LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm vừa qua cùng với việc thực hiện nền kinh tế thị trường, phát triển kinh tế bền vững theo xu hướng hội nhập quốc tế, kinh tế Việt Nam được đánh giá là một trong những nền kinh tế triển vọng, có tốc độ tằng trưởng hàng đầu thế giới.
Góp mình vào sự phát triển mạnh mẽ đó của nền kinh tế không thể không kể đến vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có một bộ phận không nhỏ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Là một lực lượng lớn của nền kinh tế, có n
101 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiều tiềm năng phát triển. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy đây là khu vực phát triển năng động nhất, tạo ra nhiều việc làm nhất và có những đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Ở nước ta mỗi năm có hàng nghìn doanh nghiệp được thành lập mới, trong đó đại bộ phận là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo số liệu thống kê năm 2007 tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện có ở nước ta là 210.000 doanh nghiệp chiếm khoảng 97% tổng doanh nghiệp trong cả nước, đóng góp 26% GDP, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp và chiếm 26% lực lượng lao động trong cả nước. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp là rất lớn, nhưng khả năng huy động của doanh nghiệp lại gặp nhiều khó khăn mà nguyên nhân chủ yếu là do doanh nghiệp có qui mô vốn mô nhỏ, còn nhiều yếu kém trong quản lí và hoạt động, chưa xây dựng được uy tín trên thị trường…
Cùng với sự chuyển mình nhanh chóng của nền kinh tế, trong bối cảnh Việt Nam đã là một thành viên của tổ chức WTO, các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng đang đứng trước cơ hội và thách thức rất lớn. Để có được nguồn vốn đáp ứng việc đẩy mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, xây dựng thương hiệu…trong nền kinh tế có sự cạnh tranh găy gắt là nhu cầu tất yếu của hầu hết các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lý luận thực tiễn cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng không thể thiếu trong sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xuất phát từ những lý do đó cùng với việc nghiên cứu thực trạng các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trực trạng tín dụng ngân hàng, em chọn nghiên cứu đề tài: “Phát triển hoạt động tín dụng đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM cổ phần Quân Đội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp, hy vọng sẽ góp phần giải quyết các yêu cầu của vấn đề đặt ra.
Kết cấu của chuyên đề, ngoài phần lời mở đầu và kết luận được chia ra làm ba phần:
Chương 1 : Tổng quan hoạt động tín dụng của NHTM đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chương 2 : Thực trạng hoạt động tín dụng của NHTM cổ phần Quân đội.
Chương 3 : Thực trạng hoạt động tín dụng của NHTM cổ phần Quân đội.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1. DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TRONG NỀN KINH TẾ.
1.1.1. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc đưa ra khái niệm thế nào một doanh nghiệp gọi là vừa và nhỏ? phụ thuộc vào sự phát triển về quy mô nền kinh tế của một quốc gia. Các quốc gia khác nhau, tiêu thức để xếp loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng khác nhau. Một doanh nghiệp đặt trong môi trường kinh tế của nước mình được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhưng ở nước khác nó lại được coi là doanh nghiệp lớn hoặc cực nhỏ
Đối với Việt Nam, theo quy định của Thủ Tướng Chính Phủ tại công văn số 681/CP-KTN ban hành ngày 20/06/1998 xác định tiêu thức doanh nghiệp vừa và nhỏ tạm thời quy định là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và có số lượng lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Khái niệm đưa ra căn cứ theo hai tiêu thức: tổng số vốn sản xuất kinh doanh và số lượng lao động của doanh nghiệp.
Cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế cả nước, số lượng doanh nghiệp ngày một tăng, không ít số doanh nghiệp có số vốn vượt quá 5 tỷ đồng nhưng chưa đủ mạnh để được coi là một doanh nghiệp lớn. Bởi vậy, sau một thời gian khảo sát và kiểm tra các doanh nghiệp, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam, có tính đến xu hướng phát triển của thời gian tới, kết hợp với nghiên cứu kinh nghiệm thực tế của các nước, ngày 23/11/2001, Chính Phủ đã ban hành Nghị Định 90/NĐ-CP quy định lại tiêu chí để xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ.
“Doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không vượt quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.”
1.1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tại các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới, bên cạnh những doanh nghiệp có quy mô lớn đang chi phối nền kinh tế; các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp cả nước. Ở Việt Nam hiện nay, số doanh nghiệp vừa và nhỏ ước tính chiếm 97%.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt ở hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay hoạt động trong lĩnh vực thương mại - dịch vụ (chiếm trên 50%) do đây là ngành có vòng quay vốn nhanh, không cần số vốn đầu tư lớn, không cần lao động có trình độ cao, ra nhập và rút lui dễ dàng. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ làm vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, thực hiện gia công, lắp ráp… phụ thuộc vào các doanh nghiệp lớn. Các doanh nghiệp thương mại chủ yếu tập trung ở thành phố lớn, có kết cấu hạ tầng phát triển, điều kiện giao thông thuận lợi, người tiêu dùng có thu nhập cao, sức cầu lớn. Do tập trung quá nhiều doanh nghiệp trên cùng một địa bàn nên tính cạnh tranh thường rất gay gắt.
* Phát triển nhanh chóng - Lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Việc phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp vừa và nhỏ là do nhiều nguyên nhân:
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính nhạy cảm cao đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, linh hoạt và ứng phó nhanh với biến động của thị trường.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng chấp nhận rủi ro, mạo hiểm xảy ra trong kinh doanh nên có thể mạnh dạn đầu tư vào những ngành mới lúc đầu có ít lợi nhuận, và những ngành sản xuất ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu cá biệt.
- Tổ chức bộ máy gọn nhẹ, đơn giản, không quá cồng kềnh nhưng hiệu quả. So với các doanh nghiệp lớn thì mối liên kết giữa chủ doanh nghiệp với các nhân viên và giữa các nhân viên với nhau chặt chẽ hơn. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân chia phòng ban, bộ phận rõ ràng, thậm chí một người có thể đảm nhiệm nhiều vị trí, nhiệm vụ.
- Doanh ngiệp vừa và nhỏ dễ dàng đổi mới thiết bị, công nghệ, do lượng vốn phải bổ sung không quá lớn; và có khả năng giảm thiệt hại khi có sự cạnh tranh phải chuyển sang kinh doanh ngành khác.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể ứng dụng nhanh kỹ thuật tiên tiến, có thể kết hợp tự động hóa với lao động thủ công, có thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao trong điều kiện cơ sở hạ tầng hạn chế.
* Những mặt hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Quy mô hoạt động nhỏ bé - Khó khăn về vốn.
Do quy mô nhỏ dẫn tới nguồn vốn cũng hạn hẹp, kéo theo những khó khăn về mặt sản xuất kinh doanh, trình độ công nghệ và năng lực quản lý hạn chế, thiếu thông tin gây nhiều yếu kém trong sản xuất, trong đó thiếu vốn là đặc điểm nổi bật.
Hiện nay, không ít doanh ngiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau – sản xuất kinh doanh dựa trên một phần là vốn của người khác. Nguy cơ thiếu khả năng thanh toán, vỡ nợ có thể xảy đến.
Để huy động vốn doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp rất nhiều khó khăn. Kênh huy động vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là vay vốn của NHTM.
- Sức cạnh tranh thấp - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức độ rủi ro cao.
Tình trạng thiếu vốn ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho việc sản xuất kinh doanh bị động lúng túng. Khi cần mua tư liệu sản xuất thì không có tiền để mua – đến khi có điều kiện để bán được hàng thì lại không có hàng để bán.
Những doanh nghiệp phá sản thường là những doanh nghiệp vốn ít, kỹ thuật lạc hậu, chất lượng lao động và trình độ quản lý yếu kém, thiếu hiểu biết về thị trường.
Trong kinh doanh, vốn là yếu tố quyết định lợi thế cạnh tranh, nhưng các doanh ngiệp vừa và nhỏ lại rất bất lợi về vốn khi tham gia thị trường. Thiếu vốn nên không thể đẩy mạnh sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Thiếu vốn nên không thể mở rộng thị trường tiêu thụ, xây dựng thêm các kênh phân phối hàng hóa. Thiếu vốn nên không thể xây dựng được thương hiệu, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp, điều này sẽ gây bất lợi rất lớn trong bối cảnh Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới(WTO).
- Hạn chế trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh - Khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ kỹ thuật mới.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ được thành lập chủ yếu là từ nguồn vốn của cá nhân. Người làm chủ doanh nghiệp thường có thế mạnh về vốn hơn là về năng lực quản lý. Người quản lý có trình độ kém không thế giúp doanh nghiệp đứng vững và phát triển trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt.
Trong một doanh nghiệp vưa và nhỏ số lao động có trình độ là rất hạn chế. Doanh nghiệp không thu hút được nhiều cán bộ kỹ thuật giỏi và những công nhân có tay nghề cao. Từ đó dẫn tới năng suất lao động thấp, hiệu quả sử dụng vốn kém, ảnh hưởng tới khả năng hoàn trả vốn vay và bảo tồn vốn thấp, cho nên khả năng tiếp cận với vốn ngân hàng bị hạn chế.
Thiếu vốn, thiếu lao động có trình độ dẫn đến khó khăn trong việc ứng dụng kỹ thuật và công nghệ mới ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nào sản xuất ra hàng hóa có chất lượng cao, giá thành thấp thì doanh nghiệp đó sẽ giành được thắng lợi trong cạnh tranh. Để thực hiện được điều đó thì phải đổi mới công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao số lượng chất lượng và giảm chi phí sản xuất.
Thiếu máy móc hiện đại, năng suất lao động thấp, thường chỉ bằng 30 - 50% so với doanh nghiệp lớn cùng ngành. Nên tiền lương của người lao động cũng chỉ bằng 30 – 50% so với doanh nghiệp lớn cùng ngành. Vì lẽ đó doanh nghiệp vừa và nhỏ không những không thu hút được người lao động có trình độ, tay nghề cao mà còn có thể bị mất lao động lành nghề ở trong doanh nghiệp của mình.
- Môi trường kinh doanh bên ngoài ảnh hưởng không nhỏ tới các doanh nghiệp vừa và nhỏ - Khó khăn trong việc thâm nhập vào thị trường thế giới.
Những tác động từ bên ngoài tới doanh nghiệp cũng gây không ít khó khăn, sự tác động quản lý của Nhà Nước về hoàn thiện luật doanh nghiệp, các chính sách thuế, chính sách tín dụng, thương mại, chính sách khoa học và công nghệ, chính sách giáo dục đào tạo, lao động và việc làm…còn nhiều bất cập. Tác động quản lý Nhà Nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong khâu tổ chức còn nhiều bức xúc. Sự thiếu hụt, rối loạn của thị trường như: thị trường vốn, thị trường thông tin, thị trường dịch vụ và nạn hàng giả, hàng lậu tràn lan gây nhiều khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị tác động bởi nhiều yếu tố như sự mất giá đồng tiền, công nhân đấu tranh đòi tăng lương, cải thiện đời sống lao động, sự tranh chấp giữa chủ và thợ ngày càng gay gắt; cùng với đó là giá cả đất đai ngày càng tăng, đất đai ngày càng khan hiếm…làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ mất dần lợi thế.
