Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu khí

Tài liệu Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu khí: ... Ebook Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu khí

doc86 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty cổ phần Chứng khoán Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT PV Securities: Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí TTCK: Thị trường chứng Khoán CTCK: Công ty chứng khoán UBCKNN: Ủy ban chứng khoán nhà nước TTGDCK: Trung tâm giao dịch chứng khoán TTLKCK: Trung tâm lưu ký chứng khoán TVLK: Thành viên lưu ký CTCP: Công ty cổ phần LKCK: Lưu ký chứng khoán HĐQT: Hội đồng quản trị HĐCĐ: Hội đồng cổ đông TCPH: Tổ chức phát hành P.LK&QLCĐ PVS: Phòng lưu ký và quản lý cổ đông của công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí. BLPH: bảo lãnh phát hành TDCK: Tự doanh chứng khoán MG và LK: Môi giới và lưu ký LỜI MỞ ĐẦU Năm 2006, hòa mình cùng với nền kinh tế thế giới Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới-WTO. Việc gia nhập WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, trong đó có thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán là một phần của khu vực tài chính của một quốc gia. Đây là một nguồn vốn dài hạn quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của một nước. Trong thời gian gần đây, thị trường chúng khoán non trẻ của Việt Nam liên tục biến động, Để thị trường chứng khoán hoạt động và phát triển lành mạnh, công bằng, sôi động, hiệu quả không thể không nói đến vai trò của hoạt động lưu ký chứng khoán. Lưu ký chứng khoán là hoạt động quan trọng, là một khâu không thể thiếu của thị trường chứng khoán, hoạt động này góp phần đảm bảo cho các giao dịch trên thị trường được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác và hiệu quả. Một thị trường chứng khoán muốn phát triển mạnh mẽ và vững vàng thì cần phải có bộ phận lưu ký hiện đại, phù hợp với sự phát triển của thị trường chứng khoán. Qua quá trình học tập, nghiên cứu và thực tập tại công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu Khí em nhận thấy hoạt động phát hành chứng khoán lần đầu ra công chúng cần được nghiên cứu và em đã chọn nghiên cứu đề tài: “Phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí.” Mục tiêu nghiên cứu là qua lý thuyết và thực tiễn để đánh giá hiệu quả của hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu Khí. Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của chuyên đề thực tập tốt nghiệp được chia thành 3 chương: Chương I: Những vấn đề cơ bản về hoạt động lưu ký chứng khoán của công ty chứng khoán. Chương II: Thực trạng hoạt động lưu ký chứng khoán tại công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí. Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại Công ty Cổ phần Chứng khoán Dầu khí. Do kiến thức và kinh nghiệm thực tế còn hạn chế, mặt khác hoạt động lưu ký chứng khoán có tính phức tạp đặc thù nên chuyên đề thực tập không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong nhận được sự đóng góp và những ý kiến bổ sung của thầy giáo cũng như bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG LƯU KÝ CHỨNG KHOÁN CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1.Tổng quan về chứng khoán và công ty chứng khoán 1.1.1.Chứng khoán. Chứng khoán là hàng hóa của TTCK . Đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu nó có thể nó để thu tiền về. Theo sự phát triển của thị trường, hàng hóa ngày càng phong phú, đa dạng. Nói chung, người ta phân chia chứng khoán thành cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, và các chứng khoán phái sinh. 1.1.1.1.Cổ phiếu. Khái niệm: Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì cổ phiếu được định nghĩa như sau: Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Khi mua cổ phiếu, những người đầu tư (hay còn được gọi là các cổ đông) sẽ trở thành những người chủ sở hữu đối với công ty. Mức độ sở hữu đó tùy thuộc vào tỷ lệ cổ phần mà cổ đông nắm giữ. Là chủ sở hữu, các cổ đông cùng nhau chia sẻ mọi thành quả cũng như tổn thất trong quá trình hoạt động của công ty. Trong trường hợp xấu nhất là công ty phải thanh lý hay phá sản, cổ đông chỉ nhận được những gì còn lại sau khi công ty đã trang trải xong các khoản nghĩa vụ khác (như thuế, nợ ngân hàng hay trái phiếu…). Cổ phiếu là công cụ tài chính không có thời hạn, các cổ đông có thể tiến hành mua bán, chuyển nhượng các cổ phiếu trên thị trường thứ cấp theo quy định của pháp luật. Theo tính chất của các quyền lợi mà cổ phiếu mang lại cho cổ đông, có thể chia thành hai loại cổ phiếu cơ bản: Cổ phiếu phổ thông và cổ phiếu ưu đãi. Cổ phiếu phổ thông: Cổ phiếu phổ thông là loại cổ phiếu điển hình nhất. Nếu một công ty chỉ được phát hành một loại cổ phiếu, nó sẽ phát hành cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu phổ thông mang lại các quyền sau cho các cổ đông: Quyền hưởng cổ tức Cổ tức là phần lợi nhuận của công ty dành để trả cho những người chủ sở hữu. Cổ tức có thể được trả bằng tiền (dạng phổ biến nhất), cũng có thể được trả bằng cổ phiếu. Cổ phiếu phổ thông không quy định mức cổ tức tối thiểu hay tối đa mà cổ đông được nhận. Việc có trả cổ tức hay không, tỷ lệ và hình thức chi trả cổ tức cho cổ đông phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh và chính sách của công ty, chính sách này do đại hội đồng cổ đông quyết định. Quyền mua cổ phiếu mới Khi công ty phát hành một đợt cổ phiếu mới để tăng vốn, các cổ đông hiện đang nắm giữ cổ phiếu phổ thông có quyền được mua trước cổ phiếu mới, trước khi đợt phát hành được chào bán ra công chúng, trong một thời hạn nhất định. Lượng cổ phiếu mới được mua theo quyền này tương ứng với lỷ lệ cổ phiếu đang nắm giữ. Như vậy quyền này cho phép cổ đông hiện hữu duy trì tỷ lệ sở hữu của mình trong công ty sau khi công ty đã tăng thêm vốn. Mỗi cổ phiếu đang nắm giữ mang lại cho cổ đông một quyền mua trước. Số lượng quyền cần có để mua cổ phiếu mới sẽ được quy định cụ thể trong từng đợt chào bán, cùng với giá mua, thời hạn của quyền mua và ngày phát hành cổ phiếu mới. Cổ phiếu bán theo quyền thường có mức giá thấp hơn so với giá thị trường hiện hành. Khi cổ đông thực hiện quyền, công ty sẽ huy động được thêm vốn. Nếu cổ đông không muốn thực hiện quyền thì có thể bán quyền trên thị trường. Quyền bỏ phiếu Cổ đông phổ thông có quyền bỏ phiếu bầu và ứng cử vào các chức vụ quản lý trong công ty, có quyền tham gia các đại hội cổ đông và bỏ phiếu quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Nếu không tham gia được, cổ đông có thể ủy quyền cho người khác thay mặt họ biểu quyết theo chỉ thị của họ hoặc tùy ý người được ủy quyền. Tùy theo quy định, mỗi cổ đông có thể được bỏ số phiếu tối đa cho mỗi ứng cử viên bằng số cổ phiếu nắm giữ, hoặc được dồn toàn bộ số phiếu có thể chi phối (bằng tổng số phiếu nhân với số ứng cử viên) để bầu cho một (hoặc hơn) ứng cử viên. Cách thứ hai có lợi cho các cổ đông nhỏ, vì tuy có ít phiếu bầu nhưng lại có thể tập trung phiếu để tăng thêm giá trị quyền bỏ phiếu của mình. Ngoài những quyền lợi cơ bản về kinh tế trên đây, cổ đông phổ thông còn có những quyền pháp lý khác nữa, như quyền được kiểm tra sổ sách của công ty khi cần thiết, được yêu cầu triệu tập đại hội đồng cổ đông bất thường… Cổ phiếu ưu đãi Cổ phiếu ưu đãi dành cho cổ đông nắm giữ nó những ưu đãi so với cổ phiếu phổ thông. Cổ phiếu ưu đãi bao gồm hai loại chính là ưu đãi về cổ tức và ưu đãi quyền biểu quyết. Cổ phiếu ưu đãi cổ tức ấn định một tỷ lệ cổ tức tối đa so với mệnh giá, hay một mức cổ tức tuyệt đối tối đa. Trong điều kiện công ty hoạt động bình thường, cổ đông ưu đãi sẽ đc hưởng mức cổ tức này, vì thế thu nhập từ cổ tức của cổ phiếu ưu đãi hầu như là cố định. Đổi lại điều đó, cổ đông ưu đãi không được tham gia bỏ phiếu quyết định những vấn đề quan trọng của công ty. Trong trường hợp công ty không có đủ lợi nhuận để trả theo tỷ lệ đó, công ty sẽ trả theo khả năng có thể. Đặc biệt khi thua lỗ, công ty có thể không trả cổ tức ưu đãi, và khi mà cổ đông ưu đãi chưa được trả cổ tức thì cổ đông phổ thông cũng chưa được trả. Trong trường hợp công ty thanh lý tài sản, cổ đông ưu đãi được ưu tiên nhận lại vốn trước cổ đông phổ thông, nhưng sau người có trái phiếu. Cổ phiếu ưu đãi cũng có thể kèm theo đó những điều khoản để tăng thêm tính hấp dẫn của nó. Cổ phiếu ưu đãi cộng dồn quy định rằng nếu chưa trả cổ tức cho cổ đông ưu đãi thì xem như công ty còn mắc nợ, cho đến khi nào có đủ lợi nhuận để trả, và tất nhiên cho tới khi đó, khi trả hết cổ tức kể cả cộng dồn của cổ phiếu ưu đãi thì cổ đông phổ thông mới nhận được cổ tức. Cổ phiếu ưu đãi tham dự cho phép cổ đông ưu đãi được chia sẻ thành quả hoạt động của công ty khi công ty làm ăn phát đạt. Cổ đông sẽ được nhận mức cổ tức cao hơn mức tối đa đã quy định nếu cổ tức thường vượt quá một mức nhất định. Cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi cho phép cổ đông, trong những điều kiện cụ thể có thể chuyển đổi cổ phiếu ưu đãi thành cổ phiếu thường. Tỷ lệ và điều kiện chuyển đổi thì được quy định cụ thể tùy theo trong điều lệ của từng công ty. Ngoài cổ phiếu ưu đãi về cổ tức còn có cổ phiếu ưu đãi về quyền biểu quyết. Lợi tức của cổ phiếu Lợi tức của cổ phiếu bao gồm cổ tức và lãi vốn. Cổ tức là một phần trong lợi nhuận của doanh nghiệp dành chia cho cổ đông, được gọi là thu nhập của cổ đông. Trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi, nói chung cổ tức là không cố định. Tuy nhiên mức độ cao thấp của cổ tức cũng như tính chất ổn định tương đối của việc chi trả cổ tức giữa các ngành và các công ty trong từng ngành có sự khác nhau. Lãi vốn là khoản chênh lệch giữa giá thu được khi bán cổ phiếu và giá đã mua vào. Lãi vốn cấu thành một phần quan trọng trong tổng lợi tức mà cổ phiếu đem lại cho cổ đông. Tuy nhiên, chỉ khi nào giá cổ phiếu tăng lên thì mới có lãi vốn. Nếu giá cổ phiếu giảm xuống thì sẽ gây lỗ vốn. Vì thế người đầu tư cũng phải quan tâm tới khả năng tăng giá của cổ phiếu. Giữa mức cổ tức được chi trả và khả năng tăng giá của cổ phiếu không có mối liên hệ cố định. Có loại cổ phiếu có mức trả cổ tức cao và ổn định nhưng tiềm năng tăng giá lại ít, trái lại có loại cổ phiếu trả cổ tức thấp, thậm chí không trả cổ tức nhưng lại hứa hẹn khả năng tăng giá cao. Tùy theo mục tiêu và mức độ chấp nhận rủi ro của từng nhà đầu tư mà có thể lựa mua những loại cổ phiếu mà những đặc điểm về khả năng đem lại lợi tức là khác nhau 1.1.1.2.Trái phiếu Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Trái phiếu là loại công cụ nợ quy định nghĩa vụ của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong một khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Trái phiếu có những đặc trưng quan trọng sau: Người phát hành: Có hai loại người phát hành trái phiếu chính là chính phủ (trung ương và địa phương) và công ty. Chính phủ là người phát hành đáng tin cậy nhất do có được những điều kiện đảm bảo cao nhất cho việc hoàn trả gốc và trả lãi. Còn trong khu vực công ty thì người phát hành có nhiều loại, mỗi loại có khả năng khác nhau trong việc đáp ứng các nghĩa vụ đã thỏa thuận với người cho vay. Nói cách khác, có thể coi rủi ro thanh toán của trái phiếu