Phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank - Chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội

LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy Ngân hàng là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ nhằm ổn định kinh tế. Bởi bản chất Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động kinh doanh trên thị trường. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1428 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại Ngân hàng thương mại cổ phần các Doanh nghiệp ngoài Quốc doanh - VPBank - Chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kiện và đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống Ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Trong những năm qua hệ thống Ngân hàng Việt Nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức, cơ chế điều hành và nghiệp vụ,... Trong đó, xu hướng nổi bật dễ dàng nhận thấy là việc các ngân hàng ngày càng đa dạng hoá các hoạt động của mình để có thể đáp ứng được nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đặc biệt là để phù hợp được với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt từ các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Trong xu hướng đó thì hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân, đặc biệt là cho vay tín chấp ngày càng được chú trọng cả ở khối ngân hàng thương mại cổ phần lẫn khối ngân hàng thương mại quốc doanh trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam. Tuy vậy, thị trường cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân vẫn còn khá nhỏ bé và chưa được các ngân hàng thương mại khai thác triệt để. Việc phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân sẽ giúp khách hàng tăng thêm doanh thu cũng như hình ảnh của mình đối với người dân. Sau một thời gian thực tập tại VPBank – chi nhánh Trần Hưng Đạo , em nhận thấy hoạt động cho vay tín chấp khách hàng cá nhân của chi nhánh vẫn còn nhỏ bé và đơn giản, tiềm năng mở rộng hoạt động cho vay đối với khách hàng cá nhân của chi nhánh còn khá lớn và tầm quan trọng của hoạt động cho vay khách hàng cá nhân đối với sự phát triển lâu dài của chi nhánh. Do vậy, em lựa chọn đề tài “Phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại VPBank – chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội ” làm đề tài nghiên cứu trong chuyên đề tốt nghiệp của mình. Kết cấu chính của chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Lý thuyết về hoạt động cho vay tín chấp của ngân hàng thương mại. Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân của VPBank – chi nhánh Trần Hưng Đạo. Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tạiVPBank – chi nhánh Trần Hưng Đạo. CHƯƠNG 1: LÝ THUYẾT VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY TÍN CHẤP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Tổng quan về Ngân hàng thương mại. Khái niệm. Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với từng cộng đồng địa phương nói riêng. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng hay các dịch vụ mà chúng thực hiện trong nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, ngày càng có nhiều các tổ chức tài chính khác nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như cho vay, uỷ thác đầu tư, nhận tiền gửi, ngược lại các NHTM cũng đang mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ của mình. Do đó, rất dễ có sự nhầm lẫn giữa loại hình NHTM và các trung gian tài chính khác. Peter Rose đã định nghĩa về NHTM như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Như vậy, có thể phân biệt NHTM với các trung gian tài chính khác ở chỗ NHTM là tổ chức kinh tế duy nhất được phép thực hiện nghiệp vụ thanh toán và làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.. NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ với rất nhiều hoạt động đa dạng trong đó có ba hoạt động chính đó là: nhận tiền gửi, cho vay, hoạt động đầu tư, và các hoạt động khác. Nhận tiền gửi. Nhận tiền gửi là