Trong bối cảnh Việt Nam tham gia hội nhập kinh tế toàn cầu, thị trường thế giới hiện nay có sự cạnh tranh gay gắt, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn ít, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động thấp, chất lượng mẫu mã hàng hóa kém, giá thanh cao hơn so với các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế có quy mô sản xuất lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm cho mình một chỗ đứng lợi thế để tiêu thụ hàng hóa trên thị trường thế giới.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế.
Nói đến sự phát triển kinh tế ở một quốc gia, người ta thường nhắc đến các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn khổng lồ. Trong khi đó các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn, đang ngay càng đóng góp vài trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế lại không được chú trọng. Việc hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ về vốn nhằm huy động tối đa nguồn lực phát triển là vài trò quan trọng của các NHTM.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm và thu nhập cho người lao động.
Có thể thấy rằng, tác động kinh tế lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là tạo việc làm cho một số lượng lớn lao động, giải quyết tình trạng thất nghiệp. Do có sự phân bố rộng khắp và khá đa dạng trong ngành nghề kinh doanh, hơn nữa là không đòi hỏi trình độ quá cao, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang thu hút được rất nhiều lao động ở thành thị và nông thôn từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho người lao động, cải thiện đời sống, đồng thời hạn chế các tệ nạn xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm là một thế mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và là nguyên nhân chủ yếu khiến chúng ta phải quan tâm đặc biệt đến đối tượng này.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn trong việc thu hút nguồn vốn trong dân cư
Tiềm lực tài chính trong dân cư còn khá lớn, tuy nhiên lại không tập trung thành những khoản lớn đủ đáp ứng cho các doanh nghiệp quy mô lớn mà chỉ là những khoản nhỏ lẻ nằm rải rác.
Với tính chất nhỏ bé, dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách bản làng và số lượng vốn yêu cầu ban đầu không nhiều, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn đó vào sản xuất kinh doanh.
Mặc dù số vốn thu hút vào mỗi một doanh nghiệp không nhiều nhưng do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đông nên tổng số vốn được các doanh nghiệp này đưa vào sản xuất kinh doanh là khá lớn và không ngừng gia tăng cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Với vai trò này doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giúp nền kinh tế sử dụng hiệu quả các nguồn tài chính trong dân cư, hạn chế tiền nhàn rỗi không sinh lời trong nền kinh tế.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp to lớn vào tăng trưởng kinh tế
Bằng việc khai thác và đưa vào sử dụng các nguồn lực kinh tế tiềm ẩn trong dân cư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực sự đã góp phần không nhỏ vào tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê của Bộ Kế hoạch và đầu tư mỗi năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam tạo ra khoảng 25 - 26% GDP của cả nước, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 64% tổng khối lượng luân chuyển hàng hóa.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ còn giữ một vai trò quan trọng trong việc giữ gìn các làng nghề truyền thống, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc trong tăng trưởng kinh tế, tạo ra một thế mạnh cho đất nước chúng ta trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò tích cực đối với sụ phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng.
Do quy mô vừa và nhỏ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể đặt văn phòng làm việc, nhà xưởng kho tàng ở khắp nơi trên lãnh thổ, ở cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như: ở vùng núi cao,hải đảo, ở vùng nông thôn rộng lớn nhằm khai thác tiềm năng và thế mạnh của từng vùng. Nhất là các loại tài nguyên trên mặt nước thuộc các ngành nông, lâm, hải sản.
Để khai thác có hiệu quả lao động, tài nguyên và ngành nghề đang còn rất lớn ở từng địa phương, từng vùng lãnh thổ cần tập trung đẩy nhánh sự phát triển một số ngành mà nước ta có nhiều tiềm năng như: nông nghiệp, lâm nghiệp, hải sản và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản…
Trong những năm tới đây, chúng ta còn gặp nhiều khó khăn về vốn và kỹ thuật nên việc đầu tư khai thác các nguồn lực của đất nước được Đảng ta chủ trương: “ Chú trọng qui mô nhỏ và vừa, vốn đầu tư ít, thu hồi nhanh’’ theo phương châm “ lấy ngắn nuôi dài .”
Doanh nghiệp vừa và nhỏ do vốn ít, cơ sở vật chất kỹ thuật yếu kém nên tỷ lệ lao động sử dụng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn rất thích hợp vói những ngành cần nhiều lao động thủ công như chế biến thủy sản đông lạnh, may mặc, da giày, công nghiệp chế biến.
Như vậy, ngành công nghiệp chế biến là ngành công nghiệp phát triển nhất của Việt Nam nhằm khai thác các khả năng về tai nguyên, về sức lao động của từng địa phương, về từng vùng kinh tế, ngành công nghiệp này chủ yếu thích hợp với những doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò đáp ứng tích cực nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được.
Ngày nay trong thực tế tiêu dùng xã hội, có những mặt hàng mà người tiêu dùng chỉ có nhu cầu ít và cá biệt song chất lượng, chủng loại, mẫu mã, kiểu cách không ngừng thay đổi. Trong trường hợp này các doanh nghiệp lớn không thể đáp ứng được trái lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ do có quy mô sản xuất nhỏ, có khả năng điều chỉnh hoạt động nên có thể đáp ứng những nhu cầu nói trên của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện.
Đặc biệt có những hàng hóa người tiêu dùng có nhu cầu không thể sản xuất ở các doanh nghiệp có quy mô lớn, kỹ thuật hiện đại mà chỉ có thể sản xuất bằng lao động thủ công, phân tán đến từng cơ sở sản xuất nhỏ và hộ gia đình.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp lớn thông qua việc cung cấp nguyên vật liệu.
Thật vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo lập các kênh phân phối sản phẩm, thực hiện các hợp đồng phụ. Nói một cách khác các doanh nghiệp vừa và nhỏ là người bán đồng thời là người mua quan trọng của các doanh nghiệp lớn.
Một doanh nghiệp lớn để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thường phải có mạng lưới các nhà cung cấp và phân phối sản phẩm. Những đối tượng này không ai khác chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều này giúp cho các doanh nghiệp lớn làm giảm sự ảnh hưởng do biến động thị trường gây ra cả về mặt cung và cầu, giảm chi phí sửa chữa bảo hành, chi phí quản lý vận chuyển và lưu trữ hàng hoá tạo điều kiện thuận lợi cho việc giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần tạo ra sự năng động và hiệu quả cho nền kinh tế trong cơ chế thị trường, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Với ưu thế về tính linh hoạt và lượng vốn yêu cầu tương đối nhỏ, Doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng nhanh chóng chuyển đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ... cho phù hợp với sự biến động của môi trương kinh doanh. Do vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho nền kinh tế trở nên năng động hơn.
Thực tế cho thấy, tốc độ gia tăng các doanh nghiệp vừa và nhỏ lớn hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp lớn. Sự gia tăng số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm tăng tính cạnh tranh cho nền kinh tế. Như đã phân tích ở trên doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng đồng nghĩa với việc có nhiều hơn các nguồn lực xã hội được huy động vào mục tiêu phát triển kinh tế.
Có thể nói các doanh nghiệp vừa và nhỏ với những lợi thế là chi phí đầu tư thấp, dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường, tỏ ra rất phù hợp với trình độ quản lý của phần lớn các chủ doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Chính vì vậy, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là một nội dung quan trọng trong đường lối xây dựng và phát triển kinh tế của Đảng và Nhà Nước ta. Với vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, Nghị Quyết TW khoá X đã khẳng định “DNV&N là loại hình doanh nghiệp rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế và bước đầu thực hiện CNH-HĐH. Vì vậy, phải quan tâm tới mọi thuận lợi cho DNV&N.”
1.1.3. Nhu cầu vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí là cực nhỏ, nên muốn tồn tại và cạnh tranh, họ rất cần vốn để nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới trang thiết bị, đẩy mạnh sản xuất. Thiếu vốn đang là rào cản lớn nhất cho sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi có nhu cầu phát triển, họ thường huy động vốn từ bạn bè người thân, thậm chí cả vốn vay nặng lãi bên ngoài, việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng là rất khó khăn. Khả năng huy động vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thấp khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại rơi vào vòng luẩn quẩn: thiếu vốn để trang bị cộng nghệ, kỹ thuật hiện đại thay đổi công nghệ lạc hậu, không có khả năng đào tạo, nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng lao động. Vậy tại sao các NHTM lại ngại không cho đối tượng là doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn?
Theo các chuyên gia ngân hàng, do môi trường kinh doanh ở phần lớn các doanh nghiệp loại này còn nhiều rủi ro, tính khả thi của phương án và dự án của doanh nghiệp vừa và nhỏ là chưa thuyết phục. Các tổ chức quản lý và điều hành chưa chuyên nghiệp; các báo cáo tài chính không đầy đủ và thiếu minh bạch nên các ngân hàng rất ngại cho vay khi chưa năm rõ hoạt động của doanh nghiệp.
Mối quan tâm hàng đầu của ngân hàng là cho vay dựa trên tính hiệu quả của dự án kinh doanh. Hiện nay đã có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng phương pháp quản lý – kinh doanh hiện đại, có chiến lược phát triển lâu dài. Không ít các nhà đầu tư nước ngoài đã tìm đến liên kết liên doanh, hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển mặt hàng hoặc mở rộng thị phần. Đó là đối tượng mà các NHTM hướng đến để cho vay vốn.
Điều tra mới đây về thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ của Cục phát triển doanh nghiệp (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho thấy chỉ có 32,38% doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tiếp cận được các nguồn của các ngân hàng; 35,24% khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Khó khăn chính của doanh nghiệp vừa và nhỏ là không có tài sản đảm bảo, chiếm tới 77%, thứ đến là không đưa ra được thông tin đáng tin cậy về dự án.
Nguồn tín dụng là rất cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó góp phần thúc đẩy quá trình tập trung vốn mở rộng sản xuất, kinh doanh, góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn trong doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp hiện đại trang thiết bị, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học kỹ thuật, tổ chức quản lý kinh doanh có hiệu quả. Hiện nay, với một thị trường chứng khoán thực sự chưa có nhiều đất cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như sự thiếu đa dạng và hiệu quả của các định chế trung gian tài chính phi ngân hàng khác thì nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng vẫn được các doanh nghiệp vừa và nhỏ tìm đến như một cứu cánh.
Theo chiến lược phát triển đến năm 2010 thì cả nước dự kiến sẽ có 500.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đây là đối tượng khách hàng có nhiều tiềm năng và có vai trò rất lớn mà các ngân hàng trong nước phải quan tâm phục vụ. Cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là mảng hoạt động đầy triển vọng, giúp ngân hàng tăng trưởng quy mô tín dụng, đa dạng dịch vụ và phân tán rủi ro.
1.2. PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NHTM.
1.2.1. Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM.
1.2.1.1. Khái niệm về tín dụng - Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Khái niệm về tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức. Tín dụng ngân hàng cũng là một hình thức của tín dụng, là hoạt động tài trợ của ngân hàng cho khách hàng. Tín dụng của ngân hàng có thể bao gồm cả cho vay, cho thuê, bảo lãnh, cả ngắn, trung và dài hạn.
Tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng được thực hiện thông qua vai trò trung tán trong nền kinh tế, rồi bằng nguồn vốn đó và vốn tự có tiến hành gian của ngân hàng. Đó là việc ngân hàng đứng ra huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi và phân cho các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân vay để phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, nhằm mục tiêu thương mại.
Hoạt động cho vay luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản ở ngân hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của NHTM. Ngân hàng thương mại luôn sử dụng mọi lỗ lực để tăng qui mô tín dụng như mở rộng mạng lưới, đa dạng hoá các loại hình tín dụng, phát triển công nghệ mới nhằm là gia tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi…
Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thực chất NHTM cũng là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ. Nâng cao hiệu quả hoạt động là mục tiêu quan trọng nhất của NHTM. Như trình bày ở trên thì hoạt động cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các loại tài sản ở NHTM, vì vậy phát triển hoạt động tín dụng của NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là hết sức quan trọng.
Phát triển tín dụng được xem là quá trình biến đổi cả về lượng và chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn thiện dịch vụ tín dụng của NHTM và quá trình sử dụng hiệu quả vốn vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ để phát triển bền vững. Phát triển tín dụng nghĩa là việc các NHTM giữ được các khách hàng cũ, nâng cao hiệu quả về chất lượng tín dụng đối với khách hàng lâu năm; và tìm thêm được các đối tác mới; cùng xây dựng các dự án chiến lược phát triển với đối tác ở đây là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bời vì, tại các nền kinh tế phát triển thì điểm xuất phát của nhiều công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia ban đầu chính là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ là hoạt động mang lại lợi ích cho cả hai bên, và cho cả nền kinh tế. Đối với doanh nghiệp thì giải quyết được nhu cầu cấp bách về vốn để có thể đẩy mạnh sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh, và phát triển bền vững. Đối với NHTM, trước tiên là thực hiện được vài trò chủ chốt của mình trong nền kinh tế là luân chuyển vốn; sau là có thể phát huy tối đa hiệu quả hoạt động. Với 97% là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế, đóng góp khoảng 39% vào GDP, 32% vốn đầu tư cho nền kinh tế, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp và chiếm 25% số lao động cả nước, thì việc phát triển tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thật sự là một mảnh đất màu mỡ mà các NHTM hiện nay chưa tận dụng hết.
1.2.1.2. Những tiêu chí thể hiện phát triển tín dụng của NHTM.
Từ khái niệm về phát triển tín dụng được nêu ở trên, có thể nhận định tiêu chí thể hiện phát triển tín dụng của NHTM được thể hiện ở hai phương diện sau:
Quy mô, và hiệu quả tín dụng của NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Về quy mô, thể hiện ở khối lượng tài sản tín dụng của NHTM trên tổng tài sản, đáp ứng cho nhu cầu vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đánh giá trên cơ sở so sánh mức tăng tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các thời kì với mức tăng tổng tài sản tương ứng của ngân hàng. Xem xét các mục tiêu đã hướng đến trong quá khứ có thực hiện hiệu quả, đúng kế hoạch hay không và đặt ra mục tiêu tăng trưởng cho tương lai.
Hiệu quả hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ được hiểu là sự đáp ứng nhu cầu vay hợp lý của các doanh nghiệp và nhu cầu đó phải phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, xã hội và phải đảm bảo sự tồn tại, phát triển cuả ngân hàng.
- Chỉ tiêu tỷ trọng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ..
Tỷ trọng dư nợ
cho vay DNV&N
=
Dư nợ cho vay DNV&N
Tổng dư nợ cho vay
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ trong hoạt động của ngân hàng đồng thời phản ánh mức độ ảnh hưởng của hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ đến hiệu quả tín dụng ngân hàng nói riêng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung.
- Chỉ tiêu tăng trưởng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tăng trưởng dư nợ cho
vay DNV&N
=
Dư nợ cho vay DNV&N năm sau
Dư nợ cho vay DNV&N năm trước
Chỉ tiêu này dùng để phản ánh tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ qua các năm. Cùng với chính sách tín dụng của ngân hàng trong từng thời kỳ và chỉ tiêu thứ nhất chúng ta sẽ đánh giá được xem hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ có theo đúng quy định và chủ trương của ngân hàng hay không.
- Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tỷ lệ nợ quá hạn
cho vay DNV&N
=
Dư nợ quá hạn cho vay DNV&N
Tổng dư nợ cho vay DNV&N
Đây là chỉ tiêu quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và là một trong những chỉ tiêu để đánh giá uy tín trong quan hệ tín dụng với ngân hàng. Chỉ tiêu này cho biết trong tổng dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thì bao nhiêu phần trăm nợ quá hạn.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ đóng vai trò quan trọng mà còn chiếm một tỷ trọng lớn. Nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đạt được hiệu quả kinh doanh cao, khẳng định được vị thế, vai trò trong nền kinh tế. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại một số lượng không nhỏ các doanh nghiệp vừa và nhỏ kém hiệu quả, hoạt động dựa vào sự trợ giúp của Nhà Nước, từ các nguồn vốn vay ngân hàng. Chính vì vậy mà hoạt động cho vay đối với những doanh nghiệp này chứa đựng nhiều rủi ro, đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt như hiện nay. Để tránh được những rủi ro từ phía khách hàng, ngân hàng phải chủ động lựa chọn đầu tư vào những doanh nghiệp vừa và nhỏ làm ăn có hiệu quả, ít rủi ro, có như vậy mới đảm bảo khả năng thu hồi vốn vay đúng thời hạn.
- Chỉ tiêu tỷ lệ dư nợ cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ có tài sản đảm bảo.
Tỷ lệ dư nợ cho vay
DNV&N có TSĐB
=
Dư nợ cho vay DNV&N có TSĐB
Dư nợ cho vay DNV&N
Hiệu quả tín dụng ngân hàng nói chung, hiệu quả hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa nhỏ nói riêng không chỉ phụ thuộc vào khả năng đảm bảo bằng tài sản mà chủ yếu dựa vào hiệu quả kinh doanh của dự án. Tuy nhiên, tỷ lệ dư nợ cho vay có tài sản đảm bảo là rất cần thiết để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do xuất phát từ thực tế về hoạt động kinh doanh và cơ cấu của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế mà tỷ lệ này được coi là cần thiết để đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chỉ tiêu vòng quay vốn tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vòng quay vốn tín dụng
đối với DNV&N
=
Doanh số thu nợ cho vay DNV&N
Dư nợ cho vay DNV&N bình quân
Vòng quay vốn tín dụng thể hiện nguồn vốn ngân hàng lưu chuyển vốn nhanh hay chậm để tham gia vào các chu kỳ sản xuất kinh doanh. Với cùng một lượng vốn cung cấp cho nền kinh tế nhưng nếu tốc độ vòng quay vốn tín dụng nhanh thì ngân hàng có thể đáp ứng nhiều hơn nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chỉ tiêu cơ cấu dư nợ cho vay ngắn, trung, dài hạn đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chỉ tiêu này cho biết cả số tương đối và tuyệt đối về dư nợ cho vay ngắn, trung và dài hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong tổng dư nợ là bao nhiêu. Qua đó, so sánh với tình hình huy động vốn tại ngân hàng, xem hoạt động cho vay đó có hiệu quả không, có đúng với quy luật thị trường hay không…
- Chỉ tiêu tỷ lệ lợi nhuận, thu dịch vụ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hoạt động của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ không chỉ dừng lại ở việc cho vay mà nó còn bao gồm cả những hoạt động khác của ngân hàng với doanh nghiệp như bảo lãnh, uỷ quyền…Do vậy, để đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng thì ta phải đánh giá cả khoản lợi nhuận từ hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp vừa và nhỏ mang lại cho ngân hàng.
- Chỉ tiêu thu hồi nợ cho vay._. doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiệu quả hoạt động cho vay không chỉ thể hiện ở việc khoản cho vay đó đem lại bao nhiêu lợi nhuận, nó có được bảo đảm không hay tỷ lệ nợ quá hạn của nó ra sao…Mà hiệu quả cho vay còn được dánh giá qua công tác thu hồi nợ, thực chất đây cũng là một trong những cách thức để đánh giá tỷ lệ nợ quá hạn, nhưng tỷ lệ nợ quá hạn chỉ cho biết về tỷ lệ chung, còn chỉ tiêu này dùng để đánh giá cụ thể từng doanh nghiệp vừa và nhỏ một, xem ngân hàng thu được bao nhiêu. Công tác thu hồi nợ không chỉ phản ánh những khoản vay trong năm mà còn là những khoản thu nợ quá hạn, nợ khó đòi mà ngân hàng có thể thu được từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ tưởng chừng như không thể trả nổi khoản vay. Vì vậy, đây cũng là một chỉ tiêu cần xem xét khi đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mỗi một chỉ tiêu trên phản ánh một khía cạnh, một góc độ riêng đối với hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vốn dĩ hoạt động kinh doanh thông thường đã khó xác định chính xác hiệu quả, trong khi đó ở đây hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh tiền tệ thì càng khó xác định hơn. Bản thân tiền tệ, quy trình vận hành của nó đã khó xác định nên chúng ta phải sử dụng các chỉ tiêu khác nhau để đánh giá hiệu quả thực tế mà nó đem lại. Do đó, ta không thể bỏ qua bất cứ chỉ tiêu nào trong các chỉ tiêu trên, các chỉ tiêu này luôn có quan hệ qua lại với nhau, giúp cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động cho vay được chính xác nhất. Có thể với những doanh nghiệp vừa và nhỏ cụ thể khác nhau còn có thêm những chỉ tiêu khác, tuỳ thuộc vào ngành nghề mà họ kinh doanh, nhưng nhìn chung nếu đánh giá hoạt động cho vay của ngân hàng với doanh nghiệp vừa và nhỏ ta sử dụng những chỉ tiêu trên.
Xét với giác độ toàn nền kinh tế, hiệu quả hoạt động cho vay của ngân hàng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ được xem xét thông qua những lợi ích mà vừa và nhỏ đó mang lại cho toàn nền kinh tế.
1.2.1.3.Tiêu chí thể hiện doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng vốn tín dụng hiệu quả.
- Mục tiêu chính của một doanh nghiệp là tối lợi nhuận, kinh doanh thì phải có lãi để quay vòng vốn, tái sản xuất, chuyển sang một chu kỳ phát triển mới với mục tiêu lớn hơn. Vì vậy tiêu chí để xác định doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không ta phải dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh, so sanh nó với kế hoạch mà doanh nghiệp đề xuất với ngân hàng để vay vốn. Đối với NHTM thì việc doanh nghiệp hoàn trả được các khoản nợ vào đúng thời hạn là yếu tố được đăt lên hàng đầu. Một doanh nghiệp phát triển bền vững luôn luôn phải duy trì được khả năng thanh toán.
- Phát triển là nói về cả hai yếu tố chất và lượng, cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Trong nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế có sự cạnh tranh gay gắt, việc doanh nghiệp không ngừng phát triển, làm mới sản phẩm chất lượng hơn, nhiều chủng loại và thuận tiện cho người tiêu dùng hơn…để tạo dựng chỗ đứng vững chắc trên thị trường là thách thức rất lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn non trẻ và thiếu kinh nghiệm trong kinh doanh, thương mại quốc tế. Điều này cần nguồn vốn rất lớn, đòi hỏi sự hợp tác lầu dài hai bên cùng có lợi giữa ngân hàng và doanh nghiệp vừa và nhỏ, để tạo ra sức bật cho cả nền kinh tế Việt Nam.
