Mục lục
Trang
Danh mục chữ viết tắt………………………………………………...
4
Danh mục bảng biểu………………………………………………….
4
Lời nói đầu………………………………………………………..
5
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại…………………………………………..
6
1.1 Tổng quan về ngân hàng thương mại……………………….
6
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại…………………
6
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại…………………..
8
1.2 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại…...
10
77 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.2.1 Khái niệm……………………………………………………………
10
1.2.2 Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ với NHTM……………..
11
1.2.3 Các hình thức kinh doanh ngoại tệ cơ bản của NHTM……………..
12
1.2.4 Phát triển hoạt động kinh doanh ngoai tệ của NHTM………………
21
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM…………………………………………………..
23
1.3.1 Các nhân tố chủ quan……………………………………………….
23
1.3.2 Các nhân tố khách quan……………………………………………
27
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngọai tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam………………………………..
31
2.1 Khái quát về ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam…………….
31
2.1.1 Sơ lược quá trình phát triển ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam…………………………………………………………………………
31
2.1.2 Cơ cấu tổ chức……………………………………………………..
32
2.1.3 Kết quả kinh doanh chủ yếu………………………………………..
36
2.2 Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV.……………………………………………..
37
2.2.1 Các hoạt động chính phát triển Việt Nam…………………………..
39
2.2.2 Các giao loại dịch ngoại tệ…………………………………………..
42
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại hội sở chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam…………………
47
2.3.1 Hoạt động KDNT của BIDV……………………………………......
47
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân…………………………………………….
48
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại hội sở chính ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam …………
53
3.1 Định hướng chung cho hoạt động kinh doanh ngoại tệ của BIDV trong thời gian tới………………………………………………………….
53
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động KDNT tại BIDV……………………
54
3.2.1 Phát huy mạnh mẽ nhân tố con người………………………………
54
3.2.2 Hoàn thiện yếu tố công nghệ………………………………………..
56
3.2.3 Hoàn thiện qui trình thủ tục…………………………………………
57
3.2.4 Phối hợp các họat động liên quan trực tiếp tới kinh doanh ngoại tệ…
58
3.2.5 Đa dạng hóa các loại ngoại tệ trong kinh doanh……………………..
59
3.2.6 Đa dạng hóa các loại giao dịch ngoại tệ……………………………..
60
3.2.7 Xây dựng một chính sách khách hàng đúng đắn và hiệu quả……….
61
3.2.8 Mở rộng hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trường quốc tế…….
64
3.3 Kiến nghị……………………………………………………………….
65
3.3.1 Kiến nghị với Chính Phủ…………………………………………….
65
3.3.2 Kiến nghị với ngân hàng nhà nước…………………………………..
66
Kết luận…………………………………………………………...
74
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………..
76
NHẬN XÉT CỦA CÁN BỘ TẠI CƠ SỞ THỰC TẬP……………..
78
Danh mục chữ viết tắt
KDNT………………………..........
Kinh doanh ngoại tệ
KDTT……………………………..
Kinh doanh tiền tệ
TTNH……………………………..
Thị trường ngoại hối
NH………………………………...
Ngân hàng
NHTƯ…………………………….
Ngân hàng trung ương
TCTD……………………………..
Tổ chức tín dụng
NHNN…………………………….
Ngân hàng nhà nước
NHTM…………………………….
Ngân hàng thương mại
HSC……………………………….
Hội sở chính
CN ………………………………..
Chi nhánh
BIDV……………………………..
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
HĐH………………………………
Hiện đại hóa
Danh mục bảng biểu
Trang
Bảng 2.1:
Một số chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm trở lại đây của BIDV
39
Bảng 2.2:
Doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động KDNT của BIDV từ 2004 đến 2007
45
Bảng 2.3:
Doanh số giao dịch các loại ngoại tệ năm 2007 của BIDV
50
Biểu đồ 2.1:
Doanh số mua bán ngoại tệ ròng của BIDV qua các
44
Lời nói đầu
Nếu như trước đây thu nhập chủ yếu của các ngân hàng thương mại là từ hoạt động tín dụng thì ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế, thu nhập từ những hoạt động dịch vụ hiện đại đã trở thành những nguồn thu nhập quan trọng đối với mỗi ngân hàng. Tuy rằng thu nhập chính của các ngân hàng thương mại vẫn từ hoạt động tín dụng nhưng cơ cấu thu nhập này có xu hướng thay đổi dần theo hướng giảm tỉ trọng thu nhập từ hoạt động tín dụng và tăng tỉ trọng nguồn thu nhập từ các hoạt động dịch vụ khác. Trong số đó có hoạt động kinh doanh ngoại tệ.
Trong những năm qua ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam đã rất quan tâm đến hoạt động KDNT. Có thể nói rằng hoạt động KDNT tại BIDV đã đạt được những kết quả hết sức thuyết phục. Tuy nhiên hoạt động KDNT tại BIDV vẫn còn nhiều hạn chế, như về mặt con người hay nguồn nhân lực... Trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập thì BIDV khó có thể giữ vững vị thế và phát triển hoạt động KDNT với những hạn chế đó. Xuất phát từ thực tế đó đế tài: ”Phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” đã được mở rộng nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung chính sẽ được đề cập trong chuyên đề bao gồm:
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngọai tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Chương 3: Một số giải phát và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triểnViệt Nam
Chương 1: Các vấn đề cơ bản về hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại
Tổng quan về ngân hàng thương mại
Khái niệm và đặc điểm của ngân hàng thương mại
Khái niệm
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất trong nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng. Trong số đó NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô thị phần, số lượng cũng như về qui mô tài sản.
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế
Theo luật các TCTD 1997 và sửa đổi bổ sung 2004 thì:” hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tề và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
Đặc điểm
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều lọai tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng.
Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm ổn định kinh tế vĩ mô.
Ngân hàng là một tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng thương mại đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng ủa nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước.
Do tiền ngân hàng thực hiện cung cấp tín dụng chủ yếu là tiền gửi của dân cư và các tổ chức kinh tế nên hoạt động kinh doanh ngân hàng đòi hỏi sự kiểm soát chặt chẽ. Việc kiểm sóat chặt chẽ này xuất phát từ hoạt động kinh doanh tiền tệ của ngân hàng. Do hàng ngày ngân hàng thực hiện việc lưu chuyển một khối lượng lớn tiền trong nền kinh tế nên một ngân hàng đổ vỡ có thể gây ra những ảnh hưởng rất lớn trong nền kinh tế. Một sự đổ vỡ nhỏ của ngân hàng có thể gây ra hiệu ứng đôminô dẫn đến một sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng.
Hoạt đông kinh doanh ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro. Do xuất phát từ việc kinh doanh tiền và là trung gian tài chính hoạt động cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau nên hoạt động ngân hàng phải đối mặt với rất nhiều rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng, rủi ro đạo đức, rủi ro tác nghiệp….
Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Hoạt động huy động vốn
Hoạt động huy động vốn của các NHTM nhằm thu hút vốn để ngân hàng thực hiện việc kinh doanh thông qua các hoạt động sử dung vốn. Các hình thức huy động vốn gồm có:
Thư nhất huy động từ nguồn vốn chủ sở hữu thông qua việc góp vốn của các cổ đông
Thứ hai huy động từ nguồn vốn nợ gồm việc nhận tiền gửi của các tổ chức và cá nhân và việc đi vay trên thị trường vốn thông qua phát hành các giấy nợ, vay các TCTD hay vay NHTƯ
Ngoài ra nguồn vốn huy động của ngân hàng có thể có từ một số hoạt động khác như nguồn vốn ủy thác….
Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng chính là việc ngân hàng thực hiện kinh doanh nguồn vốn huy động được. Các hoạt động sử dụng vốn chính gồm có:
Thứ nhất là hoạt động cho vay với các cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Đây là hoạt động cơ bản nhất trong hoạt động sử dụng vốn của NHTM và mang lại lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM
Thứ hai là hoạt động kinh doanh tiền tệ. Hoạt động này ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng và góp phần tăng thu nhập của ngân hàng. Hoạt động kinh doanh tiền tệ có hai hoạt động chính là hoạt động kinh doanh ngoại tệ và hoạt động đầu tư chứng khoán các loại: cổ phiếu, trái phiếu, các loại hàng hóa phái sinh…
Các hoạt động khác
Ngoài 2 hoạt động chính trên thì ngân hàng còn thực hiện nhiều hoạt động dịch vụ khác. Để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế thì các hoạt động này của ngân hàng ngày càng đa dạng ngoài 2 nghiệp vụ truyền thông trên như:
Hoạt động bảo lãnh
Hoạt động chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
Hoạt động cho thuê thiết bị trung và dài hạn
Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn ủy thác
Dịch vụ bảo quản vật có giá
Dịch vụ quản lý ngân quỹ
Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
Dịch vụ bảo hiểm
Dịch vụ đại lý….
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại
Khái niệm
KDNT là việc mua bán các loại ngoại tệ khác nhau nhằm đảm bảo cân đối các nhu cầu về ngoại tệ ngân hàng và tìm cách thu lợi nhuận trực tiếp thông qua chênh lệch về tỷ giá và lãi suất giữa các đồng tiền khác nhau
Như vậy ngân hàng thực hiện việc kinh doanh ngoại tệ để thu lợi cho ngân hàng và cũng là cung cấp một dịch vụ tài chính cho nền kinh tế khi ngân hàng đứng ra thu mua hay bán các loại ngoại tệ.
