Phát triển hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương (C1)

LỜI NÓI ĐẦU Thị trường chứng khoán là một bộ phận của thị trường tài chính, là một khái niệm luôn luôn phát triển và luôn gắn với một nền kinh tế nhất định. Đó là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán giữa các chủ thể tham gia thị trường. Các chủ thể đó có thể là nhà phát hành, nhà đầu tư, các trung gian tài chính, các cơ quan quản lý thị trường…Thị trường chứng khoán là nơi cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế với một khối lượng khồng lồ. Thị trường chứng k

doc22 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1566 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động môi giới tại Công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương (C1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoán việt nam chính thức đi vào hoạt động được đánh dấu bằng việc đi vào hoạt động chính thức của hai trung tâm giao dịch chứng khoán đó là Tp. Hồ Chí Minh ( tháng 7/ 2000)và trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội ( tháng 3/2005). Trong năm 2006 thị trường đã có những bước phát triển hết sức ấn tượng, với quy mô thị trường chứng khoán phát triển khá nhanh. Thị trường cổ phiếu đã có 193 công ty niêm yết và đăng ký giao dịch, tổng vốn hoá thị trường đạt hơn 221.156 tỷ đồng, số lượng các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia thị trường chứng khoán ngày càng nhiều. Do sự phát triển quá nhanh của thị trường chứng khoán nên việc đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư chưa được tốt. Đặc biệt là trong hoạt động môi giới một hoạt động chủ yếu của một công ty chứng khoán, thêm vào đó là các công ty chưa có một đội ngũ nhân viên môi giới chuyên nghiệp,hệ thống pháp luật thiếu đồng bộ… những vấn đề này làm cho hoạt động môi giới của các công ty chứng khoán nói chung và của công ty chứng khoán ngân hàng Công Thương nói riêng chưa thực sự phát triển. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Phát triển hoạt động môi giới tại công ty chứng khoán ngân hàng Công Thương”. Do thời gian có hạn nên trong chuyên đề này em chỉ đề cập tới hoạt động môi giới trên thị trường tập trung CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1.1 khái niệm, đặc điểm và phân loại công ty chứng khoán. khái niệm công ty chứng khoán Thị trường chứng khoán theo quan điểm hiện đại, thì đó là nơi diễn ra các hoạt động mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn. hiểu theo nghĩa hẹp thì nó đơn thuần chỉ là nơi diễn ra các hoạt động mua, bán các loại chứng khoán do tổ chức phát hành phát hành ra, nó có thể là nơi mua bán lần đầu các loại chứng khoán thông qua hoạt động đấu giá, đấu thầu chứng khoán và nó cũng có thể là nơi mua đi bán lại chứng khoán của các tổ chức phát hành giữa những nhà đầu tư với nhau. Nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì nó là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng những nguồn tiết kiệm đó. Không những thế nó còn là một định chế tài chính trực tiếp bởi vì các chủ thể cung và cầu vốn đều tham gia vào thị trường một cách trực tiếp. Thị trường chứng khoán không giống như các thị trường hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường là các chứng khoán một hàng hóa đặc biệt. Với loại hàng hoá này người mua người bán không trực tiếp có thể mua bán do chứng khoán là loại hàng hoá chỉ có giá trị chứ không có giá trị sử dụng nên không thể đánh giá cũng như nhận xét được loại hàng hoá này có thực sự là tốt hay xấu. do vậy công ty chứng khoán ra đời làm trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán bởi vì chỉ có các công ty chứng khoán với đội ngũ nhân viên có đủ năng lực trình độ, có khả năng phân tích sẽ đứng ra kết nối giữa người mua và người bán. CTCK là một định chế tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán. Ở Việt Nam,theo quyết định 04/1998/QĐ-UBCK3 ngày 13 tháng 10 năm 1998 của UBCKNN, CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữa hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán. Theo luật