- Phát triển bền vững không chỉ tính đến vấn đề duy nhất về lợi nhuận, của cải vật chất tạo ra cho xã hội - thể hiện qua các chỉ tiêu về kinh tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng vốn tín dụng hiệu quả, trước tiên được thể hiện cụ thể bằng chính sự đóng góp vào vai trò của mình đối với nền kinh tê quốc dân. Ngày nay, một doanh nghiệp phát triển bền vững còn thể hiện qua các chỉ tiêu về bảo vệ môi trường và an sinh xã hội. Các chỉ tiêu về môi trường như: có bản báo cáo về môi trường, các chỉ tiêu riêng của ngành nghề… Các chỉ tiêu về xã hội: hoạt động từ thiện, việc phát triển vốn con người, các chỉ tiêu riêng của ngành nghề…
1.3. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ.
1.3.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.1.1. Sự cần thiết phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, tín dụng ngân hàng ngày càng có vai trò quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
Tín dụng ngân hàng là công cụ tich tụ và tập trung vốn để hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tái sản xuất mở rộng theo bề rộng và chiều sâu.
Tín dụng ngân hàng là một công cụ để Nhà nước điều tiết kinh tế vĩ mô, góp phần chống lạm phát , ổn định tiền tệ và giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tự do di chuyển vốn từ ngành này sang ngành khac.
Lãi suất tín dụng ngân hàng là đòn bẩy mạnh mẽ đối với việc huy động vốn và cho vay vốn của ngân hàng.
1.3.1.2. Các hình thức tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM.
* Phân loại theo thời hạn tín dụng.
Tỷ trọng tín dụng ngắn hạn tại các ngân hàng thương mại thường cao hơn tỷ trọng tín dụng trung và dài hạn do các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Tín dụng trung và dài hạn có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và khan hiếm hơn. Ở nước ta hiện nay, tỷ trọng tín dụng ngắn hạn của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng thường cao hơn so các doanh nghiệp lớn.
- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống tài trợ cho tài sản lưu động, hoặc nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm tài trợ cho các tài sản cố định như phương tiện vận tải, trang thiết bị chóng hao mòn.
- Tín dụng trung hạn: Trên 5 năm chủ yếu tài trợ cho các công trình xây dựng như nhà ở, cầu, đường , máy móc thiết bị có giá trị lớn, có thời gian sử dụng lâu.
Việc xác định thời hạn như trên cũng chỉ có tính chất tương đối vì nhiều khoản cho vay không xác định trước được chính xác thời hạn. Phân chia tín dụng theo thời gian có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tài sản.
* Phân loại theo phương thức cho vay.
Trên cơ sơ nhu cầu sử dụng của từng khoản vay của khách hàng và khả năng kiểm tra, giám sát của ngân hàng mà ngân hàng thoả thuận với khách hàng vay về việc lựa chọn các phương thức cho vay phù hợp. So với doanh nghiệp lớn các phương thức vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đơn điệu hơn. Phương thức cho vay chủ yếu là cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức và cho vay theo dự án. Các ngân hàng đang thực hiện cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ theo các phương thức sau:
- Chiết khấu thương phiếu
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền ngân hàng ứng trước phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và tỉ lệ phí chiết khấu.
Nghiệp vụ chiết khấu được dựa trên sự tín nhiệm giữa ngân hàng và những người ký tên trên thương phiếu. Do tối thiểu có hai người cam kết cho ngân hàng nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao (trừ trường hợp ngân hàng ký miễn truy đòi đối với khách hàng). Hơn nữa, ngân hàng thương mại có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp (vì vậy thương phiếu còn được coi là loại tài sản có khả năng chuyển nhượng - có tính thanh khoản cao).
- Cho vay thấu chi
Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi. Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ,... vượt quá số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Số lãi
phải trả
=
Lãi suất
thấu chi
x
Thời gian
thấu chi
x
Số tiền
thấu chi
Hình thức cho vay thấu chi dựa trên cơ sở các khoản thu chi của doanh nghiệp không phù hợp về thời gian và qui mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào ngân quĩ song không chính xác. Do vậy hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho doanh nghiệp vài ngày hoặc vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
- Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay phổ biến của ngân hàng áp dụng cho các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng.
Để được cấp tín dụng, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác định qui mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Tiền cho vay dựa vào giá trị tài sản đảm bảo và các ngân hàng thường quy định giới hạn phần trăm cho vay tối đa tính trên giá trị tài sản đảm bảo.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng
Phương thức cho vay này áp dụng với khách hàng vay ngắn hạn có nhu cầu vay vốn thường xuyên, kinh doanh ổn định, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Trong kỳ khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt vượt quá hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng qui định hạn mức tín dụng cuối kỳ. Dư nợ trong kỳ có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên đến cuối kỳ, khách hàng phải trả nợ để giảm dư nợ sao cho cuối kỳ không được vượt quá hạn mức.
Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Trong nghiệp vụ cho vay này ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lí ngân quĩ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
- Cho vay theo dự án
Các ngân hàng ngày càng tăng cường tài trợ cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp như: cho vay theo dự án đầu tư phát triển sản xuất , kinh doanh dịch vụ và các dự án phục vụ đời sống. Thời gian thực hiện dự án thường dài và cần nhiều vốn nên có rủi ro cao. Những dự án lớn có thể có nhiều ngân hàng cùng đứng ra cho vay.
Số tiền cho vay được xác định như sau:
Số tiền vay
=
Tổng mức đầu tư của dự án
-
Vốn chủ sở hữu hoặc vốn tự có tham gia
-
Nguồn vốn huy động khác
Căn cứ để phát tiền vay dựa vào:
+ Hợp đồng tín dụng
+ Hợp đồng và chứng từ cung ứng vật tư, thiết bị, công nghệ, dịch vụ,...
+ Biên bản xác nhận giá trị khối lượng công trình hoàn thành (đã được nghiệm thu từng hạng mục hoặc toàn bộ công trình) hoặc các văn bản xác nhận tiến độ thực hiện dự án.
Mỗi lần vay khách hàng phải ký giấy nhận nợ. Trong trường hợp thời gian chưa vay được vốn ngân hàng, khách hàng đã dùng nguồn vốn huy động tạm thời khác để chi phí theo dự án được duyệt thì ngân hàng có thể xem xét cho vay bù đắp nguồn vốn đó trên cơ sở phải có chứng từ pháp lý minh chứng rõ ràng nguồn vốn đã sử dụng trước.
- Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng tài trợ cho doanh nghiệp để mua hàng và sẽ thu nợ khi họ bán hàng. Đầu năm hoặc quý doanh nghiệp phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và doanh nghiệp sẽ thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Doanh nghiệp cũng phải cam kết các khoản vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng để trả vào tài khoản tiền vay trước khi được trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận trong 1 năm hặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để ngân hàng xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không dựa trên những đánh giá của ngân hàng về tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Hình thức cho vay luân chuyển dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng ngân quĩ trong thời gian tới. Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán. Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ, đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo khối lượng hàng hoá và chất lượng quan hệ tín dụng của người vay. Các khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản vay. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển đem lại nhiều thuận tiện cho khách hàng. Thủ tục cho vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay. Khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời, vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.2.1. Các nhân tố về phía ngân hàng.
Chính sách cho vay của ngân hàng.
Chính sách cho vay của ngân hàng phản ánh cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hóa và tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho vay nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Một chính sách cho vay rõ ràng sẽ mang lại lợi thế và thuận lợi cho ngân hàng, bao gồm các chính sách sau:
- Chính sách khách hàng: Khách hàng vay vốn của ngân hàng rất đa dạng từ các doanh nghiệp, các hợp tác xã, cơ quan Nhà nước, cá nhân, người tiêu dùng,… Ngân hàng sẽ phân loại khách hàng truyền thống và quan trọng, khách hàng khác. Nếu một doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc loai khách hàng truyền thống và quan trọng sẽ được hưởng chính sách ưu đãi trong cho vay của ngân hàng.
- Chính sách quy mô và giới hạn cho vay: Ngân hàng cam kết tài trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ với một món tiền hoặc hạn mức nhất. Số lượng tài trợ có thể được chia nhỏ trong các khoảng thời gian khác nhau và dưới các hình thức tiền tệ khác nhau..
- Chính sách lãi suất: Ngân hàng có các mức lãi suất cho vay khác nhau tùy theo từng kỳ hạn, tùy theo các loại tiền và tùy theo loại khách hàng (khách hàng quen hoặc khách hàng vay lớn có thể có mức lãi suất thấp hơn). Nếu chính sách lãi suất linh hoạt cho phép cán bộ tín dụng được thay đổi trong giới hạn nhất định hoặc cho phép khách hàng lựa chọn mức lãi suất… điều này làm tăng khả năng tiếp cận vốn ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Chính sách về thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ: Chính sách này thể hiện rõ ngân hàng sẵn sàng cho vay với thời hạn như thế nào? Nếu thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời hạn thu hồi vốn đầu tư của dự án, khả năng trả nợ của doanh nghiệp, sẽ làm tăng hiệu quả cho vay đối với cả ngân hàng và doanh nghiệp, từ đó mở rộng cho vay.
Ngoài ra, chính sách về các khoản bảo đảm, về các tài sản có vấn đề cũng ảnh hưởng rất lớn đến khả năng mở rộng cho vay của ngân hàng… Như vậy, chính sách cho vay cung cấp cho cán bộ tín dụng và các nhà quản lý ngân hàng đường lối chỉ đạo cụ thể trong việc ra quyết định cho vay và xây dựng danh mục cho vay. Từ đó giúp cho ngân hàng hướng tới một danh mục cho vay có hiệu quả, xác định các khoản cho vay nên từ chối và những khoản cho vay nên thực hiện.
Quy mô nguồn vốn của Ngân hàng.
Tất cả các hoạt động của NHTM đều phải tuân theo các quy định liên quan đến hoạt động cho vay của pháp luật, bao gồm: Quyết định số 107/2000/QĐ-NHNN; Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN; Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN;… Trong đó QĐ 1627 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng có quy định: “Dư nợ cho vay tối đa đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn ủy thác của Chính Phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng khác”. Do đó quy mô nguồn vốn của ngân hàng đặc biệt là quy mô vốn chủ sở hữu là một nhân tố quan trọng quyết định đến khả năng cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng lớn thường cung cấp các khoản cho vay giá trị lớn cho doanh nghiệp, còn các ngân hàng nhỏ thường tập trung vào các khoản cho vay có quy mô nhỏ - nghiệp vụ tín dụng bán lẻ.
Ngoài ra, quy mô ngân hàng cũng ảnh hưởng đáng kể đối với thu nhập ròng của các loại hình cho vay. Để đạt được hiệu quả cao nhất trong cho vay, ngân hàng nên cung cấp các loại hình cho vay mà ngân hàng có lợi thế nhất. Các ngân hàng lớn có ưu thế về cho vay kinh doanh bất động sản và cho vay tiêu dùng trả góp. Các ngân hàng quy mô trung bình có lợi thế về chi phí đối với các khoản vay theo thẻ tín dụng, còn các ngân hàng quy mô nhỏ nhất lại có ưu thế trong cho vay thương mại.