Ngoại tệ ở đây được hiểu theo một nghiã hẹp không giống như ngoại hối bao gồm tất cả các đồng tiền khác nhau hay các ngoại tệ, vàng, bạc, đa quí, các phương tiện thanh toán quốc tế như hối phiếu, kỳ phiếu và các giấy tờ có gía... mà chỉ là tiền tệ của các nước khác nhau sau đây gọi chung là ngoại tệ. Trong suốt chuyên đề này, thuật ngữ ngoại tệ sẽ được hiểu theo nghĩa hẹp như vậy và thuật ngữ thị trường ngoại hối cung sẽ được hiểu là thị trường ngoại tệ.
Từ khái niệm hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên có thể rút ra một số đặc trưng của hoạt KDNT như sau:
Thứ nhất, là hoạt động KDNT gắn chặt với các hoạt động thương mại quốc tế. Bởi hoạt động kinh doanh ngoại tệ liên quan đến việc mua bán các ngoại tệ trên thị trường. Mà các loại ngoại tệ được các doanh nghiệp chủ yếu giao dịch thông qua hoạt động thương mại quốc tế. Ngoài ra trong một số trường hợp ngoại tệ được dùng làm phương tiện cất giữ giá trị hay đầu cơ. Tuy nhiên, hoạt động này rất ít và nó chỉ chiếm một số lượng rất nhỏ trong các giao dịch ngoại tệ và được thực hiện chủ yếu bởi các cá nhân.
Thứ hai, là hoạt động KDNT gắn chặt với tỷ giá. Tỷ giá phản ánh biến động của các loại ngoại tệ nên để thực hiện thành công hoạt động này cần theo sát các biến động tỷ giá trên thị trường ngoại tệ quốc tế.
Thứ ba, hoạt động KDNT là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro. Một trong những đặc trưng của họat động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động KDNT nói riêng đó là có chứa đựng rất nhiều rủi ro. Các rủi ro chủ yếu mà hoạt động KDNT phải đối mặt là rủi ro tỷ giá và rủi ro lãi suất. Ngoài ra còn mốt số rủi ro khác nhưng có ít tác động đến hoạt động KDNT đó là rủi ro thanh khoản, rủi ro đạo đức, rủi ro tín dụng…. Để phòng ngừa rủi ro thị trường các NHTM thường sử dụng các công cụ thị trường phái sinh như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi lãi suất, hơp đồng quyền chọn để làm cân bằng trạng thái luồng tiền và cố định các mức tỷ giá và lãi suất giao dịch.
Vai trò của hoạt động kinh doanh ngoại tệ với NHTM
Quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu diễn ra càng mạnh mẽ, sự cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng gay gắt thì vai trò của KDNT càng quan trọng với các NHTM
Thứ nhất, nó đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. KDNT thông qua việc mua bán để hưởng chênh lệch tỷ giá hay thông qua việc đầu cơ dựa trên những dự báo về biến động lãi suất có thể đem lại những khoản lợi nhuận đáng kể cho ngân hàng.
Thứ hai, nó mở rộng họat động của ngân hàng thông qua việc thúc đẩy và tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Rõ ràng rằng nếu một ngân hàng không có đủ trạng thái ngoại tệ cần thiết hay không huy động đủ lượng ngoại tệ cần thiết thì sẽ rất khó có thể giúp các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thanh toán hay làm ngân hàng đại lý, ngân hàng chiết khấu trong phương thức tín dụng chứng từ. Ngoài ra việc đáp ứng nhu cầu thu mua ngoại tệ giúp các cá nhân trong việc học tập, công tác cũng như di lịch, qua đó cũng góp phần tăng thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu chênh lêch tỷ giá mua và bán. Với những hoạt động như vậy giúp ngân hàng mở rộng hoạt động đồng thời làm tăng vị thế cũng như uy tín của ngân hàng trên thị trường.
Thứ ba, nó giúp ngân hàng phòng chống rủi ro và tăng khả năng cạnh tranh. Thực hiện việc KDNT là một cách thức đa dạng hóa hoạt động kinh doanh ngân hàng nhằm phân tán rủi ro cũng như đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng nhằm phục vụ nhiều đối tượng khách hàng khác nhau, tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Hơn nữa ngân hàng cũng có thể xử lý một cách linh động hơn trước những biến động của đồng nội tệ.
Các hình thức kinh doanh ngoại tệ cơ bản của NHTM
Nhìn chung hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM tập trung vào 4 hình thức chính như sau:
Thứ nhất NHTM mua và bán ngoại tệ cho khách hàng để tài trợ cho thanh toán xuất nhập khẩu thông qua phương thức tín dụng chứng từ là chủ yếu hoặc thông qua tín dụng cho vay ngoại tệ.
Thứ hai NHTM mua và bán ngoại tệ cho khách hàng hoặc cho mình nhằm mục đích thực hiện đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp.
Thứ ba NHTM mua và bán ngoại tệ nhằm mục đích cân bằng trạng thái ngoại tệ hoặc phòng ngừa rủi ro tỷ giá.
Thứ tư NHTM mua và bán ngoại tệ nhằm kinh doanh hưởng chênh lệch tỷ giá và lãi suất hoặc đầu cơ kiếm lời khi tỷ giá thay đổi.
Để thực hiện việc mua bán các loại ngoại tệ thì ngân hàng thực hiện thông qua các giao dịch ngoại tệ chính sau:
Giao dịch giao ngay (Spot)
Spot
Giao dịch giao ngay là giao dịch mà việc chuyên giao giữa các đồng tiền được thực hiện trong vòng 2 ngày kể từ ngày ký kết hợp đồng. Thị trường giao ngay được biết đến như là một thị trường rất lớn và sôi động với khối lượng tiền cực lớn luân chuyển qua thị trường.
Thị trường giao ngay bao gồm 2 thị trường là thị trường bán buôn và thị trường bán lẻ. Thị trường bán buôn có doanh số lớn hơn rất nhiều so với thị trường bán lẻ do đó thông thường người ta coi thị trường giao ngay là thị trường bán buôn. Ngòai ra thị trường bán buôn này cũng được gọi là thị trường liên ngân hàng vì thị trường này thực hiện giao dịch giữa các ngân hàng với nhau và mỗi một giao dịch với khối lượng rất lớn. Còn với thị trường bán lẻ thì giao dịch thực hiện giữa ngân hàng với các khách hàng lẻ. Tỷ giá được hình thành trên thị trường bán buôn hay thị trường liên ngân hàng gọi là tỷ giá bán buôn hay tỷ giá liên ngân hàng do các ngân hàng trực tiếp giao dịch với nhau và do mức cung cầu trên thị trường mà tạo nên tỷ giá này. Dựa trên cơ sở tỷ giá này thì các ngân hàng sẽ qui dịnh tỷ giá bán lẻ áp dụng cho khách hàng lẻ. So với tỷ giá bán buôn thì độ rộng (spread) của tỷ giá bán lẻ rộng hơn (khoảng cách giữa tỷ giá bán và tỷ giá mua của ngân hàng). Các ngân hàng không nhất thiêt phải tham gia giao dịch liên ngân hàng thì mới có được tỷ giá bán lẻ mà có thể cập nhập số liệu giao dịch trên thị trường liên ngân hàng thông qua một mạng máy tính nối mạng với nhau để có thể đưa ra tỷ giá bán lẻ của ngân hàng
Ở Mỹ cũng như ở nhiều nước phát triển khác, thị trường ngoại hối giao ngay có hai cấp. Cấp thứ nhất đó là thị trường liên ngân hàng trực tiếp giữa các ngân hàng, đây là thị trường tập trung, liên tuc, đấu giá mở và giao dịch hai chiều. Cấp thứ hai là thị trường liên ngân hàng gián tiếp thông qua môi giới, đây là thị trường bán tập trung, liên tục đặt lệnh có giới hạn thông qua phương thức đấu giá một chiều.
Đối với các giao dịch giao ngay, lãi và lỗ được xác định trên cơ sở tính giá trị luồng tiền ròng cuối ngày ứng với tỷ giá đóng cửa của ngày giao dịch đó.
Arbitrage
Nghiệp vụ acbit là một dạng của nghiệp vụ giao ngay. Theo nghĩa đơn giản thì hiểu nghiệp vụ acbit là là việc sử dụng chênh lệch tỷ giá giữa các đồng tiền khác nhau để thu lợi thông qua việc mua và bán ngoại tệ.
Nghiệp vụ này được tiến hành thông qua việc mua bán ngoại tệ đồng thời trên các thị trường ngoại hối khác nhau theo nguyên tắc mua ở nơi rẻ và bán ở nơi đắt hay mua với tỷ giá thấp và bán với tỷ giá cao
Nghiệp vụ này có hai cách thức hiện giao dịch đó là kinh doanh đơn giản và kinh doanh phức tạp. Kinh doanh đơn giản được thực hiện thông qua việc mua bán trên 2 thị trường khác nhau trong cùng một thời điểm. Kinh doanh phức tạp thực hiện thông qua nhiều thị trường mà thông thường là 3 thị trường.