số: 70/2006 QH 11 thì công ty chứng khoán được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán.CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, ngoài các nghiệp vụ trên CTCK còn được cung cấo các dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Đặc điểm công ty chứng khoán CTCK là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán nên có những đăc điểm đặc biệt hơn so với các loại hình khác: - Theo luật chứng khoán có hiệu lực từ ngày 01/01/2007 thì các CTCK phải có đủ 300 tỷ đồng cho bốn nghiệp vụ cơ bản: nghiệp vụ môi giới là 25 tỷ đồng, nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là 165 tỷ đồng, nghiệp vụ tư vấn là 10 tỷ đồng, nghiệp vụ tự doanh là 100 tỷ đồng. - Có trụ sở; có trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động kinh doanh chứng khoán, đối với nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán thì không phải đáp ứng điều kiện về trang bị, thiết bị. -. Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, công ty chứng khoán phải công bố Giấy phép thành lập và hoạt động trên phương tiện thông tin của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước và một tờ báo điện tử hoặc báo viết trong ba số liên tiếp. - Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và các nhân viên thực hiện trong các nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán phải có Chứng chỉ hành nghề chứng khoán. 1.1.3.Phân loại công ty chứng khoán 1.1.3.1.Theo hình thức kinh doanh Công ty môi giới chứng khoán : hay còn được gọi là công ty chứng khoán thành viên vì nó là thành viên của sở giao dịch chứng khoán.Công việc chủ yếu là làm trung gian, mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán : là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá. Công ty kinh doanh chứng khoán : là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa tự bỏ vốn và tự chịu hậu quả kinh doanh. Công ty dịch vụ đa năng :những công ty này không bị giới hạn hoạt động, ngoài bốn nghiệp vụ cơ bản họ còn cung cấp cho khách hàng dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, niêm yết chứng khoán trên sở giao dịch chứng khoán. Công ty chứng khoán không tập trung :là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. 1.1.3.2.Theo hình thức tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán Công ty hợp danh :là loại hình có từ hai công ty góp vốn trở nên, thành viên của các công ty chứng khoán hợp danh bao gồm : thành viên góp vốn và thành viên hợp danh. Các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty, họ chỉ phải chịu trách nhiệm hữa hạn trong phần vôn góp của mình đối với các khoản nợ của công ty. Công ty hợp danh thông thường không được phép phát hành bất cứ một loại chứng khoán nào. Công ty cổ phần :công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập với các chủ sở hữa công ty là các cổ đông. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luậtvề chứng khoán hiện hành Công ty trách nhiệm hữa han :thành viên của công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp. Công ty TNHH không được phép phát hành cổ phiếu. Do các ưa điểm của loại hình CTCP và công ty TNHH so với công ty hợp danh, vì vậy hiện nay chủ yếu các CTCK được tổ chức dưới hình thức công ty TNHH và CTCP 1.2. Vai trò của công ty chứng khoán 1.2.1. Đối với tổ chức phát hành Mục tiêu khi tham gia vào thị trường chứng khoán của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành các chứng khoán. Vì vậy, thông qua hoạt động đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các công ty có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Tổ chức phát hành có thêm kênh huy động vốn chủ động mà không còn phụ thuộc vào các tổ chức tín dụng khác nữa, không còn lo lắng khi muốn huy động vốn mà không có tài sản đảm bảo nữa. Như vậy CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nên kinh tế thông qua TTCK Một trong những nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các công ty chứng khoán sẽ thực hiện vai trò trung gian.cho cả người đầu tư và nhà phát hành, và khi thực hiện công việc