Phát triển hoạt động phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam

A.Mở đầu: Nền kinh tế Việt Nam từ sau khi mở cửa đã có những bước phát triển không ngừng. Các hoạt động sản xuất kinh doanh liên tục được đẩy mạnh và khuyến khích trên nhiều lĩnh vực. Một trong những lĩnh vực mặc dù đã xuất hiện từ lâu và có vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế, nhưng vẫn chưa được chú ý phát triển đúng mức đó là lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi hàng hoá sản xuất ra ngày càng nhiều, nhu cầu của người tiêu dùng

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1338 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng cao thì hoạt động phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp bán lẻ càng là một hoạt động không thể thiếu trong đời sống thường nhật của người dân. Và tuy cũng đã có được một số những bước phát triển nhất định, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng đang gặp phải rất nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng, phát triển và những thách thức mà họ sẽ phải đối mặt sau khi Việt Nam gia nhập WTO là không nhỏ. Để có thể hoạt động tốt trong nền kinh tế đầy biến động như vậy thì việc phát triển hoạt động phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam là một việc làm cần thiết không chỉ trong hiện tại mà còn trong tương lai. Dựa trên cơ sở đó, nội dung của đề tài sẽ phân tích thực trạng nhằm đưa ra những kiến nghị, giải pháp giúp phát triển hoạt động phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam hiện nay. B. Nội dung I . Tổng quan về hình thức bán lẻ và hoạt động phân phối của các doanh nghiệp bán lẻ. 1.Hình thức bán lẻ 1.1.Khái niệm: Bán lẻ là hoạt động nhằm bán hàng hoá hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử dụng cho cá nhân không nhằm mục đích thương mại. Bất kỳ một tổ chức nào làm công việc này cũng là một tổ chức bán lẻ, bất kể hàng hoá hay dịch vụ đó được bán như thế nào (bán trực tiếp, qua bưu điện, qua điện thoại hay qua máy bán hàng tự động) và ở đâu (trong cửa hàng, trên đường phố hay tại nhà người tiêu dùng). Từ xa xưa, ngay từ khi sản phẩm trở thành hàng hoá thì hình thức bán lẻ đã ra đời và có thể coi đây là hình thức phổ biến nhất, cơ bản nhất của hoạt động mua bán. Lúc ban đầu đó chỉ là hoạt động mua bán, trao đổi trực tiếp giữa những người sản xuất ra sản phẩm: họ đem sản phẩm của mình để đổi lấy sản phẩm của người khác nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng. Sau đó khi lượng hàng hoá sản xuất ra ngày càng lớn, hoạt động buôn bán được thúc đẩy phát triển, tại các chợ, các trung tâm buôn bán, các gian hàng bán lẻ đã mọc lên, cung cấp nhiều mặt hàng hơn, với số lượng lớn hơn, có thể đáp lượng nhu tiêu dùng rất lớn của khách hàng. Và ngày nay hình thức này đã trở thành một hoạt động không thể thiếu không chỉ trong cuộc sống thường nhật của người dân mà còn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2.Các loại hình bán lẻ. Trên thế giới có hàng triệu các điểm bán lẻ với quy mô và hình thức khác nhau. Đồng thời cũng luôn luôn xuất hiện những hình thức bán lẻ mới, kết hợp với những đặc điểm nhất định của các hình thức cũ. Và vì , những hình thức, mức độ dịch vụ này vẫn có thể đáp ứng những nhu cầu , mong đợi của khác hàng trên những khía cạnh khác nhau nên các hình thức doanh nghiệp bán lẻ như vậy vẫn có thể đồng thời tổn tại và phát triển. Ta có thể phân loại hình thức các doanh nghệp bán lẻ: 1.2.1.Dựa trên các mức phục vụ: Những cửa hàng bán lẻ tự phục vụ đã phát triển rất nhanh trên toàn thế giới, đặc biệt tại các nước có nền kinh tế phát triển. Ngày nay người tiêu dùng thuộc tất cả các tầng lớp xã hội đều sử dụng dịch vụ của của hàng bán lẻ tự phục vụ, nhất là khi mua sắm những thứ hàng tiêu dùng thường ngày và một số mặt hàng đã lựa chọn trước. Tự phục vụ là cơ sở của mọi hình thức buôn bán có chiết khấu. Để tiết kiệm người tiêu dùng sãn sàng tự tìn, so