Lời nói đầu
Sau hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa, nền kinh tế Việt nam đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng. Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, hàng hoá trên thị trường trong nước ngày càng đa dạng, phong phú đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu sang thị trường thế giới. Để nhanh chóng phát triển nền kinh tế hội nhập vào thị trường thế giới và khu vực. Bên cạnh những mặt lợi của sự mở cửa nền kinh tế thì chúng ta phải đối mặt với không ít những khó khă
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1210 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động Marketing trong kinh doanh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở Công ty XNK ARTEXPORT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n từ bên ngoài khi hàng hoá của họ xâm nhập vào thị trường nước ta dẫn tới việc cạnh tranh trên thị trường hàng hoá trở nên gay gắt. Chính trong điều kiện đó, vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp là làm sao để vượt lên chiếm ưu thế trên thị trường và kinh doanh có hiệu quả. Marketing ngày càng trở nên quan trọng đối với doanh nghiệp, nó đã góp phần vào sự thành công của doanh nghiệp đem đến cho doanh nghiệp sự năng động, linh hoạt trong kinh doanh và khả năng tiếp cận thị trường. Marketing đã được các doanh nghiệp xem như là công cụ để chiến thắng trong cạnh tranh.
Mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu ở nước ta hiện nay chưa phát triển mạnh chủ yếu là làm thủ công. Hầu như chứa có trang bị máy móc thiết bị, nên xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ còn ở qui mô nhỏ, thêm vào đó chúng ta mới chuyển từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường nên còn có nhiều bỡ ngỡ về mẫu mã, phẩm chất, giá cả.
Công ty ARTEXPORT là công ty thực hiện chức năng xuất nhập khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ và để thích nghi với cơ chế thị trường. Từ tổ chức cán bộ, chiến lược, chiến thuật sản xuất kinh doanh tới nghiên cứu thị trường, mẫu mã sản phẩm, giá cả tuyên truyền quảng cáo, công nghệ sản xuất. Đây là vấn đề cấp bách mà các doanh nghiệp trong đó có ARTEXPORT cần giải đáp ngay. Những vấn đề đó còn phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của công ty.
Với nhận thức trên, tôi đã chọn đề tài “Phát triển hoạt động Marketing trong kinh doanh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty xuất nhập khẩu ARTEXPORT ” để làm đề tài nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu và đánh giá hoạt động Marketing xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty và vận dụng tư duy kinh tế, cơ chế kinh doanh mới đối chiếu với nhận thức trong quá trình học tập và những tài liệu tham khảo. Chỉ ra những mặt ưu điểm, nhược điểm, mâu thuẫn tìm nguyên nhân dẫn đến kết quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty ARTEXPORT. Từ đó rút ra bài học thành công đồng thời cũng đề xuất ra những biện pháp góp phần bổ sung, hoàn thiện hoạt động Marketing xuất nhập khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ở công ty.
Xin trân trọng cám ơn sự chỉ dạy tận tình của các thầy cô giáo. Thầy giáo Th.s Vũ Minh Đức_ giảng viên Khoa Marketing Trường Đại học Kinh tế Quốc dân và các cán bộ phòng xuất nhập khẩu 11 công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ ARTEXPORT đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Chương I:
Những vấn đề lí luận Marketing- xuất khẩu
I. khái quát chung về MARketing
1. Sự ra đời và phát triển của Marketing
Các nhà sản xuất, kinh doanh luôn có mong muốn là sản phẩm của họ thoả mẵn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng. Để đạt được mục tiêu đó họ luôn tiến hành các thử nghiệm khác nhau và thử nghiệm về Marketing đã đem lại sự thành công cho các nhà sản xuất. Như vậy Marketinh được ra đời và áp dụng đầu tiên trong lĩnh vực bán hàng.
Hoạt động Marketing đã xuất hiện vào những năm đầu của thế kỉ 20 và được các nhà kinh doanh của Mỹ, Nhật... áp dụng bằng các biện pháp rất mới mẻ như: Phục vụ tối đa theo yêu cầu của khách hàng, sẵn sàng đổi lại những sản phẩm mà khách hàng không vừa ý, bán hàng kèm quà tặng, mua nhiều có thưởng, có chiết khấu, giảm giá... Các biện pháp này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bán hàng nhanh hơn với khối lượng lớn hơn và thu được nhiều lợi nhuận. Tuy nhiên các phương pháp trên mới chỉ được thực hiện một cách đơn lẻ và chỉ là những hoạt động mang tính bề nổi trên thị trường. Dần dần do sự phát triển của sản xuất, qui mô và cơ cấu thị trường, các hoạt động Marketing nói trên không còn phù hợp với qui mô sản xuất và thị trường ngày càng lớn, và luôn thay đổi. Các nhà kinh doanh đã liên kết cùng nhau để tạo ra sự thống nhất giữa cung ứng hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng. Marketing trở thành một hoạt động xuyên suốt từ khâu sản xuất đến tiêu dùng.
Giai đoạn từ đầu thế kỉ 20 đến chiến tranh thế giới lần 2 hoạt động Marketing được coi là Marketing truyền thống.
Marketing truyền thống có đặc trưng là: Coi thị trường và lưu thông là khau quan trọng của quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tiên của Marketing truyền thống là “ Làm thị trường” rồi sau đó mới tổ chức quá trình phân phối và cung ứng hàng hoá nhanh nhất.
Lúc này các nhà kinh doanh đã nhận rõ được vai trò của người mua. Tức là người mua giữ vai trò quyết định trên thị trường. Nhưng có một đặc trưng nổi bật nhất của Marketing giai đoạn này là hoạt động theo định hướng sản xuất. Nghĩa là bán cái mà mình có chứ không phải cái mà thị trường cần.
Marketing truỳen thống là nền tảng cho sự phát triển của Marketing hiện đại sau này.
Vào thập niên 30 khoa học kỹ thuật phát triển mạnh, cạnh tranh diễn ra gay gắt. Tình hình kinh tế thế giới có nhiều thay đổi. Cạnh tranh tự do giữa các công ty để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ đã phá vỡ cân đối giữa cung ứng hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng. Khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1932 là một minh chứng cho sự hạn chế của loại hình Marketing truyền thống. Chính vì vậy Marketing hiện đại ra đời. Sự có mặt của Marketing hiện đại đã góp phần không nhỏ vào việc khăc phục tình trạng khủng hoảng thừa và thúc đẩy sản xuất khoa học kỹ thuật phát triển.
Đặc trưng của Marketing hiện đại: Thị trường và người mua có vai trò quyết định, nhu cầu là mục tiêu của sản xuất và thoả mãn nhu cầu là yếu tố quyết định của quá trình sản xuất.
Việc làm đầu tiên của Marketing hiện đại là phát hiện ra nhu cầu thị trường (nắm bắt nhu cầu) sau đó rồi đếnd việc tổ chức tất cả các khâu khác của quá trình tái sản xuất, như sản xuất phân phối để có được sự cung ứng nhanh nhất, nhiều nhất hàng hoá ra thị trường nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu.
Khẩu hiệu của Marketing hiện đại lúc này là “bán những cái thị trường cần chứ không phải cái mà ta sẵn có”
Marketing hiện đại không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại mà đã lan rộng sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội và trở thành một hoạt động quan trọng trong chiến lược phát triển của các công ty.
2. Marketing và vải trò của nó trong các doanh nghiệp
2.1. Định nghĩa Marketing
Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về Marketing mà cũng chưa có ai đưa nó về được một định nghĩa thống nhất. Marketing theo nghĩa đen “ là làm thị trường” hay là hoạt động bán hàng. Tuy nhiên với ý nghĩa như vậy nó vẫn chưa phản ánh đầy đủ bản chất và chức năng của Marketing. Có thể nêu ra một số định nghĩa tiêu biểu về Marketing.
Định nghĩa của học viện HAMTION (Mỹ)
Marketing nghĩa là hoạt động kinh tế trong đó hàng hoá được dưa ra từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Định nghĩa của Uỷ ban hiệp hội Marketing Mỹ
Marketing là việc tiến hành các hoạt đông kinh doanh có liên quan trức tiếp đến dòng vận chuyển hàng hoá và dịch vụ từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Định nghĩa của PHKOTLER (Mỹ)
Marketing là hoạt động của con người hướng tới sự thoả mãn nhu cầu và ước muốn thông qua trao đổi.
Định nghĩa của British of Marketing (Anh)
Marketing là chức năng quản lý công ty về mặt tổ chức và quản lý toàn bộ các hoạt dộng kinh doanh từ việc phát triển ra và biến sức mua của người tiêu dùng thành nhu cầu thực sự về một mặt hàng cụ thể đến việc đưa hàng hoá đó đến người tiêu dùng cuối cùng nhằm thu được lợi nhuận như mong muốn.
Từ những định nghĩa trên, có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản của Marketing như sau:
Marketing là tất cả các hình thức và biện pháp, những nghệ thuật quản lý kinh doanh toàn diện của công ty mà nội dung của nó gồm những việc sau;
- Phát hiện ra nhu cầu xã hội về một mặt hàng nào đó và biến nhu cầu đó thành nhu cầu thực tế.
- Tổ chức sản xuất ra hàng hoá phù hợp với nhu cầu.
- Tổ chức cung ứng hàng hoá một cách nhanh nhất ra thị trường.
- ứng sử linh hoạt với mọi biến động của thị trường để bán được nhiều hàng hoá nhất và thoả mãn tôí đa nhu cầu và thu được lợi nhuận cao nhất.