này, công ty chứng khoán đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK. 1.2.2. Đối với các nhà đầu tư tham gia trên thi trường Thông qua các hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, công ty chứng khoán có vai trò làm giảm chi phí và thời gian giao dịch, do đó nâng cao các khoản đầu tư. Đối với hàng hóa thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán.Tuy nhiên, đối với thị trường chứng khoán, sự biến đông thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu thông tin trước khi quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các công ty chứng khoán, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách có hiệu quả. Với nghiệp vụ lưa ký chứng khoán CTCK đã giúp đỡ nhà đầu tư rất nhiều trong việc nắm giữ và bảo quản chứng khoán. Nhà đầu tư đã giảm thiểu được những khả năng như mất cắp, mối mọt, rách nát..CTCK còn thông báo về tỷ lệ chi trả cổ tức của các tổ chức phát hành. 1.2.3. Đối với nền kinh tế TTCK là một bộ phận của thị trường tài chính là nơi cung cấp kênh huy động vốn trung và dài hạn rất hiệu quả, các tổ chức có thể huy động vốn một cách dễ dàng mà không cần phải thế chấp tài sản. Tham gia TTCK các công ty chứng khoán có chức năng là làm trung gian đồng thời là kênh dẫn vốn chảy từ một hay một số bộ phận nào đó của nền kinh tế đang có sự dư thừa vốn đến một hay một số bộ phận nào đó của thị trường đang cần vốn. CTCK là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nên kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. Nhờ các CTCK mà thị trường hoạt động liên tục hàng hoá của thị trường được lưa thông buôn bán trao đổi từ nhà phát hành tới các nhà đầu tư. Theo cơ chế này mà lượng vốn khổng lồ đã được huy động từ nguồn nhà rỗi của công chúng để đem đầu tư sinh lời. 1.2.4. Đối với thị trường chứng khoán Đối với thị trường chứng khoán, công ty chứng khoán thể hiện hai vai trò chính : Góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì họ không được tham gia trực tiếp vào quá trình mua bán. Các CTCK là thành viên của TTCK, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên.Chính vì vậy, giá của mỗi loại chứng khoán đều có sự tham gia định giá của các CTCK. Các công ty chứng khoán còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ những khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường. Góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vài trò đó vì công ty chứng khoán tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường cấp 1, do thực hiện các hoạt động như bảo lãnh phát hành, chứng khoán hoá, các công ty chứng khoán không những huy động một lượng vốn vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán giao dịch trên thị trường cấp 2. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho nhà đầu tư. Trên thị trường câp 2, do thực hiện các giao dịch mua và bán các công ty chứng khoán giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại. những hoạt động đó có thể làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. 1.2.5. Đối với các cơ quan quản lý thi trường Công ty chứng khoán có vai trò cung cấp thông tin về thị trường chứng khoán cho các cơ quan quản lý thi trường để thực hiện muc tiêu đó. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới vừa là trung gian mua bán các chứng khoán và thực hiện các giao dịch trên thị trường. Một trong các yêu cầu của TTCK là các thông tin cần phải được công khai hoá dưới sự giám sát của cơ quan quản lý thị trường. việc Cung cấp thông tin vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các công ty chứng khoán vì công ty chứng khoán cần phải minh bạch và công khái trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua, bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư...Nhờ các thông tin này, các cơ quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Tóm lại, các công ty chứng khoán là một tổ chức chuyên nghiệp trên thị trường chứng khoán, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành đối với cơ quan quản lý thị trường đôi với thị trường chứng khoán nói chung. Nhất là trong