sánh và lựa chọn hàng hoá Những cửa hàng bán lẻ tự do lựa chọn hàng hoá có người bán giúp đỡ khi khách hàng yêu cầu. Khách hàng sau khi mua hàng xong sẽ đến chỗ người bán hàng để trả tiền tiền hàng. Những chi phí chung của cửa hàng tự do lựa chọn hàng hoá hơi cao hơn so với các cửa hàng tự phục vụ, vì cần có thêm một số nhân viên. Những cửa hàng bán lẻ phục vụ hạn chế tương tự như những cửa hàng thường gặp trong các mạng lưới kiểu “Sirs”, ở đây người mua nhận được mức độ giúp đỡ cao hơn từ phía nhân viên bán hàng, bởi vì ở những cửa hàng này có nhiều hàng hoá cần lựa chọn và người mua cần có nhiều thông tin hơn. Ngoài ra, ở các cửa hàng này người tiêu dùng còn được hưởng những dịch vụ như bán trả góp và nhận trả lại hàng đã mua, mà thường không có ở các cửa hàng có mức độ phục vụ hạn chế nhiều hơn. Vì thế những chi phí khai thác của cửa hàng này cao hơn. Những cửa hàng bán lẻ phục vụ đầy đủ như những cửa hàng bách hoá tổng hợp sang trọng, có nhân viên bán hàng sẵn sàng giúp đỡ trực tiếp người mua trong tất cả các giai đoạn của quá trình tìm kiếm, so sánh và lựa chọn hàng hoá. Những người tiêu dùng muốn được phục vụ đều ưa thích những cửa hàng như vậy. Những phí tổn to lớn để duy trì nhân viên phục vụ, những mặt hàng phục vụ nhu cầu đặc biệt và những hàng tiêu thụ chậm (đồ nũ trang, đồ điện tử…) chiếm tỷ lệ cao hơn tang danh mục hàng hoá, quan điểm thoải mái đối với việc trả lại hàng mua, việc sử dụng các hình thức bán chịu khác nhau, việc đảm bảo đưa hàng đến tận nhà miễn phí, việc phục vụ kỹư thuật đối với những mặt hàng lâu bền tại nhà và dành cho người tiêu dùng những tiện nghi như phòng ngồi nghỉ và nhà hàng đã làm cho chi phí chung của loại cửa hàng này rất cao. Cho nên không lấy gì làm lạ là trong suốt vài chục năm gần đây số cửa hàng bán lẻ phục vụ đầy đủ không ngừng giảm đi. 1.2.2.Dựa trên chủng loại hàng hoá được bán: Theo nghĩa rộng hơn ta có thể nói về chiều rộng và mức độ phong phú của chủng loại hàng hoá và dựa vào những đặc điểm đó để phân ra những kiểu hàng hoá chủ yếu. Quan trọng nhất là của hàng chuyên doanh, cửa hàng bách hoá tổng hợp, siêu thị, củă hàng bán hàng tiêu dùng thường ngày và những siêu thị lớn. Các cửa hàng chuyên doanh: Cửa hàng chuyên doanh bán một số chủng loại hàng hoá, nhưng rất phong phú. Ví dụ như các cưa hàng quần áo, dụng cụ thể thao đồ gỗ, hoa, sách… Còn có thể phân nhỏ thêm các cửa hàng chuyên doanh tuỳ theo mức độ chuyên hẹp của cửa hàng. Ví dụ các cửa hàng quần áo là cửa hàng chuyên doanh đầu đủ chủng loại, cửa hàng quần áo nam là cửa hàng chủng loại hạn chế, còn cửa hàng may đo áo sơ mi nam là cửa hàng chuyên hẹp. Theo ý kiến của các chuyên gia trong tương lai sẽ phát triển nhanh nhất những cửa hàng chuyên doanh hẹp sử dụng những ưu việt của việc phân chia thị trường, lựa chọn phần thị trường mực tiêu và chuyên môn hoá hàng hoá. Đã có những cửa hàng chỉ bán giầy thể thao, chỉ bán quần áo cho những người đàn ông cao quá cỡ, hay chỉ bán máy tính. Những cửa hàng chuyên doanh cũng có thể rơi và tình trạng bất lợi nếu hàng hoá thuộc chủng loại của họ không còn thịnh hành nữa. Các cửa hàng bách hoá tổng hợp. Cửa hàng này bán một số nhóm chủng loại hàng- thông thường là quần áo, đồ gia dụng, đồ làm bếp. Mỗi nhóm chủng loại do một bộ phận của cửa hàng chuyên trách. Đứng đầu các bộ phận này là người thu mua hay người bán. Hiện nay tỷ lệ cửa hàng bách hoá tổng hợp trong khu vực bán lẻ đã giả xuống và khả năng sinh lời cũng giảm.Tuy nhiên các cửa hàng bách hoá tổng hợp vẫn đang đấu tranh để trở lại thương trường. Trong số đó nhiều cửa hàng đã mở các chi nhánh của mình ở tại các chung tâm thương mại của các vùng ven đô với dân số ngày càng tăng, thu thập ngày càng cao và có điều kiện đỗ xe tốt hơn. Các siêu thị. Siêu thị là cửa hàng tự phục vụ tương đối lớn có mức chi phí thấp, tỷ suất lợi nhuận không cao và khối lượng hàng bán ra lớn. Siêu thị có thể là mộpt chủ thể hoặc phần lớn nằm trong