chính phủ là bằng 0, còn các trái phiếu công ty khác nhau có mức độ rủi ro thanh toán khác nhau. Ngoài rủi ro thanh toán, trái phiếu chính phủ vẫn phải chịu các loại rủi ro khác giống như bất kỳ một loại trái phiếu công ty nào như rủi ro lãi suất, rủi ro lạm phát… Thời gian đáo hạn của trái phiếu: Thời gian đáo hạn của trái phiếu là thời gian mà người phát hành hứa hẹn đáp ứng những điều kiện của nghĩa vụ. Ngày đáo hạn của trái phiếu là ngày chấm dứt sự tồn tại của khoản nợ, người phát hành trái phiếu sẽ thu hồi trái phiếu bằng cách hoàn trả khoản vay gốc. Nói chung những trái phiếu có thời hạn từ 1 đến 5 năm được gọi là trái phiếu ngắn hạn, từ 5 đến 10 năm là trái phiếu trung hạn, trên 10 năm là trái phiếu dài hạn. Thời gian đáo hạn của trái phiếu quan trọng vì 3 lý do sau: Nó cho biết khoảng thời gian mà người nắm giữ trái phiếu có thể mong đợi nhận được các khoản thanh toán lãi định kỳ, và cho biết số năm trước khi khoản vay gốc được hoàn trả toàn bộ. Lợi tức của một trái phiếu tùy thuộc vào thời hạn của nó. Giá của trái phiếu sẽ biến đổi khác nhau qua quãng đời của nó, nó cũng thay đổi khi lãi suất thay đổi, tính biến động của giá trái phiếu cũng có mối quan hệ mật thiết với thời gian đáo hạn còn lại của nó. Nếu các yếu tố khác không đổi, thời gian đáo hạn càng dài, tính biến động giá của trái phiếu càng lớn trước một sự thay đổi của lãi suất thị trường. Mệnh giá và lãi suất cuống phiếu: Mệnh giá của một trái phiếu là một khối lượng tiền được ghi trên mặt trái phiếu mà người phát hành đồng ý hoàn trả cho người nắm giữ trái phiếu tại thời điểm đáo hạn. Lãi suất cuống phiếu còn gọi là lãi suất danh nghĩa là lãi suất người phát hành đồng ý trả mỗi năm. Khối lượng lãi hằng năm được trả cho người sở hữu trái phiếu trong suốt thời hạn của trái phiếu được gọi là lãi cuống phiếu. Lãi suất cuống phiếu đem nhân với mệnh gía trái phiếu sẽ cho lãi cuống phiếu. Thông thường tất cả các trái phiếu đều trả lãi cuống phiếu theo định kỳ, mỗi năm một hoặc hai lần, trừ loại trái phiếu không trả lãi định kỳ (zero – coupon bond). Người nắm giữ trái này được nhận tiền lãi do việc mua trái phiếu với giá thấp hơn nhiều so với mệnh giá của nó. Khi trái phiếu đáo hạn, lãi sẽ được trả, chính bằng khoản chênh lệch giữa mệnh giá trái phiếu với giá đã trả để mua trái phiếu đó. Cũng có cả trái phiếu với lãi suất thả nổi với lãi suất cuống phiếu được định kỳ ấn định lại theo một chuẩn mực nào đó đã được định trước. Ngoài việc cho biết các khoản thanh toán lãi cuống phiếu mà người đầu tư có thể nhận được trong thời hạn của trái phiếu, lãi suất cuống phiếu còn chỉ ra mức độ mà theo đó giá của trái phiếu sẽ chịu tác động của những thay đổi lãi suất. Nếu các yếu tố khác không đổi, lãi suất cuống phiếu càng cao, giá trái phiếu càng ít thay đổi trước một thay đổi của lãi suất. Kết quả là lãi suất trái phiếu và thời gian đáo hạn có những hiệu ứng ngược chiều đối với tính biến động giá của một trái phiếu. Phân loại trái phiếu: Trái phiếu vô danh: là loại trái phiếu ko mang tên trái chủ, cả trên bề mặt trái phiếu cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi dính theo tờ trái phiếu, khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc cắt ra và mang tới nơi đã quy định trước để nhận lãi, khi trái phiếu đáo hạn người nắm giữ nó chỉ việc cầm trái phiếu đến ngân hàng để nhận lại khoản cho vay. Trái phiếu ghi danh: là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái chủ trên cả bề mặt trái phiếu cũng như trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ cả gốc lẫn lãi. Dạng ghi danh toàn bộ mà ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính. Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành. Chính phủ phát hành trái phiếu (hay các công cụ nợ nói chung) nhằm mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ. Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là loại chứng khoán có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó nên lãi suất của trái phiếu chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ để ấn định lãi suất của các công cụ nợ khác có cùng kỳ hạn. Trái phiếu công trình là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dựng những công trình cơ sở hạ tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ hay chính quyền địa phương phát hành. Trái phiếu công ty: là những loại trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn dài hạn. Đặc điểm chung của trái phiếu công ty là: Người nắm giữ trái phiếu được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được tham dự vào các quyết định của công ty. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên thanh toán trước cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều hình thức bảo đảm cho khoản vay. Trái phiếu công ty cũng bao gồm nhiều loại: Trái phiếu có bảo đảm: là loại trái phiếu được đảm bảo bằng những loại tài sản thế chấp cụ thể. Người nắm giữ trái phiếu này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty bị phá sản, vì họ có quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể. Tài sản thế chấp thường là bất động sản, các thiết bị… Trái phiếu không bảo đảm: là loại trái phiếu tín chấp không được bảo đảm bằng tài sản của công ty mà được bảo đảm bằng uy tín của công ty. Nếu công ty bị phá sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ có bảo đảm, nhưng trước các cổ đông. Trái phiếu chuyển đổi: các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tùy theo quy định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ vào những thời điểm cụ thể, xác định. Ngoài các đặc trưng chính như trên, còn có thể có một số loại trái phiếu có tính chất riêng biệt như: Trái phiếu có lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà có quy định cứ định kỳ (6 tháng hay một năm, hai năm…) lại ấn định lại lãi suất theo lãi suất thị trường. Loại trái phiếu này được phát hành trong những khoảng thời gian có những biến động mạnh về lãi suất thị trường, để hạn chế thiệt hại cho hai bên tham gia vay mượn. Trái phiếu có thể mua lại: là loại trái phiếu cho phép người vay (người phát hành) trong những điều kiện nhất định có thể mua lại toàn bộ hay một phần trái phiếu đã phát hành, tức là trả lại vốn cho người cho vay trước khi trái phiếu hết hạn. Khi đó, các dòng thanh toán của trái phiếu sẽ kết thúc sớm hơn so với thời hạn của trái phiếu. Trái phiếu có thể bán lại: là loại trái phiếu cho phép người mua trái phiếu trong những điều kiện nhất định có thể bán lại trái phiếu cho người phát hành, thu hồi vốn trước khi trái phiếu đáo hạn. Cũng như trường hợp trên, việc bán lại trái phiếu sẽ phá vỡ dự kiến về các dòng thanh toán nhận được từ trái phiếu trong điều kiện bình thường. Trái phiếu chuyển đổi: là loại trái phiếu cho phép người mua trai phiếu trong những điều kiện nhất định có thể đổi trái phiếu lấy cổ phiếu thường, theo một tỷ lệ và mức giá đã ấn định. 1.1.1.3.Chứng chỉ Quỹ. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Tùy theo loại hình của quỹ mà có các cách phân chia thành các loại chứng chỉ quỹ khác nhau, và đặc điểm của các loại chứng chỉ đó cũng khác nhau. Dựa theo hình thái vận động của vốn, có thể phân thành quỹ đóng và quỹ mở. Trong quỹ đóng, các chứng chỉ quỹ chỉ được phát hành một lần, với một số lượng xác định. Quỹ không mua lại chứng chỉ quỹ cũng như phát hành bổ xung. Các chứng chỉ quỹ sẽ được giao dịch trên thị trường tập trung giống như bất kỳ một loại chứng khoán niêm yết nào khác. Trái lại, quỹ đầu tư dạng mở liên tục phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng, số lượng chứng chỉ quỹ có thể không hạn chế. Quỹ sẵn sàng mua lại chứng chỉ quỹ khi nhà đầu tư có nhu cầu bán. Chứng chỉ quỹ của quỹ mở không giao dịch trên thị trường thứ cấp mà giao dịch thẳng với quỹ hoặc các đại lý được ủy quyền của quỹ. Khi mua cổ phần của quỹ hoặc chứng chỉ quỹ, nhà đầu tư mặc dù chỉ với lượng vốn khiêm tốn, đương nhiên sở hữu một phần trong danh mục đầu tư đa dạng hóa. Hiệu quả đầu tư được nâng lên do nhiều yếu tố: giảm rủi ro, chi phí, kỹ năng đầu tư chuyên nghiệp. Ngoài ra, việc lựa chọn một quỹ theo loại chứng khoán mà nó đầu tư còn giúp cho nhà đầu tư có thể thỏa mãn một nhu cầu nào đó như tránh thuế, bảo toàn vốn, tăng trưởng vốn hay thu nhập thường xuyên. Hơn nữa, các quỹ đầu tư có thể giúp cung cấp nhiều loại dịch vụ khác cho người thụ hưởng. Người chủ sở hữu chứng chỉ quỹ có thể có lợi nhuận theo các cách như sau: Nhận cổ tức của quỹ. Khoản cổ tức này được tri trả từ các khoản thu nhập từ đầu tư của quỹ như cổ tức của cổ phiếu, tiền lãi của trái phiếu… Nhận được khoản lợi vốn (hoặc lỗ vốn) khi nhà quản lý quỹ bán ra một phần trong danh mục đầu tư của quỹ để thu lợi nhuận. Được hưởng lợi do những thay đổi có lợi trong giá trị thị trường. Ngoài ra còn có thể tái đầu tư những khoản phân phối từ cổ tức hay lợi vốn vào quỹ, tức là có thêm cổ phần của quỹ và tiếp tục được hưởng những lợi ích như trên đối với những cổ phần mới này. 1.1.1.4.Chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh bao gồm một số loại cơ bản như sau: Quyền mua cổ phần: hay còn được gọi là quyền mua trước là quyền ưu tiên mua trước dành cho các cổ đông hiện hữu của một công ty cổ phần được mua một số lượng cổ phần trong một đợt phát hành cổ phiếu phổ thông mới tương ứng với tỷ lệ cổ phần hiện có của họ trong công ty, tại một mức giá xác định, thấp hơn giá phát hành ra công chúng và trong một thời hạn nhất định. Mức giá phát hành này luôn thấp hơn mức giá hiện hành của chứng khoán tại thời điểm quyền được phát hành là vì để tránh rủi ro giảm giá chứng khoán trong đợt phát hành, điều này có thể đe dọa tới thành công của đợt phát hành ngoài ra mức ra thấp hơn còn làm tăng thêm tính hấp dẫn của đợt phát hành. Mỗi cổ phần đang lưu hành thường đi kèm theo một quyền. Số lượng quyền cần thiết để mua một cổ phần mới sẽ được quy định cụ thể tùy theo từng đợt phát hành. Nếu cổ đông không muốn thực hiện quyền thì họ có thể bán chúng trên thị trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên hoặc xuống trong khoảng thời gian chào bán, do giá của cổ phiếu trên thị trường tăng hoặc giảm. Chứng quyền: Chứng quyền là loại chứng khoán cho phép người nắm giữ nó có quyền được mua một số lượng xác định một loại chứng khoán khác, thường là cổ phiếu thường, với một mức giá xác định và trong một thời hạn xác định. Quyền này thường được phát hành lại khi tổ chức lại các công ty hoặc khi công ty nhằm vào mục tiêu khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua các trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi có những điều kiện kém thuận lợi. Chứng quyền khác với quyền chọn mua là ở đặc điểm cách thức phát hành và thời hạn của chứng quyền. Nếu như quyền chọn mua chỉ có hiệu lực trong vài tháng thì chứng quyền có hiệu lực dài hơn thậm chí là vĩnh viễn. Các chứng quyền do các công ty phát hành chứng khoán cơ sở phát hành, khi được thực hiện, chúng tạo thành dòng tiền vào cho công ty và làm tăng số lượng cổ phiếu lưu hành trên thị trường. Phần lớn chứng quyền sau một khoảng thời gian nhất định có thể tách rời các chứng khoán cơ sở và khi đó chúng có thể được giao dịch riêng biệt trên thị trường. Với tư cách là người sở hữu chứng