Giao dịch kỳ hạn (Forward)
Giao dịch kỳ hạn là giao dịch được thảo thuận ngày hôm nay nhưng việc thực hiện giao dịch là vào một ngày trong tương lai với mức tỷ giá đã thỏa thuận trước, thông thường ngày trong tương lai thường là 30, 60, 90, 120 hay 180 ngày.
Tỷ giá áp dụng trong giao dịch kỳ hạn khác với tỷ giá giao ngay goi là tỷ giá kỳ hạn. Tỷ giá kỳ hạn trong giao dịch kỳ hạn được thỏa thuận ngay từ ngày hôm nay và sẽ là tỷ giá thực hiện cho giao dịch trong tương lai. Công thức để xác định tỷ giá kỳ hạn được xác định như sau:
FR = SR + (-) FM
Trong đó: FR: forward rate - tỷ giá kỳ hạn
SR: spot rate – tỷ giá giao ngay
FM: forward point – điểm kỳ hạn
Dấu + khi dự đoán các yếu tố tác động làm cho FM > SR gọi là premium
Dấu – khi dự đoán các yếu tố tác động làm cho FM < SR goi là discount
Điểm kỳ hạn FM được tính toán dựa trên chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền theo công thức sau:
FM =
Tỷ giá giao ngay * số ngày kỳ hạn * chênh lệch lãi suất 2 đồng tiền
360 + số ngày kỳ hạn * lãi suất của đồng tiền đi vay
Ngoài ra FM còn được gọi là điểm SWAP.
Như vậy căn cứ vào mức lãi suất của các đồng tiền ta sẽ biết được đồng tiền nào lên giá và đồng tiền nào giảm giá kỳ hạn
Các yếu tố tác động đến tỷ giá kỳ hạn
Chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền: theo công thức tính FM ở trên thì chênh lệch lãi suất giữa 2 đồng tiền tác động đến FM
Làm phát cũng là yếu tố tác động đến tỷ giá kỳ hạn: giả sử tỷ giá giữa 2 đồng tiền 1A = 1B. Nếu tiền của nước B bị lạm phát 10% còn nước A thì không bị lạm phát. Vậy tiền nước B giảm giá trị 10% tức là tỷ giá kỳ hạn sau một năm sẽ có thêm 10% với đồng tiền bị mất giá, lúc này 1A=1,1B
Sự kỳ vọng (Expectation): sự kỳ vọng với biến chuyển tương lai của 1 đồng tiền cũng làm thay đổi tỷ giá giữa 2 đồng tiền dù yếu tố này mang tính chủ quan
Các giao dịch kỳ hạn được áp dụng khá phổ biến trong các ngân hàng. NHTM có thể thực hiện giao dịch kỳ hạn nhằm làm dịch vụ cho khách hàng là các công ty xuất nhập khẩu để họ có thể bảo hiểm cho các khoản thu nhập hoặc các khoản chi nhập khẩu của họ. Trên thị trường kỳ hạn các NHTM còn là những nhà kinh doanh chênh lệch giá với mục đích tạo lợi nhuận nhưng không chịu rủi ro trên cơ sở sự chênh lệch về lãi suất và điểm kỳ hạn
Kết quả kinh doanh ngoại tệ kỳ hạn cũng được xác định vào cuối ngày giao dịch. Kết thúc ngày giao dịch, các ngân hàng có trạng thái ngoại hối ròng của các hợp đồng còn hiệu lực với những ngày giá trị khác nhau. Kết quả kinh doanh có thể được tính dựa trên giả định rằng tất cả các hợp đồng kỳ hạn còn hiệu lực đều được thanh lý ngay lập tức và tỷ giá được áp dụng để định giá lại là tỷ giá kỳ hạn lúc đóng cửa của ngày giao dịch hôm đó.
Giao dịch hoán đổi ngoại tế (SWAP)
Giao dịch hoán đổi ngoại tệ là việc mua và bán ra một đồng tiền nhất định với cùng một khối lượng nhưng ngày giá trị mua vào và ngày giá trị bán ra là khác nhau hay nói cách khác giao dịch hoán đổi ngoại tệ là sự kết hợp của một giao dịch giao ngay và một giao dịch kỳ hạn với cùng một lượng ngoại tệ nhưng theo 2 chiều trái ngược nhau.
Một hợp đồng hoán đổi ngoại tệ có những đăc điểm sau:
Hợp đồng mua vào và bán ra một đồng tiền nhất định được ký kết đồng thời tại ngày hôm nay và nếu không có thỏa thuận gì khác, thì việc mua một đồng tiền có nghĩa là ngân hàng yết giá mua vào đồng tiền yết giá và bán ra một đồng tiền có nghĩa là ngân hàng yết giá bán ra đồng tiền yết giá.
Số lượng mua vào và bán ra đồng tiền trong hợp đồng hoán đổi là giống nhau. Vì thế giao dịch này không tạo ra trạng thái ngoại hối ròng cho ngân hàng nên tránh được rủi ro tỷ gía.
Ngày giá trị của hợp đồng mua vào và bán ra là khác nhau vì thế mà có độ lệch về mặt thời gian với luồng tiền khiến cho ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất.
Tỷ giá hoán đổi phản ánh điểm kỳ hạn hay điểm hoán đổi mà tại đó ngân hàng đồng ý hoán đổi hai đồng tiền nhất định thông qua giao dịch giao ngay và giao dịch kỳ hạn.
Do đó: Tỷ giá hoán đổi = Điểm hoán đổi = Điểm kỳ hạn
Tỷ giá hoán đổi chính là điểm kỳ hạn nên có thể viết:
Tỷ giá hoán đổi = tỷ giá giao ngay – tỷ giá kỳ hạn
Trong một cặp tỷ giá hoán đổi, nếu tỷ giá hoán đổi đứng trước lớn hơn tỷ giá hoán đổi đứng sau thì có nghĩa là ngân hàng sẵn sàng mua kỳ hạn tại mức giá giao ngay trừ đi tỷ giá hoán đổi đứng trước và sẵn sàng bán kỳ hạn tỷ giá hoán đổi đứng trước mà nhỏ hơn tỷ gía hoán đổi đứng sau. Ngược lại, nếu tỷ giá hoán đổi đứng trước mà nhỏ hơn tỷ giá hoán đổi đứng sau thì ngân hàng sẵn sàng mua kỳ hạn tại mức tỷ giá giao ngay cộng với tỷ giá hoán đổi và sẵn sàng bán kỳ hạn tại mức tỷ giá giao ngay cộng với tỷ giá hoán đổi đứng sau.
Giao dịch hoán đổi ngoại tệ không chỉ được ứng dụng trong KDNT để kiếm lời mà còn được ứng dụng rộng rãi trong bảo hiểm rủi ro tỷ giá và tín dụng quốc tế.
Thí dụ về một giao dịch hoán đổi ngoại tệ:
Ngày 20/08/2004 sau khi đã phân tích kỹ thông tin tài chính liên quan đến USD và JPY, một nhà kinh doanh đoán rằng USD sẽ bị giảm giá và USD/JPY: 109 thì người này đã thực hiện giao dịch giao ngay 1.000.000 USD để đổi lấy 109.000.000 JPY. Đến ngày thanh tóan là ngày 22/08 giá thị trường thanh toán không giảm mà tỷ giá USD/JPY lại tăng lên 109,5, trái với dự đoán của nhà kinh doanh. Tuy nhiên, do phân tích kỹ nên nhà kinh doanh tỷ giá USD chỉ tăng trong thời gian ngắn và nhất định sẽ giảm xuống tiếp bằng cách mua ngay 1.000.000 USD với tỷ giá ngày 22/8 là 109,5 JPY, cùng lúc đấy anh ta ký hợp đồng mua bán kỳ hạn USD, sẽ giao sau một tháng tức là có ngày giá trị là 22/9 với tỷ giá USD/JPY là 109,2
Như vậy, trong giao dịch thứ nhất vào ngày 22/8 mua 1.000.000 USD với tỷ giá 109,5 tức là phải trả 109.500.000 JPY tức là chịu lỗ 500.000 JPY để duy trì dự trữ ngoại tệ không thay đổi đồng thời bán kỳ hạn một tháng vào ngày 22/9 giao 1.000.000 USD để nhận 109.200.000 JPY. Đến ngày 21/09 USD giảm giá đúng như nhà kinh doanh đã dự đoán, tỷ giá giao ngay vào ngày này chẳng hạn là USD/JPY = 108,6. Nhà kinh doanh đã mua laị 1.000.000 USD và trả 108.600.000 JPY. Như vậy trong nghiệp vụ trên nhà kinh doanh đã lãi:
109.200.000 - 108.600.00 = 600.000 JPY
Vậy sau 2 giai đoạn nhà kinh doanh lãi 100.000 JPY
Giao dịch hợp đồng tương lai (Future)
Giao dịch hơp đồng tương lai là việc hai ngân hàng hoặc giữa ngân hàng với khách hàng thỏa thuận về việc mua bán ngoại tệ trong tương lai tại một mức tỷ giá cố định thỏa thuận ngày hôm nay.