thành phần của các mạng lưới. Việc sử dụng những tiến bộ khoa học trong việc vận chuyển, bảo quản sản phẩm, cũng như tăng diện diện tích, khối lượng sản phẩm đã giúp các siêu thụ tăng được khối lượng tiêu dùng. Ngoài ra các siêu thị còn cải thiện khả năng của mình bằng cách lựa chọn những địa điểm bề thế hơn, xây dung những bãi đỗ xe rộng hơn, kiến trúc và trang trí nội thất đẹp hơn, kéo dài hơn, kéo dài thời gian mở cửa và mở cửa cả ngày nghỉ , lễ tết, cũng như bằng cách bố trí thêm các chủng loại dịch vụ cho người mua, như bố trí phòng nghỉ. Phát các chương trình âm nhạc. Cuộc cạnh tranh giữa các siêu thị ngày càng trở lên gay gắt trong lĩnh vực tuyên truyền bằng cách quảng cáo, các chương trình khuyến mãi, bốc thăm trúng thưởng. Để bớt phụ thuộc và nhãn hiệu toàn quốc và tăng phần lợi nhuận của mình các siêu thị đã chuyển sang bán hàng chủ yếu mang nhẫn hiệu riêng. Cửa hàng phục vụ nhu cầu hàng ngày. Cửa hàng thực phẩm phục vụ nhu cầu hàng ngày thường có quy mô tương đối nhỏ và nằm ở gần các khu dân cư, mở cửa tất cả các ngày trong tuần và đến khuya, bán một số chủng loại hàng thông dụng thường ngày với tốc độ quay vòng cao. Các cửa hàng này làm việc kéo dài và chủ yếu phục vụ người tiêu dùng trong những trường hợp “chữa cháy” nên thường bán hàng với giá tương đối cao hơn. Nhưng chúng đáp ứng được một trong những nhu cầu tiêu dùng quan trọng và người ta sẵn sàng trả giá cho những sự thuận tiện đã tạo ra cho họ. Siêu thị liên hợp, siêu thị bách hoá và các tổ chức thương mại. ở thái cực khác của các cửa hàng thương mại bán lẻ có ba kiểu cửa hàng vượt hơn hẳn các siêu thị thông thường về quy mô. Siêu thị liên hợp- là một loại siêu thị với chủng loại hàng được mở rộng, nhờ vậy dễ tiếp cận hơn và tạo thuận tiện cho người tiêu dùng. Mỗi tổ chức mày đều có thể hoạt động như một doanh nghiệp thương mại độc lập. Về quy mô diện tích siêu thị bách hoá lớn hơn siêu thị thông thường và cố gáng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu của người tiêu dùng vè thực phẩm cũng như hàng hoá không phải thực phẩm thường dùng. ở các siêu thị bách hoá chính vì chủng loại mặt hàng rộng nên giá cả thường cao hơn 5%- 6% so với giá siêu thị thông thường. Nhiều mạng lưới công ty bán lẻ chủ chốt đã bắt đầu chấp nhận quan niệm về siêu thị bách hoá. Tổ hợp thương mại vượt cả những siêu thị bách hoá về quy mô và có diện tích lớn hơn nhiều. Tổ hợp thương mại (không phổ biến ở Mỹ nhưng rất phổ biến ở châu Âu ) bao gồm siêu thị, cửa hàng hạ giá và kho- cửa hàng bán lẻ. Chủng loại mặt hàng của nó vượt ra khỏi phạm vi những hàng hoá thông thường, bao gồm cả đồ gỗ, đồ điện gia dụng lớn nhỏ, quần áo và rất nhiều mặt hàng khác. So với mức giá thông thường của siêu thị bách hoá, các tổ thương mại áp dụng có giá chiết khấu. Nhiều cửa hàng chuyển đến tổ hợp thương mại dưới dạng như chuyển đến kho, trực tiếp từ các nhà sản xuất, được đựng tang các bao, bịch và được xếp lên các kệ sắt năm tầng thành đống. Nguyên tắc cơ bản là xếp hàng thành đống để giảm mức tối thiểu sức lực của nhân viên. Người mua đồng ý tự lấy những hàng gia dụng nặng như bàn ghế, từ cửa hàng sẽ được hưởng chiết khấu Các cửa hàng dịch vụ bán lẻ. Doanh nghiệp dịch vụ bán lẻ là những doanh nghiệp mà chủng loại hàng hoá không phải là sản phẩm mà là dịch vụ như: các khách sạn, ngân hàng, công ty hàng không, các trường cao đẳng, bệnh viện, rạp chiếu phim. 1.2.3. Dựa trên sự quan tâm tương đối về giá cả: Có thể phân loại các cửa hàng bán lẻ trên cơ sở hình ảnh giá cả của chúng. Phần lớn các của hàng bán hàng theo giá trung bình và mức dịch vụ bình thường cho người tiêu dùng. Một số cửa hàng bán hàng hoá và dịch chất lượng cao và theo giá cao hơn. Trái lại các cửa hàng hạ giá bán hàng hoá của mình theo giá thấp hơn bình thường nhờ tổ chức kinh doanh với chi phí tối thiểu và đảm bảo ít dịch vụ hơn và chất lượng kém hơn. Cửa hàng hạ giá. Cửa hàng hạ giá bán những hànghoá tiêu chuẩn theo giá