBBS sẽ tiến thêm một bước trong dịch vụ Tư vấn tài chính doanh nghiệp:
- Tư vấn cổ phần hóa, niêm yết
- Tư vấn mua và sáp nhập doanh nghiệp
- Tư vấn và môi giới huy động vốn với quy mô lớn thông qua IPO hoặc các kênh khác.
Như vậy, ngoài hoạt động tự doanh chứng khoán, Habubank Securities đã cung cấp cho các khách hàng cá nhân và tổ chức có nhu cầu đầu tư các dịch vụ như môi giới chứng khoán niêm yết và chưa niêm yết (OTC), tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, mua bán kỳ hạn chứng khoán chưa niêm yết, đại lý phát hành chứng khoán. Bên cạnh đó, HBBS còn cung cấp các dịch vụ cho doanh nghiệp trong tiến trình cổ phần hóa và huy động vốn qua TTCK như tư vấn cổ phần hóa, tư vấn niêm yết, tư vấn mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn huy động vốn thông qua phát hành IPO hoặc theo kênh riêng.
Dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán
Với sự hỗ trợ tài chính từ ngân hàng mẹ Habubank, bắt đầu từ ngày 14/01/2008, CTCK Habubank chính thức tiếp tục triển khai trở lại dịch vụ cho vay cầm cố chứng khoán với tỷ lệ cho vay cầm cố lên tới 35% thị giá và lãi suất ưu đãi 1.15%/tháng nhằm hỗ trợ tích cực khách hàng trong việc đầu tư chứng khoán. Đây được xem là một điểm mới trong bối cảnh hầu hết các CTCK đều đã ngưng triển khai các dịch vụ hỗ trợ tài chính như ứng tiền bán chứng khoán, cho vay cầm cố chứng khoán niêm yết.
Dự kiến trong thời gian tới, CTCK Habubank sẽ triển khai hàng loạt dịch vụ tiện ích như giao dịch tiện ích, truy vấn thông tin qua tin nhắn SMS
2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức - nhân sự
CTCK Habubank được tổ chức và quản lý theo mô hình Chủ tịch công ty, Giám đốc và bộ máy giúp việc đơn giản, gọn nhẹ nhằm tạo tính linh hoạt, năng động, thích ứng với đặc thù kinh doanh của ngành chứng khoán.
Phòng kiểm soát nội bộ
Các chi nhánh, PGĐ
Phòng kế toán, lưu ký
Phòng đầu tư
VP Hành
chính nhân sư
Phòng môi giới
Phòng phân tích
Phòng Marketing
Phòng tư vấn
Phòng IT
CT HĐQT Habubank
Chủ tịch HBBS
Giám đốc điều hành
PGĐ.Khối dịch vụ & hỗ trợ
PGĐ.Khối tư vấn & nghiên cứu – Phân tích
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tổ chức của HBBS
Với đặc thù của ngành kinh doanh dịch vụ Tài chính – Ngân hàng, HBBS đã xác định yếu tố con người là điều kiện tiên quyết dẫn tới thành công và sự phát triển của công ty nên đã chú trọng đào tạo con người nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và làm hài lòng mọi đối tượng khách hàng. Chính vì vậy, Habubank Securities không ngừng bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên Habubank, có những chính sách mở, năng động thu hút người tài về làm việc tại HBBS.
Hiện nay, HBBS có một đội ngũ cán bộ năng động, có năng lực và kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, pháp luật, đầu tư, kinh doanh tiền tệ và được lựa chọn từ Ngân hàng TMCP Nhà Hà Nội, cử nhân các trường đại học có uy tín ở trong và ngoài nước. Tổng số cán bộ nhân viên là 80 người trong đó tỷ lệ cán bộ nhân viên của HBBS có trình độ Đại học chiếm gần 82.5% và trên Đại học chiếm trên 17.5%. Các cán bộ, công nhân viên của Công ty chứng khoán Habubank đều được trải qua các khóa đào tạo về chứng khoán cả trong và ngoài nước và được UBCKNN cấp giấy phép hành nghề. Đây là nền tảng vững chắc, là yếu tố tiên quyết tạo nên sự thành công trong việc cung cấp các dịch vụ một cách có hữu ích tới các nhà đầu tư.
Cũng xuất phát từ đòi hỏi của ngành chứng khoán như áp lực công việc, thời gian, trình độ... nên độ tuổi của cán bộ công nhân viên của công ty là khá trẻ. Đặc biệt là những nhân viên trực tiếp kinh doanh, nghiên cứu thị trường... hay các nhân viên làm việc trong các phòng tự doanh, tư vấn, môi giới, phân tích. Mặc dù tuổi đời còn rất trẻ nhưng sự hiểu biết, kiến thức nghề nghiệp của họ khá vững vàng. Họ có tinh thần ham học hỏi, tìm hiểu. Trong công ty có nhiều cán bộ, nhân viên chưa lập gia đình nên họ cũng có nhiều thời gian dành cho công việc, cho nghiên cứu, học tập nâng cao nghiệp vụ.
2.1.2. Kết quả kinh doanh của Công ty Chứng khoán Habubank
Dù gia nhập cuộc chơi khi TTCK Việt Nam đã hoạt động được 6 năm và chỉ mới hơn 1 năm hoạt động nhưng HBBS với sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ nhân sự đến cơ sở vật chất, chiến lược và sự hỗ trợ đắc lực từ phía Ngân hàng mẹ đã đạt được được những thắng lợi ngoạn mục. Lợi nhuận trước thuế của HBBS chỉ 8 tháng hoạt động (07/04/2006 đến 31/12/2006) đạt 18.5 tỷ đồng, vượt 381% kế hoạch đặt ra, và trong năm 2007 lợi nhuận kinh doanh của CTCK Habubank đã tăng gấp 6 lần so với năm 2006, vốn điều lệ tăng 200% (từ 50 tỷ lên 150 tỷ đồng).
Bảng 2.1.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của HBBS
Đơn vị: Triệu đồng
Quý 2/2006
Quý 3/2006
Tháng 10+11
Cả năm
Quý 1/2007
Doanh thu
2,804
2,472
3,037
15,495
17,630
LNST
2,077
1,438
2,278
13,320
15,120
Nguồn:Báo cáo kết quả hoạt động các tháng của HBBS
Từ bảng trên ta có thể thấ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34907.doc