Giao dịch tương lai được thực hiện trên thị trường tập trung, các hợp đồng đều được tiêu chuẩn hóa và chỉ giới hạn trong một số ngày giá trị. Trên sở giao dịch có các nhà thanh toán bù trừ, họ hạch toán các khoản lỗ lãi của các bên mua, bán vào số tiền ký quỹ của các bên. Để tránh rủi ro cho nhà thanh toán bù trừ khi giá tăng hoặc giảm qua mức. Nhà thanh toán bù trừ sẽ yêu cầu nhà kinh doanh ký quỹ bổ sung trong trường hợp số dư trên tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó.
Các hợp đồng tương lai thường được dùng vào mục đích phòng ngừa rủi ro. Với hợp đồng tương lai mua bán ngoại tệ được thỏa thuận giữa các bên mua, bán vào thời điểm hợp đồng đến hạn là cố định do đó các bên có thể tránh được những ảnh hưởng của sự lên xuống của tỷ giá trong tương lai. Điểu này rất có ý nghĩa với nhà kinh doanh trong bối cảnh tỷ giá biến động liên tục khó dự báo
Ngòai ra, hợp đồng tương lai cũng được sử dụng vào mục đích đầu cơ kiếm lợi nhuận thông qua sự dự đoán về tỷ giá trong tương lai.
Giao dịch hợp đồng quyền chọn (Option)
Giao dịch quyền chọn ngoại tệ được thực hiện thông qua việc ký kết các hợp đồng quyền chọn. Một hợp đồng quyền chọn tiền tệ cho phép người mua hợp đồng có quyền mua hoặc bán một đồng tiền với một đồng tiền khác tại một mức tỷ giá cố định đã thỏa thuận trước trong hợp đồng trong một khoảng thời gian xác định
Như vậy trong một hợp đồng quyền chọn thì người mua hợp đồng có quyền thực hiện hợp đồng mua hay bán một loại tiền tệ khi đến hạn nếu tỷ giá lúc đó là có lợi cho họ còn nếu tỷ giá bất lợi thì người mua có thể sẽ không thực hiện hợp đồng, nhưng người mua sẽ phải mất phí để mua quyền. Còn đối với người bán, anh ta không có bất cứ sự lựa chòn nào khác ngòai việc sẵn sàng tiến hành giao dịch theo ý định của người mua và sẽ thu phí mở quyền từ người bán. Ý nghĩa trên chỉ áp dụng cho trường hợp người mua hợp đồng quyền chọn đầu tiên (cũng là người yêu cầu mở hợp đồng) nắm giữ hợp đồng đến khi đáo hạn mà không bán hay chuyển nhượng hợp đồng cho người khác.
Giống như bất cứ một hợp đồng kinh tế nào, bào giờ cũng có một bên mua và một bên bán nên sẽ có ngừơi bán hợp đồng và người mua hợp đồng. Vì hợp đồng này luôn có quyền chọn bán và quyền chọn mua nên sẽ có người bán hợp đồng chọn mua hoặc hợp đồng chọn bán và người mua hợp đồng chọn mua hoặc hợp đồng chọn bán.
Có 2 loại quyền chọn cơ bản là quyền chọn kiểu Châu Âu và quyền chọn kiểu Mỹ. Quyền chọn kiểu Châu Âu thì việc thực hiện quyền chỉ có thể khi hợp đồng đến hạn. Còn quyền chọn kiểu Mỹ có thể thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào trong thời gian hợp đồng còn hiệu lức đến lúc đáo hạn
Việc thanh lý hợp đồng quyền chon được gọi là thực hiện quyền chọn. Tỷ giá áp dụng khi thực hiện quyền là tỷ giá quyền chọn. Tỷ giá này không chỉ phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường mà còn phụ thuộc vào mức phí của quyền chọn là cao hay thấp. Mức phí của hợp đồng quyền chọn phải là một mức phí phù hợp sao cho đủ bù đắp rủi ro vể tỷ giá xét từ góc độ của người bán và phải phù hợp không quá đắt xét từ góc độ của người mua. Nếu khi hợp đồng đáo hạn mà giao dịch không xảy ra thì chỉ có một khoản phí được thực hiện.
Các hợp đồng quyền chọn cũng thường được sử dụng để phòng ngừa rủi ro tỷ giá, vì cũng giống như các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi hay tương lai hợp đồng quyền chọn cho phép thực hiện việc mua bán tại mức giá đã thỏa thuận trước nên các bên tham gia có thể tránh được tổn thất do sự biến động của tỷ giá
Ngoài ra giao dịch quyền chọn cũng được sử dụng nhằm mục đích đầu cơ. Trong trường hợp này thì hợp đồng quyền chọn có ưu thế hơn so với các hợp đồng khác. Vì người mua có quyền tiến hành giao dịch nếu thấy có lợi cho mình và không tiến hành giao dịch nếu thấy tỷ giá biến động bất lợi nếu thực hiện giao dịch.
Phát triển hoạt động kinh doanh ngoai tệ của NHTM
Khái niệm
Trước khi bàn về khái niệm phát triển hoạt động KDNT ta cùng nhau xem xét khái niệm phát triển. Phát triển ở đây là một sự tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng. Tức là một họat động được gọi là phát triển khi mà doanh số hay lợi nhuận của hoạt động đó mang lại tăng cao hơn và đồng thời chất lượng hoạt động đó cũng hoàn thiện hơn. Cần phân biệt giữa khái niệm phát triển và tăng trưởng bởi phát triển là một khái niệm cao hơn tăng trưởng. Tăng trưởng chỉ là sự tăng lên về số tuyệt đối hay tăng lên về số lượng mà không bàn gì đến mặt chất lượng. Còn với phát triển thì bao gồm cả số lượng và chất lượng.
Phát triển hoạt động kinh KDNT tức là doanh số và lợi nhuận từ hoạt động KDNT mang lại cao hơn trước và đồng thời chất lượng hoạt động KDNT cũng được hoàn thiện hơn.
Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Sau một quá trình tìm hiểu về hoạt động KDNT của NH người viết có đưa ra một số tiêu chí đánh giá về mức độ phát triển của hoạt động KDNT của NH như sau:
Một số tiêu chí đánh về mặt số lượng
Doanh số mua và doanh số bán ngoại tệ
Lợi nhuận từ hoạt động KDNT
Số lượng ngoại tệ thực hiện trong kinh doanh
Một số tiêu chí đánh giá về mặt chất lượng
Tính chính xác của các giao dịch ngoại tệ
Tính kịp thời của các giao dịch ngoại tệ
Tính nhanh chóng của các giao dịch ngoại tệ
Các tiêu chí này mang tính chủ quan của người viết do đó trong suốt chuyên đề này việc đánh giá thực trạng phát triển hoạt động KDNT của BIDV và tìm ra giải pháp sẽ được kết hợp với các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển.
Các nhân tố ảnh hưởng tới sự phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của NHTM
Các nhân tố chủ quan
Các nhân tố chủ quan là các nhân tố thuộc về bản thân ngân hàng hay nói cách khác đây là các nhân tố nội tại tồn tại trong ngân hàng có tác động đến sự phát triển của ngân hàng nói chung và hoạt động KDNT nói riêng.
Nguồn nhân lực
Trong bất kỳ một hoạt động nào con người luôn đóng vai trò quan trọng nhất bởi vì con người tổ chức nên những hoạt động đó đồng thời cũng thực hiện việc quản lý duy trì cho hoạt động tồn tại và phát triển. Trong hoạt động ngân hàng nói riêng và hoạt động KDNT nói riêng yếu tố con người cũng vậy luôn giữ vị trí quan trọng hàng đầu. Tuy nhiên với hoạt động KDNT nói riêng đòi hỏi con người hay đòi hỏi một đội ngũ cán bộ có đủ năng lực và trình độ chuyên môn nghiệp vụ KDNT trực tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng. Không chỉ vậy hoạt động này còn rất phức tạp do đối mặt với nhiều rủi ro đặc biệt là rủi ro tỷ giá. Tỷ giá trên TTNH luôn biến động từng giờ do đó đòi hỏi cán bộ KDNT phải luôn theo dõi thị trường. Nhưng chỉ theo dõi thị trường không thôi chưa đủ vì những cán bộ KDNT còn phải đưa ra những ._.nhận xét phân tích về xu thế của tỷ giá trong trong tương lai thì mới có thể thực hiện KDNT mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Do đó cán bộ kinh doanh ngoại tệ ngoài việc có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn đóng vai trò giống như một nhà phân tích thị trường. Trong một xã hội mà công nghệ thông tin phát triển như ngày nay thì ngoài chuyên môn nghiệp vụ là bắt buộc cho công việc một cán bộ ngân hàng nói chung và cán bộ KDNT nói riêng cần có khả năng sử dụng các trang bị máy móc hỗ trợ cho hoạt động KDNT thành công. Việc giao dịch trực tiếp như ngày xưa đã không còn phổ biến nữa mà ngày nay giao dịch không có giới hạn không gian. Lấy một ví dụ trong việc giao dịch ngoại tệ liên ngân hàng được thực hiện cho một mạng máy tính nối mạng giữa các ngân hàng với nhau, nếu cán bộ KDNT không biết sử dụng máy tính thì làm sao có thể thực hiện giao thành công được. Không chỉ vậy giao dịch liên ngân hàng chủ yếu sử dụng các thuật ngữ riêng phục vụ cho giao dịch do đó đòi hỏi giao dịch viên (dealer) còn phải nắm vững cả những thuật ngữ này. Thử hỏi một cán bộ KDNT mà không có đủ năng lực trình độ, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, khả năng phân tích, khả năng đưa ra các chiến lược kinh doanh và sự nhanh nhạy trong việc thực hiện các giao dịch ngoại tệ thì làm sao có thể thực hiện thành công giao dịch, chưa nói đến việc phát triển hoạt động KDNT của ngân hàng. Do đó, yếu tố về nguồn nhân lực đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển hoạt động KDNT của ngân hàng.