thấp hơn bằng cách giảm định mức lợi nhuận và tăng khối lượng tiêu thụ. Việc thỉnh thoảng sử dụng giá có chiết khấu hay tổ chức bán phá giá không làm cho doanh nghiệp thương mại trở thành cửa hàng hạ giá. Việc bán hàng kém phẩm chất theo giá thấp hơn cũng vậy. Cử hàng hạ giá thực sự có năm đặc điểm sau: 1. Nó luôn luôn bán hàng theo giá thấp hơn giá htịnh hành ở các cửa hàng có phụ giá cao và tốc độ quay vòng hàng dự trữ chậm; 2. nó coi trọng hàng hoá có nhãn hiệu phổ biến trong toàn quốc nên giá thấp hoàn toàn không phải là do chất lượng hàng hoá kém; 3. nó hoạt động thoe phương pháp tự phục vụ với những tiện nghi tối thiểu; 4. nó thường nằm xa khu vực có mức tiền thuê nhà thấp và thu hút người mua từ những nơi tương đối xa; 5. ở đó chỉ lắp đặt thiết bị thương mại đơn giản. Các kho- cửa hàng: Kho- cửa hàng là một doanh nghiệp thương mại hạ giá với khối lượng dịch vụ hạn chế và bỏ mọi sự rườm rà với mục đích là bán được một khối lượng lớn hàng theo giá hạ .Người tiêu dùng lựa chọn và đặt hàng cho người bán.Khi người mua thanh toán xong tiền sẽ đI ra khỏi gian kho và đi sang bộ phận giao hàng thì hàng mà họ mua đã được sẵn sàng. Những thứ nặng có thể được giao đến nhà trong vài ngày, hay được bốc đến ngay lập tức lên phương tiện vận chuyển của khách hàng.Doanh nghiệp làm những việc này nhằm phục vụ những người mua đồ phẩm cấp trung bình, quan tâm đến giá cả và khả năng nhận được hàng ngay. Người mua rất thích có thể lựa chọn nhãn hiệu thoải mái, giá hạ nhưng mặt khác họ thường than phiền về sự hạn chế dịch vụ cho người mua. Đối với các cửa hàng này rất khó xuét đoán về mức sinh lời, bởi vì nó phảI gánh những chi phí rất cao cho việc duy trì lượng hàng dự trữ và chi phí nhiều cho việc kích thích tiêu thụ để thu hútt đủ số khách hàng, và thường có quá nhiều đối thủ cạnh tranh trên cùng một thị trường. Cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm bán theo catalô .Cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán theo catalô kết hợp với các nguyên tắc bán hàng theo catalô và những nguyên tắc bán hành hạ giá để tiêu thụ nhiều chủng loại hàng có nhãn hiệu bán chạy thường là với phụ giá cao. Trong catalô có ghi giá quy định chính thức của từng mặt hàng và giá có chiết khấu của nó. Khách hàng có thể đặt qua điện thoại và thanh toán tiền mang đến nhà, hay đến gian trưng bày, trực tiếp xem sản phẩm và mua những thứ có sẵn. Các cửa hàng giới thiệu sản phẩm bán hàng theo catalô kiếm được tiền nhờ bán những sản phẩm có nhãn hiệu phổ biến toàn quốc, không thuộc loại thời thượng, nhờ thuê mặt bằng ở những khu giá thấp, nhờ giảm được một phần ba số nhân viên bán hàng, nhờ giảm đến mức độ tối thiểu khả năng mất cắp vặt những mặt hàng bày trên quầy, cũng như nhờ bán bành chủ yếu bằng tiền mặt. 2.Hoạt động phân phối. 2.1 Khái niệm: Hoạt động phân phối hàng hoá là hoạt động nhằm chuyển giao cho ai đó quyền sở hữu đối với một hàng hoá cụ thể hay dịch vụ trên con đường từ nhà sản xuất tới người tiêu dùng. Bản chất của hoạt động phân phối hàng hoá là hoạt động lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra quá trình vận chuyển sản phẩm từ chỗ sản xuất tới người tiêu dùng nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu của người tiêu dùng và thu lợi cho mình. Nhiều công ty đã xác định mục đích của hoạt động phân phối hàng hoá là đảm bảo cung ứng hàng cần thiết, đúng địa điểm cần thiết, đúng hạn cần thiết với chi phí ít nhất, Tuy nhiên không có một hệ thống nào có thể đồng thời đảm bảo phục vụ tối đa khách hàng và giảm đến mức tối thiểu các chi phí phân phối hàng hoá. Vì vậy việc tổ chức phân phối, lưu thông hàng hoá gắn hoà với việc dung hoà nhiều yếu tố mâu thuẫn nhau nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng và mục tiêu của công ty. 2.2.Vai trò, chức năng nhiệm vụ của hoạt động phân phối hàng hoá. 2.2.1 Đối với doanh nghiệp nói chung: Phân phối hàng hoá giữ một vai trò vô cùng quan trọng: nhờ có