Nhìn chung, Marketing có nhiều nội dung phong phú, mối một định nghĩa đều nhấn mạnh nội dung cơ bản của Marketing là nghiên cứu thị trường để đưa ra các biẹn pháp nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu về một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó.
2.2. Vai trò của Marketing trong các doanh nghiệp
Khi mới ra đời, Marketing chỉ là một khái niệm đơn giản giới hạn trong lĩnh vực thương mại. Nó chỉ bao gồm các hoạt động của doanh nghiệp nhằm tiêu thụ những hàng hoá và dịch vụ đã có sẵn nhằm thu đưọc lợi nhuận. Việc áp dụng các biện pháp Marketing đã tạo điều kiện kích thích sản xuất hàng hoá phát triển. Với những tính ưu việt của nó Marketing không chỉ phát huy trong lĩnh vực thương mại mà ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các lĩnh vực phi thương mại khác.
Marketing có vai trò đặcbiệt quan trọng trong quản trị kinh doanh của doanh nghiệp. Marketing làm cho khách hàng và người sản xuất xích lại gần nhau hơn. Ngoài ra, nó còn có vai trò hướng dẫn, chỉ đạo và phối hợp các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp một cách nhịp nhàng. Nhờ Marketing mà doanh nghiệp có những thông tin phản hồi từ phía khách hàng, để rồi có sự thay đổi và thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngày nay, Marketing là một trong những công cụ hữu hiệu giúp cho doanh nghiệp có được vị thế trên thương trường.
Với các lợi thế trên Mar keting đã mang lại những thắng lợi huy hoàng cho nhiều doanh nghiệp . Nó đã trở thành một trong những vũ khí cạnh tranh rất hiệu quả.
3. Những chính sách của Marketing-Mix
Sau khi quyết định đưa sản phẩm ra thị trường, doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống Marketing-mix để thực hiện nó. Hệ thống Marketing-mix là sự kết hợp hài hoà của 4 chính sách cấu thành chủ yếu đó là sản phẩm, giá cả, phân phối và giao tiếp khuyếch trương, xúc tiến bán.
3.1. Chính sách về sản phẩm
sản phẩm là yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của hệ thống Mar-mix. Chính sách sản phẩm là nhân tốa quyết định của chính sách kinh doanh cũng như chính sách Mar-mix, bởi vì công ty chỉ tồn tại và phát triển thông qua lượng sản phẩm hay dịch vụ được cung ứng.
Hàng hoá là tất cả những cái gì có thể thoả mãn nhu cầu hay mong muốn và được chào bán trên thị trường voứi mục đích thu hút sự chú ý, mua, sử dụng hay tiêu dùng. Đó có thể là những vật hữu hình, dịch vụ, sức lao động, đất đai, tác phẩm nghệ thuật.
Xét từ góc độ Marketing, mọi sản phẩm, hàng hoá đèu phải qua một chu kỳ sống gồm 4 giai đoạn đó là:
- Giai đoạn một: Giai đoạn tung sản phẩm ra thị trường
- Giai đoạn hai: Giai đoạn sản phẩm tăng trưởng.
- Giai đoạn ba: Giai đoạn sản phẩm trưởng thành, bão hoà
- Giai đoạn bốn: Giai đoạn sản phẩm suy thoái
Chu kỳ sống của sản phẩm là quãng thời gian kể từ lúc sản phẩm được tung ra thị trường cho đến lúc nó biến mất.
Các doanh nghiệp thường phải nghiên cứu chu kỳ đời sô9ngs của sản phẩm nhằm mục đích thấy được các đặc trưng của mỗi giai đoạn trong một chu kỳ, từ đó có những giải pháp Marketing tương ứng phù hợp nhằm làm cho một sản phẩm ít nhất là vượt qua tất cả các giai đoạn của một chu kỳ sống nếu tốt hơn nữa thì lại tiếp tục chu kỳ tiếp theo.
3.2. Chính sách giá cả
Giá cả hàng hoá là lượng tiền mà người tiêu dùng bỏ ra để chi trả một loại hàng hoá nào đó, trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giá đóng một vai trò rất lớn vì nó là một bộ phận cấu thành Mar-mix và là công cụ cạnh tranh đắc lực. Đối với người tiêu dùng thì giá cả có ảnh hưởng rất lớn trong quá trình mua hàng hoá và dịch vụ. Do vậy, việc định giá bán phải bồi hoàn đủ chi phí, phải đảm bảo mức lãi và được người tiêu dùng chấp nhận trong mọi điều kiện của thị trường. Dựa vào những căn cứ yêu cầu khác nhau về quá trình hình thành giá cả để xác lập ra những giá khác nhau ban đầu của một loại sản phẩm dựa trên căn cứ sau:
+ Dựa vào pháp luật-chính sách quản lý giá của Nhà nước
Thông thường nhà nước quản lý giá trong điều kiện kinh tế thị trường thông qua hai hình thức: quản lý trực tiếp thông qua đặt giá trần giá sàn và quản lý gián tiếp bằng cách Nhà nước tìm phương hướng tác động vào quan hệ cung cầu trên thị trường từ đó điều chỉnh giá cho nền kinh tế.
+ Dựa vào đặc tính của sản phẩm trên hai yếu tố đó là : chu kỳ sống và chi phí sản xuất.
+ Dựa vào những mục tiêu của doanh nghiệp như mục tiêu doanh số bán, lợi nhuận,mục tiêu chiếm lĩnh thị trường...
+ Dựa vào nhu cầu thị trường trong tương lai
+ Dựa vào khả năng cạnh tranh của công ty trên thị trường
Việc xác định giá cả cho một loại hàng hoá rất quan trọng, do đó nó cũng hết sức phức tạp khó khăn. Thông thường nó là một quá trình gồm các giai đoạn sau:
Giai đoạn 1: Công ty phải các định mục tiêu hay mục tiêu Marketing của mình một cách kỹ càng như: Mục tiêu là bảo đảm sống sót, tăng tối đa lợi nhuận trước mắt, giành thị phần hay chất lượng hàng hoá.
Giai đoạn 2: Công ty cần phải tính toán xem tổng chi phí của mình thay đổi như thế nào khi khối lượng sản phẩm khác nhau ra đời.
Giai đoạn 3: Công ty xây dựng cho mình một đường càu bằng đồ thị thể hiện số lượng hàng hoá chắc chắn sẽ bán được trên thị trường trong một khoảng thời gian cụ thể theo mức giá khác nhau. Nhu cầu thị trường càng không co giãn thì giá cả do công ty đặt ra càng cao.
Giai đoạn 4: Công ty nghiên cứu giá cả của các đối thủ cạnh tranh để sử dụng chúng làm căn cứ khi xác định vị trí giá cả cho hàng hoá của mình.
Giai đoạn 5: Công ty lựa chọn cho mình một trong những phương pháp hình thành giá sau:
- Chi phí bình quân cộng lãi
- phân tích điểm hoà vốn và đảm bảo lợi nhuận mục tiêu
- Xác định giá căn cứ vào giá trị cảm nhận được của hàng hoá.
- Xác định giá căn cứ vào mức giá hiện hành và xác định trên cơ sở thầu kín.
Công ty quyết định giá cuối cùng cho hàng hoá cần lưu ý đến sự chấp nhận về mặt tâm lý đầy đủ nhất, đối với giá đó và nhất thiết phải kiểm tra xem giá đó có phù hợp với những mục tiêu của chính sachs giá cả mà công ty thi hành không và những người phân phối và các nhà kinh doanh, các nhân viên bán hàng của công ty, các đối thủ cạnh tranh, những cung ứng và các cơ quan Nhà nước có sẵn sàng chấp nhận không.
3.3. Chính sách lựa chọn kênh phân phối
Kênh phân phối là tập hợp các công ty hay cá nhân mà qua đó người bán thực hiện việc chuyển giao cho người tiêu dùng quyền sử dụng hay quyền sở hữu hàng hoá hay dịch vụ cụ thể.
Kenh phân phối là con đường hàng hoá được lưu thông từ các nhà sản xuất đến người tiêu dùng. Nhờ nó mà khắc phục được những trở ngại về thời gian, địa điểm và quyền sở hữu hàng hoá và dịch vụ với những người muốn sử dụng chúng. Các thành viên của kênh phân phối làm một số chức năng:
1. Nghiên cứu, thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi.
2. Kích thích tiêu thụ, soạn thảo và truyền bá những thông tin về hàng hoá.
3. Thiết lập các mối quan hệ, tạo dựng và duy trì những mối quan hệ với những người mua tiềm ẩn.
4. Hoàn thiện hàng hoá, làm cho hàng hoá đáp ứng được những yêu cầu của người mua. Việc này liên quan đến các hoạt động sản xuất, phân loại lắp ráp và đóng gói.
5. Tiến hành thương lượng, những việc thoả thuận với nhau về giá cả và những điều kiện khác để thực hiện bước tiếp theo là chuyển giao quyền sở hữu hay quyền sử dụng.
6. Tổ chức lưu thông hàng hoá, vận chuyển và bảo quản, dự trữ hàng hoá.
7. Đảm bảo kinh phí- tìm kiếm và sử dụng nguồn vốn để bù đắp các chi phí hoạt động của kênh.