hoạt động huy động vốn của ngân hàng từ những nguồn tiền chưa được sử dụng trong nền kinh tế với cam kết hoàn trả và trả lãi đúng hạn. Tiền gửi tồn tại ở các dạng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp. Đây chính là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng. Cho vay Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Hoạt động này thường chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các NHTM, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Cho vay được phân loại khác nhau phụ thuộc vào những tiêu chí khác nhau như: Theo thời gian, theo mức độ rủi ro, theo khách hàng, theo tài sản đảm bảo…thì sẽ có những khoản cho vay khác nhau. Trong đó, Phân loại theo tài sản đảm bảo thì có cho vay có tài sản đảm bảo và cho vay không tài sản đảm bảo là một cách phân loại rất phổ biến ở các ngân hàng thương mại. Cho vay thường được định lượng theo 2 chỉ tiêu: Doanh số cho vay trong kì và dư nợ cuối kì. Doanh số cho vay trong kì là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay ra trong kì, dư nợ cuối kì là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kì. Hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư được thể hiện thông qua việc ngân hàng nắm giữ các chứng khoán vì mục tiêu thanh khoản và đa dạng hoá tài sản. Ngân hàng giữ nhiều loại chứng khoán, có thể xếp loại theo nhiều tiêu thức, ví dụ như theo tính thanh khoản, theo chủ thể phát hành, theo mục tiêu nắm giữ,…Theo chủ thể phát hành có thể chia thành: chứng khoán của Chính phủ Trung ương hoặc địa phương (do kho bạc Nhà nước phát hành); chứng khoán của các ngân hàng khác, các công ty tài chính (bao gồm các cổ phiếu và các giấy nợ khác do các ngân hàng, các công ty tài chính phát hành hoặc chấp nhận thanh toán); chứng khoán của các công ty khác. Ngân hàng giữ chứng khoán vì chúng mang lại thu nhập cho ngân hàng và có thể bán đi để gia tăng ngân quỹ khi cần thiết. Các hoạt động khác. Các hoạt động khác bao gồm một số hoạt động như: mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, cung cấp các dịch vụ đại lý. Hoạt động cho vay tín chấp của Ngân hàng thương mại. Như đã trình bày ở phần trên, Cho vay tín chấp là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng vay dựa trên uy tín của khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Phân tích khách hàng trong quan hệ cho vay này chính là phân tích cho vay. Bởi vì cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM nên để có một món cho vay đạt chất lượng thì các NHTM thường đưa ra một qui trình phân tích khách hàng chặt chẽ. Rủi ro từ cho vay có rất nhiều nguyên nhân đều có thể gây ra tổn thất, làm giảm thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy ngân hàng đến phá sản. Do vậy các ngân hàng thường cân nhắc kĩ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định cho vay. Đó chính là quá trình phân tích trước và trong khi cho vay. Mục tiêu của phân tích cho vay là xác định rủi ro và các biện pháp hạn chế rủi ro. Nội dung của phân tích cho vay là thu thập và phân tích thông tin nhằm xác định uy tín, tư cách pháp lý, sức mạnh tài chính và khả năng thanh toán của người vay,… trong quá khứ, hiện tại và tương lai, hiệu quả của dự án,… Có nhiều cách phân loại cho vay tín chấp, để phục vụ cho đề tài nghiên cứu thì phân loại khách hàng theo đối tượng khách hàng là phù hợp nhất. Theo cách phân loại này thì cho vay bao gồm cho vay khách hàng doanh nghiệp,cho vay tổ chức tài chính và cho vay khách hàng cá nhân. Khách hàng doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty hợp danh. Hình thức cho vay đối với khách hàng doanh nghiệp rất đa dạng như cho vay ngắn hạn theo món, vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, cho vay theo dự án đầu tư, cho vay hợp vốn,… Khách hàng tổ chức tài chính ở đây bao gồm các ngân hàng khác, hợp tác xã tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính,… Hình thức cho vay đối với các tổ chức tài chính cũng hết sức đa dạng. Thường cho