quyền, nhà đầu tư không có quyền cổ đông trong công ty, không có quyền nhận cổ tức và không được quyền biểu quyết. Các điều khoản của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ chứng quyền: Số cổ phiếu được mua theo mỗi chứng quyền, giá thực hiện và ngày hết hạn hiệu lực của chứng quyền. Hợp đồng kỳ hạn: là một thỏa thuận trong đó một người mua và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hóa với khối lượng xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá được ấn định vào ngày hôm nay. Trong hợp đồng kỳ hạn chỉ có hai bên tham gia vào việc ký kết, giá cả do hai bên tự thỏa thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang tính cá nhân. Giá hàng hóa đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao nhận hàng có thể thay đổi so với mức giá đã ký kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua hoặc bán sẽ bị thiệt hại do đã cam kết thực hiện hợp đồng ở mức giá đã xác định trước. Như vậy, bằng việc tham gia vào hợp đồng kỳ hạn cả hai bên đều có thể hạn chế được rủi tiềm năng cũng như hạn chế được lợi nhuận tiềm năng của mình. Hợp đồng tương lai: Là một thỏa thuận đòi hỏi một bên của hợp đồng sẽ mua hoặc bán một hàng hóa nào đó tại một thời điểm xác định trong tương lai theo một mức giá đã định trước. Chức năng kinh tế cơ bản của các thị trường hợp đồng tương lai là cung cấp một cơ hội cho những người tham gia thị trường để phòng ngừa rủi ro về những biến động giá bất lợi. Trước năm 1972, chỉ có những hợp đồng tương lai lien quan tới những nông sản truyền thống như ngũ cốc, cà phê, cacao…được giao dịch. Chúng được gọi chung là hợp đồng tương lai hàng hóa. Các hợp đồng tương lai dựa trên cơ sở một công cụ tài chính hay chỉ số tài chính được gọi là hợp đồng tương lại tài chính, bao gồm hợp đồng tương lai chỉ số cổ phiếu, hợp đồng tương lai lãi suất, hợp đồng tương lai tiền tệ. Hợp đồng quyền chọn: là một hợp đồng cho phép người nắm giữ nó được mua hoặc bán một khối lượng hàng hóa tại một mức giá xác định và trong một thời hạn xác định. Các hàng hóa cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai. Một hợp đồng quyền chọn bất kỳ đều bao gồm bốn đặc điểm cơ bản sau: Loại quyền (quyền chọn bán hoặc chọn mua) Tên hàng hóa cơ sở và khối lượng được mua hoặc bán theo quyền Ngày hết hạn Giá thực hiện Người bán quyền, trao quyền cho người mua để đổi lấy một khoản tiền được gọi là giá quyền hoặc phí quyền. Mức giá mà tại đó công cụ này có thể được mua hoặc được bán gọi là giá thực hiện quyền. Ngày mà sau đó quyền hết giá trị gọi là ngày hết hạn. Một quyền chọn Mỹ có thể được thực hiện vào bất kỳ thời điểm nào cho đến ngày đáo hạn và bao gồm cả ngày hết hạn. Một quyền chọn kiểu Châu Âu chỉ có thể được thực hiện vào ngày hết hạn. Trên đây là một số loại chứng khoán phái sinh cơ bản, các loại chứng khoán này chỉ phát triển ở những nước có TTCK phát triển, và là những sản phẩm mới của TTCK cần được phát triển trong thời gian tới. 1.1.2.Công ty chứng khoán. 1.1.2.1.Khái niệm, vai trò của công ty chứng khoán. Khái niệm: Công ty chứng khoán là tổ chức cung cấp các dịch vụ chứng khoán. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì công ty chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc CTCP theo quy định của Luật doanh nghiệp. UBCKNN cấp Giấy phép thành lập và hoạt động cho CTCK. Giấy phép này đồng thời là Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. CTCK được thực hiện một, một số hoặc toàn bộ nghiệp vụ kinh doanh sau đây: Môi giới chứng khoán; Tự doanh chứng khoán; Bảo lãnh phát hành chứng khoán; Tư vấn đầu tư chứng khoán. CTCK chỉ được phép thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán. Ngoài các nghiệp vụ kinh doanh quy định trên, CTCK được cung cấp dịch vụ tư vấn tài chính và các dịch vụ tài chính khác. Chức năng cơ bản của CTCK: Tạo ra cơ chế huy động vốn linh hoạt giữa người có tiền nhàn rỗi đến người sử dụng vốn (thông qua cơ chế phát hành và bảo lãnh phát hành) Cung cấp cơ chế giá cả cho giao dịch (thông qua hệ thống khớp giá hoặc khớp lệnh) Tạo ra tính thanh khoản cho chứng khoán (hoán chuyển từ chứng khoán ra tiền mặt, và từ tiền mặt thành chứng khoán một cách dễ dàng). Góp phần điều tiết và bình ổn thị trường (thông qua hoạt động tự doanh hoặc vai trò nhà tạo lập thị trường). Vai trò của CTCK: Với những đặc điểm trên, CTCK có vai trò khác nhau đối với các chủ thể khác nhau trên TTCK. Đối với các tổ chức phát hành: Mục tiêu khi tham gia thị trường của các tổ chức phát hành là huy động vốn thông qua việc phát hành chứng khoán. Vì vậy thông qua hoạt động làm đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành, các CTCK có vai trò tạo ra cơ chế huy động vốn phục vụ các nhà phát hành. Một trong những nguyên tắc hoạt động của TTCK là nguyên tắc trung gian. Nguyên tắc này yêu cầu những nhà đầu tư và những nhà phát hành không được mua bán trực tiếp chứng khoán mà phải thông qua các trung gian mua bán. Các CTCK sẽ thực hiện vai trò trung gian cho cả nhà đầu tư và nhà phát hành. Khi thực hiện công việc này, CTCK đã tạo ra cơ chế huy động vốn cho nền kinh tế thông qua TTCK. Đối với các nhà đầu tư: thông qua các hoạt động như môi giới, tư vấn, đầu tư, CTCK có vai trò làm giảm thời gian và chi phí giao dịch, do đó nâng cao được hiệu quả của các khoản đầu tư. Đối với hàng hóa thông thường, mua bán qua trung gian sẽ làm tăng chi phí cho người mua và người bán. Tuy nhiên, đối với TTCK, sự biến đổi thường xuyên của giá cả chứng khoán cũng như mức độ rủi ro cao sẽ làm cho các nhà đầu tư tốn kém chi phí, công sức và thời gian tìm hiểu trước khi ra quyết định đầu tư. Nhưng thông qua các CTCK, với trình độ chuyên môn cao và uy tín nghề nghiệp sẽ giúp các nhà đầu tư thực hiện các khoản đầu tư một cách hiệu quả. Đối với TTCK: thì CTCK có hai vai trò chính: Thứ nhất là góp phần tạo lập giá cả, điều tiết thị trường. Giá cả chứng khoán là do thị trường quyết định. Tuy nhiên, để đưa ra mức giá cuối cùng, người mua và người bán phải thông qua các CTCK vì họ không được trực tiếp tham gia vào quá trình mua bán. Các CTCK là những thành viên của thị trường, do vậy họ cũng góp phần tạo lập giá cả thị trường thông qua đấu giá. Trên thị trường sơ cấp, các CTCK cùng với các nhà phát hành đưa ra mức giá đầu tiên. Chính vì vậy, giá cả của mỗi loại chứng khoán giao dịch đều có sự tham gia định giá của các CTCK. Các CTCK còn thể hiện vai trò lớn hơn khi tham gia điều tiết thị trường. Để bảo vệ các khoản đầu tư của khách hàng và bảo vệ lợi ích của chính mình, nhiều CTCK đã giành một tỷ lệ nhất định các giao dịch để thực hiện vai trò bình ổn thị trường. Thứ hai là góp phần làm tăng tính thanh khoản của các tài sản chính. TTCK có vai trò là môi trường làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính. Nhưng các CTCK mới là người thực hiện tốt vai trò đó vì CTCK tạo ra cơ chế giao dịch trên thị trường. Trên thị trường sơ cấp, do thực hiện các hoạt động như đại lý phát hành, bảo lãnh phát hành các CTCK không những đã huy động một lượng vốn lớn đưa vào sản xuất kinh doanh cho nhà phát hành mà còn làm tăng tính thanh khoản của các tài sản tài chính được đầu tư vì các loại chứng khoán qua đợt phát hành sẽ được mua bán, giao dịch trên thị trường thứ cấp. Điều này làm giảm rủi ro, tạo tâm lý yên tâm cho người đầu tư. Trên thị trường thứ cấp, do thực hiện các giao dịch mua và bán các CTCK giúp người đầu tư chuyển đổi chứng khoán thành tiền mặt và ngược lại, do đó tính thanh khoản của chứng khoán được tăng lên. Đối với các cơ quan quản lý thị trường. Các CTCK có vai trò cung cấp các thông tin về TTCK cho các cơ quan quản lý TTCK để thực hiện các mục tiêu. Các CTCK thực hiện được vai trò này bởi vì họ vừa là người bảo lãnh phát hành cho các chứng khoán mới, vừa là trung gian mua bán chứng khoán và thực hiện giao dịch trên thị trường. Một trong những yêu cầu của TTCK các thông tin cần phải được công khai hóa dưới sự giám sát của các cơ quan quản lý thị trường. Việc cung cấp thông tin này vừa là quy định của hệ thống luật pháp, vừa là nguyên tắc nghề nghiệp của các CTCK vì CTCK cần phải minh b._.ạch và công khai trong hoạt động. Các thông tin CTCK có thể cung cấp bao gồm thông tin về các giao dịch mua bán trên thị trường, thông tin về các cổ phiếu, trái phiếu và tổ chức phát hành, thông tin về các nhà đầu tư…Nhờ các thông tin này, các cơ quan quản lý thị trường có thể kiểm soát và chống các hiện tượng thao túng, lũng đoạn, bóp méo thị trường. Tóm lại, CTCK là một tổ chức chuyên nghiệp trên TTCK, có vai trò cần thiết và quan trọng đối với các nhà đầu tư, các nhà phát hành, các cơ quan quản lý thị trường và đối với TTCK. Những vai trò này được thể hiện cụ thể thông qua nghiệp vụ hoạt động của CTCK. 1.1.2.2.Mô hình, tổ chức của CTCK. Mô hình công ty chứng khoán. Hoạt động của các CTCK rất đa dạng và phức tạp, khác hẳn với các doanh nghiệp sản xuất hay thương mại thông thường vì CTCK là một loại hình định chế tài chính đặc biệt nên vấn đề xác định mô hình tổ chức kinh doanh của nó cũng có nhiều điểm khác nhau ở các nước. Mô hình tổ chức kinh doanh của CTCK ở mỗi nước đều có đặc điểm riêng tùy theo đặc điểm của hệ thống tài chính và sự cân nhắc lợi hại của người làm công tác quản lý nhà nước. Tuy nhiên, có thể khái quát thành hai mô hình cơ bản hiện nay là: Mô hình đa năng kinh doanh chứng khoán và tiền tệ: theo mô hình này, các ngân hàng thương mại hoạt động với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm và kinh doanh tiền tệ. Mô hình này chia làm hai loại: Loại đa năng một phần: Các ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm phải lập công ty con độc lập, hoạt động tách rời. Loại đa năng hoàn toàn: Các ngân hàng được kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiểm bên cạnh kinh doanh tiền tệ. Ưu điểm của mô hình CTCK đa năng là các ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt được rủi ro trong hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hóa đầu tư. Ngoài ra, mô hình này còn có ưu điểm là tăng khả năng chịu đựng của ngân hàng trước trước những biến động trên thị trường tài chính. Mặt khác, các ngân hàng sẽ tận dụng được lợi thế của mình là tổ chức kinh doanh tiền tệ có vốn lớn, cơ sở vật chất hiện đại và hiểu biết rõ về khách hàng cũng như các doanh nghiệp khi họ thực hiện nghiệp vụ cấp tín dụng và tài trợ dự án. Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế, đó là do vừa là tổ chức tín dụng vừa là tổ chức kinh doanh chứng khoán, do đó khả năng chuyên môn không sâu như các CTCK chuyên doanh. Điều này sẽ làm cho TTCK kém phát triển vì các ngân hàng thường có xu hướng bảo thủ và thích hoạt động cho vay hơn là thực hiện các nghiệp vụ của TTCK như: Bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư… Đồng thời do khó tách bạch được hoạt động của ngân hàng và hoạt động kinh doanh chứng khoán thì trong điều kiện môi trường pháp luật không lành mạnh, các ngân hàng dễ gây nên tình trạng lũng đoạn thì trường, và khi đó các biến động trên TTCK sẽ tác động mạnh tới kinh doanh tiền tệ, gây tác động dây chuyền và dẫn đến khủng hoảng thị trường tài chính. Bên cạnh đó, do không có sự tách biệt rõ ràng giữa các nguồn vốn, nên các ngân hàng có thể sử dụng tiền gửi tiết kiệm của dân cư để đầu tư cho chứng khoán, và khi TTCK biến động theo chiều hướng xấu sẽ tác động tới công chúng thông qua việc ồ ạt rút tiền gửi, làm cho ngân hàng mất khả năng chi trả. Do những hạn chế như vậy, nên sau khi khủng hoảng thị trường tài chính 1929-1933 các nước đã chuyển sang mô hình chuyên doanh, chỉ có một số thị trường như Đức vẫn còn áp dụng mô hình này. Mô hình CTCK chuyên doanh: theo mô hình này hoạt động chuyên doanh chứng khoán sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hóa trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận, các ngân hàng không được tham gia kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của mô hình này là: Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, tạo điều kiện cho TTCK phát triển. Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước như Mỹ, Nhật, Canada, Hàn Quốc…Tuy nhiên, trong thời gian gần đây các nước này có xu hướng xóa bỏ dần hàng rào ngăn cách giữa hai loại hình kinh doanh (tiền tệ, chứng khoán) và hình thành nên các tập đoàn tài chính khổng lồ nên ngày nay một số thị trường cũng cho phép kinh doanh trên nhiều lĩnh vực tiền tệ, bảo hiểm, chứng khoán nhưng được tổ chức thành các công ty mẹ và các công ty con có sự quản lý, giám sát chặt chẽ và hoạt động tương đối độc lập với nhau. Tổ chức của CTCK: Hiện nay có ba loại hình tổ chức CTCK cơ bản là công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần. Công ty hợp danh: Theo luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 thì công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó: Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (gọi là thành viên hợp danh), các thành viên này cùng tham gia vào quá trình ra quyết định quản lý công ty. Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty. Ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn, các thành viên góp vốn không tham gia điều hành công ty và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào vì thế thông thường khả năng huy động vốn của công ty hợp danh bị giới hạn trong số vốn mà các thành viên hợp danh có thể đóng góp. Công ty trách nhiệm hữu hạn: Là loại hình công ty đòi hỏi các thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm về nghĩa vụ nợ và các nghĩa vụ tài sản khác trong phạm vi số vốn mà họ đã góp vào công ty. Vì thế điều này tạo ra tâm lý nhẹ nhàng hơn cho các nhà đầu tư. Mặt khác, về phương diện huy động vốn, công ty trách nhiệm hữu hạn không được phát hành cổ phiếu song cũng đơn giản và linh hoạt hơn so với công ty hợp danh do được phát hành trái phiếu. Đồng thời, vấn đề tuyển đội ngũ quản lý cũng năng động hơn, không bị bó hẹp như trong công ty hợp danh. Do những ưu điểm đó của công ty trách nhiệm hữu hạn so với công ty hợp danh mà hiện nay nhiều công ty chứng khoán được tổ chức dưới dạng công ty trách nhiệm hữu hạn. Công ty cổ phần: Theo luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 thì công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó: Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa. Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ những trường hợp bị cấm theo quy định của pháp luật. Đặc điểm của công ty cổ phần: CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, với các chủ sở hữu là các cổ đông. CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn, vì vậy về phương diện huy động vốn thì CTCP có thể huy động vốn một cách linh hoạt nhất. Đại hội đồng cổ đông của công ty có quyền bầu ra hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác đề điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra. Giấy chứng nhận cổ đông hay sổ cổ đông không thể hiện một món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của công ty. Công ty vẫn tồn tại khi quyền sở hữu của công ty thay đổi. CTCP có các ưu điểm sau: Đây là loại hình công ty tồn tại liên tục không phụ thuộc vào việc thay đổi cổ đông, tỷ lệ sở hữu. Rủi ro mà chủ sở hữu công ty phải chịu được giới hạn ở một mức hạn chế nhất định. Nếu công ty thua lỗ hoặc phá sản thì cổ đông chỉ phải chịu thiệt hại ở mức vốn đã đầu tư vào công ty. Quyền sở hữu được chuyển đổi dễ dàng thông qua việc mua bán cổ phiếu Ngoài ra, đối với CTCK nếu được tổ chức theo mô hình CTCP thì khi thực hiện niêm yết tại sở giao dịch thì coi như họ đã được quảng cáo miễn phí. Hình thức tổ chức quản lý, chế độ báo cáo và công bố thông tin đối với công ty tổ chức theo mô hình CTCP tốt hơn là công ty tổ chức theo các mô hình khác. Do các ưu điểm này mà ngày nay các CTCK chủ yếu tổ chức theo mô hình CTCP, thậm chí ở nhiều nước (như Hàn Quốc) còn quy định CTCK bắt buộc phải là CTCP. Tóm lại, CTCK cũng là một loại hình công ty nhưng do hoạt động nghiệp vụ của nó đặc biệt khác so với các công ty sản xuất hay thương mại nói chung nên về mặt tổ chức của chúng cũng có nhiều sự khác biệt. Các CTCK ở các nước khác nhau hay trong cùng một nước vẫn được tổ chức rất khác nhau tùy thuộc vào tính chất công việc của mỗi công ty hay mức độ phát triển của thị trường. 1.1.2.3.Các hoạt động chủ yếu của CTCK. Như đã trình bày ở trên, CTCK được thực hiện các nghiệp vụ chủ yếu như sau: Hoạt động môi giới chứng khoán, hoạt động tự doanh chứng khoán, hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Trong phần này sẽ trình bày cụ thể về từng nghiệp vụ đó của CTCK. Nghiệp vụ môi giới chứng khoán: Khái niệm: Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một CTCK đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán hay tại thị trường OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Chức năng của hoạt động môi giới: Cung cấp dịch vụ với hai tư cách: Nối liền khách hàng với bộ phận nghiên cứu đầu tư cung cấp cho khách hàng các báo cáo nghiên cứu và khuyến nghị đầu tư. Nối liền những người bán và người mua: Đem đến cho khách hàng tất cả các loại sản phẩm và dịch vụ tài chính. Đáp ứng những nhu cầu tâm lý của khách hàng khi cần thiết: trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu căng thẳng và đưa ra những lời động viên kịp thời. Khắc phục trạng thái xúc cảm quá mức (điển hình là sự sợ hãi và tham lam), để giúp khách hàng có những quyết định tỉnh táo. Đề xuất thời điểm mua và bán hàng để khách hàng ra quyết định đầu tư. Những nét đặc trưng của nghề môi giới chứng khoán Lao động cật lực, thù lao xứng đáng. Những phẩm chất cần có: Kiên nhẫn, giỏi phân tích tâm lý và ứng xử. Nỗ lực cá nhân là quyết định, đồng thời không thể thiếu sự hỗ trợ của công ty trong việc cung cấp thông tin và kết quả phân tích cũng như việc thực hiện lệnh của khách hàng. Nghiệp vụ tự doanh chứng khoán: Khái niệm: Tự doanh là việc CTCK tự tiến hành các hoạt động mua bán chứng khoán cho chính công ty mình. Hoạt động tự doanh của CTCK có thể được thực hiện trên các thị trường giao dịch tập trung hoặc trên thị trường OTC…Trên thị trường giao dịch tập trung, lệnh giao dịch của CTCK được đưa vào hệ thống và thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của các khách hàng. Trên thị trường OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty với các đối tác hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Tại một số nước, hoạt động tự doanh của các CTCK còn được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường (ví dụ như ở Mỹ). Trong hoạt động này, CTCK còn đóng vai trò nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán với các khách hàng nhằm hưởng phí giao dịch và chênh lệch giá. Mục đích của hoạt động tự doanh: Mục đích chính của hoạt động tự doanh của các CTCK là nhằm thu lợi cho chính mình. Tuy nhiên, để đảm bảo sự ổn định và tính minh bạch của thị trường, pháp luật các nước đều yêu cầu các CTCK khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh phải đáp ứng đủ một số yêu cầu nhất định về vốn và con người, vì vốn và con người là hai điều kiện cơ bản để thực hiện các nghiệp vụ trong kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện nghiệp vụ tự doanh, các CTCK phải có đủ một số vốn nhất định theo quy định của pháp luật. Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì CTCK phải có vốn điều lệ từ 100 tỷ đồng trở lên mới được hoạt động nghiệp vụ tự doanh. Việc quy định mức vốn trên nhằm mục đích đảm bảo rằng các CTCK thực sự có vốn và dùng vốn của họ để kinh doanh. Tương tự như vậy, con người cũng là yếu tố quyết định tới sự thành công của hoạt động tự doanh. Kinh doanh chứng khoán là một lĩnh vực đặc thù có sự chi phối rất lớn của nhân tố con người và thông tin. Nhân viên thực hiện nghiệp vụ tự doanh của công ty phải có một trình độ chuyên môn nhất định, có khả năng tự quyết cao và tính nhạy cảm trong công việc. Tại một số nước như Thái Lan, Mỹ…nhân viên tự doanh của CTCK phải đáp ứng đủ một số tiêu chuẩn nhất định như kinh nghiệm làm việc lâu năm trong ngành, phải có bằng thạc sĩ trở lên và phải có một số chứng chỉ chuyên môn nhất định. Ở Việt Nam, theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì phải có ít nhất ba nhân viên có chứng chỉ hành nghề cho mỗi nghiệp vụ. Những yêu cầu đối với CTCK trong hoạt động tự doanh: Tách biệt quản lý: Các CTCK phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách bạch này bao gồm cả yếu tố con người và các quy trình nghiệp vụ. Các CTCK phải có đội ngũ nhân viên riêng biệt để thực hiện nghiệp vụ tự doanh, các nhân viên này phải hoàn toàn tách biệt với bộ phận môi giới. Bên cạnh đó, các CTCK còn phải đảm bảo sự tách bạch về tài sản của khách hàng với tài sản của chính công ty. Ưu tiên khách hàng: Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các CTCK có thể dự đoán được trước diễn biến của thị trường và sẽ mua, bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên. Bình ổn thị trường: Do tính đặc thù của TTCK, đặc biệt là các TTCK mới nổi, bao gồm chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân, nhỏ lẻ thì tính chuyên nghiệp trong hoạt động đầu tư không cao. Điều này rất dễ dẫn đến những biến động bất thường trên thị trường. Vì vậy, các nhà đầu tư lớn, chuyên nghiệp rất cần thiết để làm tín hiệu hướng dẫn cho toàn bộ thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tự doanh góp phần rất lớn trong điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán trên thị trường. Thông thường, chức năng bình ổn giá cả không phải là một quy định bắt buộc trong hệ thống pháp luật của các nước, tuy nhiên đây thường là nguyên tắc nghề nghiệp do các hiệp hội chứng khoán đặt ra trên thị trường và các CTCK phải tuân thủ theo trong quá trình hoạt động. Bên cạnh đó, các CTCK còn phải tuân thủ một số các quy định khác như các giới hạn về đầu tư, các lĩnh vực đầu tư…Mục đích của các quy định này là nhằm đảm bảo một độ an toàn nhất định cho các CTCK trong quá trình hoạt động, tránh những sự đổ vỡ gây thiệt hại chung cho cả thị trường. Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán: Nghiệp vụ bảo lãnh phát hành là việc CTCK có chức năng bảo lãnh (được gọi tắt là tổ chức bảo lãnh – TCBL) giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên TTCK, TCBL phát hành không chỉ có CTCK mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc CTCK nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành (hoặc thành lập tổ hợp bảo lãnh phát hành) sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các CTCK tự doanh hoặc các thành viên khác. Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của CTCK. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến CTCK. CTCK có thể sẽ ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán thích hợp đến nhà đầu tư. Để được phép bảo lãnh phát hành, CTCK phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên UBCKNN. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được UBCKNN thông qua, CTCK có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. Khi UBCKNN cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, CTCK (hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm. hưu trí. Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành như cổ đông chiến lược. Bán rộng rãi ra công chúng. Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi phí bảo lãnh. Nghiệp vụ tư vấn đầu tư: Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Để hiểu rõ hoạt động tư vấn chứng khoán, chúng ta có thể phân loại hoạt động này theo một số tiêu chí như sau: Theo hình thức của họat động tư vấn: thì bao gồm tư vấn trực tiếp và tư vấn gián tiếp. Tư vấn trực tiếp: tức là khách hàng có thể gặp gỡ trực tiếp nhà tư vấn hoặc sử dụng các phương tiện truyền thông như điện thoại, fax…để được tư vấn. Tư vấn gián tiếp: là cách mà người tư vấn xuất bản các ấn phẩm hay đưa thông tin lên các phương tiện thông tin truyền thông như Internet để bất cứ khách hàng nào cũng có thể tiếp cận nếu muốn. Theo mức độ ủy quyền của hoạt động tư vấn: bao gồm có tư vấn gợi ý và tư vấn ủy quyền. Tư vấn gợi ý tức là người tư vấn chỉ có quyền nêu lên ý kiến của mình về những diễn biến trên thị trường, gợi ý cho khách hàng về những phương pháp, cách thức xử lý nhưng quyền quyết định là ở khách hàng. Tư vấn ủy quyền tức là nhà tư vấn tư vấn và được quyết định hộ khách hàng theo mức độ ủy quyền của khách hàng. Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm có tư vấn cho người phát hành và tư vấn cho người đầu tư. Tư vấn cho người phát hành: Hoạt động tư vấn cho người phát hành tương đối đa dạng, từ việc phân tích tình hình tài chính đến đánh giá giá trị của doanh nghiệp, tư vấn về loại chứng khoán phát hành hay giúp công ty phát hành cơ cấu lại nguồn vốn, thâu tóm hay sáp nhập với công ty khác. Tư vấn đầu tư: Là loại hình tư vấn cho người đầu tư về thời gian mua bán, nắm giữ, giá trị của các loại chứng khoán, các diễn biến trên thị trường. Các cách phân loại tư vấn như vậy đan xen vào nhau và làm nên tính phong phú của hoạt động này. Muốn đi sâu hơn vào từng hoạt động thì cách chia theo tiêu chí thứ ba là có cái nhìn tổng quan nhất đối với toàn bộ nghiệp vụ. Điều kiện của hoạt động tư vấn: Điều kiện về vốn: Vì hoạt động tư vấn là hoạt động kinh doanh hiểu biết nên các yêu cầu về vốn tối thiểu đối với hoạt động này không lớn, lượng vốn với nghiệp vụ này chỉ cần đủ để duy trì các hoạt động bình thường của công ty như thuê văn phòng, trả lương nhân viên, chi phí hành chính khác…Theo Luật chứng khoán số 70/2006/QH11 thì yêu cầu về vốn pháp định đối với hoạt động này là 10 tỷ đồng. Điều kiện về nhân sự: Bên cạnh điều kiện về vốn là không lớn thì điều kiện về nhân sự lại tương đối chặt chẽ. Những người làm công tác tư vấn phải có kiến thức chuyên môn rất sâu trong lĩnh vực của mình. Riêng đối với ngành chứng khoán, họ phải có giấy phép hành nghề tư vấn chứng khoán với các yêu cầu cao hơn với những người chỉ làm môi giới thông thường. những yêu cầu này có thể bao gồm các loại bằng cấp tối thiểu như phải tốt nghiệp đại học và phải vượt qua một số kỳ thi do ngành chứng khoán tổ chức. Thường đó là kỳ kiểm tra của hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán. Ở Việt Nam, trong thời gian đầu, do chưa thể có hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán nên để xây dựng thị trường, UBCKNN sẽ là cơ quan chịu trách nhiệm đào tạo nhân lực cho ngành chứng khoán thông qua trung tâm đào tạo của mình. Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thể làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu nhà đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ những lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng, nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ kiếm các nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. Do vậy, khi hành động, nhà tư vấn cần phải tuân theo một số nguyên tắc tối thiểu như: Không đảm bảo chắc chắn về giá trị của chứng khoán: Giá trị của chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế và tâm lý. Giá trị chứng khoán là tổng hợp quan niệm của các nhà đầu tư về loại chứng khoán đó, do vậy nó có thể thay đổi liên tục cùng với những thay đổi trong nhận định của các nhà đầu tư. Luôn nhắc nhở khách hàng của mình rằng những lời tư vấn của mình có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó. Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách logic, khoa học. Những nguyên tắc này xem ra có vẻ đơn giản nhưng rất khó thực hiện. Khi một nhà tư vấn thực hiện hoạt động của mình có thể phạm phải một số sai lầm kể trên và đó sẽ là nguyên nhân dẫn đến những mâu thuẫn giữa khách hàng với nhà tư vấn đó. 1.2.Hoạt động lưu ký chứng khoán. 1.2.1.Khái niệm hoạt động lưu ký chứng khoán. Khái niệm: Hoạt động LKCK là hoạt động lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực hiện các quyền của mình đối với chứng khoán lưu ký thông qua các tài khoản LKCK. Hoạt động lưu ký còn bao gồm cả hoạt động bù trừ, thanh toán chứng khoán và đăng ký chứng khoán. Trong đó hoạt động bù trừ là việc xử lý các thông tin về các giao dịch chứng khoán nhằm đưa ra một con số ròng cuối cùng mà các đối tác phải thanh toán sau khi tham gia giao dịch. Kết quả bù trừ sẽ chỉ ra bên nào phải trả tiền, bên nào phải giao chứng khoán. Sau khi hoạt động bù trừ hoàn tất thì hoạt động thanh toán sẽ được diễn ra, hoạt động này là hoạt động hoàn tất các giao dịch chứng khoán. Trong đó các bên sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: bên phải trả chứng khoán sẽ giao chứng khoán, bên trả tiền sẽ thực hiện trả tiền. Bên cạnh đó là hoạt động đăng ký chứng khoán nghĩa là việc đăng ký các thông tin về chứng khoán và quyền sở hữu chứng khoán của người nắm giữ chứng khoán. Hoạt động lưu ký không thể hoạt động riêng lẻ ở từng công ty chứng khoán mà phải gắn vào cả một hệ thống gọi là hệ thống thanh toán, bù trừ, lưu ký đăng ký chứng khoán. Đây là một hệ thống bao gồm các trang thiết bị, con người, các quy định và hoạt động để thực hiện thanh toán, bù trừ, LKCK. 1.2.2.Vai trò, chức năng của hoạt động lưu ký chứng khoán. 1.2.2.1.Chức năng. Hoạt động LKCK nói riêng, hệ thống thanh toán, lưu ký, bù trừ chứng khoán nói chung có một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động của TTCK. Nhờ đó, các giao dịch chứng khoán mới được thực hiện và hoàn tất. Hoạt động này có những chức năng chính như sau: Quản lý các chứng khoán lưu ký cho khách hàng. Ghi nhận quyền sở hữu và các thay đổi của chứng khoán lưu ký cho khách hàng. Thực hiện các nghiệp vụ thanh toán tiền và chuyển giao chứng khoán sau khi các giao dịch được thực hiện. Xử lý các thông tin về việc thực hiện quyền của người sở hữu chứng khoán đối với tổ chức phát hành như thông báo họp đại hội cổ đông, đại diện ủy quyền…Và giúp khách hàng thực hiện quyền thông qua mạng lưới của hệ thống lưu ký. Thực hiện trả cổ tức bằng tiền hoặc cổ tức cho người sở hữu chứng khoán. Cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến chứng khoán lưu ký như cầm cố chứng khoán, repo… 1.2.2.2.Vai trò. Với các chức năng cơ bản như trên, hoạt động LKCK có các vai trò quan trọng bổ trợ cho hoạt động của TTCK, thể hiện như sau: Thanh toán các giao dịch chứng khoán, đảm bảo cho các giao dịch được hoàn tất. Khi các giao dịch được thực hiện, cần phải có sự thanh toán thì mới thực sự chuyển giao được các chứng khoán và thanh toán được tiền giữa các bên tham gia giao dịch. Đảm bảo rằng bên mua chứng khoán nhận được chứng khoán và bên bán chứng khoán nhận được tiền. Việc thanh toán các giao dịch trước được thực hiện sẽ tạo điều kiện để thực hiện các giao dịch tiếp theo. Bởi vì, sau khi có kết quả giao dịch, chứng khoán và tiền của các giao dịch không được hiện sẽ được chuyển trả cho người đặt lệnh để họ có điều kiện thực hiện các giao dịch tiếp theo. Các giao dịch đã được thực hiện thì số chứng khoán và tiền đã được thanh toán có thể tham gia vào các giao dịch khác. Việc xử lý các công việc sau giao dịch thực hiện càng nhanh thì các giao dịch tiếp theo càng có cơ hội được thực hiện. Do đó, nếu thời gian thanh toán được rút ngắn thì các đối tượng tham gia thị trường càng có cơ hội kiếm lời, chớp được thời cơ kinh doanh. Giúp quản lý TTCK: nhờ việc quản lý thông tin về người sở hữu chứng khoán, hệ thống giúp cho các nhà quản lý biết được tỷ lệ nắm giữ của người sở hữu chứng khoán, kịp thời đưa ra các quyết định xử lý khi các tỷ lệ sở hữu của một số đối tượng vượt quá so với quy định. Mặt khác, qua đó các thông tin về chứng khoán bị mất trộm, cắp, bị giả mạo, không còn giá trị lưu hành cũng được cung cấp giúp cho các đối tượng tham gia thị trường giảm thiểu được thiệt hại. Giảm chi phí cho các đối tượng tham gia thị trường: Hệ thống lưu ký, thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán hiện đại được áp dụng sẽ làm giảm chi phí cho các đối tượng tham gia thị trường. Khi hệ thống được phát triển hiện đại thì việc quản lý chứng khoán được thực hiện thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu. Nhờ đó, có thể thực hiện việc LKCK tập trung, hoặc thực hiện phi vật chất hóa chứng khoán. Như vậy sẽ tiết kiệm được chi phí cho các đối tượng tham gia, đặc biệt trong việc in ấn và bảo quản chứng chỉ chứng khoán. Giảm chi phí, tránh được sự trùng lặp trong khâu nhận, kiểm đếm chứng khoán khi thanh toán cho các đối tượng tham gia khi chưa có hệ thống. Thời gian của việc đăng ký cũng được rút ngắn lại, nhanh chóng hơn, hiệu quả hơn. Giảm rủi ro cho hoạt động của thị trường: Khi thời gian thanh toán càng dài thì rủi ro cho các bên tham gia càng lớn. Các rủi ro có thể xảy ra như lỗi công nghệ, lỗi do con người, rủi ro trong trường hợp bên đối tác mất khả năng thanh toán, làm ảnh hưởng đến các đối tác khác. Các rủi ro này sẽ được giảm thiểu khi thời gian thanh toán rút ngắn lại 1.2.3.Quy trình lưu ký, rút, chuyển khoản chứng khoán ở các thành viên lưu ký chứng khoán. Quy trình lưu ký, rút, chuyển khoản chứng khoán ở các thành viên lưu ký chứng khoán diễn ra theo trình tự như sau: 1.2.3.1.Mở tài khoản lưu ký chứng khoán. Tài khoản LKCK là tài khoản dung để hạch toán việc gửi, rút hoặc chuyển nhượng chứng khoán, hạch toán việc giao và nhận chứng khoán. Khách hàng muốn gửi chứng khoán tại thành viên lưu ký (TVLK) phải mở tài khoản LKCK. Theo quy định hiện nay, mỗi khách hàng chỉ được phép mở một tài khoản tại một TVLK, tức là khách hàng chỉ được phép đặt lệnh giao dịch qua chính tài khoản đó. TVLK có nghĩa vụ mở và quản lý tài khoản LKCK cho mỗi khách hàng gửi chứng khoán. Để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng và sử dụng tài khoản chứng khoán của khách hàng đúng mục đích, TVLK phải mở tài khoản LKCK của khách hàng tách biệt với tài khoản LKCK của chính mình. TTLKCK mở tài khoản LKCK để hạch toán và quản lý các chứng khoán ký gửi cho TVLK. Phần chứng khoán thuộc sở hữu của khách hàng của các thành viên sẽ được hạch toán vào tài khoản giao dịch chứng khoán của khách hàng do TTLKCK mở đứng tên TVLK và quản lý tách biệt với phần chứng khoán thuộc sở hữu của chính TVLK đó. 1.2.3.2.Ký gửi chứng khoán. Để gửi chứng khoán tập trung vào TTLKCK, khách hàng là tổ chức, cá nhân sở hữu chứng khoán phải gửi chứng khoán tại TVLK nơi mà họ mở tài khoản LKCK. TVLK sau đó sẽ tái ký gửi chứng khoán của khách hàng vào TTLKCK. Quy trình ký gửi chứng khoán sẽ đc tiến hành theo trình tự như sau: Ký gửi chứng khoán tại TVLK: Khách hàng nộp chứng khoán tại TVLK nơi khách hàng mở tài khoản LKCK. Để xác định chính xác tên khách hàng sở hữu chứng khoán, đối với chứng khoán là cổ phiếu, trái phiếu ghi danh khi ký gửi phải có ký hậu của khách hàng trên tờ chứng khoán. TVLK tiếp nhận và hạch toán chứng khoán ký gửi: Sau khi nhận được đầy đủ hồ sơ lưu ký chứng khoán do khách hàng nộp, TVLK hạch toán số chứng khoán do khách hàng gửi vào tài khoản LKCK của khách hàng và gửi cho khách hàng xác nhận gửi chứng khoán. TVLK phải tái lưu ký chứng khoán vào TTLKCK. Sau khi TVLK tái lưu ký chứng khoán vào TTLKCK và nhận được giấy báo có của trung tâm thì thời điểm đó khách hàng mới được phép đặt lệnh giao dịch hay tiến hành các nghiệp vụ khác đối với số chứng khoán ký gửi. Thành viên tái lưu ký chứng khoán vào TTLKCK: Chứng khoán ký gửi của khách hàng được TVLK tái lưu ký vào TTLKCK trong thời theo sớm nhất và theo quy định. Quy trình tái lưu ký chứng khoán của khách hàng do TVLK thực hiện phụ thuộc vào hình thức chứng khoán ký gửi là các chứng chỉ chứng khoán hay chứng khoán ghi sổ. Đối với các chứng chỉ chứng khoán, TVLK trực tiếp mang số chứng khoán này tới TTLKCK để làm thủ tục lưu ký. Trong trường hợp chứng khoán ký gửi là chứng khoán ghi sổ, được thể hiện dưới hình thức giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán do tổ chức phát hành cấp thì quy trình LKCK hiện nay quy định TVLK lập và gửi cho tổ chức phát hành danh sách cổ đông sở hữu chứng khoán, có kèm giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán để tổ chức phát hành kiểm tra và xác nhận với danh sách cổ đông sở hữu chứng khoán của công ty. Danh sách cổ đông sở hữu chứng khoán lưu ký sau đó được tổ chức phát hành gửi cho TTLKCK. TTLKCK tiếp nhận và hạch toán chứng khoán lưu ký: Căn cứ vào số chứng khoán do TVLK tái lưu ký, TTLKCK hạch toán vào tài khoản chứng khoán._.2.2.3.Hoạt động chuyển nhượng chứng khoán chưa niêm yết. Quy trình này nhằm hướng dẫn hoạt động nhận và xử lý hồ sơ chuyển nhượng chứng khoán của Phòng Lưu ký và Quản lý Cổ đông trong Ban Kinh doanh và Dịch vụ Chứng khoán, các Chi nhánh thuộc Công ty Cổ phần chứng khoán Dầu khí. Quy trình này bao gồm các bước cụ thể như sau: Bước 1: nhận hồ sơ của khách hàng. Trong bước này bao gồm hai bước nhỏ, cụ thể như sau: Hướng dẫn khách hàng nộp hồ sơ chuyển nhượng Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sẽ tiến hành nhận hồ sơ của khách hàng dựa trên yêu cầu của từng loại chứng khoán chuyển nhượng (Yêu cầu được thực hiện dựa trên Quy chế chuyển nhượng của từng loại chứng khoán).Cán bộ tiếp nhận hồ sơ phải kiểm tra, đảm bảo tính hợp lệ, đầy đủ thông tin của của mỗi bộ hồ sơ chuyển nhượng.Thông thường một bộ hồ sơ chuyển nhượng được cho là hợp lệ phải đầy đủ một số giấy tờ cơ bản sau đây: Đơn đề nghị chuyển nhượng (Mẫu 01) : Cán bộ tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng có trách nhiệm hướng dẫn Khách hàng ghi đầy đủ thông (Ngày tháng, thông tin bên chuyển nhượng, bên nhận chuyển nhượng, số cổ phần đề nghị chuyển nhượng, ký xác nhận) Sổ cổ đông của Bên chuyển nhượng và Bên nhận chuyển nhượng (nếu có) Bản sao giấy Chứng minh nhân dân của Bên chuyển nhượng và Bên nhận chuyển nhượng Bản sao Đăng ký kinh doanh (có công chứng nhà nước), Quyết định Bổ nhiệm Giám Đốc, Giấy ủy quyền cho người đi làm thủ tục chuyển nhượng (Trong trường hợp là tổ chức) Hóa đơn nộp phí chuyển nhượng Kiểm tra tính hợp lệ của hồ sơ chuyển nhượng - Kiểm tra tính hợp lệ, đầy đủ của hồ sơ chuyển nhượng - Kiểm tra số dư chứng khoán : Cán bộ tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng sẽ tiến hành kiểm tra số dư chứng khoán của Bên chuyển nhượng bằng phần mềm. Nếu số dư đủ điều kiện để chuyển nhượng theo Đơn đề nghị chuyển nhượng thì Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sẽ tiến hành viết Phiếu nhận hồ sơ (mẫu 02) trả cho các bên tham gia chuyển nhượng. - Cán bộ tiếp nhận hồ sơ tiến hành đánh số thứ tự tương ứng với số hồ sơ chuyển nhượng đã nhận trong ngày - Cán bộ tiếp nhận hồ sơ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về tính hợp lệ của bộ hồ sơ chuyển nhượng sau khi đã ký tên vào phiếu nhận hồ sơ - Cán bộ tiếp nhận hồ sơ bàn giao cho Cán bộ Quản lý chuyển nhượng vào cuối ngày làm việc (Lập sổ bàn giao chứng từ và hai bên cùng ký xác nhận số hộ hồ sơ chuyển nhượng) - Cán bộ quản lý chuyển nhượng có trách nhiệm kiểm tra lại Hồ sơ chuyển nhượng, nếu thấy thiếu sót hoặc chưa hợp lệ thì phải yêu cầu Cán bộ tiếp nhận hồ sơ bổ xung, xử lý - Sau khi tiếp nhận hồ sơ chuyển nhượng, ký sổ bàn giao. Cán bộ quản lý chuyển nhượng sẽ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm với các Hồ sơ chuyển nhượng đã nhận bàn giao. Bước 2: xử lý hồ sơ của khách hàng. Sau khi nhận bàn giao hồ sơ từ cán bộ tiếp nhận hồ sơ, Cán bộ quản lý chuyển nhượng tiến hành theo các bước sau: - Sắp xếp hồ sơ theo thứ tự và theo ngày nhận hồ sơ; - Thực hiện chuyển nhượng: Trong trường hợp Bên nhận chuyển nhượng đã là cổ đông (Kiểm tra bằng số Chứng minh nhân dân) thì sử dụng luôn tài khoản lưu ký đã có; - In Sổ : Kiểm tra số lượng cổ phần in trên sổ với số lượng cổ phần trong đơn đề nghị chuyển nhượng.Cán bộ quản lý chuyển nhượng kiểm tra lại một lần nữa rồi ký nháy vào sổ trước khi chuyển cho lãnh đạo phòng ký, đóng dấu. - Sau khi lãnh đạo phòng đã ký đóng dấu vào sổ cổ đông của khách hàng. Cán bộ quản lý chuyển nhượng có trách nhiệm bàn giao lại cho Cán bộ tiếp nhận hồ sơ trước 01 ngày so với ngày đã hẹn khách hàng đến nhận sổ cổ đông Bước 3: trả kết quả cho khách hàng. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sẽ nhận sổ cổ đông, xác nhận cổ phần…từ người phụ trách chuyển nhượng và có trách nhiệm trả kết quả cho khách hàng đúng ngày ghi trong phiếu nhận hồ sơ - Thu hồi phiếu nhận hồ sơ (hẹn trả kết quả) của khách hàng, lưu theo ngày hẹn trả sổ - Tiến hành ghi nhận việc trả Sổ cổ đông cho Khách hàng trên phần mềm để quản lý. 2.2.2.4.Quy trình phát hành thêm cổ phần Bước 1: Phía CTCP gửi các văn bản có liên quan đến việc phát hành thêm cổ phần cho P.LK&QLCĐ các văn bản trên bao gồm: + Quyết định của HĐQT về việc phát hành thêm cổ phần + Thông báo về việc phát hành thêm cổ phần bao gồm thời hạn chốt danh sách cổ đông, thời hạn ngừng thực hiện chuyển nhượng, khối lượng cổ phần phát hành, khối lượng được mua, thời hạn đăng ký mua thêm cổ phần, thời hạn nộp tiền mua thêm cổ phần, các đối tượng được mua, tỷ lệ tương ứng. Bước 2: P.LK&QLCĐ rà soát lại số cổ đông có đủ điều kiện mua thêm cổ phần. Sau đó tính toán số lượng cổ phần được mua thêm tương ứng với số lượng cổ đông. Tiếp đến lập danh sách và chuyển tới CTCP Bước 3: Phía CTCP gửi thông báo và các văn bản liên quan đến việc phát hành thêm cổ phần tới các cổ đông, các văn bản liên quan này gồm: - Công văn thông báo cho cổ đông về việc phát hành thêm cổ phiếu - Biên bản họp hoặc Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu - Quyết định của Hội đồng Quản trị về việc phát hành thêm cổ phần Bước 4: Cổ đông có yêu cầu mua cổ phần sẽ gửi Giấy đăng ký mua thêm cổ phần hay giấy chuyển quyền mua cổ phần qua thư bảo đảm đến P.LK&QLCĐ. Sau đó, P.LK&QLCĐ sẽ tính toán số lượng cổ phần được mua của các cổ đông và chuyển danh sách lên phòng giao dịch. Đơn đăng ký mua thêm cổ phần theo mẫu: BM-QT-07-08-08 Giấy chuyển quyền mua cổ phần theo mẫu: BM-QT-07-08-09 Bước 5: P.LK&QLCĐ gửi công văn thông báo B.TCKT về việc nhận tiền mua thêm cổ phần đính kèm theo danh sách ghi số cổ phần được mua của các cổ đông Bước 6: Phòng Giao dịch căn cứ vào danh sách được mua cổ phần của các cổ đông để thu tiền mua cổ phần tiếp đó thu sổ cổ đông và bản sao giấy CMTND. Cuối cùng là viết biên bản giao nhận hồ sơ và giấy hẹn ngày lấy sổ cổ đông mới. Biên bản giao nhận hồ sơ theo mẫu: BM-QT-07-08-10 Bước 7: GD gửi Hồ sơ cổ đông, danh sách chi trả cổ tức tới P.LK&QLCĐ Bước 8: P.LK&QLCĐ gửi công văn tới B.ĐT và B.TCKT yêu cầu chuyển khoản tiền mua cổ phần tới CTCP sau khi đã trừ đi phí dịch vụ phát hành thêm cổ phần Bước 9: P.LK&QLCĐ phối hợp với CTCP để: + Ghi tăng trong sổ cổ đông nếu là cổ đông cũ + In và cấp Sổ cổ đông mới nếu là cổ đông mới (thủ tục in sổ như lần phát hành đầu tiên) Bước 10: Chuyển trả Sổ cổ đông cho CTCP Bước 11: Sau khi giải quyết xong thủ tục chuyển nhượng cho cổ đông, Bộ phận quản lý cổ đông có trách nhiệm tiến hành nhập số liệu ngay các bút toán thay đổi về sở hữu trong Sổ cổ đông của CTCP đồng thời lưu và đánh dấu mã số chuyển nhượng theo thứ tự phát sinh. 2.2.3.Quy trình hoạt động phong tỏa và giải tỏa chứng khoán. Quy trình của hoạt động phong tỏa và giải tỏa chứng khoán của PV Securities chỉ áp dụng cho các cổ phần của các TCPH mà PV Securities được ủy quyền làm đơn vị quản lý cổ đông. 2.2.3.1.Hoạt động phong tỏa chứng khoán. Quy trình của hoạt động phong tỏa chứng khoán tại PV Securities diễn ra như sau: Bước 1: nhận hồ sơ của khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu Cầm cố chứng khoán Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sẽ tiến hành hướng dẫn thủ tục và kiểm tra tính hợp lệ của bộ sơ lưu ký gồm các giấy tờ sau: Đơn đề nghị phong tỏa cổ phần do tổ chức tín dụng lập (02 bản) Sổ cổ đông (để kiểm tra) Bản sao Đăng ký kinh doanh (có công chứng nhà nước), Quyết định Bổ nhiệm Giám Đốc, Giấy ủy quyền cho người đi làm thủ tục phong tỏa (Trong trường hợp là tổ chức) Phí phong tỏa theo đơn yêu cầu của khách hàng là 100.000/lần (Một trăm ngàn/ một lần phong tỏa) Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sau khi kiểm tra tính hợp lệ cuả hồ sơ sẽ trả lại khách hàng sổ cổ đông, ký xác nhận vào Phiếu nhận hồ sơ (hẹn trả kết quả sau 02 ngày) và trả lại cho khách hàng. Cuối ngày làm việc, Cán bộ tiếp nhận hồ sơ bàn giao lại toàn bộ số hồ sơ đã nhận trong ngày cho người phụ trách (lập sổ bàn giao chứng từ và hai bên cùng ký xác nhận số bộ hồ sơ lưu ký) Bước 2: Xử lý hồ sơ của khách hàng. Nhân viên quản lý phong tỏa tiến hành cách bước sau: - Kiểm tra số dư chứng khoán rồi tiến hành phong tỏa trên phần mềm; - In xác nhận phong tỏa (Kiểm tra đối chiếu số cổ phần phong tỏa với đơn đề nghị phong tỏa của khách hàng), trình lãnh đạo phòng ký, đóng dấu; - Lập sổ theo dõi những cổ đông sẽ giữ lại sổ khi phát hành sổ cổ đông. Sau khi phát hành sổ cổ đông sẽ tập hợp và bàn giao ngay cho tổ chức tín dụng quản lý. - Cán bộ phụ trách tiến hành lưu hồ sơ - Bàn giao lại giấy Xác nhận phong tỏa cho Cán bộ tiếp nhận hồ sơ trước 01 ngày so với ngày hẹn trả khách hàng Bước 3: trả kết quả cho khách hàng Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sẽ nhận Xác nhận phong tỏa cổ phần…từ người phụ trách chuyển nhượng và có trách nhiệm trả kết quả cho khách hàng đúng ngày ghi trong phiếu nhận hồ sơ 2.2.3.2.Hoạt động giải tỏa chứng khoán. Bước 1: nhận hồ sơ của khách hàng. Khi khách hàng có nhu cầu giải tỏa chứng khoán, Cán bộ tiếp nhận hồ sơ hướng dẫn cho khách hàng làm các thủ tục sau: - Yêu cầu giải tỏa cổ phần do tổ chức tín dụng lập (01 bản) - Khách hàng ký vào sổ xác nhận - Nhân viên nhận hồ sơ viết phiếu hẹn trả kết quả cho khách hàng (tối đa sau 02 ngày làm việc) - Bàn giao lại hồ sơ cho Cán bộ phụ trách (Lập sổ bàn giao chứng từ) Bước 2: xử lý hồ sơ của khách hàng. Sau khi tiếp nhận hồ sơ bàn giao, Cán bộ phụ trách tiến hành các bước sau: - Kiếm tra lại bộ hồ sơ - Tiến hành giải tỏa cho khách hàng trên phần mềm - In xác nhận giải tỏa (Bàn giao cho cán bộ tiếp nhận hồ sơ trước 01 ngày so với ngày hẹn trả kết quả cho khách hàng) Bước 3: trả kết quả cho khách hàng. Cán bộ tiếp nhận hồ sơ sẽ nhận Xác nhận giải tỏa cổ phần…từ người phụ trách chuyển nhượng và có trách nhiệm trả kết quả cho khách hàng đúng ngày ghi trong phiếu nhận hồ sơ. 2.3.