8. Chấp nhận rủi ro, gánh chịu trách nhiệm về hoạt động của kênh.
Các thành viên trong kênh phân phối Marketing bao gồm:
- Người cung ứng (doanh nghiệp sản xuất, người xuất khẩu ...) là người bắt đầu của kênh có nhiệm vụ cấp hàng hoá cho lưu thông.
- Người trung gian ( gồm các phần tử trung gian như các đại lý cấp 1,2... những người bán buôn, người bán lẻ...) là những người trung gian giữa nhà sản xuất và người tiêu dùng có nhiệm vụ làm cho hàng hoá lưu thông thuận lợi.
- Hệ thống kho tàng, bến bãi, phương tiện vận tải, cửa hàng, hệ thống thông tin thị trường, các dịch vụ khác tham gia vào các kênh phân phối.
- Người tiêu dùng là khâu cuối trong kênh.
Trong kênh phân phối số lượng các trung gian nhiều hay ít tuỳ thuộc vào vị trí, thị phần, khả năng tài chín của công ty cũng như uy tín của công ty trên thị trường. Trong thực tế thường có các loại kênh phân phối sau:
+ Kênh cấp không: Nhà sản xuất Người tiêu dùng
Nhà xuất nhập khẩu
+ Kênh cấp 1:
Nhà sản xuất
Nhà xuất nhập khẩu Người bán lẻ Người tiêu dùng
+ kênh cấp 2:
Kênh cấp không (Marketing trực tiếp) gồm nhà sản xuất, nhà kinh doanh bán hàng lưu động, bán hàng qua bưu điện và bán hàng qua các cửa hàng của nhà sản xuất.
Kênh cấp 1: Bao gồm một người trung gian. Trên thị trường tiêu dùng, người trung gian này là người bán lẻ, còn trên thị trường hàng tư liệu sản xuất thì người trung gian là đại lý tiêu thụ hay người môi giới.
Kênh cấp 2: Bao gồm 2 trung gian. Trên các thị trường người tiêu dùng những người trung gian này thường là những người bán lẻ và bán sỉ người tiêu dùng sẽ mua hàng từ họ, còn trên thị trường tư liệu sản xuất thì có thể là người phân phối hay đại lý công nghiệp.
Kênh cấp 3: Bao gồm nhiều người trung gian. Trong kênh này thường có người bán sỉ nhỏ trong trường hợp này thì người tiêu dùng mua sản phẩm từ người bán lẻ và bán sỉ nhỏ còn người bán sỉ (đại lý cấp 1) thường không bán hàng cho người tiêu dùng cuối cùng.
Trong thực tế còn tồn tại những kênh nhiều cấp hơn. Theo quan điểm của các nhà sản xuất thì kênh càng nhiều cấp thì càng khó kiểm soát ở mỗi khâu phân phối, cần sử dụng bao nhiêu trung gian là tuỳ thộc vào chiến lược phân phối. Có các loại chiến lược phân phối sau đây:
+ Chiến lược phân phối rộng rãi: Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược này khi muốn mở rộng thị phần và làm cho người tiêu dùng biết đến sản phẩm của mình.
+ Chiến lược phân phối rộng quyền: Các doanh nghiệp áp dụng chiến lược này khi đã có uy tín trên thị trường do vậy họ muốn lựa chọn người phân phối có năng lực nhất. Với các mặt hàng đặc biệt thường áp dụng chiến lược này.
+ Chiến lược phân phối chọn lọc: Trường hợp này các doanh nghiệp kết hợp hài hoà hai chiến lược trên.
3.4. Chiến lược giao tiếp khuyếch trương
Mục đích của chiến lược này là giới thiệu và truyền tin về số lượng cung để cho cung cầu gặp nhau nhằm đẩy mạnh việc tiêu thụ hàng hoá thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng và để đạt hiệu qủa kinh doanh cao nhất, nó thuộc về giai đoạn thứ ba của phương pháp tiến hành hoạt động Marketing và là giai đoạn cuối cùng của hoạt động này. Về cơ bản thì chính sách giao tiếp khuyếch trương bao gồm bốn yếu tố sau:
- Quảng cáo
- Xúc tiến bán hàng
- Bán hàng cá nhân
- Quan hệ với quần chúng (tuyên truyền)
Đối với một doanh nghiệp thì vấn đề đặt ra là cần phải lựa chọn yếu tố nào trong 4 yếu tố đó để giới thiệu và truyền tin về sản phẩm của mình. Để làm điều đó thường các doanh nghiệp dựa vào các phân tích sau:
+ Phân tích bản chất, đặc trưng của mỗi yếu tố thuộc về chính sách giao tiếp khuyếch trương.
+ Phân tích loại hình sản phẩm, loại hình thị trường , thông thường người ta chia làm hai loại sản phẩm là hàng tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Vị trí của 4 yếu tố nêu trên nó được sắp xếp một cách khác nhau theo hai loại thị trường đó là vì những đặc trưng của thị trường. Ví dụ như thứ tự của các yếu tố trong chính sách này như sau:
Với hàng tiêu dùng: 1. Quảng cáo 2. Xúc tiến bán 3. Bán hàng cá nhân 4. Tuyên truyền.
Với hàng tư liệu sản xuất 1. Bán hàng cá nhân 2. Xúc tiến bán
3. Quảng cáo 4. Tuyên truyền.
+ Phân tích các pha của chu kì sống sản phẩm
Với pha 1: Nếu mạnh về biện pháp quảng cáo, xúc tiến bán chỉ có ý nghĩa kích thích tức thời.
Với pha 2: Quảng cáo vốn là quan trọng, xúc tiến bán không có vai trò lớn lắm.
Với pha 3: nhấn mạnh đến những biện pháp xúc tiến bán hàng, quảng cáo lúc này chỉ có ý nghĩa nhắc nhở và làm cho người ta lưu tâm đến nhã hiệu sản phẩm.
Với pha 4: Xúc tiến bán không có ý nghĩa, chỉ có thể quảng cáo ở một chừng mực nhất định nào đó đực biệt trường hợp sắp phải rút ra khỏi thị trường.
Mục tieu của các doanh nghiệp là mong muốn bán được nhiều hàng hoá và thu lợi nhuận tối đa do vậy hoạt động Marketing là không thể thiếu được trong mỗi doanh nghiệp. Việc kết hợp các chính sách như thế nào cho có hiệu quả đó mới là điều mà các doanh nghiệp cần quan tâm.
II. Những đặc điểm của Marketing xuất khẩu
Nhà kinh tế học ĐRicardo đã đưa ra qui luật lợi thế tương đối. Qui luật được phát biểu như sau: “nếu một quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thương mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình”
Theo qui luật này thì có nghĩa là khi tham gia vào thương mại quốc tế thì những quốc gia có hiệu quả thấp trong sản xuất hàng hoá sẽ tiến hành chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ít bất lợi nhất và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng là bất lợi nhất.
Để sản xuất ra một mặt hàng nhiều hơn, nền kinh tế phải hy sinh một phần việc sản xuất các mặt hàng khác. Một quốc gia nếu biết khéo léo lựa chọn và kết hợp giữa ưu thế của quốc gia mình với quốc gia khác, thì sẽ đạt được hiệu quả tối đa trên cơ sở nguồn lực hạn chế, mà trước đó nếu không tham gia vào thương mại quốc tế thì họ không có được. Đối với một nước mà việc sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ là không hiệu quả bằng các nước khacs, nhưng trong nhiều trường hợp họ vẫn thu được lợi ích thậm chí lợi ích cao hơn các nước khác, nếu nước đó chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà việc sản xuất ra chúng tương đối đắt và phải dùng đến nguồn lực khan hiếm.
Từ đây chúng ta thấy rằng do có sự chuyên môn hoá trong sản xuất, chắc chắn sẽ có sự dư thừa và thiếu hụt các loại sản phẩm khác nhau trong mỗi nước. Như vậy cấn có sự trao đổi hàng hoá giữa các nước và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chính là cầu nối cho việc buôn bán trao đổi này.
1. Quan điểm về Marketing xuất khẩu và vai trò của xuất khẩu
Kinh doanh xuất nhập khẩu là một lĩnh vực đang được sự quan tâm đặc biệt của các cấp, các ngành và Chính phủ.
2. Đặc điểm của Marketing xuất khẩu
Về cơ bản thì Marketing được xuát phát từ nhu cầu tiêu dùng. Do vậy Marketing đã được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong mỗi lĩnh vực thì Marketing lại có những đặc thù riêng. Do vậy Marketing xuất khẩu có những đặc thù riêng của nó:
- Marketing xuất khẩu là làm thích ứng sản phẩm của mình trên các thị trường , tạo được ưu thế cạnh tranh đối với sản phẩm khác.
Marketing xuất khẩu không chỉ là làm Marketing với một mặt hàng mà đa dạng hoá mặt hàng của nhiều nhà sản xuất khác trong nước ở những thị trường xuất khẩu khác nhau.
- Marketing xuất khẩu mang tính chất và đặc điểm giống với Marketing công nghiệp. Bởi vì khách hàng của nhà xuất khẩu chủ yếu là các tổ chức, các doanh nghiệp bán lại, người bán buôn.