vay NHTM nhằm đáp ứng các nhu cầu ngắn hạn của các ngân hàng này và các giao dịch thường diễn ra trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Khách hàng cá nhân ở đây là tất cả các cá nhân có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo qui định của pháp luật. Đối tượng vay vốn đa dạng bao gồm những khách hàng có nhu cầu vốn để mua nhà, sửa chữa nhà, xây dựng nhà, mua ô tô, mua các thiết bị gia dụng, thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh và đáp ứng một số yêu cầu khác. Các phương thức vay vốn đa dạng như: cho vay từng lần, cho vay trả góp, cho vay theo hạn mức,…Thời hạn cho vay linh hoạt tuỳ vào mục đích vay của khách hàng và kết quả thẩm định của cán bộ tín dụng. Lãi suất cho vay được xác định dựa trên biểu lãi suất cho vay của ngân hàng, hoặc cũng có thể phụ thuộc vào sự thoả thuận của khách hàng và ngân hàng. Đảm bảo khả năng trả nợ thì khách hàng có những phương án sử dụng vốn vay khả thi cũng như phải có cơ sở để có thể hoàn trả cho ngân hàng như đã cam kết trong hợp đồng. Các hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân. Khái niệm các hoạt động cho vay tín chấp - đối với khách hàng cá nhân. Nếu phân loại hoạt động cho vay theo đối tượng khách hàng thì hoạt động này bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay các tổ chức tài chính và cho vay khách hàng cá nhân. Còn phân loại theo tài sản đảm bảo thì như đã nói ở trên gồm cho vay có tài sản đảm và cho vay không tài sản đảm bảo( tín chấp). Do đối tượng nghiên cứu của đề tài này là cho vay tín chấp - đối với khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại nên ta sẽ xem xét về hoạt động này. Cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân là một hình thức tài trợ dựa trên uy tín hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, không có tài sản bảo đảm. của ngân hàng cho khách hàng. Ngân hàng lựa chọn các khách hàng có uy tín và khả năng trả nợ tốt để cho vay. Ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu của khách hàng trên cơ sở tín chấp lương, chủ yếu được áp dụng đối với khách hàng có thu nhập ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi tiêu thường xuyên còn có một phần tích luỹ để trả nợ vay (công chức, viên chức trong biên chế nhà nước, nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn,…). Hình thức này phù hợp với những khoản vay giá trị không lớn, thời hạn vay ngắn. Vì vậy có thể hiểu: “ Đó là quan hệ kinh tế mà trong đó ngân hàng chuyển cho cá nhân quyền sử dụng một khoản tiền dựa trên uy tín của khách hàng đối với ngân hàng cùng với những điều kiện được thoả thuận trong hợp đồng nhằm phục vụ mục đích của khách hàng.” Phân loại các họat động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân. Việc phân loại các hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại giúp cho Ngân hàng có những phương pháp quản lý các khoản vay hiệu quả. Dưới đây tôi xin đề cập phân loại các khoản cho vay tín chấp khách hàng cá nhân theo một số tiêu chí sau đây: Căn cứ vào mục đích vay. Cho vay tín chấp KHCN nhằm phục vụ mục đích cư trú Là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm của khoản vay này là thời gian dài và quy mô vay là lớn. Cho vay tín chấp KHCN nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng Đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng sinh hoạt, du lịch, học hành, giải trí,… Đặc điểm của khoản vay này là quy mô nhỏ, thời gian ngắn, rủi ro thấp hơn cho vay phục vụ mục đích cư trú. Cho vay tín chấp KHCN nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh Đó là các khoản cho vay để thực hiện các phương án sản xuất kinh doanh nhỏ ở từng hộ gia đình, vay để buôn bán, thuê cửa hàng,… Đặc điểm của các khoản cho vay này là thời hạn thường dài, qui mô tuỳ thuộc vào phương án kinh doanh của khách hàng, rủi ro của khoản cho vay này rất cao, và có khả năng xảy ra rủi ro đạo đức. Căn cứ vào đối tượng cho vay Cho vay tín chấp đối với cán bộ quản lý Sản phẩm được