hoạt động này mà hàng hoá tới được tay khách hàng. Nó giải quyết đầu ra cho hoạt động sản xuất kinh doanh, vì vậy nếu không được thực hiện tốt thì hàng hoá sẽ bị ứ đọng, sản phẩm làm ra không tiêu thụ được, và khi đó các nguồn lực sử dụng để sản xuất ra sản phẩm đã bị sử dụng lãng phí, hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiếp tục. Hoạt động phân phối hàng hoá còn là kênh liên lạc giữa người tiêu dùng và nhà sản xuất. Nó không chỉ cung cấp sản phẩm cho khách hàng mà nó còn nhằm tìm ra, khơi dậy những nhu cầu còn tiềm ẩn, từ đó doanh nghiệp có thể đáp ứng tôt nhất sự mong đợi của họ. Tính kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào khâu phân phối hàng hoá. Phân phối hàng hoá tốt không chỉ giúp giảm chi phí, mà còn mang lại nhiều doanh thu hơn cho doanh nghiệp, từ đó nâng cao lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được. 2.2.2 Đối với các doanh nghiệp bán lẻ Ngoài vai trò quan trọng như đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nói chung thì đối với doanh nghiệp bán lẻ, đây là hoạt động chủ đạo chiếm hầu hết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì nhiệm vụ chính của các doanh nghiệp này là phân phối hành hoá tới tay người tiêu dùng. Do đó, nếu không làm tốt khâu này thì coi như doanh nghiệp bán lẻ đã thất bại trong hoạt động kinh doanh của mình. II. Hoạt động phân phối của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. 1.Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. 1.1. Sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ tại Việt Nam. Cũng như hoạt động bán lẻ trên thế giới, ngay từ khi sản phẩm trở thành hàng hoá và hoạt động trao đổi phát triển mạnh thì hoạt đông bán lẻ đã xuất hiện tại Việt Nam.Và dần dần nó đã trở thành hoạt động không thể thiếu trong đời sống hàng ngày của người dân Việt. Dưới thời phong kiến, hàng hoá đã được đem bán tại các chợ và khu buôn bán lớn, đặc biệt tại các thành thị. Đã có sự giao thương không chỉ giữa những thương nhân trong nước mà còn với nước ngoài, nhằm buôn bán, trao đổi, và cung cấp nhiều hàng hoá tiêu dùng hơn. Tại các thành thị lớn như kinh thành Thăng Long (thủ đô Hà Nội ngày nay) đã xuất hiện những dãy phố tập trung những thương nhân, các cửa hàng chuyên bán những mặt hàng nhất định tạo nên 36 phố phường phát triển nhộn nhịp. Mỗi con phố là một loạt các cửa hàng bán cùng một chủng loại hàng hoá, tạo lên một thị trường riêng rộng lớn bán sản phẩm đó Và có sự liên kết giữa các của hàng với nhau tạo thành những phường hội. Các phường hội này đã tạo nên nét khác biệt khá đặc sắc trong hoạt động phân phối hàng hoá cho người tiêu dùng . Sau hai cuộc kháng chiến trường kỳ, nước ta bước vào giai đoạn phát triển nền kinh tế dưới hình thức kế hoach hoá tập trung. Hoạt động bán lẻ chủ yếu được thực hiện dưới hệ thống quản lý của nhà nước, không có sự tham gia của các doanh nghiệp tư nhân. Đó là chế độ mà sản phẩm được phân phối qua các cửa hàng mậu dịch, theo chế độ tem phiếu. Sản phẩm làm ra, được phân chia đều theo định mức làm việc của mọi người trong cả nước. Chúng được phân phối vào những thời gian nhất định, tại các nơi quy định và với những mặt hàng không cần biết có phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng hay không. Có thể nói, chất lượng, chủng loại và thời gian cũng như địa điểm, đều không nhằm vào nhu cầu của người tiêu dùng, mà dựa trên kế hoạch cũng như tình hình sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước; hoạt động phân phối cũng vậy. Kể từ năm 1986 Việt Nam chính thức khời xướng công cuộc đổi mới nền kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Những cải cách liên tục đã tạo môi trường thuận lợi và đầy đủ hơn cho các hoạt động king doanh phát triển. Trong lĩnh vực bán lẻ hàng tiêu dùng, ngày càng có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động. Loại hình cửa hàng, cửa hiệu bán lẻ ở Việt Nam cũng mới phát triển, nhưng với một tốc độ khá nhanh. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam, các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn chiếm số lớn, họ hoạt động dưới hình thức các cửa hàng phân phối bán lẻ. Tại các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh…cũng đã xuất hiện những công ty, tập đoàn bán lẻ có quy mô như chuỗi siêu thị Fivimart, chuỗi siêu thị Intimex, Hapro Mart… Mặt khác khi đời sống người dân ngày càng được cải thiện, nhu cầu càng được nâng cao thì thị trường của các nhà bán lẻ cũng được mở rộng hơn theo cả chiều rộng và chiều sâu. Theo nhận định, đây là một ngành có tiềm năng rất lớn, vì vậy ngày càng thu hút các doanh nghiệp tham gia hoạt động trong lĩnh vực này. Theo Ông Lưu Tiền Long- Giám đố Sở Công Thương Hà Nội cho biết, chỉ riêng Hà Nội có mạng lưới phân phối gồm: 20 chợ Loại I, 49n chợ loại II, 286 chợ loại III, 74 siêu thị, 13 trung tâm thương mại, trong đó có 5 trung tâm thương mại đạt tiêu chuẩn từ hạng I đến hạng II. Nhoài ra còn có hơn 200 cửa hàng tự chọn, tiện ích, tang đó riêng Tổng công ty Thương mại Hà Nội có 120 cửa hàng Hapro Mart, Hapro food; một số công ty có chuỗi siêu thị như Công ty cổ phần Nhất Nam (chuỗi siêu thị Fivi Mart) , TTTM Intimex (chuỗi siêu thị Intimex); và một số tạp đoàn phân phối nước ngoài như Metro, BigC, Parkson… đang tham gia vào mạng lưới phân phối cho thị trường Hà Nội. Không chỉ tại Hà Nội mà tại các cả các địa phương đều là thị trường đang nhắm tới của các doanh nghiệp phân phối bán lẻ lớn, Hapro đã thành lập được 5 đại siêu thị tại tháI Nguyên, Bắc Kạn, Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá. Và hiện tại trong hoạt động phân phối của doanh nghiệp bán lẻ còn tồn tại cả phương thức truyền thống và hiện đại. Theo ước tính, kênh phân phối hiện đại của Việt Nam ( thông qua hệ thống siêu thị, các cửa hàng tiện ích) mới chỉ chiếm 16%, còn lại kênh phân phối truyền thống như chợ, các tiệm tạp hoá, các cửa hàng bán sỉ, bán lẻ… chiếm khoảng 84%. Trong cả nước đã có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại và khoảng 1.000 cửa hàng tiện lợi hoạt động trên 30/64 tỉnh. Theo các chuyên gia kinh tế, năn 2006, doanh số bán lẻ tại Việt Nam đạt mức 36 tỷ USD và đến năm 2010 con số này dự kiến sẽ vượt mức 50 tỷ USD. 1.2. Những điểm mạnh trong hoạt động phân phối hàng hoá của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam. Ta có thể thấy với vai trò là các doanh nghiệp trong nội địa, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam có những điều kiện thuận lợi trong việc nắm bắt được những nhu cầu chung của khách hàng trong nước, cùng với nó là khả năng nắm bắt được những biến đổi của thị trường. Từ đó cung cấp tốt nhất những sản phẩm thoả mãn được nhu cầu của họ. Các doanh nghiệp có thuận lợi trong việc xây dựng các vị trí kinh doanh thuận tiện cho hoạt động mua bán của người dân. Tại các khu trung tâm, nơi hoạt động mua bán của người dân diẽn ra với cường độ nhanh các doanh nghiệp phát triển những cơ sở phân phối có quy mô lớn, đồng thời cũng có thể xây dựng những cửa hàng nhỏ hơn len lỏi vào các khu dân cư. Điều đó giúp tạo ra một mạng lưới bao trùm có thể phục vụ khách hàng trên một diện rộng về mặt địa lý. Việc giảm khoảng cách này vừa mang lại những lợi thế trong việc vận chuyển hàng hoá, thuận lợi cho hoạt động mua sắm của người tiêu dùng, vừa kích thích nhu cầu của khách hàng. Chỉ cần nhu cầu bắt đầu xuất hiện là có ngay hệ thống phân phối đáp ứng, và đôi khi chính sự hiện diện của các cửa hàng lại kích thích nhu cầu tiêu dùng. Các mặt hàng được cung cấp vùa đa dạng vừa phù hợp với từng phân đoạn thị trường. Các cửa hàng nhỏ tại các khu dân cư có mức sông trung bình, cung cấp hầu hết là những sản phẩm thiết yếu có mức giá không quá cao. Còn tại các khu đô thị, khu dân cư có nhu cầu cao hơn thì các cửa hàng phân phối những sản phẩm phù hợp với mức tiêu dùng đó. Đồng thời, trong hệ hoạt động phân phối của các doanh nghiệp bán lẻ, các