Trong kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ tham gia vào thị trường hình thức xuất khẩu mưcs độ hoạt động Marketing sẽ khác nhau.
a. Trường hợp xuất khẩu trực tiếp:
Người xuất khẩu cần quan tâm đến thị trường mua (nhập khẩu ) hàng hoá đó. Họ cần tìm hiểu nhu cầu thị trường qua các đối tác và tìm kiếm những đối tác trên thị trường mới. Hầu hết các nhà sản xuất, chỉ sử dụng các trung gian phân phối trong những điều kiện cần thiết. Khi đã phát triển đủ mạnh để tiến tới thành lập tổ chức bán hàng thì họ thích sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp. Ưu điểm của trường hợp này là giảm bớt được chi phí trung gian, có liên hệ trực tiếp với khách hàng, nhu cầu thị trường và tình hình bán hàng, có thể thay đổi nhanh chóng mẫu mã sản phẩm, điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết. Tuy nhiên với hình thức này mức độ rủi ro có thể tăng lên.
b. Trường hợp xuất khẩu gián tiếp (uỷ thác xuất khẩu )
Hình thức này là các doanh nghiệp thông qua dịch vụ của tổ chức độc lập đặt tại nước ngoài để tiến hành xuất khẩu sản phẩm của mình. Ưu điểm cơ bản của hình thức này là ít phải đầu tư và không phải triển khai lực lượng bán hàng ở nước ngoài. Tuy vậy, hình thức này làm giảm lợi nhuận vì cẩn có nhiều kênh phân phối và doanh nghiệp không thể kiểm soát hết nhu cầu khách hàng.
Theo định nghĩa Marketing, vấn đề trung tâm của Marketing là thoả mãn tối đa nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Chương trình Marketing lập kế hoạch và kết hợp các yếu tố của Marketing-mix phải thể hiện những cací mà người tiêu dùng quan tâm đến và thực sự cần thiết đpối với họ. Thực chất dó của công việc là khả năng thích nghi nhanh chóng với tình hình thị trường và quan hệ cung cầu, tình hình cạnh tranh.
Nhiệm vụ của người quản lý Marketing xuất khẩu là hệ thống hoá và thi hành chính sách Marketing nhằm làm cho hàng hoá thích nghi với môi trường và đạt được sự hoàn thiện trên cả thị trường trong nước và quốc tế.
Có nhiều đặc điểm khác biệt giữa thị trường trong nước và quốc tế. Nhìn chung các phương pháp cơ bản của Marketing có thể áp dụng và thích hợp với nhiều thị trường và các khái niệm cơ sở của Marketing vẫn đúng cho cả trường hợp ở nội địa và nước ngoài. Tuy nhiên, trong quá trình vận dụng cần tính đến yếu tố đặc thù ở mỗi nước như tập quán thương mại, điều kiện chính trị, pháp lý... Marketing xuất khẩu thực ra là việc vận dụng kinh nghiệm quản lý Marketing trong nước vào các môi trường kinh doanh khác.
Bên cạnh những vấn đề nêu trên thì người làm Marketinbg xuất khẩu cần chú ý là sản phẩm bị chi phối bởi các nước chủ nhà. Sự ảnh hưởng bởi các chính sách bảo hộ mậu dịch và hàng rào thuế quan của nước nhập khẩu không phải lúc nào cũng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng ở nước nhập khẩu bởi vì việc nghiên cứu thị trường ở các thị trường đó là rất khó khăn so với thị trường trong nước. Mặt khác người xuất khẩu phải quan tâm đến mối quan hệ giữa thị trường trong nước và thị trường khu vực, thế giới. Hiện tại, trên thị trường đang có xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá, do vậy người xuất khẩu cần quan tâm đến sự khác biệt, sự tương đồng giữa thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
3. Những định hướng của Marketing xuất khẩu
Xuất khẩu bao giờ cũng phức tạp hơn nhiều trao đổi hàng hoá và dịch vụ trong nước vì có những ràng buộc quốc tế, sự khác biệt về đồng tiền thanh toán , chính sách luật lệ và đặc biệt là sự thiếu hiểu biết lẫn nhau... là những trở ngại lớn cho xuất nhập khẩu. Chính vì thế để tiến hành công việc một cách thuận tiện có hiệu quả thì công tác chuẩn bị cần hết sức thận trọng và chu đáo. Hiệu quả của giao dịch lúc này phụ thuộc phần lớn ở công tác chuẩn bị. Công việc này bao gồm: Nghiên cứu, tiếp cận thị trường, lập phương án giao dịch và tổ chức thực hiện.
3.1. Nghiên cứu thị trường
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố khác nhau, Thường là đa dạng và phong phú hơn nhiều so với thị trường nội địa. Các nhân tố này có thể mang tính vĩ mô và vi mô. Có trường hợp được thể hiện một cách rõ ràng song cũng có trường hợp rất tiềm ẩn khó nắm bắt đối với nhà kinh doanh nước ngoài. Việc định dạng nhân tố này cho phép doanh nghiệp xác định rõ những nội dung cần tiến hành nghiên cứu trên thị trường quốc tế. Nó cũng là căn cứ để lựa chọn thị trường, cách thức thâm nhập và các chính sách Marketing khác. Một cách khái quát nhất, việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhóm nhân tố ảnh hưởng sau:
- Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu: Nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng chung trên thế giới là tự do hoá mậu dịch và các nỗ lực chung để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với kinh doanh quốc tế, các nhà kinh doanh nước ngoài phải đối mặt với các hạn chế thương mại khác nhau. Phổ biến nhất là thuế quan, một loại thuế do Chính phủ nước ngoài đánh vào những sản phẩm nhập khẩu. Nhà xuất khẩu cũng có thể phải đối mặt với hạn ngạch.
Thương mại quốc tế cũng bị ảnh hưởng bởi hạn chế do việc kiểm soát ngoại hối và đối diện với một loạt các hàng rào phi thuế quan như giấy phép nhập khẩu, những sự quản lý, điều tiết định hình như phân biệt đối xử với các nhà đầu tư nước ngoài, các tiêu chuẩn sản phẩm mang tính phân biệt đối xử với hàng nước ngoài.
- Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế: Khi xem xét các thị trường nước ngoài, nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng nước. Có ba đặc tính kinh tế phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một thị trường cho các doanh nghiệp nước ngoài đó là:
+ Cấu trúc công nghiệp của nước nhập khẩu, cấu trúc công nghiệp của nước nhập khẩu định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực.
+ Việc phân phối thu nhập: Sự phân phối thu nhập của mpột nước bị chi phối bởi cấu trúc công nghiệp và chịu tác động của nhaan tố chính trị.
+ Động thái của các nền kinh tế: Các nước trên thể giới đang trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bởi tốc độ tăng trưởng khác nhau. Tốc độ tăng trưởng ảnh hưởng đến nhu cầu thị trường và tổng mức nhập khẩu sản phẩm.
- Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị-luật pháp: Các quốc gia khác nhau về môi trường chính trị-pháp lý. Do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trường nước ngoài cần chú ý đến nhân tố cơ bản sau :
+ Thái độ đối với nàh kinh doanh nước ngoài
+ Sự ổn định chính trị
+ Sự điều tiết về tiền tệ
+ Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền.
Các qui định mang tính chất bắt buộc về pháp luật và quản lý như việc cấm đoán hoặc kiểm soát đối với một số hàng hoá dịch vụ, cấm một số phương thức hoạt động thương mại (trong lĩnh vực quảng các ), các kiểu kiểm soát về giá cả, các tiêu chuẩn mang tính bắt buộc đối với sản phẩm.
- Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá. Mỗi quốc gia đều có những tập tục, qui tắc, bản sắc riêng. Chúng được hình thành heo truyền thống văn hoá mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của khách hàng nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện khá nhiều tập tính tiêu dùng chung cho moị dân tộc. Song những yếu tố văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững và có ảnh hưởng mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng. Sự khác biệt văn hoá ảnh hưởng tới cách thức giao dịch được tiến hành, sản phẩm và hình thức khuyếch trương.
- Nghiên cứu nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh. Sự hấp dẫn của thị trường nước ngoài còn chịu ảnh hưởng quan trọng của mức độ cạnh tranh trên thị trường đó. Trước hết, các nhà kinh doanh nước ngoài phải đối đầu với các đối thủ cạnh tranh nộ địa và các doanh nghiệp nước ngoài đang hoạt động trên thị trường đó.
- Nghiên cứu về môi trường khoa học kỹ._. thuật: cần phải xem xét tới khả năng phát triển khoa học ở các thị trường tránh trường hợp đi sau hoặc phát triển ở cuối chu kỳ sống của sản phẩm trên thị trường đó.
Mặt khác của việc nghiên cứu thị trường hàng hoá ở các thị trường của doanh nghiệp để nhằm hiểu biết quy luật vận động cuả chúng. Mỗi thị trường hàng hoá cụ thể có quy luật vận động riêng. Quy luật đó thể hiện qua sự biến đổi về cung cầu, giá cả hàng hoá trên thị trường. Nắm vững các quy luật của thị trường hàng hoá để giải quyết hàng loạt các vấn đề của thực tiễn kinh doanh liên quan ít nhiều đến vấn đề thị trường như thái độ tiếp thu của người tiêu dungtf, yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá... Nghiên cứu thị trường thế giới phải bao gồm việc nghiên cứu toàn bộ quá trình tái sản xuất của mặt hàng, ngành hàng sản xuất cụ thể, tức là việc nghiên cứu không chỉ giới hạn ở lĩnh vực lưu thông mà ở cả lĩnh vực sản xuất, phân phối hàng hoá. Những diễn biến trong quá trình tái sản xuất của một ngành sản xuất hàng hoá cụ thể được biểu hiện tập trung trong lĩnh vực lưu thông thị trường của hàng hoá đó.