Cơ sở vật chất
Yếu tố cơ sở vật chất cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng, nếu chỉ có con người mà không có các trang thiết bị hỗ trợ thì con người cũng không thể làm gì được nhất là đối với hoạt động KDNT. Trước hết hoạt động KDNT cần một nơi để thực hiện giao dịch và đương nhiên việc này ngân hàng phải là người đưa ra những địa điểm giao dịch thì mới có khách hàng đến.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và việc ứng dụng nó trong nhiều lĩnh vực của cuộc sồng mà đặc biệt là công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong kinh doanh ngân hàng cũng như trong lĩnh vực KDNT. Do đó đỏi hỏi ngân hàng phải trang bị đầy đủ hệ thống công nghệ thông tin để có thể thực hiện thành công các giao dịch chẳng hạn như để thực hiện giao dịch liên ngân hàng cần có hệ thống máy tính nối mạng với các ngân hàng khác hay như để thực hiện giao dịch từ xa với các khách hàng cần có hệ thống điện thoại….
Nói tóm lại, yếu tố về cơ sở vật chất cũng là một trong những yếu tố không thể thiếu để ngân hàng có thể phát triển hoạt động KDNT.
Qui trình thủ tục
Một yếu tố hết sức quan trọng khác mà là một trong 3 yếu tố để có thể phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng đó là qui trình thủ tục.
Qui trình thủ tục ở đây chính là những qui định của bản thân ngân hàng về họat động KDNT bên cạnh các qui định pháp luật của nhà nước.
Các qui định do chính ngân hàng qui định về hoạt động KDNT giúp hoạt động này được thực hiện và có thể phát triển. Qui định cần phải thông thoáng và phù hợp với điều kiện của từng ngân hàng và từng giai đoạn của thị trường ngoại hối. Nếu qui trình thủ tục ngân hàng đưa ra là qua phát triển chỉ phù hợp với các ngân hàng hiện đại trên thế giới mà không phù hợp với thị trường Việt Nam thì hoạt động KDNT của ngân hàng đó sẽ không thể phát triển được còn nếu qui định quá cứng nhắc không phù hợp với sự phát triển của thị trường ngoại hối thì hoạt động KDNT của ngân hàng cũng không thể phát trỉên được. Hay trên thị trường ngoại hối có những cơ hội kinh doanh kiếm lời mà ngân hàng lại không qui định về việc thực hiện hoạt động kinh doanh đó do nó có nhiều rủi ro thì làm sao cán bộ kinh doanh ngoại tệ có thể thực hiện hoạt động đó, trong khi có thể cả thị trường người ta đã thực hiện hoạt động đó. Như vậy thì ngân hàng hoạt động KDNT cũng sẽ không phát triển.
Qui trình thủ tục trong bất kỳ một hoạt động nào cũng như hoạt động KDNT cần qui định rõ ràng và phù hợp với sự phát triển của thị trường ngoại tệ thì hoạt động KDNT của ngân hàng mới có thể phát triển thành công.
Quản trị rủi ro
Trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ, người ta phải đưa ra các quyết định kinh doanh và trong mỗi quyết định luôn tiềm ẩn rủi ro. Trong đó, rủi ro tỷ giá là rủi ro lớn nhất và luôn rình rập xung quanh các quyết định kinh doanh ngoại tệ từ phía ngân hàng. Để thành công, người ta không phải chỉ tìm cách tránh né những rủi ro mà còn phải làm sao để kiểm soát được chúng. Hơn nữa khi rủi ro xảy ra, cần có biện pháp khắc phục ngay lập tức để hạn chế đến mức thấp nhất của tổn thất. Vì vậy, yêu cầu đặt ra cho việc quản lý rủi ro trong hoạt động KDNT là phải thận trọng khi đưa ra các quyết định cũng như giải pháp xử lý tùy thuộc vào từng trường hợp.
Thông thường để quản lý rủi ro thì một phòng KDNT thường được tổ chức thành 3 bộ phận chính sau:
Bộ phận trực tiếp kinh doanh (Front Office – FO)
Bộ phận này bao gồm 2 vị trí cơ bản
Các nhân viên kinh doanh chính gọi là các dealer. Các dealer này chịu trách nhiệm kinh doanh trực tiếp với khách hàng của mình và họ sẽ thực hiện việc yết tỷ giá hàng ngày. Ngoài ra các dealer còn chịu trách nhiệm thực hiện cả việc marketing tức là đôi khi họ sẽ thực hiện hỗ trỡ và tư vấn cho khách hàng về biến động của một đồng tiền nào đó.
Ngoài ra còn có các trader, những người này chịu trách nhiệm chính trạng thái ngoại tệ của ngân hàng và họ cũng là những người chịu trách nhiệm về kinh doanh đầu cơ. Trong các ngân hàng lớn thì mỗi một đồng tiền sẽ có một trader phụ trách
Bộ phận kế toán điều vốn (Back Office – BO)
Bộ phận này sau khi nhận được xác nhận về các giao dịch của bộ phận front office thì sẽ thực hiện việc kế toán và thanh toán cho các giao dịch
Bộ phận trung gian (Middle Office – MO)
Trong cấu trúc của một ngân hàng hiện đại thì nghiệp vụ mua bán tiền tệ ngoại trừ 2 bộ phận trên còn có một bộ phận trung gian ở giữa thực hiện việc phối hợp với 2 bộ phận trên để kiểm tra, giám sát và quản lý rủi ro trong KDNT.
Điều quan trọng trong hoạt động quản lý rủi ro không chỉ là ở chỗ tổ chức thành công một cơ cấu tổ chức như trên mà phải có sự liên kết và giúp đỡ giữa các bộ phận. Giữa các bộ phận cần có sự gắn kết và giúp đỡ nhau trong hoạt động quản lý rủi ro thì mới có thể thực hiện kinh doanh một cách hiệu quả.
Các nhân tố khách quan
Các nhân tố khách quan ở đây chính là các nhân tố mà bản thân ngân hàng không thể lường trước được cũng như không thể tác động đến các nhân tố này mà chỉ có thể phòng ngừa hay hạn chế tổn thất khi các nhân tố này tác động xấu đến hoạt động KDNT của ngân hàng
Cơ sở pháp lý
Như chúng đã biết thì hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực chịu rất quan trọng do hàng ngày ngân hàng luân chuyên một khối lượng vốn rất lớn trong nền kinh tế. Ngân hàng là một kênh huy động vốn gián tiếp cung cấp cho các hoạt động đầu tư cũng như ngân hàng cung cấp rất nhiều hoạt động dịch vụ cho các doanh nghiệp và cá nhân trong nền kinh tế. Do đó hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động kinh doanh ngoại tệ nói riêng chịu sự quản lý của nhà nước mà cơ quản trực tiếp quản lý là ngân hàng nhà nước.
Ngân hàng nhà nước của mỗi nước thực hiện việc quản lý đồng thời ban hành luật để hướng dẫn và kiểm soát hoạt động của ngân hàng. Nhưng thông thường một văn bản luật ra đời thường dựa trên nhu cầu thực tế nên các văn bản luật thường đi sau các hoạt động của thị trường nên có thể vì thế mà hoạt động của thị trường nói chung và của từng ngân hàng nói riêng sẽ kém phát triển.
Nếu như qui trình thủ tục là những qui định trực tiếp của ngân hàng về hoạt động KDNT thì cơ sở pháp lý là những qui định của nhà nước về hoạt động KDNT đối với các NH. Các qui định này cần phát triển phù hợp với sự phát triển của TTNH thì hoạt động KDNT của các ngân hàng mới có thể phát triển.
Điều kiện thị trường
Điều kiện thị trường ở đây chính là sự phát triển chung của thị trường. Sự phát triển chung của thị trường hoàn toàn phụ thuộc vào nền kinh tế của mỗi nước. Mỗi nước có một thị trường ngọai hối phát triển khác nhau nên hoạt động KDNT của ngân hàng cũng sẽ phát triển khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển chung của TTNH.
Rủi ro tỷ giá
Hầu hết các quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình. Thương mại, đầu tư, các quan hệ tài chính quốc tế đòi hỏi các quốc gia phải thanh toán với nhau. Thanh toán giữa các quốc gia dẫn đến việc trao đổi các đồng tiền với nhau. Hai đồng tiền được trao đổi với nhau theo một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ này gọi là tỷ giá.
Như vậy tỷ giá được định nghĩa như sau: Tỷ giá là giá cả của một đồng tiền được biểu thị thông qua một đồng tiền khác. Ví dụ : 1USD=16000 VND.