mặt hàng thường rất đa dạng, cả về chủng loại và nhãn hiệu. Nên khi bước chân vào một cửa hàng bán lẻ khách hàng sẽ có nhiều sự lựa chọn hơn về các loại mặt hàng. Nhân viên quản lý và bán hàng hầu hết là người trong khu vực nên thuận tiện trong việc nắm bắt, tìm hiểu và đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Những nhân viên này phần lớn có cùng thói quen, tập quán sống nên trong cách xử sự, quản lý với những người trong nội bộ, cũng như với khách hàng dễ có sự hoà hợp, và hiểu nhau. Người quản lý và nhân viên có thể cùng hợp tác để hoàn thành tốt công việc sẽ giúp cho hoạt động phân phối của các doanh nghiệp bán lẻ, ngày càng hiệu quả và phát triển hơn. Đồng thời, đội ngũ nhân viên bán hàng cũng là lực lượng lòng cốt trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, mang khách hàng đến với doanh nghiệp. Những nhân viên bán hàng tốt không chỉ hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mua hàng của khách hàng, mà việc hiểu được tâm lý, thói quen tiêu dùng còn giúp khách hàng có được những nhận định tốt vè doanh nghiệp. Từ đó hình ảnh tốt về doanh nghiệp trong tâm trí người tiêu dùng sẽ được xây dựng ngày càng vững chắc. Khi có được điều đó, các doanh nghiệp bán lẻ sẽ vừa có được lượng khách hàng trung thành lớn, lại vừa xây dựng được lượng khách hàng tiềm ẩn của mình. Ngày nay dịc vụ bán hàng và sau bán là một trong những khâu đã được các doanh nghiệp chú trọng. Trước đây, hoạt động phân phối hàng hoá chủ yếu chỉ là nhằm tiêu thụ được lượng hàng hoá nhiều nhất. Nhưng hiện nay dịch vụ bán hàng và sau bán đã được mở rộng. Nó không chỉ giúp doanh nghiệp tăng doanh số của mình mà còn mang lại cho doanh nghiệp những giá trị lâu dài. Bán hàng và dịch vụ sau bán như: dịch vụ trả góp, bảo hành, sửa chữa lắp đặt đi kèm,…làm tăng giá trị của các mặt hàng được cung cấp. Các dịch vụ chăm sóc khách hàng, các dịch vụ phục vụ hoạt động mua sắm của người tiêu dùng như các hệ thống phòng chờ, ghế đợi, khu vui chơI cho trẻ nhỏ đI kèm tại các siêu thị…sẽ giúp cho hoạt động mua sắm trở thành một hoạt động thú vị hơn rất nhiều. Và khi khách mua hàng vừa thoả mãn được nhu cầu sử dụng về sản phầm vừa được đáp ứng sự kỳ vọng mong đợi của thì hệ thống phân phối đã mang lại cho hàng hoá giá trị lớn hơn rất nhiều so với giá trị sử dụng của nó. 1.2.Những điểm yếu và hạn chế còn tồn tại trong hoạt động phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam. Hiện nay hệ thống dịch vụ phân phối của các doanh nghiệp Việt Nam còn có hiện tượng chồng lấn giữa phân phối và bán lẻ. Do thiếu các nhà phân phối đủ năng lực nên một doanh nghiệp có thể phân phối nhiều sản phẩm cạnh tranh với nhau. Việc này sẽ làm hoạt hoạt động của các doanh nghiệp bán lẻ, khó xác định được phạm vi và mục tiêu, cũng như gây ra khó khăn trong sự quản lý. Như vậy thì việc hoạt động không hiệu quả và khó xây được thương hiệu là điều khó tránh khỏi. Các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam vãn hoạt động hầu hết với quy mô nhỏ, làm ăn manh mún. Kể cả các siêu thị hay trung tâm thương mại trong nước còn nhỏ hơn so với yêu cầu (một siêu thị Việt Nam chỉ bằng 1/21 qui mô của Trung Quốc); nhiều siêu thị chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế (ngoài một số vừa được nâng cấp ,cải tạo) hầu hết đều đang xuống cấp. Quy mô nhỏ, mặt bằng hẹp không những gây khó khăn trong vấn đề tiến hành phân phối hàng hoá, mà nó còn là một trong những những vấn đề gây khó khăn khi doanh nghiệp muốn tập trung nguồn lực hay mở rộng phát triển cơ sở của mình. Trình độ và phương thức quả lý yếu. Mặc dù, tốc độ gia tăng các doanh nghiệp bán lẻ là rất lớn nhưng các doanh nghiệp này lại lại chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, không có trình độ và phương thức quản lý tốt. Đồng thời, hoạt động phân phối trên quy mô lớn cũng chỉ mới xuất hiện ở nước ta chưa lâu vì vậy ngay cả các doanh nghiệp lớn hiện nay của Việt Nam cũng chưa có