giai đoạn hiện nay với sự phát triển quá nhanh của thị trường chứng khoán thì vai trò của các công chứng khoán ngày càng quan trọng hơn. 1.3 Các nghiệp vụ chính của công ty chứng khoán 1.3.1 Nghiệp vụ môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian hoặc đại diện mua, bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng. Theo đó, CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại trung tâm giao dịch chứng khoán ( TTGDCK), hay qua thị trường OTC mà chính khách hàng là người chịu trách nhiệm đối với kết quả giao dịch của mình. Thông qua hoạt động môi giới chứng khoán, CTCK cung cấp các sản phẩm và các dịch vụ môi giới. CTCK kết nối giữa các nhà đầu tư với nhau, cung cấp thông tin cho khách hàng giảm bớt thời gian và chi phí của nhà đầu tư trong việc tìm kiếm khách hàng cho mình cung như trong việc tìm kiếm thông tin. Xuất phát từ yêu cầu trên, nghề môi giới đòi hỏi phải có những phẩm chất, đạo đức, kỹ năng mẫn cán trong công việc, với thái độ công tâm, cung cấp cho khách hàng những dịch vụ tốt nhất. Nhà môi giới không được xúi giục khách hàng mua hoặc bán chứng khoán để kiếm hoa hồng, mà nên đưa ra những lời khuyên hợp lý để hạn chế đến mức thấp nhất về thiệt hại cho khách hàng. 1.3.2. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các giao dịch mua bán chứng khoán cho chính công ty mình, mục đích của hoạt động tự doanh của CTCK là nhằm thu lợi cho chính mình và tự gánh chịu mọi rủi ro từ việc đầu tư của chính mình. Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên thị trường tập trung hoặc trên thị trường phi tập trung, trên thị trường tập trung thì lệnh giao dịch của các CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh của khách hàng và được ưa tiên sau lệnh của khách hàng, còn trên thị trường phi tập trung thì các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác. đối với những thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá, CTCK đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhăm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới chứng khoán, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng vừa phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho chính bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và nghiệp vụ tự doanh, công ty chứng khoán phải ưa tiên thực hiện lênh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có hai loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh. Khách với nghiệp vụ môi giới, CTCK chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, công ty chứng khoán đòi hỏi phải có nguồn vốn lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. 1.3.3. Bảo lãnh phát hành chứng khoán Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các CTCK tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính lá nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán của các CTCK và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK. Như vậy,nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc CTCK giúp các tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán nhận mua một phần hay toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán chưa phân phối hết và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.Bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc tư vấn đầu tư tài chính , tổ chức bảo lãnh được hưởng phí bảo lãnh hoặc tỷ lệ hoa hồng do hai bên thoả thuận. Lợi nhuận thu từ hoạt động này chiếm khá cao trong tổng doanh thu của các CTCK. Bảo lãnh phát hành thường được thực hiện theo một trong các phương thức sau: Bảo lãnh với cam kết chắc chắn, bảo lãnh với cố gắng cao nhất, bảo lãnh theo phương thức tất cả hoặc không, bảo lãnh theo phương thức tối thiểu hoặc tối đa, bảo lãnh theo phương thức dự phòng. 