Trong cặp tỷ giá USD/VND thì USD là đồng tiền yết giá
VND là đồng tiền định giá
Các loại tỷ giá:
Tỷ giá mua vào và tỷ giá bán ra: tỷ giá mua vào là tỷ giá tại đó ngân hàng yết giá sẵn sàng mua vào đồng tiền yết giá. Tỷ giá bán ra là tỷ giá tại đó ngân hàng sẵn sàng bán ra đồng tiền yết giá.
Tỷ giá tiền mặt và tỷ giá chuyển khoản: tỷ giá tiền mặt áp dụng cho các ngoại tệ tiền kim loại, tiền giấy, séc du lịch, thẻ tín dụng. Tỷ giá chuyển khoản áp dụng cho các giao dịch mua bán ngoại tệ là các khoản tiền gửi tại ngân hàng. Thông thường tỷ giá mua tiền mặt thấp hơn và tỷ giá bán tiền mặt cao hơn tỷ giá chuyển khoản.
Tỷ giá chéo: tỷ giá giữa hai đồng tiền được xác định thông qua đồng tiền thứ ba. Trên thực tế do vai trò của đồng USD rất lớn nên tỷ giá chéo được định nghĩa là tỷ giá giữa hai đồng tiền không có sự tham gia của đồng USD. Hay nói cách khác tỷ giá giữa hai đồng tiền bất kỳ đều được suy ra từ tỷ giá giữa chúng với USD.
Như vậy tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động KDNT của ngân hàng vì các giao dịch ngoại tệ đều phải thông qua tỷ giá để thực hiện trao đổi. Nhưng tỷ giá lại biến động hằng ngày và phụ thuộc vào chính sách quản lý của từng quốc gia mà chính sách tỷ giá lại khác nhau, do đó ảnh hưởng cũng khác nhau tới hoạt động KDNT của ngân hàng. Có thể nói rằng rủi ro tỷ giá là một trong những rủi ro luôn luôn phải đối mặt với hoạt động KDNT.
Trạng thái ngoại tệ
Trạng thái ngoại tệ của một tổ chức phản ánh hiện trạng hoạt động ngoại tệ của tổ chức đó. Khi ngân hàng hay tổ chức bán ngoại tệ ra nhiều hơn mua vào thì sẽ có trạng thái ngoại tệ âm và ngược lại nếu ngân hàng mua ngoại tệ vào nhiều hơn bán ra thì trạng thái ngoại tệ sẽ dương.
Trạng thái ngoại tệ được tính từ bảng cân đối ngoại tệ bao gồm tài sản có, tài sản nợ và các khoản đã kí kết nhưng chưa thực hiện.
Trạng thái ngoại tệ ròng= ( tài sản có ngoại tệ + ngoại tệ mua vào) - (tài sản nợ ngoại tệ + ngoại tệ bán ra).
Trạng thái ngoại tệ của mỗi ngân hàng thường được xác định vào cuối mỗi ngày. Nó được tính trên cơ sở trạng thái ngoại tệ ngày hôm trước và chênh lệch giữa doanh số mua vào, doanh số bán phát sinh trong ngày của ngoại tệ đó, bao gồm cả giao dịch giao ngay và kỳ hạn.
Tùy thuộc vào từng quốc gia khác nhau qui định trạng thái ngoại tệ khác nhau mà ảnh hưởng đến hoạt động KDNT của ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng hoạt động kinh doanh ngọai tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Khái quát về ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Sơ lược quá trình phát triển ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Được thành lập ngày26/04/1957 với tên gọi ban đầu là ngân hàng Kiến thiết Việt Nam
Giai đoạn 1957 – 1980 ngân hàng Kiến thiết Việt Nam tiền thân của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam được thành lập trực thuộc bộ tài chính với qui mô ban đầu gồm 11 chi nhánh, 200 nhân viên với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát và quản lý vốn thiêt kế cơ bản nguồn vốn ngân sách cho tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội
Giai đoạn 1981 – 1989 ngân hàng Kiến thiết Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng đầu tư và phát triển Xây dựng Việt Nam trực thuộc ngân hàng nhà nước Việt Nam với nhiệm vụ chủ yếu là cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản thuộc kế hoạch nhà nước cho các lĩnh vực của nền kinh tế
Giai đọan 1990 – 1994 ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ( BIDV ) với nhiệm vụ được thay đổi về cơ bản: ngoài việc tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước thì BIDV đã thực hiện huy động các nguồn vốn trung và dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; kinh doanh tiền tệ tín dụng và các dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển.
Giai đoạn 1995 – 2000 BIDV được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển đất nước. Đây là thời kỳ BIDV đã khẳng định được vị trí, vai trò là ngân hàng thương mại hàng đầu tại Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Giai đoạn 2001 đến nay BIDV đã triển khai đồng bộ đề án cơ cấu lại và được chính phủ phê duyệt để phát triển thành một ngân hàng đa năng hàng đầu của Việt Nam , ngang tầm với các ngân hàng thuộc khu vực và trên thế giới.
Cơ cấu tổ chức
Hội đồng quản trị
Ban tổng giám đốc
Hội đồng quản lý tài sản nợ có
Hội đồng tín dụng
Hội đồng khoa học
Khối quản lý rủi ro
Khối tín dụng
Khối kế toán
Khối hành chính
Khối dịch vụ
Khối tài chính
Ban quản lý rủi ro
Ban kiểm tra nội bộ
Ban tín dụng
Ban quản lý TD
Ban thẩm định
Ban quản lý chi nhánh
Ban dịch vụ
Trung tâm thẻ
Ban kinh doanh đối ngoại
Ban kế hoạch phát triển
Ban nguồn vốn và KDTT
Ban tài chính
Ban đầu tư
Ban kế toán
Trung tâm thanh toán
Ban tổ chức cán bộ
Ban quản lý tài sản
Văn phòng
Ban pháp chế
Ban công nghệ
Cơ cấu tổ chức hội sở chính cho thấy sự độc lập tương đối giữa các khối và chịu sự kiểm soát trực tiếp của ban giám đốc và hội đồng quản trị.
Khối quản lý rủi ro chịu trách nhiệm quản trị rủi ro, dự báo các thay đổi trong tương lai và đảm bảo các tỷ lệ an toàn cho ngân hàng.
Khối tín dụng có nhiệm vụ kiểm soát các hoạt động tín dụng vơi các chi nhánh, trực tiếp cấp tín dụng và quản lý các khoản tín dụng lớn
Khối dịch vụ bao gồm nhiều dịch vụ khác nhau như dịch vụ thanh toán, dịch vụ phát hành thẻ, dịch vụ bảo lãnh….
Khối tài chính quản lý các hoạt động tài chính và trực tiếp thực hiện việc kinh doanh tiền tề (tresuary department)
Khối kế toán thực hiện lập sổ sách kế toán hàng ngày. Mỗi phòng ban đều có một bộ phận kế toán trực tiếp thực hiện kế toán cho các giao dịch hằng ngày và cuối ngày sẽ tổng hợp số liệu lại tại phòng kế toán chung cho cả hệ thông ngân hàng.
Khối hành chính gồm các phòng văn thư, nhân sự, phòng thương hiệu và quan hệ công chúng….
Riêng với ban nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ thuộc khối tài chính là một trong những ban quan trọng của ngân hàng bởi hoạt động của ban này luôn mang lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Hơn thế nữa hoạt động của ban nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ ngày càng được mở rộng đặc biệt là phòng kinh doanh tiền tệ.
Ban nguồn vốn và kinh doanh tiền tệ gồm 3 phòng ban chính:
Phòng huy động vốn: phòng này giữ một vị trí hết sức quan trọng bởi nó thực hiện việc huy động vốn cho ngân hàng. Phòng huy động vốn thực hiện việc đưa ra các sản phẩm như các loại hình tiền gửi tiết kiêm, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng…để thực hiện việc thu hút vốn trên thị trường.
Phòng cân đối tổng hợp giống như một phòng kế toán thực hiện việc điều chuyển, quản lý vốn và thực hiện các nghiệp vụ kế toán.
Phòng kinh doanh tiền tề: đây là phòng ban vô cùng quan trọng bởi nó là phòng trực tiếp kinh doanh. Nguòn vốn được huy động từ phòng nguồn vốn thông qua phòng cân đối tổng hợp được đưa đến phòng kinh doanh tiền tệ và phòng tín dụng là chủ yếu. Phòng tín dụng sẽ thực hiện việc cho vay còn phòng kinh doanh tiền tệ sẽ thực hiện việc kinh doanh đối với nguồn vốn để mang lại lợi nhuận cho ngân hàng.
Trong đó phòng kinh doanh tiền tệ (Treasuary) thực hiện các hoạt động chính sau:
Phòng kinh doanh tiền tệ (Treasury)
Hoạt động trên thị trường tiền tệ (Money market)
Hoạt động trên thị trường hàng hóa tương lai ( Future commodity)
Hoạt động trên thị trường trái phiếu (Bond market)
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ (Foreign exchange)
Họat động trên thị trường tiền tệ (Money market) là hoạt động mà ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam cho vay với các khách hàng thân thiết có quan hệ lâu dài với khách hàng thông qua mạng điện thọai trực tiếp hoặc cho vay liên ngân hàng qua hệ thông máy tính nối mạng.