Chất lượng và tính đa dạng của các hình thức cho vay.
Đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động cho vay của các ngân hàng. Một ngân hàng sẽ ít có khả năng lớn mạnh, khả năng mở rộng cho vay nếu những sản phẩm cho vay mà nó cung cấp cho khách hàng lại quá đơn điệu, chất lượng không cao. Một trong các đặc điểm của sản phẩm dịch vụ ngân hàng là không có sự khác biệt, bản quyền khó xác định, làm ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh của ngân hàng. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh hiện nay, tính cạnh tranh diễn ra gay gắt và khốc liệt buộc các ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm nhằm tạo tính khác biệt cho sản phẩm của ngân hàng từ đó củng cố và mở rộng thị phần, duy trì khả năng cạnh tranh.
Trình độ cán bộ nhân viên.
Các sản phẩm ngân hàng mang tính dịch vụ, nó chịu tác động của nhiều nhân tố trong đó nhân tố con người đóng vai trò vô cùng quan trọng. Điều này được thể hiện rõ nét trong chính sách đối với các bộ nhân viên: các ngân hàng không ngừng tổ chức các lớp học bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên, thực hiện các khuyến khích về vật chất cũng như tinh thần. Trong tổng số chi phí ngoài chi phí trả cho tiền gửi thì chi phí trả cho cán bộ nhân viên bao giờ cũng chiếm tỷ trọng cao nhất.
Ảnh hưởng đến hoạt động cho vay trực tiếp nhất là các cán bộ tín dụng. Họ là người thực thi chính sách tín dụng và quyết định tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Hình ảnh của ngân hàng được gây dựng trong tâm trí khách hàng vay vốn bởi các cán bộ tín dụng.
Công nghệ thông tin.
Hiện nay, các NHTM nước ta đang trong quá trình hiện đại hoá, phát triển các nghiệp vụ mới, nâng cao sức cạnh tranh các sản phẩm – dịch vụ ngân hàng khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Để hiện đại hoá đòi hỏi các ngân hàng phải ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào tất cả các khâu các nghiệp vụ trong hoạt động kinh doanh. Công nghệ thông tin có thể đem lại những lợi ích to lớn và sức cạnh tranh cho các ngân hàng: cập nhật, thu thập, xử lý và phân tích thông tin nhanh hơn, giúp ngân hàng đơn giản hoá các quá trình làm việc, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm – dịch vụ. Ngoài ra, ngân hàng còn lưu trữ được một số lượng hồ sơ tín dụng tạo thuận tiện cho việc truy cập và khai thác thông tin sau này.
1.3.2.2. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng khi vay vốn phải thoả mãn các điều kiện sau:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo đúng quy định của Chính phủ và hướng dẫn của NHNN Việt Nam.
Do đó, đây là các yếu tố trực tiếp ảnh hưởng đến khả năng vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như khả năng mở rộng cho vay của NHTM. Nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng các biện pháp không tích cực để được vay vốn ngân hàng như: làm sai lệch các báo cáo tài chính, không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ và trung thực các thông tin cần thiết cho ngân hàng; sử dụng vốn sai mục đích, cố đình lừa đảo chiếm dụng vốn của ngân hàng thì sẽ làm mất lòng tin từ phía ngân hàng, buộc ngân hàng phải áp dụng nhiều biện pháp bảo đảm tiền vay hơn, làm hạn chế khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ngoài ra, uy tín của doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có ảnh hưởng quyết định đến khả năng vay vốn ngân hàng. Những doanh nghiệp vừa và nhỏ có uy tín lớn trên thị trường có thể được hưởng nhiều chính sách ưu đãi của ngân hàng về quy mô vốn vay, thời hạn vay, lãi suất... làm giảm bớt chi phí vay vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.2.3. Các nhân tố thuộc về NHNN và Chính phủ.
Tất cả các hoạt động của NHTM đều phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN và Chính phủ, trong đó, khả năng cho vay của ngân hàng chịu tác động trực tiếp của các công cụ chính sách tiền tệ, bao gồm: Tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tín dụng,…
- Tái cấp vốn: là hình thức cấp tín dụng của NHNN đối với các NHTM. Khi cấp một khoản tín dụng cho NHTM, NHNN đã tăng lượng tiền cung ứng từ đó làm tăng khả năng cho vay của NHTM.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá trên tổng số tiền gửi huy động. Thông qua công cụ này NHNN tác động đến cả khối lượng và giá cả tín dụng của NHTM từ đó ảnh hưởng đến khả năng cho vay của NHTM.
- Nghiệp vụ thị trường mở: là hoạt động NHNN mua, bán giấy tờ có giá (Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Chính phủ…) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung-cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM, tác động đến khả năng cung ứng tín dụng cho nền kinh tế.
- Lãi suất tín dụng: Đây là một công cụ gián tiếp trong thực thi chính sách tiền tệ. Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có thể kích thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất từ đó tác động đến cung - cầu vốn vay -> ảnh hưởng đến khả năng cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.3.2.4. Các nhân tố khác.
- Các nhân tố thuộc về môi trường kinh tế.
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực cực kỳ nhạy cảm với các diễn biến của nền kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế có tác động trực tiếp đên hoạt động tín dụng hay nhu cầu tín dụng trong nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng kinh tế. Một nền kinh tế đang trên đà phát triển, môi trường kinh doanh thuận lợi, nhu cầu tiêu dùng của dân cư tăng là cơ hội để các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư mở rộng phát triển sản xuất, làm cho nhu cầu tín dụng tăng lên. Đồng thời, nền kinh tế phát triển, thu nhập tăng cao, tiết kiệm tăng, do đó nguồn cung ứng vốn trên thị trường tăng. Cả hai yếu tố này là điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng cho vay của NHTM. Ngược lại, trong giai đoạn kinh tế trì trệ, kém phát triển, lạm phát, thất nghiệp tăng cao, đầu tư không mang lại hiệu quả, các hoạt động sản xuất bị thu hẹp, nhu cầu vốn cho đầu tư giảm mạnh; và lãi suất tiền gửi không đủ bù đắp lạm phát, tiết kiệm giảm, cung vốn giảm, đương nhiên trong hoàn cảnh này ngân hàng không thể mở rộng hoạt động cho vay được.
Sự hội nhập kinh tế quốc tế với khu vực và thế giới chính là sự tham gia của kinh tế Việt Nam với kinh tế thế giới (Việt Nam đã tham gia thị trường tự do thương mại Asian – AFTA, diễn đàn kinh tế Châu Á Thài Bình Dương – APEC, ký hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa và ra nhập WTO). Đây là cơ hội tốt cho các ngân hàng, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ hội hợp tác, nhận công nghệ tiến tiến và phương pháp quản lý hiện đại. Các ngân hàng có thể mở rộng cho vay cả bằng nội tệ và ngoại tệ để các doanh nghiệp vừa và nhỏ mở rộng sản xuất - kinh doanh, nhập khẩu hàng hoá, trang thiết bị, máy móc, kỹ thuật công nghệ…
- Các nhân tố thuộc về môi trường pháp lý.
Các nhấn tố thuộc về môi trường pháp lý là điều kiện đảm bảo cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Nếu môi trường pháp lý chưa hoàn hảo và thiếu đồng bộ thì sẽ kìm hãm cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng và từ đó ảnh hưởng đến việc cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã ban hành, bổ sung, chỉnh sửa nhiều văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM, cùng hàng loạt các nghị quyết, nghị định, thông tư của Chính phủ và các cấp các ngành có liên quan. Tất cả đều điều chỉnh theo hướng khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đó là điều kiện tốt để ngân hàng mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Các nhân tố thuộc về môi trường an ninh, chính trị, xã hội.
Đây là nhân tố vô cùng quan trọng, không thể tách rời nhân tố ổn định và phát triển kinh tế. Không một quốc gia nào có thể có nền kinh tế phát triển khi mất ổn định về an ninh, chính trị, xã hôi. Ở Việt Nam, hiện nay có thể nói là có tình hình chính trị ổn định, an ninh quốc phòng được giữ vững, được thế giới đánh là nước có độ an toàn cao. Đó là những điều kiện căn bản để phát triển kinh tế đất nước.
CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NHTM
CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI
2.1. KHÁI QUÁT VỀ NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI.
2.1.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển.
Ngân hàng TMCP Quân đội ( Military Commercial Join Stock Bank) tên viết tắt là MB được thành lập vào năm 1994, theo quyết định số 00374/GP-UB của uỷ ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Ngày 4/11/1994, Ngân hang TMCP Quân đội chính thức đi vào hoạt động theo Giấy phép số 0054/NH-GP của Ngân hang Nhà nước Việt Nam với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, thời gian hoạt động là 50 năm, tuy nhiên có thể xin gia hạn khi hết hạn hoạt động.
Từ năm 1994-2004 Ngân hàng có trụ sở ở 28A Điện Biên Phủ, Quận Ba Đình Hà Nội. Từ năm 2005 đến nay Ngân hàng chuyển Trụ sở chính tới Số 3 Liễu Giai, Quận Ba Đình, Hà Nội. Đồng thời một Sở giao dịch mới được thành lập với cùng địa điểm Trụ sở chính.
Đến nay hơn 10 năm hoạt động, MB đã liên tục kinh doanh có hiệu quả và được Ngân hang Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những ngân hang TMCP hang đầu Việt Nam.
Sự tăng trưởng về vốn và quy mô hoạt động của Ngân hang Quân đội luôn ổn định và liên tục trong suốt quá trình hoạt động. Vốn chủ sở hữu của Ngân hang Quân đội tăng liên tục từ 20 tỷ đồng năm 1994 lên đến hơn 1000 tỷ đồng vào cuối năm 2006, và đến năm 2007 đã tăng vốn điều lệ lên 2000 tỷ đồng.Tổng tài sản tăng trưởng tương ứng từ 32 tỷ đồng lên đến hơn 8000 tỷ đồng. Mức lợi nhuận của ngân hang tăng từ 0.23 tỷ trong năm tài chính 1994 lên 240 tỷ trong năm 2006. ROE của Ngân hang luôn được duy trì ở mức trên 20% trong những năm vừa qua. Tỉ lệ chia cổ tức hàng năm luôn đạt trên 15%.
Để đáp ứng nhu cầu phát triển, Ngân hàng Quân đội liên tục mở rộng mạng lưới hoạt động, bên cạnh đó, các công ty trực thuộc cũng là một bộ phận không thể tách rời, đóng góp cho sự phát triển đa dạng và ổn định của ngân hang. Bao gồm Công ty Chứng khoán Thăng Long (TSC), công ty quản lí nợ và khai thác tài sản (AMC), và công ty Quản lí Quỹ (HFM).
Nhờ những cố gắng của mình , Ngân hang Quân đội luôn được NHNN xếp hạng A trong suốt quá trình hoạt động, và là một ngân hang luôn nằm trong top những ngân hang cổ phần làm ăn hiệu quả ở Việt Nam.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động.