Đánh giá hoạt động lưu ký chứng khoán tại PV Securities. Công ty cổ phần chứng khoán Dầu khí được thành lập theo giấy phép hoạt động kinh doanh chứng khoán số 26//UBCK-GPHĐKD ngày 19/12/2006 của UBCKNN và đã chính thức đi vào hoạt động từ giữa tháng 3 năm 2007. Sau hơn 1 năm xây dựng và hoạt động, dù gặp phải khá nhiều khó khăn nhưng hoạt động của công ty đã thu được những kết quả đáng khích lệ. 2.3.1.Kết quả đạt được. Do là một thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nên PV Securities nhận được sự ủng hộ từ phía lãnh đạo Tập đoàn và từ phía lãnh đạo các đơn vị thành viên. Bên cạnh đó, trong năm 2007 đã diễn ra những cuộc IPO lớn nhất từ trước tới nay đó là IPO của công ty Phân đạm và Hóa chất Dầu khí (tháng 5/2007), công ty Tài chính Dầu khí ( 10/2007) và ngân hàng ngoại thương Việt Nam (cuối tháng 12/2007)…Từ phía công ty, PV Secuirities có đội ngũ lãnh đạo và nhân viên trẻ trung, có trình độ, được đào tạo bài bản và nhiệt tình với công việc. Ở bên trên, chúng ta đã biết sơ qua về kết quả hoạt động kinh doanh của PV Securities, ở phần này chủ yếu đi vào phân tích kết quả đạt được của bộ phận LKCK của PV Securities. 2.3.1.1.Kết quả đạt được của hoạt động LKCK so với các các hoạt động khác. Để so sánh được kết quả đã đạt được của hoạt động LKCK so với các hoạt động khác trong công ty, ta có thể xem số liệu kết quả doanh thu của các bộ phận trong các quý của năm 2007 trong bảng dưới đây: Bảng 2: Doanh thu của các hoạt động của PV Securities. Đơn vị: VNĐ STT Chỉ tiêu 6 tháng đầu năm Quý III Quý IV 1 Tổng doanh thu 5,662,155,938 15,282,901,849 32,254,522,386 2 DT từ hoạt động MG và LKCK 1,129,738,216 1,695,517,658 7,117,851,764 3 DT từ hoạt động TDCK 2,350,511,600 12,747,872,800 19,275,151,200 4 DT từ hoạt động tư vấn và BLPH 75,000,000 235,817,000 404,000,000 5 DT về vốn kinh doanh 2,106,096,122 1,523,336,091 4,387,649,422 6 Thu từ lãi đầu tư 81,168,300 69,870,000 Nguồn: PV Securities. Từ bảng số liệu trên ta thấy doanh thu của phòng môi giới – Lưu ký chiếm một tỷ trọng đáng kể so với tổng doanh thu trong từng kỳ tính toán và so với doanh thu cả các bộ phận khác. Để dễ so sánh, ta có thể quy đổi ra phần trăm và vẽ biểu đồ hình tròn như sau: Biểu đồ số 1: TTCKỷ lệ doanh thu giữa các bộ phận của PV Securities. Đơn vị: % (đã làm tròn) Nguồn: chiết suất từ số liệu doanh thu 6 tháng đầu năm ở bảng 2. Chú thích: Series1 đến Series5 theo chiều từ dưới lên trên. Series1: Tỷ lệ doanh thu của hoạt động MG và LK Series 2: Tỷ lệ doanh thu của hoạt động TDCK Series 3: Tỷ lệ doanh thu của hoạt động Tư vấn và BLPH Series 4: Tỷ lệ doanh thu về vốn kinh doanh Series 5: Tỷ lệ doanh thu từ lãi đầu tư. Biểu đồ số 1: Tỷ lệ doanh thu giữa các hoạt động. Từ biểu đồ này ta có thể thấy rằng doanh thu của phòng MG và Lưu ký chiếm đến 20% doanh thu 6 tháng đầu năm của toàn công ty tương đương với hơn 1.1 tỷ đồng, chỉ đứng sau hoạt động TDCK và thu từ vốn đầu tư. Sang quý III con số này là 11% và 17% ở quý IV tương đương với gần 1.7 tỷ của quý III và hơn 7.1 tỷ ở quý IV. Sở dĩ như vậy là do 6 tháng đầu năm là thời gian công ty mới bắt đầu đi vào hoạt động, chưa ổn định về mọi hoạt động, sang các quý sau các hoạt động đã ổn định hơn, các hoạt động đã bắt đầu có hiệu quả và ngày càng cao. Điều này được chứng tỏ bằng con số doanh thu của chính bộ phận MG và LK, tăng từ 1.1 tỷ của cả 6 tháng đầu năm lên 7.1 tỷ chỉ của quý IV. Điều đó chứng tỏ sự nỗ lực vượt bậc của cán bộ nhân viên phòng MG và LK của PV Securities. 2.3.1.2. So sánh kết quả đạt được giữa các phần trong bộ phận lưu ký. Ta có thể thấy rằng riêng hoạt động lưu ký chứng khoán sẽ không mang lại doanh thu cho bộ phận lưu ký mà chỉ có các hoạt động như quản lý sổ cổ đông, chuyển nhượng, phong tỏa là mang lại doanh thu cho bộ phận lưu ký. Hoạt động Quản lý sổ cổ đông: Do là thành viên của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam nên khách hàng của bộ phận quản lý sổ cổ đông chủ yếu là các công ty khác của tập đoàn. Hiện nay PV Securities đã và đang thực hiện quản lý sổ cổ đông cho 17 CTCP như CTCP Nhơn Trạch 2, Du lịch Phương Đông với mức phí 40 triệu đồng một hợp đồng. Một số công ty mà PV Securities thực hiện quản lý sổ cổ đông với mức phí 30 triệu đồng một hợp đồng như: CTCP Sông Đà Việt Đức, CTCP Xây dựng Dầu khí Nghệ An, PV Gas North, PV Gas South, Petronaco, CTCP cảng Đình Vũ…Ngoài ra có một số công ty khác với mức phí tùy theo từng hợp đồng như: CTCP Tản Viên, Công ty Tài chính Dầu khí – PVFC… Với lương khách hàng như vậy thì lượng doanh thu do bộ phận này mang lại khoảng xấp xỉ 400 triệu đồng, chiếm khoảng 10.7% doanh thu của hoạt động lưu ký. Hoạt động chuyển nhượng và phong tỏa: chiếm khoảng 89.3% doanh thu còn lại của bộ phận lưu ký với mức phí chuyển nhượng là 5% giá trị chứng khoán chuyển nhượng và mức thấp nhất là 100 000đồng một bộ chuyển nhượng. Còn phí phong tỏa, giải tỏa thì tùy theo giái trị của từng hợp đồng để tính phí. Về hoạt động lưu ký chứng khoán: Tuy không mang lại doanh thu cho bộ phận Lưu ký song hoạt động này cũng có một thành tích đáng kể. Với thời gian lưu ký nhanh thì PV Securities đã tiến hành lưu ký được 831.119 cổ phần cũ và 735.315 cổ phần mới của công ty Bảo hiểm Dầu Khí. Bên cạnh đó có thực hiện lưu ký để cho các CTCP giao dịch trên sàn như: 781.961 cổ phần của công ty Vận tải Dầu khí, 1.475.482 cổ phần của công ty Đạm Phú Mỹ… 2.3.2.Hạn chế và nguyên nhân. 2.3.2.1.Hạn chế. Tuy trong thời gian một năm hoạt động vừa qua bộ phận lưu ký nói riêng cũng như các bộ phận khác của toàn công ty nói chung đã đạt được những thành tích đáng khích lệ song không thể tránh khỏi một số hạn chế như: Đã xây dựng các quy trình cho các hoạt động song vẫn còn một số thiếu sót gây ra khúc mắc trong hoạt động Về nhân sự, tuy có đội ngũ nhân sự trẻ trung nhiệt tình, có trình độ song đội ngũ này chưa đủ để ứng cho công việc, dẫn đến không chuyên môn hóa trong công việc. Lượng khách hàng trong thời gian hoạt động vừa qua chưa nhiều và chủ yếu là các công ty thành viên của tập đoàn Dầu khí, hầu như không có khách hàng bên ngoài, đặc biệt là các tổ chức lớn. Chưa xây dựng được phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh nên thị phần vẫn còn nhỏ hẹp, làm giảm sức cạnh tranh với các CTCK khác trên thị trường. 2.3.2.2.Nguyên nhân: Việc còn tồn tại các hạn chế như trên chủ yếu là do một số các nguyên nhân chủ yếu như sau: Nguyên nhân chủ quan: Do công ty mới thành lập trong thời gian ngắn là một năm nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình lãnh đạo cũng như vận hành các hoạt động trong công ty, đội ngũ nhân sự còn thiếu, chưa đồng bộ. Công nghệ mới chưa được triển khai gây khó khăn cho mọi hoạt động nghiệp vụ trong công ty. Bên cạnh đó là diện tích sàn giao dịch cũng như diện tích làm việc còn nhỏ cũng gây khó khăn đáng kể cho khách hàng đến LKCK, đặc biệt là trong thời điểm thị trường nóng. Nguyên nhân khách quan: Năm 2007 là năm đầy biến động của TTCK Việt Nam với biểu hiện của chỉ số VN Index tăng trưởng chậm vì phải gánh chịu những hậu quả do việc tăng quá nóng của TTCK diễn ra vào cuối năm 2006 và 3 tháng đầu năm 2007. Những hậu quả có thể kể đến là việc thị trường điều chỉnh giảm trong một thời gian dài (từ tháng 3 đến tháng 12) để tìm về giá trị thật của nó, điều đó đã tác động tiêu cực tới tâm lý của các nhà đầu tư, đó là việc giảm lượng tiền do một phần tiền đang nằm ở các cổ phiếu mà các nhà đầu tư đã mua với giá cao tại thời điểm thị trường tăng nóng, một phần khác là do ảnh hưởng của chị thị 03 của thống đốc ngân hàng nhà nước quy định hạn mức cho vay đối với đầu tư chứng khoán của các ngân hàng thương mại. Những yếu tố này làm cho hầu hết các hoạt động kinh doanh của các CTCK trong đó có PV Secuirities bị đình trệ. Đối với thế giới, năm 2007 cũng là năm đầy biến động của thị trường tài chính thế giới với các cuộc khủng hoảng tín dụng tại các thị trường lớn như Mỹ, Châu âu và Châu Á. Mặc dù trong năm 2007 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 8.5% nhưng tỷ lệ lạm phát cao (12.632%) cũng đang là vấn đề cần báo động của nền kinh tế. lạm phát cao, giá nguyên liệu đầu vào tăng đã ảnh hưởng không tốt tới kết quả kinh doanh của các đơn vị sản xuất trong nước và làm ảnh hưởng tới quyết định đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư. Ngoài ra, việc đầu tư chứng khoán cũng đang bị cạnh tranh bởi các kênh đầu tư khác như vàng và bất động sản. Tất cả các nguyên nhân trên đều góp phần làm hạn chế các hoạt động của công ty nói chung cũng như hoạt động LKCK nói riêng. CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG LƯU KÝ CHỨNG KHOÁN TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN CHỨNG KHOÁN DẦU KHÍ 3.1.Định hướng phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại công ty Cổ Phần chứng khoán Dầu khí. 3.1.1.Dự báo về sự phát triển của thị trường Chứng khoán Việt nam đến năm 2010. Do có tầm quan trọng là một kênh dẫn vốn của nền kinh tế nên TTCK Việt nam được phát triển theo định hướng là một kênh huy động vốn hiệu quả nhất của nền kinh tế. Năm 2010, Chính phủ đặt mục tiêu huy động nguồn vốn gần 140 tỷ USD, trong đó có khoảng 65% vốn trong nước, còn lại là vốn nước ngoài. Thị trường chứng khoán sẽ là kênh huy động vốn lớn để thực hiện mục tiêu này. Tổng giá trị vốn hóa thị trường phải đạt 50% GDP và đến năm 2020 đạt 70% GDP ( theo đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến 2020 do Bộ Tài chính đề xuất, vừa được Thủ tướng phê duyệt). Từ nay cho đến năm 2010, chương trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước sẽ diễm ra mạnh mẽ với sự góp mặt của các doanh nghiệp lớn như: Vietcombank, MHB, Incombank, BIDV, Mobifone, Sabeco… Tốc độ tăng trưởng số lượng các công ty niêm yết vào khoảng 50 công ty/năm trong 5 năm tới. Số lượng các công ty chứng khoán được cấp phép hoạt động sẽ ngày càng nhiều và phát triển nhanh các loại hình dịch vụ tài chính, chứng khoán nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn của thị trường. Tóm lại, thị trường chứng khoán Việt nam trong thời gian tới sẽ phát triển mạnh mẽ theo đúng quy luật của một nền kinh tế trên đà phát triển. 