nhiều kinh nghiêm trong hoạt động này. Những nhân viên quản lý hầu hết không có trình độ chuyên môn trong ngành, một phần cũng là do đây là một lĩnh vực mới của nền kinh tế thị trường mà ở nước ta chưa đào tạo chuyên sâu. Phương thức quản lý được sử dụng cũng là những phương thức truyền thống, mặc dù hiện nay cũng đang có sự chuyển đổi sang phương thức hiện đại những chưa cao, và vẫn còn nhiều khó khăn. Trình độ và phương thức quản lý yếu sẽ làm cho hoạt động của doanh nghiệp kém hiệu quả, không những gây thất thoát các nguồn lực mà con khó có thể đảm bảo cho doanh nghiệp gìn giữ và phát triển được cơ cấu tổ chức của mình. Vị trí của các doanh nghiệp bán lẻ tuy rộng khắp nhưng chưa thực sự hướng tới khách hàng. Sự lựa những vị trí kinh doanh của các doanh nghiệp nhiều khi chỉ mang tính chất cảm tính. Có thể vì những vị trí này thuận lợi cho điều kiện sống của chủ sở hữu, vì ý thích nhất thời hay vì chi phí thấp (giá thuê thấp, giá mua thấp), mà vì trí đó được lựa chọn. Một cửa hàng phân phối bán lẻ hàng hoá nằm tại những nơi đông dân cư, nhưng ở góc khuất, không thuận tiên cho giao thông, và khó tìm thấy thì cũng không thể mang lại khách hàng cho doanh nghiệp. Mặt khác, cơ sở hạ tầng như chỗ để xe vẫn chưa thực sự được quan tâm đúng mức, một số địa điểm còn không có chỗ gửi xe, hoặc chỗ gửi xe ở cách xa cửa hàng. Nhân viên bán hàng chưa có trình độ cần phải qua đào tạo, chưa có những kỹ năng cơ bản. Các nhân viên bán hàng phần lớn vẫn chưa qua đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ. Trình độ mới chỉ ở mức tốt nghiệp trung học, và phần lớn chưa có kỹ năng bán hàng. Khi làm việc chưa biết cách tổ chức sắp xếp khoa học, chưa biết cách giúp đỡ khách hàng và giới thiệu về các mặt hàng cũng như doanh nghiệp mình. Nhân viên bán hàng nhiều khi không có thái độ niềm nở với người mua hàng, gây sự với khách hàng. Điều này khiến cho khách hàng cảm thấy không hài lòng, và nó sẽ không thể xây dựng được mối quan hệ tốt giữa người tiêu dùng với doanh nghiệp. Sự không chú tâm vào công việc như đứng buôn chuyện trong thời gian làm việc, không sắp xếp lại hàng hoá bị lộn xộn, không giải đáp hay lảng tránh những thắc mắc của khách hàng khi được hỏi… cũng là chuyện thường gặp tại các đơn vị phân phối hàng hoá bán lẻ hiện nay. Sự thiếu kỹ năng cũng thể hiện trong việc, nhân viên không biết cách sắp xếp hàng hoá một cách chuyên nghiệp, không biết cách giải đáp các thắc mắc của khách hàng, không có đủ sự nhanh nhạy để tìm hiểu tâm lý khách hàng và giải quyết tình huống. Có thể nói đội ngũ nhân viên bán hàng hiện nay của các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam chưa thực sự phát huy được hết khả năng và vai trò của mình trong hoạt động phân phối hàng hoá. Sản phẩm tại nhiều hệ thống phân phối của các doanh nghiệp bán lẻ hiện chưa thật sự tốt. Về chủng loại hàng hoá tuy đã được đa dạng hoá nhưng lại dễ dẫn tới tình trạng lộn xộn, khó kiển soát. Trong thời gian gần đây đang có sự lo ngại về chất lượng của các sản phẩm tiêu dùng. Không chỉ tại các cửa hàng, các cơ sở phân phối hàng hoá bán lẻ chất lượng hàng hoá không đảm bảo mà ngay tại siêu thị, trung tâm thương mại cũng chưa tạo được sự tin tường hoàn toàn ở người tiêu dùng. Ngay từ khâu đầu vào của hàng hoá, chất lượng của các sản phẩm chưa thực sự được đề cao, vẫn có những hàng kém phẩm chất được bán lẫn với các sản phẩm tốt trong các siêu thị, cửa hàng. Vậy là trong khâu kiểm tra và phân loại của doanh nghiệp chưa thực sự tốt. Đồng thời còn xuất hiện hiện tượng hàng quá đát, bị rách hỏng không được loại bỏ mà vẫn được bày bán. Chưa kể tới một số trường hợp các doanh nghiệp dùng thủ thuật như thay đổi lại thời gian sử dụng, bán ken các sản phẩm hỏng để có thể tiêu thụ được những hàng hoá bị hỏng. Dịch vụ bán và sau bán đã có nhưng không phải tất cả các doanh nghiệp đã đề cao tầm quan t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6053.doc
Tài liệu liên quan