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ cơ cấu tổ chức cuả Ngân hàng Quân đội:
Ban kiểm soát
Đại hội đồng cổ đông
Hội đồng quản trị
Các Uỷ ban cao cấp
Tổng giám đốc
Phòng kiểm tra kiểm soát nội bộ
Công ty quản lý quỹ đầu tư Hà Nội
Công ty chứng khoán Thăng Long
Công ty AMC
Phòng đầu tư và dự án
Khối Treasury
Khối khách hàng cá nhân
Khối khách hàng doanh nghiệp
Khối quản lý tín dụng
Phòng KHTH & Pháp chế
Trung tâm công nghệ thông tin
Khối tổ chức-Nhân sự-Hành chính
Phòng tài chính kế toán
Phòng nghiên cứu & XD chính sách
Sở giao dịch& các chi nhánh
Khái quát về chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban:
Đại hội đồng cổ đông: Ngân hàng Quân đội là một ngân hàng cổ phần, đứng đầu là Đại hội đồng cổ đông. Ngân hàng chỉ có một loại cổ phần là cổ phần phổ thông, có cổ đông sáng lập và cổ đông phổ thông.
Cổ đông sáng lập là cổ đông đứng ra vận động thành lập Ngân hàng theo quy định của luật._.ng qua việc chấm điểm tự động. Các khách hàng được xếp loại tốt sẽ nhận được chính sách ưu đãi về giá, phí…
Tuy vậy, sẽ không có phương pháp phân tích hay một hệ thống phức tạp nào có thể thay thế được kinh nghiệm và đánh giá chuyên môn của chính các cán bộ tác nghiệp mà cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa yếu tố con người và công nghệ.
3.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI NHTM CỔ PHẦN QUÂN ĐỘI.
Với mục tiêu là phát triển hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, vì vậy giải pháp đưa ra dựa trên cơ sở về khái niệm phát triển gồm hai yếu tố là tăng trưởng(mở rộng về quy mô) và nâng cao hiệu quả dịch vụ tín dụng.
3.3.1. Các giải pháp tăng trưởng tín dụng.
- Mở rộng mạng lưới hoạt động.
Mở rộng mạng lưới hoạt động sé giúp khoảng cách từ ngân hàng đến doanh nghiệp được thu hẹp. Giúp ngân hàng tiến gần hơn đến doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khắp các tỉnh thành, đây là bước đi quan trọng đẩy mạnh tăng trưởng tín dụng khi nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là một trong nhũng nền kinh tế có tốc độ phát triển cao hiện nay.
-Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt
Một trong những điều quan tâm của doanh nghiệp khi đến vay vốn ngân hàng là lãi suất bởi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Do vậy, mức lãi suất phải hợp lý, hình thành trên cơ sở thoả thuận với khách hàng, hài hoà lợi ích ngân hàng và doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nên thực hiện lãi suất dựa vào độ tín nhiệm của doanh nghiệp, xu thế sản xuất kinh doanh trên thị trường...
- Góp vốn đầu tư, liên doanh, liên kết với doanh nghiệp vừa và nhỏ
Để mở rộng tín dụng, ngân hàng không nhất thiết chỉ cho doanh nghiệp vay vốn mà có thể lựa chọn xem doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng có thể thoả thuận ký hợp đồng liên doanh, liên kết với những doanh nghiệp đó để cùng sản xuất, kinh doanh. Như vậy, ngân hàng không những mở rộng được tín dụng mà còn có điều kiện xâm nhập thị trường từ đó tìm ra được những mặt mạnh, yếu của khách hàng, đồng thời vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn cho vay vừa tạo ra thu nhập cao do trực tiếp là người đầu tư vốn. Về phía doanh nghiệp, do có sự tư vấn, cộng tác của phía ngân hàng, doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả hơn, hạn chế được rủi ro cho khách hàng và ngân hàng. Cách thức này là rất hiệu quả và cũng trong khả năng đầu tư, quản lý của ngân hàng vì các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường có quy mô về vốn và phạm vi hoạt động không lớn.
- Chiết khấu các chứng từ có giá
Hình thức này có thể áp dụng với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vì đây có thể là các doanh nghiệp nắm giữ nhiều các loại giấy tờ có giá như thương phiếu, tín phiếu, trái phiếu chưa đến hạn thanh toán. Họ có thể đem những chứng từ có giá này đến ngân hàng xin chiết khấu để có thêm vốn sản xuất, kinh doanh.
- Cho vay có đảm bảo bằng các khoản sẽ thu của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp bán hàng nhưng do người mua chưa kịp thanh toán, dẫn đến làm cho doanh nghiệp bị thiếu vốn lưu động. Trong trường hợp này, ngân hàng có thể giúp doanh nghiệp thiếu vốn tạm thời bằng cách cho vay theo tỷ lệ nào đó trên khoản sẽ thu. Tỷ lệ này cao hay thấp phụ thuộc vào chất lượng các khoản nợ mà được ngân hàng thẩm định một cách chặt chẽ.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng cho vay chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động. Nghiệp vụ này còn mới và chưa được thực hiện rộng rãi. Trong tương lai cùng với việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, cần tăng cường hình thức cho vay nhằm mở rộng đầu tư tín dụng và nâng cao năng lực sử dụng công nghệ của NHTM đối với khách hàng.
- Linh hoạt hình thức cho vay đảm bảo
Năng lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường lớn hơn so với tài sản thực có của họ. Do đó, muốn mở rộng tín dụng đồng thời tạo hướng cho các doanh nghiệp, ngân hàng cần mạnh dạn áp dụng hình thức cho vay đảm bảo bằng hàng hoá, dịch vụ. Ngân hàng có thể giải quyết cho vay căn cứ vào tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh trang của sản phẩm đó trên thị trường. Tài sản bảo đảm tiền vay chỉ là phương tiện cuối cùng, là nguồn trả nợ khi rủi ro xảy ra, do vậy ngân hàng cần linh hoạt áp dụng hình thức thế chấp, tín chấp, bão lãnh… sao cho phù hợp.
- Thực hiện chính sách khách hàng đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Đổi mới là phải tạo mọi điều kiện để phục vụ khách hàng nhanh hơn, chất lượng hơn, giúp khách hàng cạnh tranh lành mạnh, qua đó thu hút nhiều khách hàng có uy tín đến giao dịch, mở rộng thị phần tín dụng của ngân hàng. Ngân hàng phải thường xuyên phân loại khách hàng – doanh nghiệp theo tiêu chí nhất định để có chính sách ưu đãi nhất định đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những doanh nghiệp có uy tín, có quan hệ tín dụng thường xuyên, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì phải được hưởng ưu đãi như giảm lãi suất tiền vay, tăng lãi suất tiền gửi, giảm phí dịch vụ...
Ngoài những vấn đề cần quan tâm trên đây, về phía Nhà nước cũng cần có các giải pháp hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng, trước mắt là ở các khía cạnh chấp hành pháp lệnh kế toán thống kê đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thủ tục cấp phép, đăng ký kinh doanh…để nhằm lành mạnh hóa môi trường hoạt động cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Làm tốt công tác quảng cáo, Marketing
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ doanh nghiệp nào muốn làm ăn có hiệu quả đều phải chú trọng đến công tác quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình ra thị trường. Ngân hàng cũng là một doanh nghiệp cũng hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận vì vậy nó cũng phải chú trọng đến khâu marketing. Làm tốt công tác marketing sẽ giúp cho Ngân hàng quảng bá được hình ảnh của mình trên thị trường từ đó thu hút thêm khách hàng sử dụng dịch vụ của Ngân hàng, nâng cao lợi nhuân cho Ngân hàng.
3.3.2. Các giải pháp phát triển chất lượng tín dụng.
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng khi cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chất lượng và hiệu quả tín dụng phụ thuộc phần lớn vào trình độ cán bộ tín dụng của ngân hàng. Vì vậy, trình độ cán bộ tín dụng phải được chuẩn hoá, không ngừng nâng cao. Ngân hàng phải có nhiều chương trình đào tạo dưới nhiều hình thức: bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, tổ chức tập huấn, thi tình huống, đặc biệt là trình độ thẩm định dự án, phương án vay vốn, lựa chọn khách hàng, vận dụng các chế độ thể lệ tín dụng đã ban hành. Đội ngũ cán bộ thẩm định phải gồm những người am hiểu chuyên ngành, có kinh nghiệm tư vấn dự án, phương án sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mặt khác, ngân hàng phải có các chương trình phối, kết hợp chặt chẽ với các bên liên quan (ngoài ngân hàng) để thẩm định chính xác các dự án trước khi cho vay.
- Tăng cường kiểm tra, kiểm soát
Sau khi hoàn thiện xong một hợp đồng tín dụng và giải ngân, công tác tín dụng không chi dừng lại ở đó, quá trình giám sát chặt chẽ sự vận động của tiền vay là công việc mang tính quyết định đến chất lượng của khoản tín dụng.
Sau khi cho vay, theo định kỳ cán bộ Ngân hàng tiến hành giám sát, kiểm tra nhằm phân tích đánh giá tình hình quản lý và sử dụng vốn của doanh nghiệp. Trong quá trình giám sát, kiểm tra có thể phát hiện ra những sai lệch, những hạn chế của quá trình thẩm định hoặc phát hiện ra người vay sử dụng tiền dụng vay không đúng mục đích, có nguy cơ rủi ro cao, cán bộ tín dụng có thể đề nghị thu hồi nợ trước hạn. Quy trình kiểm tra sau cũng giúp cán bộ tín dụng nắm rõ những khó khăn mà doanh nghiệp đang gặp phải từ đó có thể tư vấn hoặc giới thiệu cho doanh nghiệp những đối tác, đồng thời cung cấp thêm tín dụng cho những nhu cầu mới phát sinh mà đảm bảo chất lượng tín dụng giúp cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra trôi chảy.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng có thể cung cấp thêm những dịch vụ tiện ích khác của Ngân hàng cho doanh nghiệp nếu doanh nghiệp có nhu cầu.
Thông qua quá trình kiểm tra, Ngân hàng có thể thâm nhập trực tiếp vào mọi hoạt động của doanh nghiệp như khả năng tiêu thụ hàng hóa, tình hình hàng tồn kho, thanh toán công nợ ...Từ đó Ngân hàng phải có những kiến nghị với doanh nghiệp về những vấn đề còn tồn tại. Đồng thời cán bộ tín dụng phải báo cáo kịp thời với phòng kinh doanh, với Giám đốc Ngân hàng để có những biện pháp xử lý tín dụng như tạm ngừng cho vay, tích cực thu nợ...
Trong quá trình kiểm tra, kiểm soát cán bộ tín dụng sẽ thu được những thông tin bổ ích để tiến hành phân tích tài chính của doanh nghiệp hiện tại đang thực sự diễn ra chứ không phải thông tin trong quá khứ.
- Nâng cao trình độ cán bộ Ngân hàng
Đối với Ngân hàng, với đặc điểm và vị trí của hoạt động tín dụng, muốn nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo vốn kinh doanh, vấn đề tiêu chuẩn hóa cán bộ, đào tạo và đào tạo lại cán bộ có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Thực tế cho thấy, một trong những vấn đề quyết định đến chất lượng tín dụng cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào vào các công việc, từ việc chấp hành các cơ chế chính sách đến việc thẩm định các dự án, xét duyệt hồ sơ, quyết định cho vay, kiểm tra sử dụng vốn thu nợ. Nói chung mọi đúng sai, thành bại của các dự án tín dụng ngoài nguyên nhân khách quan đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể cho vay. Đương nhiên, trong đó có yếu tố chủ quan cố ý về mục đích tư lợi nhưng cũng có những yếu tố do trình độ, do khả năng không thể làm được.