3.2. Lập phương án kinh doanh xuất khẩu
Đây là kế hoạch hoạt động cụ thể của một quan hệ giai dịch mua bán hàng hoá hay dịch vụ (chính sách Marketing-mix). Phương án kinh doanh được hình thành trên những cơ sở thông tin có được trong quá trình nghiên cứu thị trường kéet hợp với tiềm lực của công ty. Phương án kinh doanh cần thể hiện được các nội dung sau:
- nhận định tổng quan về diễn biến tình hình thị trường thế giưoí và thị trường khu vực, tình hình thị trường trong nước và thị trường nước nhập khẩu.
- Lựa chọn phương thức giao dịch, thị trường và khách hàng giao dịch. ậ đây nhà kinh doanh cần xác định mình sẽ giao dịch bằng cách nào: trực tiếp hay qua trung gian hay mua đứt bán đoạn, từ đó đề ra kế hoạch cụ thể cho những hoạt động tiếp theo. Trước khi có được một quyết định chính xác người kinh doanh cần tìm hiểu rõ các nhân tố chi phối đến quá trình giao dịch như: Môi trường vĩ mô, tập quán thương mại...
3.3. Tổ chức thực hiện xuất khẩu
Sau khi đã có được những thông tin , số liệu cần thiết thông qua việc nghiên cứu thị trường và lựa chọn phương thức giao dịch, thì người làm Marketing xuất khẩu cần phải lập kế hoạch Marketing với nội dung khái quát như sau:
- Trên cơ sở kế hoạch chung và quan điểm của Marketing, công ty cần hình thành mối quan hệ giữa chiến lược và chiến thuật, cũng như các quyết định Marketing xuất khẩu, đoạn thị trường trung tâm, cách thức hoạt động, lựa chọn sản phẩm xuất khẩu cho từng thị trường, tiến hành quảng cáo sản phẩm.
- Lập kế hoạch và kiểm tra là hai khâu của nội dung tổ chức thực hiện. Lập kế hoạch gồm kế hoạch chiến lược và kế hoạch Marketing, kế hoạch chiến lược sẽ chỉ ra những định hướng cơ bản, những chỉ tiêu tổng hợp khái quát để xây dựng chỉ tiêu (doanh nghiệp đề ra những chỉ tiêu, biện pháp cụ thể...) kiểm tra là lượng hoá và phân tích các kết quả đã đạt được, trong khuôn khổ các kế hoạch chiến lược Marketing đồng thời tiến hành những sự điều chỉnh cần thiết phù hợp với sự biến động của thị trường trên cơ sở phân tích đánh giá những hiện tượng thực tế phát sinh.
Triển khai chiến lược Marketing xuất khẩu trước hết là đề ra mục tiêu của việc xâm nhập mở rộng thị trường xuất khẩu từng đợt, tiếp theo là kế hoạch hoá các yếu tố Marketing-mix. Sản phẩm giá cả, phân phối giao tiếp khuyếch trương. Cuối cùng nhà xuất khẩu sẽ phải lựa chọn được một phương án tối ưu nhất và tiến hành thực hiện.
Chương II
Thực trạng hoạt động Marketing của công ty xuất nhập khẩu thủ công Mỹ nghệ -ARTEXPORT
I. Khái quát hoạt động kinh doanh của công ty -ARTEXPORT
1) Qúa trình hình thành và phát triển của công ty
Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Hà nội tên giao dịch là ARTEXPORT được thành lập theo quyết định số 617/BNT-BCCS ngày 23-12-1964 của Bộ ngoại thương nay là Bộ Thương mại, trụ sở đặt tại 31-33 Ngô Quyền - quận Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Nhiệm vụ chính của công ty chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ như: gốm, sứ, sơn mài, thảm cói, thảm ngô, hàng thêu ren ngày nay phát triển thêm một số mặt hàng khác như: Thảm len, hàng may mặc, thảm đay....
1.1 Các giai đoạn phát triển của công ty.
+ Giai đoạn từ 1964-1989: Đây là thời kỳ hoạt động theo cơ chế bao cấp mọi hoạt động kinh doanh của công ty ARTEXPORT hoàn toàn thụ động do kế hoạch Nhà nước giao. Nhiệm vụ chủ yếu của công ty thời kỳ này là tổ chức sản xuất các sản phẩm xuất khẩu, tổ chức giao nhận vận tải ngoại thương.
Sau năm 1975 Công ty bắt tay vào việc quản lý xuất nhập khẩu ngành hàng thủ công mỹ nghệ trên phạm vi cả nước. Kế hoạch 5 năm (1976 - 1980) tổng kim ngạch lên tới 234,6 triệu rúp/USD, kim ngạch xuất khẩu thời kỳ này là rúp-USD 194,6 triệu rúp/USD. Trong thời kỳ kế hoạch 5 năm (1981-1985) tổng kim ngạch xuất khẩu lên tới 289,3 triệu rúp/USD, bình quân hàng năm đạt trên 57 triệu rúp/USD năm cao nhất lên tới 66 triệu rúp/USD (1984).
+ Giai đoạn 1989-1995: Công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Hà Nội phải chuyển qua thời kỳ mới hoạt động theo đúng chức năng tự hạch toán, hoạch định các chiến lược kinh doanh và tự chịu trách nhiệm nên doanh nghiệp không tránh khỏi những lúng túng. Thêm vào đó, giai đoạn này Liên Xô và Đông Âu (thị trường xuất khẩu chính của công ty) biến động thay đổi cơ chế do vậy kim ngạch xuất khẩu của công ty giảm đáng kể.
Để duy trì và tồn tại, phát triển ngành hàng công ty phải có những biện pháp bước đi thích hợp để ổn định dần những khó khăn về thị trường tiêu thụ, hàng thủ công mỹ nghệ truyền thống, tăng cường phát triển mặt hàng mới, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
Giai đoạn từ 1995 đến nay: giai đoạn này công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ Hà Nội hoạt động theo mô hình mới, phương thức kinh doanh thời kỳ này cùng thay đổi linh hoạt để thích ứng với cơ chế thị trường.
Mặc dù gặp nhiều khó khăn nhưng với sự giúp đỡ chỉ đạo của Bộ Thương mại các cơ quan Nhà nước, cùng với sự nỗ lực phấn đấu khắc phục mọi khó khăn của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty vẫn giữ vững và phát huy chữ tín của mình đối với tất cả các bạn hàng trong và ngoài nước.
1.2. Mô hình và bộ máy tổ chức của công ty xuất nhập khẩu ARTEXPORT .
- Văn phòng gồm 12 người với nhiệm vụ quản lý tài sản chung của công ty, theo dõi tình hình sử dụng tài sản, quản lý các khoản chi tiêu thuộc phạm vi văn phòng.
- Phòng tổ chức cán bộ có 7 cán bộ công nhân viên có nhiệm vụ giúp các đơn vị tổ chức sắp xếp và quản lí lao động để tạo điều kiện nhằm sử dụng hợp lý và có hiệu qủa lực lượng lao động của công ty.
Phòng tài chính kế hoạch có 11 người có nhiệm vụ tạo điều kiện cho các đơn vị phát huy tốt hiệu qủa công việc, phòng còn tham mưu cho giám đốc xét duyệt các phương án kinh doanh và phân phối thu nhập của công ty.
Phòng thị trường hàng hóa có chức năng tìm hiểu khách hàng, thị trường và thực hiện các biện pháp giữ khách hàng.
- Các phòng nghiệp vụ xuất khẩu có 10 phòng trực tiếp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu theo các phương án được giám đốc xét duyệt.
Các phòng này thực hiện các bước của thương vụ: tìm hiểu thị trường, chào hàng, ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng thanh toán....
Qua cơ cấu tổ chức của công ty ta nhận thấy đây là một cơ cấu tổ chức hợp lý. Công ty đã trao quyền trực tiếp sản xuất kinh doanh cho các đơn vị trên cơ sở đảm bảo kinh doanh có lãi và tuân theo các khuôn khổ của luật pháp là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nên cơ cấu tổ chức của công ty có nét đặc thù riêng là có thêm phòng thị trường hàng hóa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị hoạt động. Tuy nhiên, cơ cấu sản xuất trên thì có thể dẫn tới một hạn chế là nhiều đơn vị kinh doanh một mặt hàng nên dẫn tới sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Để khắc phục tình trạng trên các phòng này cần thương lượng với nhau. Cùng hỗ trợ nhau phát triển dưới sự chỉ đạo của ban giám đốc. Nhằm bảo đảm bảo lợi ích cho các bên và phục vụ cho mục đích chung là sự phát triển của công ty.
Ngoài trụ sở chính của công ty đặt tại 31-33 Ngô Quyền công ty còn có 3 chi nhánh và văn phòng đại diện đặt ở 3 thành phố lớn.
* Chi nhánh đặt tại Hải Phòng
* Chi nhánh đặt tại Đà Nẵng
* Văn phòng đại diện đặt tại Thành phồ Hồ Chí Minh.
Ngoài ra công ty còn có xưởng sản xuất gỗ, xưởng thêu và phòng trưng bày giới thiệu sản phẩm.
2- Lĩnh vực kinh doanh của công ty ARTEXPORT .
Năm 1993 chủ trương của Bộ thương mại có quyết định, thành lập lại 1 số doanh nghiệp trực thuộc bộ trong đó có công ty ARTEXPORT theo quyết định 685/TM/TCCB ngày 08-06-1993 qui định chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn, tổ chức bộ máy. Theo quyết định này, mục đích hoạt động của công ty có sự thay đổi về cơ cấu mặt hàng.