1.3.4. Tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán là dịch vụ mà các CTCK cung cấp cho khách hàng trong lĩnh vực đầu ta chứng khoán, công ty chứng khoán cung cấp thông tin, cách thức đầu tư, thời điểm đầu tư và quan trọng nhất là loại chứng khoán phù hợp với từng loại khách hàng. Đối với hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán thì cần có sự hiểu biết rộng vì vậy người làm tư vấn phải có kiến thức chuỷên môn sâu, rộng trong lĩnh vực chứng khoán, phải có giấy phép hành nghề chứng khoán. Hoạt động tư vấn là người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận cho khách hàng. Nhà tư vấn đòi hỏi phải hết sức cẩn trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về khoản thu phí về dịch vụ tư vấn. 1.3.5. Các nghiệp vụ khác Lưa ký chứng khoán Là việc lưa giữ bảo quản chứng khoán hộ khách hàng thông qua các tài khoản lưa ký chứng khoán mà khách hàng mở tại công ty, bởi vì các chứng khoán giao dịch trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch dưới dạng bút toán ghi sổ hoặc ký gửi chứng khoán. CTCK khi cung cấp dịch vụ này thì sẽ thu được phí lưa ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Sau khi thực hiện lưa ký chứng khoán hộ khách hàng công ty lại tiến hành tái lưa ký tại trung tâm lưa ký. Nghiệp vụ tín dụng Nghiệp vụ tín dụng bao gồm cho vay ký quỹ, cầm cố chứng khoán, cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán, ứng trước tiền cổ tức. Giúp khách hàng có được tiền để đầu tư chứng khoán khi mà khách hàng không có đủ tiền để đầu tư và khách hàng phải trả phí cho công ty tuỳ theo quy định của từng công ty, nghiệp vụ này thường đi kèm với nghiệp vụ môi giới trong một công ty chứng khoán. Quản lý cổ tức thay khách hàng Thông qua nghiệp vụ lưa ký chứng khoán CTCK cũng thực hiện luôn việc nhận cổ tức hoặc trái tức hộ khách hàng từ tổ chức phát hành. Công ty thông báo cho khách hàng thông tin từ tổ chức phát hành như tỷ lệ cổ tức, ngày chi trả cổ tức. Ngoài các nghiệp vụ kể trên CTCK còn có thể thực hiện một số hoạt đông khác như cho vay chứng khoán, quản lý đầu tư, kinh doanh bảo hiểm… 1.4. Nghiệp vụ môi giới của công ty chứng khoán 1.4.1. Khái niệm môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Người môi giới chứng khoán phải là người có khả năng phân tích thị trường, đánh giá thị trường hiện tại và nhận định xu hướng trong tương lai, họ am hiểu và nắm vững pháp luật. Nhạy bén trong công việc và có khả năng phân tích từng loại chứng khoán đưa ra xu thế biến động của tứng loại chứng khoán riêng lẻ, ngoài việc là trung gian giao dịch thì người môi giới còn là nhà tư vấn cho các nhà đầu tư cũng như các tổ chức phát hành giúp họ có những quyết định đúng đắn trong đầu tư. 1.4.2. Phân loại môi giới chứng khoán Người môi giới trên thị trường chứng khoán có 2 loại: những trung người trung gian môi giới mua bán chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, họ là nhân viên của một công ty chứng khoán và một loại là nhà môi giới độc lập không thuộc một CTCK nào họ hoạt động độc lập và thu phí cho chính họ. Môi giới thừa hành hay là môi giới giao dịch là nhân viên của một công ty chứng khoán, họ hoạt động theo sự quản lý của công ty chứng khoán đó. Các nhà môi giới này nhận lệnh từ khách hàng và nhập lệnh vào trung tâm, phí từ hoạt động môi giới này do CTCK thu và trả lương cho các nhà môi giới. Môi giới độc lập hay là “môi giới hai đô la”, nhà môi giới này làm việc cho chính họ và hưởng hoa hồng theo dịch vụ.Họ là những thành viên tự bỏ tiền ra thuê chỗ tại sở giao dịch, khi mà số lượng khách hàng quá đông các CTCK không thể kham nổi thì các CTCK thường kết hợp với những nhà môi giới độc lập để thực hiện lệnh cho khách hàng của mình, và trả cho loại môi giới này một khoản tiền nhất định. Cái tên môi giới hai đô la được gọi là do các nhà môi giới được trả hai đô la cho một lô tròn chứng khoán. Ở Việt Nam hiện nay chỉ có môi giới thừa hành không tồn tại môi giới hai đô la, theo đó người môi giới muôn hoạt động trên thị trường chứng khoán(TTCK) thì phải có giấy phép hành nghề do uỷ ban chứng khoán(UBCK) cấp phép. 1.4.3.Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán 1.4.3.1. Đối với nhà đầu tư Góp phần làm giảm chi phí giao dịch TTCK không giống như những thị trường thông thường khác, hàng hoá của TTCK là loại hàng hoá đặc biệt nó chỉ có giá trị chứ không có giá trị sử dụng như các loại hàng hoá thông thường khác. Nên việc xác định giá trị của nó không dễ dàng muốn xác định giá trị của nó nhà đầu tư cần rất nhiều thông tin, từ tổ chức phát hành, đối thủ cạnh tranh, thị trường.. chi phí cho việc này rất lớn. Có hàng triệu người tham gia thị trường và hàng trăm loại cổ phiếu nên việc tìm đối tác và loại hàng hoá phù hợp cho mình, thì nhà đầu tư phải mất rất nhiều chi phí về tìên cũng như thời gian. Thay vì mình phải tự thẩm định chất lượng hàng hoá chứng khoán và tìm kiếm đối tác thì, nhà đầu tư có thể thông qua lới tư vấn của nhà môi giới để có thể tìm cho mình các chứng khoán phù hợp với mục đích của mình. Và các nhà phát hành họ không phải mất quá nhiều thời gian để tìm kiếm các nhà đầu tư mua loại chứng khoán mà họ phát hành ra. Cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng Trên TTCK thông tin đóng vai trò đăc biệt quan trọng, nó góp phần ảnh hưởng tới giá cả của chứng khoán. Các nhân viên môi giới thay mặt công ty chứng khoán cung cấp cho khách hàng các thông tin liên quan đến thị trường, các thông tin liên quan đến chứng khoán niêm yết, các tổ chức phát hành và các thông tin khác liên quan đến chứng khoán.Dựa trên thông tin này nhà đầu tư tiến hành phân tích và đưa ra các quyết định về việc mua bán chứng khoán cũng như giá cả sao cho hợp lý. Người môi giới chứng khoán luôn là người nắm bắt được các thông tin cập nhật về chứng khoán bởi vì nhà môi giới có các mối quan hệ rộng rãi, hơn nữa họ lại là người biết cách tiếp cận thông tin từ nhiều nguồn khác nhau và tiến hành sang lọc trước khi cung cấp cho khách hàng. Do vậy thông tin mà nhà đầu tư có được do nhà môi giới cung cấp có giá trị rất lớn. Cung cấp cho khách hàng các dịch vụ tài chính giúp khách hàng thực hiện các giao dịch theo yêu cầu vì mục đích của họ Nhà môi giới nhận lệnh của khách hàng, thực hiện giao dịch, xác định kết quả giao dịch và thông báo kết quả giao dịch cho khách hàng. Ngoài nhà môi giới còn cung cấp số dư tài khoản tiền mặt, số dư chứng khoán được phéo giao dịch để khách hàng dễ dàng hơn trong việc đầu tư. 1.4.3.2. Đối với công ty chứng khoán Một CTCK có đội ngũ nhân viên môi giới giỏi thì sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư, phí thu được từ hoạt động môi giới là doanh thu chủ yếu của các CTCK. Chính đội ngũ nhân viên góp phần tăng tính cạnh tranh cho công ty, thu hút khách hàng và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ của công ty. Có thể nói nghiệp vụ môi giới và đội ngũ nhân viên môi giới là thước đo để đánh giá chất lượng phục vụ của các CTCK. 1.4.3.3. Đối với thị trường Góp phần phát triển các dịch vụ và hàng hoá trên thị trường. CTCK khi thực hiện vai trò trung gian giữa người bán và người mua có thể năm băt nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người cung ứng hàng hóa và dịch vụ. Hoạt động môi giới chính là một trong những nguôn cung ứng những ý tưởng thiết kế sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng. kết quả của quá trình đó là cải thiện được tính đa dạng của sản phẩm và dịch vụ, nhờ đó đa dạng hóa được cơ cấu khách hàng, thu hút ngày càng nhiều tiền nhàn rỗi trong xã hội cho nền kinh tế. Góp phần hình thành nền văn hoá đầu tư Khi nền kinh tê đang trên đà phát triển thì nhu cấu về vốn là rất lớn, trong khi đó nguồn tiền nhàn rỗi trong dân rất lớn. Người dân chỉ biết gửi tiền tại các quỹ tiết kiệm của ngân hàng, hay chỉ biết cất giữ trong các két an toàn. Để đưa được luồng tiền nhàn rỗi đó vào nền kinh tế nhà môi đã tiếp cận với những khách hàng tiềm năng và đáp ứng các nhu cầu của họ. Tạo môi trường đầu tư thuận lợi từ đó thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu tư, hoạt động náy lâu dần hình thành nên thói quen đầu tư vào tài sản tài chính thay vì sử dụng tiền dư thừa một cách lãng phí. Hoạt động của nhà môi giới đã thâm nhập sâu rộng vào cộng đồng các doanh nghiệp và góp phần hình thành nên nền văn hoá đầu tư. 1.4.4. Những nét đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán Môi giới chứng khoán là một nghiệp vụ cơ bản của CTCK. nghiệp vụ môi