Hoạt động trên thị trường hàng hóa tương lai (Future commodity) là hoạt động mà BIDV thực hiện mua bán hợp đồng tương lai hàng hóa cho khách hàng trên thị trường quốc tế, hiện tại thì BIDV mới thực hiện mua bán hợp đồng tương lai hàng hóa gồm: cao su trên thị trường Toronto (Nhật), cà phê Robusta trên thị trường London (Anh) và Newyork (Mỹ). Đây là hoạt động khá mới mẻ, mới phát triển từ năm 2006 và sẽ mở rộng trong tương lai.
Hoạt động trên thị trường trái phiếu (Bond market) là hoạt động mà BIDV thực hiện kinh doanh trái phiếu, ở đây chủ yếu là trái phiếu chính phủ.
Hoạt động kinh doanh ngoại tệ (Foreign exchange) đây là hoạt động truyền thống của hội sở chính của BIDV với việc kinh doanh hầu như tất cả các ngoại tệ chính mà khách hàng có nhu cầu. Hoạt động này hình thành từ năm 1991 nhưng đến năm 2004 mới thực sự phát triển và đặc biệt phát triển mạnh từ năm 2006 trở lại đây. Hoạt động KDNT tại chi nhánh gồm các hoạt động chủ yếu là giao dịch trực tiếp với khách hàng quen thuộc, quản lý chi nhánh và giao dịch liên ngân hàng.
Kết quả kinh doanh chủ yếu
Bảng 2.1: Một số chỉ tiêu chủ yếu trong 5 năm trở lại đây của BIDV
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2006
2007
Số lượng
% thay đổi
Số lượng
% thay đổi
Số lượng
% thay đổi
Số lượng
% thay đổi
Nguồn vốn chủ sở hữu
3.084
3.084
0
3.150
2.14
4.502
42.92
6.500
44.38
Tổng tài sản
85.851
99.660
16.08
117.976
18.38
158.219
34.11
217.823
37.67
Cho vay và ứng trước khách hàng ròng
59.173
67.244
13.64
79.383
18.05
93.453
17.72
123.752
32.42
Tiền gửi và các khoản phải trả
59.910
67.262
12.27
85.741
27.47
113.724
32.64
151.256
33
Lợi nhuận sau thuế
109
160
46.79
213
33.13
535
151
972
81.68
Nguồn: báo cáo thường niên 2006 và báo cáo kết quả kinh doanh 2007 ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam
Như vậy chúng ta thấy hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam không ngừng phát triển qua các năm và duy trì một mức tăng trưởng trên 20% đặc biệt trong năm 2006 và 2007 có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận rất cao.
Thực trạng hoạt động kinh doanh ngoại tệ tại ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam – BIDV
Xét về vị thế của phòng KDTT trong hoạt động của BIDV thì hoạt động của phòng luôn được đánh giá là hoạt động quan trọng của ngân hàng bởi đây là hoạt động trực tiếp kinh doanh tiền. Bên cạnh hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và cũng mang lại mức lợi nhuận cao nhất cho ngân hàng thì hoạt động KDTT được đánh giá là hoạt động có vị trí quan trọng thứ 2 và cũng mang lại một mức lợi nhuận rất cao cho ngân hàng.
Trong các hoạt động trong phòng KDTT của BIDV thì hoạt động KDNT lại được đánh giá là hoạt động tiềm năng của ngân hàng bởi họat động này đóng góp một mức doanh thu rất lớn vào doanh thu chung của NH.
Biểu đồ 2.1: Doanh số mua bán ngoại tệ ròng của BIDV qua các năm
Nguồn: báo cáo KDNT qua các năm
BIDV thực hiên giao dịch với tất cả các loại ngọai tệ nhưng giao dịch USD chiếm tới hơn 75% các giao dịch ngọai tệ ở đây. Còn lại là các ngoại tệ mạnh khác như EUR, GBP, JPY, SGD, CAD, AUD, HKD….và một số ngoại tệ rất ít giao dịch trên thị trường khác như THB, SEK, DDK…
Có thể nói rằng trên thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay BIDV là một ông lớn, các giao dịch của BIDV được thực hiện trên hệ thông chi nhánh toàn quốc và trên thị trương liên ngân hàng thì các bước đi và giao dịch của BIDV luôn đươc thị trường chú ý.
Hoạt động KDNT không chỉ đem lại một mức doanh thu cao mà nó còn đem lại một mức lợi nhuận khá cao cho ngân hàng.
Bảng 2.2: doanh thu và lợi nhuận từ hoạt động KDNT của BIDV từ 2004 đến 2007
Chỉ tiêu
2004
2005
2006
2007
Số lượng
% thay đổi
Số lượng
% thay đổi
Số lượng
% thay đổi
Doanh thu ròng (tỷ USD)
9.9
13.8
39.4
19.6
42
23
17.3
Lợi nhuận (tỷ VND)
44
59
34.1
91
54.2
112
23
Nguồn: báo cáo kết quả KDNT tại BIDV qua các năm
Qua số liệu trên ta có thể đánh giá rằng lợi nhuân từ hoạt động KDNT của BIDV là rất lớn nếu xét trên tổng thu nhập ngân hàng, chiếm khoảng trên 10% qua các năm. Do đó hoạt động KDNT tại BIDV luôn chiếm một vị thế hết sức quan trọng.
Tuy nhiên đánh giá về sự phát triển hoạt động KDNT của BIDV về mặt doanh số thì trên thị trường ngoại hối Việt Nam hiện nay BIDV chỉ đứng hàng thứ 2 (theo báo cáo kết quả kinh doanh ngoai tệ 2006). Theo báo cáo kết quả kinh doanh của ngân hàng ngoại thương Việt Nam thì doanh số trong khoảng thời gian từ 2004 – 2007 lần lượt xấp xỉ là 18, 24, 29 và 33 tỷ USD. Có thể thấy rằng doanh số KDNT của BIDV chưa tương xứng với một ngân hàng có vị thế trên thị trường như BIDV và BIDV hoàn toàn có khả năng cạnh tranh về hoạt động KDNT với Vietcombank.
Sau đây ta sẽ đi sâu hơn thực trạng hoạt động KDNT tại BIDV thông qua 2 hướng tiếp cận là các hoạt động tại HSC và các loại giao dịch chính.
Các hoạt động chính
Tại HSC là nơi điều hành toàn hệ thống trên toàn quốc nên hoạt động hết sức phức tạp và hoạt động này tập trung vào các hoạt động sau:
Hoạt động quản lý chi nhánh
Hoạt động quản lý chi nhánh tại HSC là một trong những hoạt động quan trọng nhất của bộ phận FX (bộ phận KDNT) trong phòng KDTT. BIDV với hệ thông chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc bao gồm 104 chi nhánh được thực hiện các giao dịch ngoại tệ với khách hàng. Việc quản lý chi nhánh được thực hiện thông qua hệ thống mạng nội bộ intranet và hệ thống điện thoại. Quản lý chi nhánh được thực hiện qua các công việc sau:
Thứ nhất, đầu giờ sáng cán bộ KDNT bên bộ phận FX sẽ thực hiện cập nhật tỷ giá lên mạng nội bộ intranet làm cơ sở tham khảo tỷ giá cho toàn bộ các chi nhánh. Các chi nhánh sẽ thực hiện giao dịch với khách hàng trên cơ sở tỷ giá đó. Trường hợp CN giao dịch với những khách hàng lớn hoặc khách hàng thân thiết thì có thể trực tiếp gọi điện lên HSC để tham khảo tỷ giá tốt hơn. Như vậy là giữa HSC và CN có những sự độc lập nhất định trong kinh doanh nhưng CN vẫn có sự lệ thuộc vào HSC do không có quyền quyết định một mức tỷ giá hợp lý cho khách mà hoàn toàn lệ thuộc vào HSC.
Thứ hai, hoạt động giao dịch trực tiếp giữa HSC và chi nhánh. Trong trường hợp mà chi nhánh giao dịch ngoại tệ với khách hàng nhưng đó là những ngoại tệ khó có giao dịch đối ứng trong ngày như THB, SEK, DKK…thì chi nhánh có thể giao dịch ngay với HSC. Ngoài ra khi giao dịch với HSC các chi nhánh còn được hỗ trợ về tỷ giá với khối lượng giao dịch không quá cao, thông thường là bằng với tỷ giá trần hoặc sàn do NHNN công bố vào đầu giờ sáng tùy thuộc vào từng thời điểm của thị trường nếu giao dịch trên thị trường dưới giá sàn hoặc trong biên độ. Khi mà giao dịch giữa HSC và CN được xác nhận thì cán bộ giao dịch tại HSC sẽ ghi lại giao dịch đó nhưng sau đó mới nhập vào hệ thống, in chứng từ ra và phải qua 2 lần ký của cán bộ và trưởng bộ phận FX, sau đó mới chuyển qua bộ phận kế toán (back office - BO) và thực hiện thanh toán song song với với đó là quá trình chuyển giao dịch qua hệ thông nội bộ tới bộ phận BO. Chứng từ là để làm căn cứ xác nhận giao dịch và khi có chứng từ thì giao dịch mới được thực hiện dù hệ thống nội bộ đã xác nhận giao dịch tới bộ phận kế toán. Qui trình thủ tục đó khá mất công và tốn thời gian.