Theo quyết định này công ty không chỉ chuyên kinh doanh XNK mặt hàng thủ công mỹ nghệ, mà còn được phép kinh doanh XNK tổng hợp.
Mục đích hoạtt động của Công tỷ trong thời kỳ đổi mới là khai thác có hiệu qủa các nguồn vật tư, nhân lực, tài nguyên của đất nước, để đẩy mạnh xuất khẩu tăng thu ngoại tệ, góp phần vào công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Thông qua hoạt động sản xuất, kinh doanh XNK của công ty.
Nội dung hoạt động, tổ chức sản xuất, chế biến gia công thu mua hàng thủ công mỹ nghệ và sản xuất một số mặt hàng khác được bộ cho phép xuất khẩu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong đó có hàng sơn mài. Nhập khẩu nguyên vật liệu, vật tư, máy móc thiết bị và phương tiện vận tải phục vụ cho sản xuất và kinh doanh theo quyết định hiện hành của Bộ thương mại và Nhà nước.
Mô hình Bộ máy tổ chức của công ty xuất nhập khẩu thủ công mỹ nghệ - Hà Nội (ARTEXPORT )
Khối quản lý các đơn vị
Ban giám đốc
Phòng Tth - Hoá
Phòng TCKH
Phòng TCCB
Văn phòng
Phòng XNK 8
Phòng XNK 7
Phòng XNK 6
Phòng XNK 5
Phòng XNK 4
Phòng XNK 3
Phòng XNK 2
Xưởng gỗ
Xưởng thêu
Phòng Mỹ nghệ
Phòng XNK 11
Phòng XNK 10
Phòng dép
Phòng cói
Phòng gồm sứ
Phòng thêu
Cửa hàng giới thiệu
Sản phẩm và tiếp thị
3.Tình hình xuất khẩu của ARTEXPORT trong thời gian qua.
Bứơc sang năm 1991 khối các nước xã hội chủ nghĩa hầu như đã tan rã, phương thức xuất nhập khẩu theo nghị định thư không còn nữa. Nền kinh tế nước ta đã chuyển đổi từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường. Để có thể tồn tại và phát triển, năm 1993 bộ thương mại đã có quyết định cho công ty không chỉ chuyên kinh doanh XNK mặt hàng thủ công mỹ nghệ và được phép kinh doanh xuất nhập khẩu tổng hợp. Song nhiệm vụ quan trọng của công ty là xuất khẩu và đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ, mặt hàng này rất đa dạng phong phú về chủng loại, mẫu mã, bao gồm mặt hàng; cói mây, sơn mài mỹ nghệ, gốm sứ, thêu ren, mây tre, gỗ mỹ nghệ và thảm len. Ngoài ra để tăng thu ngoại tệ công ty còn xuất khẩu 1 số mặt hàng khác; nông sản thực phẩm, hàng bách hóa, sản phẩm tôn kẽm...
Ta có thể thấy tình hình kinh doanh và kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng của công ty trong một vài năm qua như sau: (bảng I)
Qua bảng trên ta thấy hoạt động kinh doanh XNK thủ công mỹ nghệ của công ty từ 1995- 1999 tăng lên rõ rệt tỷ trọng XK từng mặt hàng có sự biến động theo các ngành. Cho ảnh hưởng của sự biến động ở các thị trường XK, mặt khác do cạnh tranh của các công ty trong nước cùng XK mặt hàng này. Trong các mặt hàng XK chủ yếu của công ty thì mặt hàng gốm sứ chếm tỷ trọng XK lớn nhất và không ngừng tăng qua các năm năm 1995 tỷ trọng mặt hàng này chiếm 35,9% đến là hàng Thêu ren, hàng cói mây và gỗ mỹ nghệ. Nhìn chung cơ cấu mặt hàng của công ty ít có sự biến động, thay đổi, mặt hàng XK chính vẫn là hàng thủ công mỹ nghệ. Mặt hàng này vấn chiếm tỷ trọng XK trong tổng kim ngạch XK hàng năm của công ty.
Từ năm 1991 nền kinh tế thị trường đã hình thành tại nước ta. Hoạt động xuất nhập khẩu không còn theo phương thức Nghị định thư mà hoàn toàn thả nổi các công ty tự do cạnh tranh với nhau. Trong hoàn cảnh như vậy với uy tín của mình công ty đã đứng vững trước sự cạnh tranh gay gắp của các công ty được phép XNK hàng thủ công mỹ nghệ và kim ngạch xuất khẩu của công ty qua các năm vẫn không ngừng tăng lên qua các năm.
Bảng I
Các mặt hàng khác của công ty thay đổi thất thường về giá trị và tỷ trọng. Mặc dù công ty đã cố gắng bám sát các thị trường, bạn hàng truyền thống của công ty như: Nhật, Đài Loan, Pháp , Đức... và đang đi sâu vào các thị trường mới trong khu vực, đặc biệt công ty đã bám sát tạo nguồn hàng trong nước bằng cách liên doanh, liên kết, hỗ trợ người sản xuất, nhằm nâng cao chất lượng hàng hóa, giảm giá thành sản phẩm... Nhưng kinh doanh XNK là lĩnh vực liên quan tới nhiều nớc nên sự biến động của thị trường là rất lớn đặc biệt là sự cạnh tranh giữa các công ty trong nước nên việc khai thác nguồn hàng và tận dụng hiệu qủa khả năng sản xuất ở các phân xưởng của công ty là bài toán đặt ra với các nhà quản lý kinh doanh công ty.
II- Tình hình sản xuất và xuất khẩu mặt hàng thủ công Mỹ nghệ của công ty ARTEXPORT thời gian qua
1-Giới thiệu về mặt hàng thủ công mỹ nghệ.
Nghề thủ công mỹ nghệ là nghề truyền thống lâu đời ở Việt Nam. Nó được hình thành từ làng nghề, phường nghề như: nghề sản xuất gốm sứ ở Bát Tràng Sơn mài khảm trai ở Đình Bảng - Từ Sơn, điêu khắc ở Đồng Kị - Hà Bắc, Đồng Tâm - Nam Hà, đúc đồng ở Ngũ Xá - Hà Nội, mây tre ở Vạn Phúc - Thanh Trì Ninh Sở- Hà Tây, Cói đan ở Kim Sơn - Ninh Bình, Nga Sơn - Thanh Hóa, ở miền Nam có sơn mài Sông Bé, gốm Đồng Nai, đà Ngũ Hành Sơn, Những làng vùng nghề truyền thống nêu trên có nghề truyền thống từ hàng ngàn năm.
Nguồn lao động dồi dào và có trình độ, có kiến thức, kỹ năng kỹ xảo. Hàng chục vạn lao động có tay nghề cao, làm nghề chuyên nghiệp dưới sự chỉ đạo của các Nghệ nhận. Ngoài ra còn có hàng triệu lao động làm thủ công theo thời vụ. Hiện nay, đội ngũ lao động trẻ có trình độ văn hóa, nhanh, khéo tay hàng năm bổ xung một lực lượng không nhỏ. Đây là nguồn tài nguyên qúi giá để tổ chức khai thác kinh doanh XNK thủ công mỹ nghệ.
Nguồn nguyên liệu phong phú: Hàng thủ công mỹ nghệ được sáng tạo ra từ các nguồn nguyên liệu khác nhau. ở nước ta hầu như rất sẵn: tre, mây, song lá, cói vỏ đay, sỏ dừa, các loại gỗ, than đá, đất. Các kim loại khác như: Gang, Đồng , Sắt, Vàng bạc, bạch kim... Với bàn tay khéo léo, người ta tạo ra các sản phẩm mỹ thuật, mỹ nghệ và thủ công có giá trị được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng.
Đặc tính mặt hàng: Hàng thủ công mỹ nghệ vừa mang tính mỹ nghệ vừa mang tính mỹ thuật. Mỹ nghệ thể hiện nền văn hóa dân tộc, vừa có giá trị sử dụng. Tuy hàng thủ công mỹ nghệ không liệt vào các loại hàng thiết yếu. Song đời sống và dân trí càng cao thì nhu cầu về hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng nhìeu. Hơn thế nữa là hàng thủ công mỹ nghệ mang những nét đặc trưng riêng cho mỗi dân tộc mà nước khác có nhu cầu sử dụng trao đổi. Vì vậy, tuy trong mậu dịch quốc tế hàng thủ công mỹ nghệ không chiếm tỷ trọng lớn. Nhưng nó trao thương với tất cả các nước trên thế giới, không nước nào không có hàng thủ công mỹ nghệ trong danh mục kim ngạch xuất khẩu.
2) Tình hình xuất khẩu mặt hàng thủ công mỹ nghệ ở ARTEXPORT
ở nước ta từ năm 1985 trở về trước, hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu luôn chiếm tỉ trọng từ 9 đến 15% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc. Chỉ riêng công ty ATEXPORT xuất khẩu năm 1987 đạt 87 triệu rúp/USD. Năm 1988 đạt 94 triệu, năm 1989 đạt 110 triệu, nó luôn chiếm tỷ trọng trên dưới 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn quốc Liên Xô (trước đây) hàng năm nhập hàng thủ công mỹ nghệ từ ấn Độ tới gần 400 triệu rúp, nhập từ nước ta năm (1980-1984) cùng đạt từ 90 triệu đến 180 triệu rúp gồm các hàng sơn mài, điêu khắc, mây tre, cói và thảm. (Nguồn: Công ty RTEXPORT).