Trong điều kiện chúng ta đang hội nhập và phát triển, hơn lúc nào hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người vì sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước noi chung, và hiện đại hóa ngành Ngân hàng nói riêng mà trong đó mục tiêu Nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh được đặt lên hàng đầu.
Để có được một đội ngũ cán bộ Ngân hàng tiêu chuẩn, Ngân hàng cần phải thường xuyên hướng dẫn, tổ chức tập huấn về kiến thức chuyên môn, cơ chế của ngành, đường lối chủ trương của Đảng cũng như mục tiêu phát triển Kinh Tế của Nhà Nước, của Thành Phố. Trong quá trình đó phải gắn lý luận với thực tiễn, phải thường xuyên tổ chức các buổi tọa đàm đưa ra các tình huống cũng như các giải pháp để nâng cao kinh nghiệm, trình độ trong nghiệp vụ.
Bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tín dụng tại Ngân hàng là một việc lâu dài và liên tục không thể giải quyết một sớm, một chiều. Tuy nhiên, cần có những quy định và những bước đi cụ thể để đào tạo lại cán bộ.
- Xây dụng chính sách tín dụng hợp lý.
Một chính sách cho vay hợp lý rõ ràng sẽ mang lại cho Ngân hàng rất nhiều thuận lợi. Một số nội dung cho vay mà Ngân hàng cần xác định và xây dựng cho được là:
Một Bảng tiêu chuẩn chất lượng thích hợp áp dụng cho toàn bộ danh mục cho vay. Để xây dựng được Bảng này đòi hỏi sự xem xét cân nhắc kỹ lưỡng tình hình thị trường, nó phải được chỉnh sửa cho phù hợp với từng thời kỳ, với sự biến động của tình hình kinh doanh thực tế của Ngân hàng nói riêng và của toàn hệ thống nói chung.
Xây dựng được các bước cụ thể cần phải tiến hành để tìm kiếm, phân tích và phát triển các khoản cho vay có vấn đề cần hướng dẫn hỗ trợ cho cán bộ tín dụng nâng cao chất lượng khoản cho vay
Xây dựng được danh sách những khoản, những đối tượng xin vay mà Ngâh hàng nên từ chối hoặc nên chú trọng đầu tư ưu tiên. Muốn xây dựng được Ngân hàng phải nắm được xu thế vận động của nền Kinh tế, của các ngành, lĩnh vực cũng như chủ trương của Nhà nước trong việc phát triển những ngành đó và phải nắm được sự chuyển dịch cơ cấu trong nền sản xuất hàng hóa nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung. Ngân hàng cũng cần có những thông tin về khách hàng và sắp xếp vào danh sách này.
- Tăng cường vốn trung và dài hạn, mở rộng đầu tư tín dụng và những dự án đầu tư dài hạn.
Nguốn vốn đầu tư tín dụng là một mặt vô cùng quan trọng của hoạt động tín dụng. Không có vốn thì không thể đầu tư, Ngân hàng không có nguồn vốn đủ lớn, ổn định thì không thể đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng một cách thỏa đáng, không có đầu tư tín dụng thì không thể đặt ra vấn đề chất lượng tín dụng. Mọi giải pháp đưa ra nhằm nâng cao chất lượng tín dụng đều phải đặt dưới giả thiết là nguồn vốn cho đầu tư tín dụng được đáp ứng về quy mô và kỳ hạn.
Hiện nay quy mô nguồn vốn trung và dài hạn còn có quy mô nhỏ khiến cho Ngân hàng không thể tập trung đầu tư tín dụng trung và dài hạn trên quy mô lớn mà loại cho vay này trong giai đoạn tới lại có nhu cầu cao nhất là nhu cầu vốn trung và dài hạn bằng ngoại tệ.
Mặt khác, huy động được nguồn vốn lớn giúp cho Ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng, tìm kiếm những khoản đầu tư an toàn hơn (như cho vay đồng tài trợ). Các biện pháp huy động vốn phải được thực hiện linh hoạt đối với mỗi đối tượng, mỗi nguồn khác nhau từ dân cư, các tổ chức kinh tế, các tổ chức tín dụng, đó là một chính sách lãi suất mềm dẻo linh hoạt vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng, đó là tạo ra tính lỏng cao cho các loại tiền gửi, sẵn sàng đáp ứng nhanh nhất nhu cầu của khách hàng, tạo lòng tin cho khách hàng.Có những chính sách khuyến khích gửi tiền dài hạn về lãi suất về bảo đảm tiền vay.
- Đa dạng hóa các hình thức tín dụng và dịch vụ Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa, các hình thức tín dụng mới cũng được nảy sinh. Nó là hàng hóa của NHTM trên thị trường kinh doanh tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì nhu cầu về tín dụng càng trở nên đa dạng và phong phú.
Trong nền kinh tế như hiện nay cùng với thực trạng của hệ thống Ngân hàng, tín dụng của Ngân hàng mới chỉ chủ yếu là cho vay trực tiếp và các dịch vụ truyền thống. Rất nhiều các hình thức tín dụng và dịch vụ Ngân hàng hiện đại đã ra đời và khẳng định vị trí và hiệu quả của nó trong các hoạt động Ngân hàng cũng như những tiện ích của nó trong nền kinh tế.
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng để cùng hội nhập, một định hướng và tìm giải pháp thực hiện không thể thiếu đó là phát triển các hình thức tín dụng mới trên cơ sở tìm tòi, sáng tạo dựa trên những đặc điểm nhu cầu của quá trình tái sản xuất, tạo đòn bẩy thực sự, tạo đà phát triển cho nền kinh tế. Đa dạng hoá các hình thức cho vay không chỉ mở rộng quy mô tín dụng mà còn có tác dụng thu hút thêm nhiều khách hàng vay, tăng thêm lợi nhuận, phân tán và hạ thấp tỷ lệ rủi ro.
Trước mắt để khắc phục tình trạng thiếu vốn của doanh nghiệp, các Ngân hàng cần nghiên cứu để vận dụng phát triển nhiều hình thức tín dụng khác nhau như: thuê mua tài chính, thời hạn thuê thường sẽ giúp cho các doanh nghiệp cải thiện điều kiện sản xuất thực hiện quá trình cạnh tranh trên thị trường và vì thế nhu cầu khác về vốn tăng lên. Ngân hàng có điều kiện để mở rộng hoạt động của mình và tăng cường mối hiểu biết lẫn nhau giữa Ngân hàng và doanh nghiệp.
Tuy nhiên, để thực hiện hình thức tín dụng nói trên, đòi hỏi trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật quản lý của Ngân hàng phải được đổi mới, môi trường pháp lý phải đồng bộ và đầy đủ.
Ngoài ra, Ngân hàng còn phải mở rộng hình thức cầm cố, chiết khấu những chứng từ có giá giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh vòng quay vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, là cơ sở để nâng cao chất lượng tín dụng.
- Ứng dụng công nghệ thông tin.
Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, việc ứng dụng công nghệ thông tin là xu hướng tất yếu, nó giúp ngân hàng hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ, giúp thông tin đến với khách hàng dễ dàng hơn, thuận tiên và tiết kiệm được rất nhiều thời gian cho cả doanh nghiệp và ngân hàng.
3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ.
3.4.1. Kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước.
Nhận thức được vai trò to lớn của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường, các cơ quan quản lý Nhà nước đã có chủ trương chính sách nhằm khuyến khích hỗ trợ cho các doanh nghiệp này. Tuy nhiên để đẩy mạnh sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cần tích cực hơn trong việc tạo cơ sở cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời và phát triển, cho hệ thống ngân hàng mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngược lại các doanh nghiệp này có thể tiếp cận dễ dàng với các nguồn vốn ngân hàng. Sau đây là một số kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước:
3.4.1.1. Kiến nghị với Nhà nước .
Thứ nhất, cùng với quá trình cải cách kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Vì vây, trong thời gian tới, về phía Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý và hỗ trợ các doanh nghiệp này phát triển thông qua các giải pháp sau:
- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định hiện hành về tài chính nhằm tạo môi trường kinh doanh bình đẳng cả về nghĩa vụ và các ưu đãi của Nhà nước đối với các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Chính sách hỗ trợ xuất khẩu cần tập trung hỗ trợ đầu vào cho người sản xuất hàng xuất khẩu như hỗ trợ giá bán cây trồng, vật nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu cho nông dân, miễn giảm thuỷ lợi phí cho những vùng gặp khó khăn. Ưu đãi cho hàng xuất khẩu như cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn với lãi suất thấp đối với các dự án đầu tư, nâng cấp dây chuyền sản xuất để tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm tạo sức cạnh tranh cho hàng hoá trên thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời, thực hiện chính sách bảo hộ hợp lý hàng sản xuất trong nước phù hợp với thông lệ quốc tế.
- Trên cơ sở quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trên địa bàn tỉnh, thành phố, Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi dành quỹ đất giành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng sản xuất phù hợp, có chính sách khuyến khích xây dựng các khu, cụm công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mặt bằng xây dựng tập trung cơ sở sản xuất và được ưu đãi trong việc thuê đất, chuyển nhượng, thế chấp theo quy định của pháp luật.
- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ liên kết, hợp tác với các doanh nghiệp khác trong sản xuất nhằm thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thứ hai, thị trường tài chính trong nước còn nhỏ bé và non trẻ, tài trợ thông qua hệ thống ngân hàng vẫn là kênh đầu tư vốn chủ yếu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, Nhà nước cần hỗ trợ nhiều hơn nữa về mặt chính sách cho các ngân hàng và các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tiếp vốn thêm cho loại hình doanh nghiệp này, đó là:
- Nới rộng và cụ thể hoá các quy định về cho vay tín chấp đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ: cởi mở hơn theo hướng các NHTM được quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về quyết định cho vay tín chấp trên cơ sơ xem xét đánh giá thời gian quan hệ, uy tín trong giao dịch với ngân hàng và có chú trọng đến thương hiệu của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều nước trong đó có Việt Nam đã công nhận thương hiệu là tài sản vô hình có giá trị bằng tiền, chính vì vậy phát triển Luật cần có quy định rõ ràng, cụ thể về giá trị của thương hiệu nhằm hỗ trợ cho ngân hàng an tâm đầu tư vào các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao mức đóng góp của các doanh nghiệp này cho nền kinh tế đất nước.
- Thúc đẩy nhanh sự hình thành và hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm bổ sung cho mức độ tín chấp của Ngân hàng. Nguồn vốn của quỹ này do ngân sách Nhà nước cấp và được bổ sung từ vốn hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ của trong và ngoài nước.
- Với mức độ rủi ro tín dụng cao khi đầu tư cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhà nước cần có chính sách rõ ràng và cụ thể nhằm bảo vệ cho quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của ngành ngân hàng, hạn chế hình sự hoá các vụ việc tranh chấp dân sự giữa ngân hàng và khách hàng khi xảy ra rủi ro. Những rủi ro nếu xảy ra cứ nên xử lý theo hướng doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm vì chính doanh nghiệp mới biết rõ hành động của họ (trừ trường hợp do thiên tai gây ra).