giới có ý quan trọng đối với việc thu hút khách hàng và tạo dựng hình ảnh công ty. Môi giới chứng khoán là một nghề đặc biệt với những nét đặc trưng sau: - Nghề môi giới chứng khoán là một nghề đòi hỏi lao động cật lực và phải được trả thù lao xứng đáng. Nghề môi giới có thể nói không biết trước được thời gian làm việc, bởi vì nhà đầu tư có nhu cầu gặp gỡ thì nhà môi giới cũng phải bố trí thời gian đẻ gặp gỡ. buổi gặp gơc có thể diễn ra tại công ty hay tại nhà của khách hàng nhưng cũng có thể diễn ra tại quán cà phê, quán ăn… Và trong mọi hoàn cảnh thì nhà đầu tư vẫn phải tìm cách giao tiếp thích hợp nhất để có thể lôi kéo được khách hàng và như vậy nhà môi giới yêu cầu được trả thù lao xứng đáng phù hợp với công sức mà họ bỏ ra. - Nghề môi giới chứng khoán đòi hỏi người môi giới cần có những phẩm chất như: kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử trong các cuộc tiếp xúc với các nhà đầu tư tiềm năng. Đến với thị trường chứng khoán, không phải tất cả các nhà đầu tư đều có những hiểu biết như nhau, họ có thể là chuyên gia trong lĩnh vực tài chính nhưng cũng có thể là một người nông dân bình thường, không có được những kiến thức cơ bản về thị trường, chính vì vậy đối với từng đối tượng khách hàng khác nhau, nhà môi giới cần có những cách giao tiếp khác nhau cho phù hợp. ví dụ như khi tiếp xúc với các nhà đầu tư đã có sự hiểu biết về thị trường, các nhà môi giới cần hướng tới việc giới thiệu cho họ các sản phẩm tiện ích bên cạnh các chứng khoán đó, bởi đa số họ đều là các nhà đầu tư dài hạn, cái mà họ quan tâm nhiều không phải là chênh lệch giá mà họ lại quan tâm đến những lợi ích khác của việc nắm giữ các chứng khoán này như là việc hưởng cổ tức, hưởng chênh lệnh từ việc tăng giá trị công ty, được quyền mua chứng khoán trong đợt phát hành mới…Và như vậy, hiểu được các đỗi tượng khách hàng khác nhau thì người môi giới mới có thể tìm ra được cách tiếp cận khách hàng của mình một cách hiệu quả nhất. - Với nghề môi giới chứng khoán thì nỗ lực cá nhân là yếu tố quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện lệnh của khách hàng. 1.4.5.Quy trình hoạt động môi giới Mỗi công ty chứng khoán sẽ có quy trình khác nhau phù hợp với từng công ty, nhưng nhìn chung về cơ bản là giống nhau, cụ thể: Tìm kiếm khách hàng: đây là giai đoạn đầu, nhận viên môi giới phải xác định được đối tượng khách hàng của mình, từ đó đề ra các biện pháp để tiếp cận với những khách hàng tiềm năng. Có thể chia nhỏ để mỗi nhân viên phụ trách riêng từng mảng của mình, tự tìm kiếm khách hàng riêng cho mình. Sàng lọc khách hàng, chọn ra khách hàng tiềm năng và cố gắng để tiếp xúc với họ:khi người môi giới đã có đầy đủ các thông tin về khách hàng thì cần phải tiến hành sang lọc khách hàng, chọn ra khách hàng tiềm năng và mỗi loại khách hàng khác nhau thì sẽ có những cách tiếp cận khác nhau. Nên chú ý tới khách hàng tiềm năng vì đây là những khách hàng sẽ đem lại lợi nhuận cho công ty. Tìm hiểu cụ thể nhu cầu, mục tiêu tài chính, khả năng chấp nhận rủi ro… của khách hàng: Người môi giới lúc này cần có khả năng giao tiếp tốt, cần vận dụng linh hoạt các kỹ năng nghề nghiệp của mình đặc biệt là khă năng khai thác thông tin thì mới cớ thể thành công khi gặp gỡ khách hàng. Cung cấp các dịch vụ đáp ứng cao nhất nhu cầu, mục tiêu của khách hàng: sau khi khách hàng đã chấp nhận thì nhân viên môi giới tiến hành mở tài khoản giao dịch cho khách hàng, tư vấn hay đưa ra lời khuyến nghị khách mua hay bán chứng khoán. Người môi giới cung cấp đầy đủ thông tin về chứng khoán, tổ chức phát hành và thị trường cho khách. Ngoài các công việc trên nhân viên môi giới còn có các công việc khác như: - Nhận lệnh của khách hàng có thể trực tiếp,qua điên thoại hoặc qua fax... - Lưa ký chứng khoán - Giao, nhận tiền và chứng khoán - Giải đáp mọi thắc mắc cho khách hàng 1.5. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động môi giới của công ty chứng khoán 1.5.1. Nhân tố chủ quan 1.5.1.1. Nhân tố con người Đây ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0183.doc
Tài liệu liên quan