2.1 Thị trường chủ yếu.
Trong những năm qua, thị trường thủ công mỹ nghệ thế giới nhìn chung khá sôi động biến đổi về giá cả, số lượng và tỷ trọng các loại mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong các khu vực.
Do địa lý khác nhau, văn hóa dân tộc khác nhau, trình độ phát triển kinh tế và đời sống sinh hoạt khác nhau, nên tự nó có hình thành nhu cầu trao đổi hàng thủ công mỹ nghệ một cách khác nhau.
Như Nhật là nước có ngành kỹ nghệ gốm sứ đạt trình độ hoàn hảo bậc nhất thế giới. Nhưng vẫn nhập gốm sứ Đồng Nai, Bát Tràng về tiêu thụ tại Nhật.
Đài Loan là nước đã đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào ngành sản xuất đồ điêu khắc rất tinh vi và hoàn chỉnh, nhưng lại là bạn hàng mua hàng điêu khắc gỗ từ Việt Nam với số lượng tương đối lớn, đạt hàng triệu USD/năm.
Từ năm 1990 trở lại đây, khối các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, ARTEXPORT mất đi một số bạn hàng thường xuyên kéo theo cơ cấu thị trường của công ty cùng thay đổi rõ rệt. Thị trường của công ty hiện nay chủ yếu là các nước thuộc khối tư bản chủ nghĩa. Tỷ trọng hàng thủ công mỹ nghệ sang nước nay tăng nhanh và lớn hơn so với kim ngạch xuất khẩu trước đây khi xuất sang các nước xã hội chủ nghĩa.
Song đối với thị trường này, thường xuyên có sự biến đổi về nhu cầu, dẫn tới sự biến động về giá cả, số lượng mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu của công ty là: hàng gốm sứ, hàng mây tre, sơn mài và hàng gỗ.
Thị trường của ARTEXPORT được chia làm 3 khu vực chính.
- Khu vực châu á Thái Bình Dương gồm: Nhật, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Singapore, Hàn Quốc.
- Khu vực thị trường Tây Bắc Âu gồm: Hà Lan, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Bỉ, Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan...
-Khu vực thị trường Đông Âu SNG gồm: Ba Lan, Nga, Tiệp Khắc.
-Các thị trường khác: Angola. Thổ Nhĩ Kỳ , Mỹ.
2.2 Khách hàng chủ yếu của công ty.
Khách hàng của công ty rất đa dạng từ nhiều quốc gia song có thể chia làm các loại chính sau:
- Khách hàng quen biết qua các thương vụ buôn bán các mặt hàng thủ công mỹ nghệ của công ty.
- Khách hàng được giới thiệu qua các đại lý hoặc văn phòng giao dịch thương mại nước ngoài.
- Khách hàng mà công ty tìm đến thông qua sự gặp gỡ ở các cuộc hội thảo hội chợ.
- Khách hàng tự tìm đến công ty qua quảng cáo, giới thiệu của Bộ thương mại.
Nói chung các khách hàng của công ty hiện nay đều là những khách hàng có quan hệ vững chắc và lâu dài với công ty. Đa số trong số các khách hàng này là các công ty trung gian, các đại lý của các công ty xuất nhập khẩu nước ngoài hoặc chính công ty nước ngoài nhưng làm nhiệm vụ như nhà phân phối. Ngoài ra còn có các tổ chức sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ trong nước, các công ty kinh doanh trong nước nhưng không được phép trực tiếp tham gia hoạt động xuất khẩu. Hiện nay công ty đang phát huy mối quan hệ tốt đẹp và thường xuyên để giữ các khách hàng vay mặt khác tích cực tìm kiếm thêm bạn hàng mới.
2.3 Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEXPORT trong một số năm qua.
Qua bảng số liệu về tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEXPORT trong thời gian vừa qua (bảng IV) ta có thể thấy nổi lên một số thị trường xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ rất ổn định của công ty như: Đức, Đài Loan, Nhật, Nam Triều Tiên; các thị trường này được coi là ổn định hơn so với thị trường khác của công ty nhưng trên thực tế thì chúng luôn biến động có sự tăng giảm liên tục và số lượng. Ví dụ: với thị trường Đức vào năm 1997, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gốm sứ của công ty là 894.479 USD đến năm 1998 tăng đột ngột 1872532 USD nhưng đến năm 1988 chỉ còn 1227.615 USD.
Bảng III. Tình hình xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ của công ty ARTEXPORT
Đơn vị tính: USD
Mặt hàng TCMN
Nước nhập khẩu
1995
1996
1997
1998
1999
Hàng sơn mài mỹ nghệ
Nhật
108.706
118.052
150.780
159.717
437.835
Đài Loan
51.891
65.861
633.983
230.163
104.894
Israel
37.276
26.257
37.272
40.170
142.500
CHLB Nga
22.584
14.583
39.700
57.624
274.910
Thái Lan
11.587
53.462
164.254
Đức
25.304
32.411
67.282
82.700
182.792
245.761
268.751
929.117
623.836
2.347.188
Hàng gốm sứ
Đài loan
278.593
469.573
962.192
979.971
867.3154
Nhật
276.233
231.281
453.694
472.518
451.608
Anh
117.000
101.008
71.958
167.821
227.810
Hà Lan
82.239
84.317
54.561
284.632
392.670
Canađa
70.541
101.443
151.584
196.987
297.854
Đức
103.070
140.968
894.497
1.872.532
1.276.15
úc
46.151
57.671
52.000
Pháp
7.372
17.364
133.910
154.982
236.700
Bỉ
80.721
119.476
152.202
269.573
Thái Lan
47.914
36.914
60.544
16.193
71.201
Đan mạch
31.316
46.034
76.915
104.000
1095.029
1.395.029
2.894.039
4.203.307
4.135.221
Hàng thêu
ý
392.854
506.835
356.937
434.549
427.901
N.T. Tiên
71.828
80.677
274.362
206.136
254.126
Nhật
495.241
525.246
257.865
271.321
273.672
úc
21.724
15.377
27.594
78.102
Pháp
169.997
155.010
196.535
205.331
242.500
Tây Ban Nha
52.578
43.695
42.244
19.892
1.256.570
1.388.570
1.210.863
1.347.227
1369118
Hàng gỗ mỹ nghệ
Anh
66.724
75.686
96.854
105.674
5.627
Hồng Kông
127.915
152.803
205.800
274.821
107.806
Đài Loan
792.316
863.366
957.715
921.667
251.607
Thái Lan
3.321
3.600
21.969
96.572
5.534
Nhật
231.000
44.702
181.882
156.774
12.800
úc
2.113
6.200
27.507
30.587
Đức
27.531
19.960
47.807
32.674
13.670
Hà Lan
17.583
19.699
14.381
21.737
17.200
1.665.500
1.172.629
1.526.408
1.637.426
444.531
(Nguồn: Phòng TCKH công ty ARTEXPORT)
Sự tăng giảm đột ngột và không ổn định ở các thị trường khác của công ty là do công ty không giữ được các bạn hàng này. Mặt khác do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Do tình hình chính trị ở các nước nhập khẩu của công ty có nhiều biến động, phương thức xuất khẩu thay đổi. Các bạn hàng lớn của công ty Liên Xô cũ, Đông Âu ... bị tan là: Công ty mất liên hệ với thị trường truyền thống. Việc làm kiếm khách hàng của công ty mặc dù đã có cố gắng nhưng vẫn còn gặp khó khăn.
Thứ hai: Do tình trạng cạnh tranh trong và ngoài nước trong hoạt động XNK thủ công mỹ nghệ nên khối lượng thu mua mặt hàng xuất khẩu của công ty bị giảm sút.
Thứ ba: do mới chuyển sang hình thức kinh doanh tự hạch toán nên công ty không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm trong công tác xuất khẩu như thiếu thông tin về thị trường và chưa có những biện pháp nghiên cứu thị trường ở nước nhập khẩu.
Thứ tư: Do công ty chưa có nhận thức đúng đắn về hoạt động Marketing quốc tế, công ty chưa có các chiến lược marketing thích hợp cho hoạt động xuất khẩu.
Thứ năm: Do sự áp dụng khoa học kỹ thuật vào việc sản xuất hàng thu công mỹ nghệ chưa được áp dụng triệt để chỉ dừng lại ở một số khâu nhất định.
3- Cách thức tổ chức sản xuất và thu mua hàng thủ công mỹ nghệ của artexport.
Sơ lược về quá trình sản xuất mặt hàng thủ công mỹ nghệ (mặt hàng gốm sứ) gốm nặng lửa tập trung ở miền bắc phân bố tại 3 vùng: Bát Tràng, Hải Hưng và Quảng Ninh. Gốm Bát Tràng có cách đây khoảng trên 700 năm. Nó được khôi phục và phát triển sau thời kỳ đổi mới. Quy trình sản xuất vẫn hoàn toàn theo truyền thống nguyên liệu dùng để sản xuất bao gồm đất xét từ mỏ Vĩnh Phúc, Tràng Thạch (đá) lấ từ Hoàng Liên Sơn, mên màu phần do tự chế từ thực vật và khoáng chất, phần khác nhập từ nước ngoài.
Gốm nhẹ lửa được nung từ nhiệt độ 1050oC đến 1100oC tập trung ở phía nam Đồng Nai, Sông Bé, TP Hồ Chí Minh gốm nhẹ lửa ở phía nam do chi nhập từ ngoài vào và được người Việt Nam vận dụng rất khéo léo tinh sảo, biến thành việt hoá những nét độc đáo riêng.