Thứ ba, hoạt động quản lý trạng thái của chi nhánh. Cuối ngày giao dịch các cán bộ KDNT sẽ thực hiện kiểm tra trạng thái của từng chi nhánh và sau đó là trạng thái ngoại tệ của cả hệ thống. Theo qui định của pháp luật thì trạng thái ngoại tệ của NH nằm trong khoảng ±30% vốn tự có tại thời điểm xem xét. Trường hợp mà các chi nhánh vượt trạng thái thì sẽ được nhắc nhở và đầu ngày hôm sau sẽ phải thực hiện giao dịch để hoàn trạng thái. Việc quản lý trạng thái như vậy cũng khá tốn thời gian vì đòi hỏi cán bộ KDNT luôn phải chu ý trạng thái của các chi nhánh.
Hoạt động giao dịch liên ngân hàng
Thị trường giao dịch liên ngân hàng phát triển từ năm 1998 ban đầu chỉ có vài ngân hàng tham gia nhưng đến nay đã có rất nhiều ngân hàng tham gia thị trường này. Doanh số giao dịch liên ngân hàng của BIDV vào những ngày giao dịch lớn có thể lên tới 30 triệu USD và chủ yếu các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng là các giao dịch giao ngày USD trong vòng 2 ngày. Ngoài ra, BIDV cũng thực hiện các giao dịch với EUR, GBP, JPY nhưng với khối lượng không nhiều.
Để thực hiện giao dịch trên thị trường liên ngân hàng thì BIDV đã trang bị hệ thống thông tin của Reuter và thống giao dịch dealing 3000. Các các bộ giao dịch sẽ thảo thuận tỷ giá trực tiếp qua màn hình dealing nếu chấp nhận tỷ giá thì giao dịch sẽ được chấp nhận. Khi giao dịch được xác nhận thì chứng từ được in ra và lại phải qua 2 lần ký rồi mới chuyên sang phòng kế toán (back office) và thanh toán.
Các giao dịch liên ngân hàng còn là cơ sở để ngân hàng đưa ra mức tỷ giá bám sát thị trường. Thông thường đầu giờ giao dịch buổi sáng thì cán bộ giao dịch sẽ hỏi tỷ giá trên thị trường qua đó làm có sở cập nhật tỷ giá phù hợp với thị trường lên mạng nội bộ của ngân hàng.
Các giao dịch liên ngân hàng còn là nơi để ngân hàng mua bán ngoại tệ kiểm soát trạng thái. Nhưng thường thì ngân hàng được âm trạng thái đến 30% theo qui định nên ít khi ngân hàng thực hiện mua trên thị trường liên ngân hàng vì các giao dịch hằng ngay cũng đủ để kiểm soát trạng thái. Nhưng các cán bộ giao dịch thì đôi khi sẽ mua ngoại tệ trên thị trường này nếu trạng thái của mình âm. Mỗi cán bộ sẽ được giao một mức trạng thái ngoại tệ và phải trong hạn mức ngân hàng qui định. Khi ma họ âm trạng thái thì có thể thực hiện giao dịch đối ứng trên liên ngân hàng để hoàn lại trạng thái. Nhưng những giao dịch như vậy thường rất nhỏ và thường thì không phải là giao dịch USD.
Hoạt động trực tiếp kinh doanh với khách hàng
Hoạt động này tại HSC ít khi thực hiện vì hầu như tất cả các giao dịch được thực hiện với khách hàng là thông qua hệ thống chi nhánh rộng khắp cả nước. Chỉ có những khách hàng nào mua hay bán ngoại tệ với khối lượng qua lớn hoặc không thích thực hiện giao dịch với các chi nhánh thì mới thực hiện giao dịch với HSC. Chẳng hạn như trong khoảng thời gian tháng 3/2008 tổng công ty viễn thông quân đội Vittel thực hiện giao dịch mua 40 triệu USD từ HSC hay tổng công ty dầu khí bán 120 triệu USD cho HSC.
Các hoạt động của HSC của BIDV chủ yếu tập trung vào các 3 hoạt động trên trong đó hoạt động quản lý chi nhánh và giao dịch liên ngân hàng là 2 hoạt động rất quan trọng.
Các giao loại dịch ngoại tệ
Các giao dịch ngoại tệ này được thực hiện ở cả HSC và các CN trên tòan hệ thống. Và hội sở chính là nơi đưa ra các qui trình thủ tục và hướng dẫn thực hiện với chi nhánh. Trường hợp mà khách hàng yêu cầu thực hiện các giao dịch không phải giao ngay (spot) thì CN sẽ hỏi HSC về thủ tục và hướng dẫn, hoặc HSC sẽ trực tiếp nhận giao dịch đó tùy từng trường hợp.
Giao dịch giao ngay (Spot)
Giao dịch giao ngay là giao dịch ngoại tệ chiếm tỷ trọng lớn nhất khoảng trên 90% tổng số các giao dịch của BIDV. Hiện nay NH thực hiện mua bán giao ngay với tất cả các ngoại tệ mạnh trên thế giới như USD, EUR, GBP, AUD, JPY, CHF, SGD, CAD, HKD… và các đồng tiền ít giao dịch khác như DDK, SEK, THB…trong số đó giao dịch USD chiếm hơn 75%
Cơ sở để xác định tỷ giá giao ngay là các giao dịch liên ngân hàng đầu ngày để BIDV xác định một mức tỷ giá phù hợp cạnh tranh. Tuy nhiên tỷ giá giao dịch đối với USD theo qui định của nhà nước là không vượt quá 1% biên độ của tỷ giá bình quân ngân hàng nhà nước công bố
Tại HSC của BIDV thì các giao dịch với khách hàng chủ yếu là thực hiện tại các chi nhánh trên toàn hê thống nên các giao dịch giao ngay chỉ tiến hành với giao dịch nội bộ BIDV và giao dịch liên ngân hàng là chính (interbank). Trong đó tỉ trọng giao dịch với chi nhánh là 30%, trên interbank là 65% còn lại 5% là các giao dịch với khách hàng lớn.
Khách hàng thực hiện các giao dịch giao ngay với ngân hàng rất đa dạng: có thể là các doanh nghiệp có hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu, chuyển tiền nước ngoài; hoặc các doanh nghiệp có nhu cầu vay, trả bằng ngoại tệ ở thời điểm hiện tại; các doanh nghiệp chuyển tiền kiều hối hoặc có các khoản từ nước ngoài như tài trợ, viện trợ…
Tại BIDV nghiệp vụ Arbitrage trên cở sở spot chưa được thực hiện do tính chất đầu cơ và cũng chưa có qui định hướng dẫn nghiệp vụ này. So sánh với một số ngân hàng khác như Vietcombank hay Incombank thì họ đã thực hiện nghiệp vụ này, do đó đây là một điểm bất lợi của BIDV.
Bảng 2.3: Doanh số giao dịch các loại ngoại tệ năm 2007 của BIDV
Đơn vị: triệu USD
STT
Ngoại tệ
Doanh số qui đổi theo USD
1
USD
16.129
2
EUR
4.538
3
JPY
984
4
GBP
758
5
CAD
89
6
HKD
143
7
AUD
54
8
SGD
73
9
Khác
31
Nguồn: báo cáo kết quả KDNT của BIDV 2007
Giao dịch kỳ hạn (Forward)
Doanh số giao dịch kỳ hạn cua BIDV ước chừng đạt khoảng 8%. Các hợp đồng kỳ hạn chủ yếu được thực hiện giữa ngân hàng với ngân hàng khác nhằm chuẩn bị nguồn ngoại tệ trước trong thời điểm khan hiếm ngoại tệ, tỷ giá có xu hướng tăng. Trong khi đó, số doanh nghiệp xuất nhập khẩu tiến hành hoạt động này như một công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá thì chưa có nhiều. Một số trường hợp khi thỏa thuận hợp đồng , doanh nghiệp xuất nhập khẩu cần phải cố định tỷ giá với đối tác và tỷ giá tại thời điểm đó cũng là hợp lý thì họ mới chấp nhận làm forward, còn thông thường số lượng hợp đồng kỳ hạn với mục đích bảo hiểm là rất ít.
Ngày 28/05/2005, quyết định số 648/2004/QĐ – NHNN ra đời đã thay đổi về cơ bản nghiệp vụ kỳ hạn tại Việt Nam nâng giới hạn kỳ hàn lên từ 3 đến 365 ngày so với thời hạn tối thiểu là 7 ngày và tối đa là 6 tháng của thời gian trước và NH và khách hàng được thỏa thuận mức tỷ giá kỳ hạn giữa USD và VND miễn sao là tỷ giá này không vượt qua tỷ giá qui định của NHNN; chênh lệch giữa hai mức lãi suất hiện hành là lãi suất bản VND do NHNN Việt Nam công bố và lãi suất mục tiêu USD do cục dự trữ liên bang mỹ công bố. Việc thêm yếu tố lãi suất mục tiêu USD của cục dự trữ liên bang mỹ là một yếu tố lớn để tăng thêm tín hiệu thị trường trong cách tính tỷ giá kỳ hạn do đó khiến hoạt động giao dịch k._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7663.doc