Ngoài ra, Nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau:
- Khuyến khích thành lập các tổ chức dịch vụ tài chính hỗ trợ các DN thực hiện lành mạnh hóa tình hình tài chính tạo điều kiện cho họ phát triển, củng cố, đổi mới hệ thống tín dụng, phát triển các dịch vụ hỗ trợ thông tin tư vấn tài chính doanh nghiệp vừa và nhỏ,…
- Nhà nước tăng cường mở rộng các lớp đào tạo nâng cao kỹ năng quản lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các khoá tập huấn về quản trị kinh doanh cho giám đốc và cán bộ quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Tận dụng tối đa nguồn tài trợ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ của các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế. Xu hướng chung của các nhà tài trợ hiện nay là tăng cường cho Chính phủ vay để bổ sung vốn tín dụng cho hệ thống NHTM nhằm tăng khả năng cấp tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần mở rộng quyền liên doanh, liên kết của doanh nghiệp vừa và nhỏ với các loại hình doanh nghiệp khác, với các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước theo kiểu cùng bỏ vốn đầu tư và cùng chia lợi nhuận theo tỷ lệ đóng góp. Tận dụng tối đa sự giúp đỡ về vốn của các tổ chức tài chính – tín dụng quốc tế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn từ các tổ chức quốc tế.
Nếu tất cả các biện pháp trên được thực hiện tốt thì việc đầu tư vào lĩnh vực doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ được mở rộng và tạo được một động lực phát triển cho nền kinh tế, đúng với chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát huy sức mạnh của mọi thành phần kinh tế, chú ý đến các ngành nghề truyền thống có quy mô nhỏ dễ quản lý, dễ đầu tư thay đổi thiết bị tạo thế cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
3.4.1.2. Kiến nghị với NHNN
NHNN là cơ quan quản lý Nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng - tài chính - tiền tệ, trực tiếp phụ trách chỉ đạo hoạt động cho vay của các NHTM. Để mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, NHNN cần phải phát huy hơn nữa vai trò của mình.
Trước hết, NHNN cần phải ban hành một cơ chế riêng, một quy trình cho vay riêng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Mở rộng các điều kiện cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ như vấn đề về tài sản bảo đảm…
Cải cách hệ thống NHTM để các NHTM chủ động hơn nữa về hoạt động kinh doanh của mình. Từ đó, Ngân hàng có thể đưa ra những quy định về chính sách cho vay cũng như các biện pháp bảo đảm tiền vay cho phù hợp. Tạo điều kiện cho các NHTM thẩm định và định giá tài sản bảo đảm một cách khách quan và chính xác nhất.
Trung tâm thông tin phòng ngừa rủi ro (CIC) của NHNN đã đi vào hoạt động được nhiều năm nhưng chưa thật sự hiệu quả, thông tin thu thập chưa nhanh nhạy, phong phú và chính xác. Do vậy các ngân hàng chưa khai thác được nhiều thông tin qua kênh trên. Để có thể phát huy được vai trò thông tin tín dụng, đề nghị Trung tâm CIC khai thác nhiều thông tin về các doanh nghiệp và thường xuyên cảnh báo đối với những khách hàng có vấn đề để ngân hàng được biết.
Tăng cường vai trò thanh tra giám sát của NHNN, hoàn thiện và đổi mới công tác thanh tra cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm chuyển biến về chất trong hoạt động thanh tra. Để từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của NHTM, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro. Thông qua đó còn để nêu ra những kiến nghị và giải pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động của Ngân hàng.
Ngoài ra, NHNN cần thực hiện một số biện pháp hỗ trợ các NHTM về tài cấp vốn (tái chiết khấu), lãi suất, xử lý các khoản nợ xấu… Củng cố hệ thống tài chính bằng cách áp dụng những nguyên tắc kế toán và kiểm toán được quốc tế công nhận, thiết lập một hệ thống đăng ký toàn quốc về cầm cố, thế chấp và các phương thức giao dịch bảo đảm… nhằm nâng cao chất lượng cho vay đối với doanh nghiệp và giảm tỷ lệ nợ khó đòi trong các ngân hàng.
3.4.1.3. Kiến nghị với các Bộ, ngành có liên quan.
Để thúc đẩy các phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời gian tới, Bộ Kế hoạch và đầu tư cần khẩn trương tích cực hoàn thành xây dựng và triển khai thực hiện chương trình trợ giúp thông tin; hình thành cơ chế phối hợp đầu mối ở các Bộ, ngành và địa phương đảm bảo nguồn cung cấp thông tin trợ giúp doanh nghiệp; Chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đặc biệt là trong lĩnh vực sản xuất; xây dựng kế hoạch và biện pháp củng cố và nâng cao năng lực quản lý cho hệ thống xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn cả nước, nhất là cần quan tâm đối với các địa phương ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; Bộ Tài chính chủ trì và phối hợp với các Bộ, ngành nghiên cứu đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách tài chính doanh nghiệp, bảo đảm bình đẳng, ổn định, thông thoáng và minh bạch nhằm tạo điều kiện giải phóng, phát triển sức sản xuất của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế…
Ngoài ra, Cơ quan cấp giấy phép thành lập cần kiểm tra kỹ hồ sơ xin phép thành lập, thẩm định nắm chắc nhân thân, tình hình thực tế của người xin thành lập. Đặc biệt là cấp giấy phép thành lập rồi thì còn phải kiểm tra, giám sát hoạt động kinh doanh theo giấy phép, theo chức năng ngành nghề. Các cơ quan chức năng cần có biện pháp yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện đúng Pháp lệnh Kế toán thống kê, thực hiện ghi chép sổ sách kế toán đầy đủ, khoa học, tiến hành hạch toán rõ ràng và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định pháp luật khác về thuế, quản lý thị trường…
3.4.2 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Để thực hiện tốt việc mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ đòi hỏi sự nỗ lực của các cơ quan chức năng, ngành ngân hàng, NHTM cổ phần Quân đội và các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, rất cần đến sự hợp tác và cố gắng từ bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cụ thể như sau:
- Để tháo gỡ rào cản về bảo đảm tiền vay hiện nay, doanh nghiệp vừa và nhỏ từng bước tạo dựng uy tín đối với ngân hàng bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn. Để làm tốt việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải đổi mới từ nhận thức đến những việc làm cụ thể như: nâng cao năng lực quản trị và điều hành doanh nghiệp; thực hiện nghiêm chế độ hạch toán kế toán, báo cáo tài chính công khai, minh bạch; kinh doanh theo đúng pháp luật. Phải khẳng định tạo dựng uy tín trong quan hệ tín dụng với các ngân hàng là việc phải làm, nó không chỉ giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận vốn mà còn tạo điều kiện để doanh nghiệp tồn tại và phát triển bền vững.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có lộ trình bổ sung vốn chủ sở hữu bằng nhiều hình thức. Chủ động trong việc xây dựng dự án đầu tư phù hợp với năng lực về vốn, công nghệ và con người. Xây dựng chiến lược kinh doanh hợp lý trong điều kiện hội nhập. Chủ động tiếp cận và tìm hiều các dịch vụ ngân hàng nói chung và các doanh nghiệp tín dụng nói riêng, tận dụng cơ hội tranh thủ sự giúp đỡ của các Bộ, ngành nhằm nâng cao năng lực sử dụng vốn, chú trong phương án lựa chọn công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm. Cần đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường và Marketing.
- Đào tạo nguồn nhân lực. Thực tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường xem nhẹ yếu tố con người trong kinh doanh. Người lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chưa được đào tạo bài bản theo những kiến thức và kỹ năng mà thị trường yêu cầu. Do đó, bên cạnh việc Chính phủ có các chương trình đào tạo, cập nhật thông tin cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải chủ động đào tạo đội ngũ nhân viên, coi đầu tư vào nguồn nhân lực là một khoản đầu tư không thể thiếu trong kinh doanh. Trong đó, các chủ doanh nghiệp phải là người đi đầu để nâng cao năng lực quản lý và điều hành đặc biệt là khả năng lập kế hoặch kinh doanh theo chuẩn mực; lập các phương án, dự án sản xuất kinh doanh có hiệu qủa…. Đây là một trong những giải pháp quan trọng để doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể tiếp cận được vốn ngân hàng bởi từ đó các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể lập được những báo cáo nghiên cứu khả thi hoàn chỉnh để thuyết phục ngân hàng cho vay vốn.
KẾT LUẬN
Trong thời gian thực tập, dựa trên cơ sở lý luận thực tiễn và các kiến thức đã tiếp thu được em đã hoàn thành chuyên đề với đề tài : “Phát triển tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại NHTM cổ phần Quân đội chi nhánh Hoàn Kiếm”.
Những nội dung được trinh bày mới chỉ là một khía cạnh, chưa thể hiện được hết toàn bộ hoạt động tín dụng của NHTM đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như các phướng hướng để thực hiện được mục tiêu phát triển tín dụng. Với thời gian thực tập có hạn, cũng như với kiến thức còn nhiều hạn chế, bài viết sẽ còn rất nhiều thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự chỉ dẫn của thầy, cô giáo cũng như các cô chú, anh chị trong ngân hàng để bài viết được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Số liệu về hoạt động của NHTM cổ phần Quân đội trong những năm qua
Giáo trình kinh tế phát triển ĐHKTQD
Giáo trình Ngân hàng thương mại ĐHKTQD
Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - ĐHKTQD
Giáo trình tín dụng ngân hàng – Học Viện Ngân Hàng
Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh của NHTM cổ phần Quân đội các năm 2005 - 2007.
Quy trình thẩm định dự án trung và dài hạn của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam
Quyết định 1267 về quy chế cho vay của thống đốc Ngân hàng Nhà Nước.
Luật Ngân hàng Nhà Nước và Luật các tổ chức tín dụng Việt Nam
Luật Doanh Nghiệp Nhà Nước Việt Nam
Thúc đẩy phát triển Danh nghiệp vừa và nhỏ- Tạp chí kinh tế và dự báo
Các thông tin tài liệu tham khảo về tín dụng ngân hàng
Thông tin trên mạng INTERNET
Và các nguồn tin khác về nghiệp vụ cho vay của ngân hàng
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
DNV&N : Doanh nghiệp vừa và nhỏ.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
NHNN : Ngân hàng Nhà nước.
DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước.
Môc lôc
Trang
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng tổng vốn huy động 46
Bảng 2.1: Sự tăng trưởng vốn huy động qua các năm 46
Bảng 2.2 : Sự tăng trưởng hoạt động cho vay 47
Biểu đồ 2.2 : Lợi nhuận trước thuế 50
Bảng 2.3. Doanh số cho vay theo loại hình doanh nghiệp giai đoạn 2005-2007 51
Bảng 2.4. Doanh số cho vay DNV&N theo thời hạn 2005-2007 53
Bảng 2.5 : Tổng dư nợ của NHTM cổ phần Quân Đội năm 2005-2007 54
Bảng 2.6. Dư nợ cho vay DNV&N theo thời gian giai đoạn 2005-2007 55
Bảng 2.7. Dư nợ cho vay DNV&N theo đối tượng DN 2005-2007 57
Bảng 2.8. Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn giai đoạn 2005 - 2007 58
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33161.doc