3.1- Biện pháp tổ chức hoạt động của ARTEXPORT
- Tổ chức sản xuất: Sáng tác mẫu mã hoặc làm theo mẫu yêu cầu của khách hàng nghiên cứu công nghệ sử lý nguyên liệu, mẫu, nung, sấy đến hoàn thiện sản phẩm khi ký được hợp đồng xuất khẩu, công ty giao cho các xí nghiệp và bên ngoài theo chuyên môn hoá sản phẩm theo từng công đoạn. Xưởng của công ty chịu trách nhiệm hướng dần công nghệ và lắp ghép hoàn chỉnh sản phẩm xuất khẩu. Nghĩa là xưởng của công ty đảm nhận phần khó nhất, phần quyết định phẩm chất của sản phẩm, làm như vậy vừa bảo đảm sử dụng một lực lượng lao động đông đảo vừa bảo đảm chất lượng đồng đều, có đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của bạn hàng. Việc tổ chức nghiệm thu đóng gói. Công ty tổ chức thu hoá từng chiếc hàng. Người thu hoá phải kiểm tra cẩn thận và ký nhận vào sản phẩm, tránh tình trạng cảm tình riêg làm ẩu để dẫn đến ảnh hưởng tín nhiệm của công ty , thậm chí bị phạt. Sau khi nghiệm thu xong hàng được đưa vào bao bì và xếp bảo quản trong kho.
Tổ chức giao hàng: trước đây thường chớ hàng tập trung ở Hải Phòng và đưa vào công tennơ về kho mới kiểm tra hải quan, xếp hàng, giao hàng, làm như vậy vừa không chủ động gây chi phí tốn kém. Nay chính trị tổ chức tự thuê tàu vào giao hàng ngay tại kho, vừa giảm chi phí, đảm bảo an toàn cho hàng hoá.
Để nguồn hàng xuất khẩu của công ty được ổn định công ty đã có các chính sách như:
Liên doanh, liên kết: công ty trực tiếp liên kết với các chủ doanh nghiệp tư nhân cả hai cùng bỏ vốn kinh doanh, tỷ lệ lãi, lỗ chừa theo vốn góp nhằm để đảm bảo nguồn hàng cho xuất khẩu. Với hình thức này công ty đã góp người sản xuất về nguyên liệu, phương tiện sản xuất , ký hợp đồng bao tiêu với phương châm hai bên cùng có lợi vì vậy các nhà sản xuất yên tâm về thị trường tiêu thụ của sản phẩm về phía công ty , vì có nguồn hàng chủ động và thường xuyên nên công ty không bị ảnh hưởng của biến động giá cả những mặt hàng này. tận dụng được cơ hội xuất khẩu khi giá tăng, tuy nhiên hình thức này có hạn chế là: nguồn vốn của công ty bị chia sẻ cho nhiều hoạt động khác nên hiệu quả sử dụng vốn không cao.
Hỗ trợ sản xuất: đây là hình thức giúp đỡ của công ty với một số đơn vị khi họ mở rộng sản xuất , khi một hoặc một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ có sức tiêu thụ lớn trên thị trường mà các đơn vị, phân xưởng của công ty không có đủ vốn để tăng cường sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường bằng những hợp đồng có tính ràng buộc hai bên, công ty sẽ giúp họ một số vốn nhất định để họ có thể nâng cao chất lượng sản phẩm cùng như mở rộng hoạt động sản xuất . Bù lại họ phải cam kết với công ty là bán toàn bộ sản phẩm của họ cho công ty với giá ưu đãi hơn so với giá thị trường.
Xuất khẩu uỷ thác: từ khi chuyển sang cơ chế xuất nhập khẩu trực tiếp (1990) phương thức xuất khẩu uỷ thác được công ty khai thác triệt để. Xuất khẩu uỷ thác thực chất là việc các địa phương làng nghề cung ứng toàn bộ hàng hoá, uỷ thác quyền giao dịch, quyền quyết định và đại diện quyền lợi của mình cho đơn vị nhận uỷ thác. Người uỷ thác chịu mọi chi phí liên quan đến việc xuất khẩu hàng hoá của mình như chi phí lưu kho lưu bãi, phí vận chuyển, phí hoa hồng.
3.2. Phương thức lựa chọn và tổ chức nguồn hàng ở ARTEXPORT
a) Nguồn do các xí nghiệp của công ty sản xuất
- Hàng gốm: công ty có 5 lò nung, mỗi lần nung 1 lò có giá trị ước tính khoảng 1,4 triệu đồng mỗi tuần một lò nung 2 lần. Như vậy một tháng nung 40 lò, cả năm 480 lò. Giá trị gần 700 triệu đồng (gần 65.000 USD)
- Hàng mây tre sơn mài: mỗi tháng xuất khẩu được 3 container 20'' trị giá mỗi container bình quân là 4000 USD cả năm xuất khẩu được 36 container doanh số là 144.000 USD.
- Hàng gỗ: mỗi tháng xuất khẩu được 2 container, giá bình quân là 10.000 USD/container cả năm sản xuất và xuất khẩu là 24 container với trị giá là 240.000 USD.
Trong 3 mặt hàng trên thì hàng gỗ có giá trị lớn nhất. Song nếu có so với công xuất thiết bị mới sử dụng khoảng 50% và chỉ sản xuất 1 ca. Do còn nhiều chi phí bất hợp lý, nên lại tịnh chỉ ở mức 0,5% với công suất nêu trên, lãi tịnh doanh thu của công ty tính riêng hàng gỗ thu được 12.000 USD, tương đương 168 triệu đồng Việt Nam nếu công ty tổ chức tốt hơn nữa, sử dụng máy móc ở mức 70% và tận dụng thời gian làm việc thì lượng hàng xuất khẩu sẽ tăng gấp đôi và giải quyết được nhiều lao động, đồng thời lợi nhuận cũng tăng, có thể đạt đế 24.000 USD so với hiện nay.
Về hàng gốm: ở khu vực Bát Tràng có tới 700 lò, công ty chỉ có một số ít lò trong số ở làng nghề này. Với quy mô này, không khoảng định được vị trí và ý nghĩa của công ty và mặt hàng này về kinh tế xã hội bất lợi trong cạnh tranh trên thị trường ít nhất công ty phải có từ15 đến 20 lò cũng chỉ đạt kim ngạch 380.000 đến 426.000 USD/năm.
b) Nguồn do thu mua thêm từ bên ngoài
Ngoài 3 mặt hàng chính công ty kinh doanh thêm một số mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác. Trong đó có cói ngô, thảm đay ở Kim Sơm (Ninh Bình); Nga Sơn (Thanh Hoá) và ở Thái Bình. Hợp đồng mua bán của công ty là mua đứt bán đoạn sản phẩm hoàn chỉnh theo giám hai bên thoả thuận. Vấn đề cần phải lưu ý qui định rõ trong hợp đồng là chứng từ giao hàng phải đồng bộ theo qui định bộ tài chính khi vận chuyển hàng về cơ sở, điểm giap hàng như: hợp đồng bảng kê chi tiết có đủ các mục, số lượng tịnh, bì, khối lượng, và số lượng trong các kiện hàng. Đặc biệut lưu ý là hoá đơn tài chính, nhằm đảm bảo đúng luật và tránh gặp trục trặc dọc đường.
Trong khi huy động cả hai nguồn hàng cần hết sức chú ý đến chất lượng phải đồng đều phối hợp tập trung hàng và kiểm tra chặt chẽ cả về số lượng và chất lượng.
III- Thực trạng hoạt động Mar của công ty ARTEXPORT với việc xuất khẩu TCMN
1) Đánh giá thị trường thủ công mỹ nghệ nội địa và giá cả của mặt hàng này trên thế giới
1.1. Đánh giá về thị trường thủ công mỹ nghệ ở Việt Nam
ở Việt Nam , hàng thủ công mỹ nghệ sản xuất ra chủ yếu dành cho xuất khẩu tiêu dùng trong nước rất ít. Để thực hiện chủ trương gắn sản xuất với thị trường thế giới nhằm giảm bớt khâu trung gian làm cho hàng hoá Việt Nam thích ứng với thị trường thế giới nên các doanh nghiệp nhà nước, nhà sản xuất , tư nhân rất chú ý đến việc sản xuất , thu mua và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ. Một số doanh nghiệp chuyên kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ cũng đều được phép tham gia xuất nhập khẩu mặt hàng này. Vì thế các doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt. một số doanh nghiệp chuyên kinh doanh hàng thủ công mỹ nghệ các mỹ nghệ cũng đều được phep tham gia xuất nhập khẩu mặt hàng này. Vì thế các doanh nghiệp cạnh tranh nhau gay gắt. Lượng hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng hạn chế việc tăng năng suất mặt hàng này rất chậm vì việc sản xuất chủ yếu là thủ công trong khi đó số người được phép xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ rất lớn nên sảy ra tình trạng cạnh tranh trong việc thu làm cho giá cả của hàng thủ công mỹ nghệ tăng nhanh chóng và luôn thay đổi.
Nguồn hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu chủ yếu ở công làng nghề và cho các tư thương lắm giữ các doanh nghiệp nhà nước phải mua lại hoặc xuất khẩu uỷ thác. Mặt khác các nhà xuất khẩu thủ công mỹ nghệ lại tranh nhau chào bán ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23359.doc