3.1.2.Chiến lược phát triển của tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam Ngành Dầu khí và sự phát triển kinh tế - xã hội Trong vai trò và vị trí là một trong những ngành công nghiệp chủ lực của nền kinh tế đất nước, ngành công nghiệp dầu khí đóng góp gần 20-25% nguồn thu trong ngân sách quốc gia và 25 % GDP/năm của nền kinh tế,chiến lược phát triển tổng thể và bền vững của Tập đoàn Dầu khí Việt nam khẳng định sẽ trở thành Tập đoàn Công nghiệp – Thương mại – Tài chính hàng đầu trong nền kinh tế đất nước. Nhu cầu vốn đầu tư - phát triển của Tập đoàn Dầu khí Phát triển ngành công nghiệp dầu khí đòi hỏi nhiều khoản vốn rất lớn cho những chương trình và kế hoạch phát triển hoạt động dầu khí ở các khâu thăm dò khai thác dầu khí trong và ngoài nước; chế biến, kinh doanh, phân phối các sản phẩm dầu khí; cung cấp các dịch vụ cầu cảng, bến bãi, kho chứa,v.v; cung ứng nhân lực trình độ chuyên môn và tay nghề cao. Để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển của Tập đoàn trong giai đoạn 2005-2025, cần một lượng vốn trên 42 tỷ US$, trong đó dự định nguồn vốn huy động từ đầu tư nước ngoài khoảng 18-21tỷ USD. Như vậy để đạt được các chỉ tiêu trong định hướng chiến lược tài chính và đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư phát triển, Tập đoàn sẽ phải từng bước chủ động tham gia vào thị trường vốn trong và ngoài nước để thu hút tối đa nguồn vốn cho phát triển ngành dầu khí. Thực tiễn huy động vốn tín dụng – đầu tư của Tập đoàn: Trong thời gian qua, Tập đoàn đã khai thác một số nguồn tín dụng và đầu tư đáng kể, bao gồm cả vay trong nước và vay nước ngoài, đáp ứng cho nhu cầu vốn kinh doanh và đầu tư phát triển của Tập đoàn. Những năm gần đây, Tập đoàn bắt đầu nghiên cứu để mở rộng các kênh huy động vốn có tính chiến lược như vay tín dụng xuất khẩu, vay ứng trước tiền dầu thô xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài… và đặc biệt một kênh huy động vốn mới mà Tập đoàn đang triển khai để chuẩn bị đi vào thực hiện đó là phát hành trái phiếu công ty ra thị trường quốc tế. Mỗi kênh huy động vốn đều có những giải pháp tài chính thích hợp để tăng thêm vốn đầu tư cho Tập đoàn. Thực chất, việc huy động vốn của Tập đoàn trong những năm qua còn mang tính đơn lẻ mà chưa được xây dựng và thực hiện theo một chiến lược huy động vốn mang tính thống nhất, tổng thể và khép kín phù hợp với nhu cầu và khả năng của Tập đoàn cũng như phù hợp với sự phát triển của thị trường vốn trong nước và quốc tế. Nhìn chung, hình thức huy động vốn để đáp ứng những yêu cầu phát triển củaTập đoàn vẩn còn hạn chế. Phát triển bền vững các định chế tài chính trong Tập đoàn Trong chiến lược phát triển tổng thể và bền vững của Tập đoàn Dầu khí Việt nam, lĩnh vực tài chính – ngân hàng sẽ là lĩnh vực được chú trọng phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho các hoạt động khác của Tập đoàn. Lĩnh vực tài chính - ngân hàng của Tập đoàn sẽ phát triển thông qua việc mở rộng quy mô hoặc thành lập mới các định chế tài chính. Việc thúc đẩy sự lớn mạnh của các định chế tài chính trong Tập đoàn sẽ mang đến sự chủ động về nguồn vốn, phát triển năng lực tài chính đảm bảo sự phát triển bền vững của Tập đoàn. 3.1.3. Định hướng phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại công ty Cổ Phần chứng khoán Dầu khí. Công ty Chứng khoán Dầu khí chọn lĩnh vực Tư vấn tài chính và bảo lãnh phát hành làm trọng tâm cho chương trình và kế hoạch kinh doanh của mình trong giai đoạn 2007-2010. Từ trọng tâm này, tới năm 2015, Công ty Chứng khoán Dầu khí từng bước phát triển và triển khai toàn diện mô hình Ngân hàng Đầu tư chứng khoán (như Goldman Sach, Morgan Stanely, CLSA...) hoạt động trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp, tư vấn, bảo lãnh phát hành, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, đầu tư dự án, tài trợ tài chính dự án... với các loại sản phẩm và dịch vụ xoay quanh thị trường vốn. Định hướng triển khai xuyên suốt trong quá trình phát triển PV SECURITIES là: dựa vào những chính sách dài hạn của chính phủ; dựa vào chương trình phát triển và vị thế, tiềm năng và nhu cầu tài chính của Tập đoàn Dầu khí để xây dựng PV SECURITIES trở thành một định chế tài chính lớn mạnh, hiện đại đáp ứng một cách chất lượng những nhu cầu của khách hàng trong hoạt động trên thị trường vốn. Từ định hướng tổng quát đó, công ty đã cụ thể hóa thành nội dung phát triển tất cả các hoạt động của công ty nói chung cũng như hoạt động lưu ký chứng khoán nói riêng. Theo đó, định hướng phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán trong thời gian tới của PV Securities như sau: Mở rộng thị phần của hoạt động lưu ký, không chỉ phục vụ các công ty trong Tập đoàn mà hướng cả tới các khách hàng là các công ty bên ngoài tập đoàn. Mở rộng địa bàn, hoàn tất, phát triển hệ thống các chi nhánh, phòng giao dịch, đại lý nhận lệnh không chỉ ở Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh mà còn tiến về các tỉnh như Hải Phòng, Vũng Tàu… Áp dụng, triển khai công nghệ hiện đại, sử dụng phần mềm mới để phục vụ các hoạt động của công ty nói chung và hoạt động LKCK nói riêng. Xây dựng đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp về hoạt động LKCK. Để thực hiện được các định hướng này một cách hiệu quả cần phải có nỗ lực của chính ban lãnh đạo cũng như của các thành viên trong công ty. Và đặc biệt cần phải có các giải pháp hợp lý, thích hợp với từng giai đoạn phát triển của công ty. 3.2.Một số giải pháp phát triển hoạt động lưu ký chứng khoán tại PV Securities. Tiếp tục hoàn thiện Quy trình, quy chế để đảm bảo cho quá trình tác nghiệp được thông suốt, hạn chế tối đa sai sót, nhầm lẫn đem lại sự hài lòng tối đa cho khách hàng. Tự đào tạo và đề nghị phòng tổ chức nhân sự có kế hoạch đào tạo để có một đội ngũ nhân sự chuyên nghiệp về kiến thức, nghiệp vụ và kỹ năng giao tiếp, xử lý yêu cầu của khách hàng. Tiếp tục xúc tiến, đàm phán và ký kết các hợp đồng quản lý cổ đông với các công ty khác trong Tập đoàn, đặc biệt là các công ty có triển vọng, cổ phiếu có tính thanh khoản cao để thu phí chuyển nhượng. Xây dựng các phòng giao dịch kiểu mẫu, mở thêm 02 phòng giao dịch ở Hà Nội để thu hút thêm khách hàng đến lưu ký chứng khoán cũng như sử dụng các dịch vụ khác của công ty. Không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động lưu ký để đảm bảo thời gian lưu ký ngắn nhất, mang lại hiệu quả cao nhất cho khách hàng. 3.3.Kiến nghị. 3.3.1.Kiến nghị đối với cơ quan,tổ chức có thẩm quyền trong việc ban hành khung pháp lý cho hoạt động lưu ký chứng khoán. Với bất kỳ một định chế tài chính nào muốn tồn tại và phát triển thì phải tuân theo các quy đinh của pháp luật. Các văn bản pháp luật này điều chỉnh mối quan hệ giữa các bên trong hoạt động LKCK giúp cho giao dịch diễn ra thuận lợi, nhanh chóng và giảm thiểu các rủi ro có thể xẩy ra.Và nhìn chung để cho hoạt động LKCK trên thị trường diễn ra có hiệu quả thì phải tạo môi trường pháp lý thông nhất và đồng bộ.Vì các văn bản pháp luật này sẽ tác động tới giao dịch chứng khoán,bắt buộc các hoạt động diễn ra theo pháp luật. Các nước khác nhau cũng có những quy định về hoạt động LKCK khác nhau bởi mỗi nước đi theo con đường phát triển thị truờng chứng khoán riêng. Với sự ra đời của Luật chứng khoán là một bước tiến lớn về khung pháp lý đối với TTCK song do mới ra đời nên Luật chứng khoán còn có nhiều điểm bất cập, thiếu đồng bộ, gây hiểu lầm trong thực hiện các hoạt động của TTCK nói chung và hoạt động lưu ký nói riêng. Vì vậy cần thiết phải ra các văn bản hướng dẫn thi hành luật hướng dẫn cụ thể các hoạt động, trường hợp để hoạt động của TTCK thông suốt, hiệu quả hơn. Đồng thời nhà nước cần có các chính sách khuyến khích thị trường phát triển, tạo ra các kênh cung hàng có chất lượng cho TTCK, khuyến khích các nhà đầu tư tham gia vào thị trường. 3.3.2.Tăng cường đào tạo và nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý. Do con người là yếu tố trung tâm của mọi hoạt động nên yếu tố con người luôn phải được xem trọng hàng đầu. Con người có tri thức, khả năng và sức khỏe thì mới làm việc, vận hành máy móc có hiệu quả. Ngoài các cán bộ lưu ký ở các công ty chứng khoán thì các cán bộ lưu ký tại trung tâm lưu ký chứng khoán cũng cần phải được đào tạo và nâng cao năng lực quản lý cũng như năng lực chuyên môn để giải quyết công việc nhanh hơn, chuyên nghiệp hơn, đem lại lợi ích cao nhất cho khách hàng và cho chính công ty. 3.3.3.Tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho bộ phận lưu ký của công ty chứng khoán và trung tâm giao dịch chứng khoán. Cần mở rộng diện tích kho lưu giữ chứng khoán để có thể thực hiện lưu ký tập trung các chứng khoán không niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hiện nay qua đó các cơ quan quản lý Nhà nước có thể quản lý các hoạt động liên quan đến mảng chứng khoán này như hoạt động cầm cố hay repo chứng khoán Tăng thêm số lượng máy tính hiện đại tốc độ cao,cải tạo phần mềm lưu ký cho phòng lưu ký –thanh toán bù trừ và đăng ký chứng khoán để dễ dàng thực hiện hoạt động cầm cố chứng khoán,cũng như hoạt động quản lý hơn. KẾT LUẬN. Thị trường chứng khoán nước ta là một thị trường còn non trẻ, đi vào hoạt động trong thời gian chưa lâu, hàng hóa của thị trường ngày càng được bổ sung nhiều hơn. Song ở nhiều CTCK thì hoạt động lưu ký chỉ được coi là hoạt động phụ trợ và chưa được chú ý đúng mức so với vai trò của nó. Qua thời gian thực tập tại PV Securities em đã phần nào hiểu được kỹ càng hơn về các nghiệp vụ của công ty chứng khoán nói chung cũng như hoạt động lưu ký nói riêng. Trong chuyên đề này em đã khái quát lại hoạt động lưu ký chứng khoán tại PV Securities và có đưa ra một số giải phát kiến nghị nhằm phát triển hoạt động này. Tuy đã rất cố gắng, song do lưu ký chứng khoán là một nghiệp vụ có tính chuyên nghiệp cao nên không thể tránh khỏi những thiếu sót có thể mắc phải như còn nặng về lý thuyết, số liệu chưa được cập nhật đầy đủ, các giải pháp và kiến nghị thì chưa được cụ thể… Em rất mong sự góp ý của thầy cô và bạn đọc để chuyên đề được hoàn thiện hơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS. NguyÔn V¨n Nam; PGS. TS. V­¬ng Träng NghÜa, Gi¸o tr×nh thÞ tr­êng chøng kho¸n, NXB Tµi chÝnh - 2002 UBCKNN, Nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n vÒ chøng kho¸n vµ thÞ tr­êng chøng kho¸n, NXB ChÝnh trÞ quèc gia – 2002 UBCKNN, Ph©n tÝch ®Çu t­ chøng kho¸n, NXB ChÝnh trÞ quèc gia - 2002 PGS. TS. L­u ThÞ H­¬ng, Gi¸o tr×nh tµi chÝnh doanh nghiÖp, NXB Thèng kª – 2003 Frederic S. Mishkin, TiÒn tÖ ng©n hµng vµ thÞ tr­êng tµi chÝnh, NXB Khoa häc vµ kü thuËt – 2001 LuËt chøng kho¸n sè 70/2006/QH 11 Báo cáo tài chính có kiểm toán của PV Securities Báo cáo hoàn thành kế hoạch năm 2007 của PV Securities Quy chế lưu ký chứng khoán – UBCKNN Quy chế hoạt động của bộ phận lưu ký tại PV Securities. T¹p chÝ ®Çu t­ chøng kho¸n/bé kÕ ho¹ch ®Çu t­. Thêi b¸o kinh tÕ ViÖt Nam MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc32982.doc