thiết kế dành cho cán bộ cấp quản lý (từ cấp Phó trưởng phòng trở lên) vay tín chấp – không cần tài sản đảm bảo, số tiền vay lên đến 200 triệu đồng để phục vụ mục đích chi tiêu cá nhân. Cho vay tín chấp đối với cán bộ công nhân viên Sản phẩm được thiết kế dành cho cán bộ nhân viên vay tín chấp – không cần tài sản đảm bảo, số tiền cho vay lên đến 70 triệu đồng để phục vụ mục đích chi tiêu cá nhân. Cho vay tín chấp đối với khách hàng truyền thống Đây là sản phẩm được thiết kế dành cho khách hàng truyền thống – không cần tài sản đảm bảo, nhưng khách hàng phải cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ hoàn trả cho ngân hàng theo đúng hợp đồng. số tiền vay có thể lên đến 100 triệu để phục vị mục đích chi tiêu, sản xuất kinh doanh nhỏ… Căn cứ vào các phương thức hoàn trả Cho vay trả góp Là khoản cho vay ngắn hạn hoặc trung hạn được thanh toán làm hai hoặc nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hoặc quý). Khoản cho vay được trả làm nhiều lần theo thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng, phương thức này được dùng để tài trợ cho việc mua sắm các vật dụng đắt tiền như ô tô, nhà,… hoặc để tài trợ cho các phương án sản xuất kinh doanh, thuê cửa hàng, mua sắm các tài sản lưu động khác,… Nhìn chung, các khoản cho vay trả góp này mang lãi suất cố định, tuy nhiên loại mang lãi suất thả nổi cũng đang dần trở nên phổ biến. Thường thì trong tổng khối lượng cho vay tiêu dùng do các NHTM cung cấp thì hơn 80% được thực hiện trên cơ sở trả góp. Điều này xuất phát từ việc khả năng tài chính của khách hàng không đủ để chi trả khoản vay một lần duy nhất thêm vào đó việc định kỳ trả nợ vào mỗi tháng hay đến kỳ lương là thuận lợi hơn. Hình thức cho vay này lại được chia nhỏ thành: cho vay trả gốc và lãi hàng tháng đều nhau (niên kim cố định), trả gốc hàng tháng bằng nhau, lãi trả theo số dư gốc (niên kim không cố định), hoặc trả lãi hàng kì còn gốc trả cuối kì. Cho vay tín chấp đối với cá nhân trả một lần khi đáo hạn Là các khoản vay ngắn hạn của cá nhân và hộ gia đình để đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đáo hạn. Qui mô của món vay là tương đối nhỏ, các khoản vay trả một lần thường ngắn hạn và được dùng để chi trả cho các chuyến đi nghỉ, mua các dụng cụ gia đình hoặc sửa chữa ô tô, nhà ở… Rủi ro các món vay này là không lớn lắm Cho vay thông qua thẻ Thẻ tín dụng ngân hàng cũng như các loại thẻ thanh toán khác đã nhanh chóng được chấp nhận sử dụng, thẻ tín dụng cung cấp một dòng tín dụng thường xuyên và quay vòng mà khách hàng có thể sử dụng bất cứ khi nào họ có nhu cầu. Những người sử dụng thẻ tín dụng có thể vay trả dần hoặc trả một lần vì họ có thể tính tiền mua hàng vào tài khoản thẻ tín dụng của mình. Trong tương lai thẻ tín dụng sẽ rất phát triển bởi công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho những người sở hữu thẻ tín dụng có thể tiếp cận đến một số lượng lớn các dịch vụ tài chính, bao gồm cả tài khoản tiết kiệm và tài khoản thanh toán cũng như hạn mức tín dụng. Căn cứ theo hình thức cho vay Cho vay trả góp Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho KHCN của họ, theo hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Hình thức cho vay này có nhiều ưu điểm cho cả ngân hàng lẫn khách hàng. Các NHTM dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay. Đồng thời còn giúp các NHTM tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay. Là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng. Nếu NHTM quan hệ tốt với doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho vay tín chấp KHCN gián tiếp coa mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tín chấp KHCN trực tiếp. Mặt khác hình thức này rất phù hợp đối với đối tượng khách hàng cá nhân chưa đủ điều kiện để đáp ứng nhu cầu cần thiết mà phải vay ngân hàng bằng phương thức trả góp. Khách hàng có thể đáp ứng nhu cầu của mình ngay mà chỉ phải trả một số lượng ít trong một khoảng thời gian dài. Tuy nhiên với bất cứ một hình thức nào thì không bao giờ chỉ tồn tại hoàn toàn là ưu điểm và luôn luôn song hành với nhưng nhược điểm của nó. Hình thức cho vay này cũng có những hạn chế,đó là: Các ngân hàng thương mại khi cho vay không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí lựa chọn của doanh nghiệp và ngân hàng không giống nhau. Hơn nữa là kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này phức tạp. Quá trình xét duyệt đến khi thu hồi hết khoản nợ lâu, tạo cảm lý e ngại cho cả ngân hàng lẫn cả khách hàng. Cho vay gián tiếp Là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch vụ cho KHCN của họ, theo hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng. Hình thức cho vay này có những ưu điểm sau: Vớí hình thức này NHTM dễ dàng mở rộng và tăng doanh số cho vay của mình lên bởi bản chất của nó là không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng của mình. Mặt khác, với hình thức này thì các NHTM sẽ tiết kiệm và giảm được các chi phí khi cho vay. Là cơ sở để Ngân hàng mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng. Trong quá trình kinh doanh dịch vụ của mình, nếu NHTM quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho vay tín chấp KHCN gián tiếp có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tín chấp KHCN trực tiếp. Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những mặt hạn chế: Khi cho vay các NHTM không tiếp xúc trực tiếp với khách hàng mà thông qua các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong việc lựa chọn khách hàng, tiêu chí lựa chọn của doanh nghiệp và ngân hàng không giống nhau. Hơn nữa, hình thức cho vay này thiếu sự kiểm soát của Ngân hàng cả trước, trong và sau khi vay vốn, khi doanh nghiệp thực hiện bán lẻ hàng hoá và dịch vụ. Bên cạnh đó, kỹ thuật và quy trình nghiệp vụ của hình thức cho vay này rất phức tạp. Cho vay trực tiếp Là hình thức cho vay mà ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau để tiến hành cho vay hoặc thu nợ. Hình thức này có những ưu điểm sau: Việc cho vay tiến hành trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng do vậy ngân hàng có thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm, và kĩ năng của cán bộ tín dụng, do đó các khoản vay này thường có chất lượng cao hơn so với cho vay gián tiếp thông qua các doanh nghiệp bán lẻ. Cán bộ tín dụng khi cho vay đặc biệt coi trọng đến chất lượng các khoản vay, song doanh nghiệp bán lẻ hàng hoá, dịch vụ thường coi trọng nhiều đến việc tăng doanh số bán hàng hơn là chất lượng các khoản vay, hơn nữa các doanh nghiệp thường đưa ra quyết định cho vay một cách nhanh chóng, nên dẫn đến tình trạng có những khoản cho vay cấp ra không chính đáng, ngược lại có thể từ chối khách hàng tốt của mình, như vậy hình thức này đã khắc phục nhược điểm này nếu cho vay gián tiếp. Hình thức cho vay trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì khi quan hệ trực tiếp giữa ngân hàng với khách hàng sẽ xử lý tốt các phát sinh, hơn nữa có khả năng làm thoả mãn quyền lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Cho vay trực tiếp với đối tượng khách hàng cá nhân là rất rộng do đó việc đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời là hình thức để tăng cường và quảng bá hình ảnh của ngân hàng đến với khách hàng. Tuy nhiên, hình thức cho vay này cũng có những mặt hạn chế: Việc mở rộng và tăng doanh số cho vay không thuận lợi bằng hình thức cho vay tín chấp KHCN gián tiếp. Do cán bộ ngân hàng phải làm việc trực tiếp với khách hàng nên Ngân hàng tốn nhiều thời gian và chi phí so với hình thức cho vay gián tiếp, nhất là khi lượng khách hàng đến đông cùng một thời gian sẽ gây khó khăn cho Ngân hàng. Căn cứ vào thời hạn cho vay Cho vay ngắn hạn Ngân hàng cho khách hàng cá nhân vay tín chấp trong ngắn hạn nhằm thoả mãn nhu cầu mua sắm hàng tiêu dùng lâu bền như nhà cửa, phương tiện vận chuyển…Cho vay tín chấp tiêu dùng có thể gồm tín dụng trực tiếp đối với người tiêu dùng, hoặc tín dụng gián tiếp thông qua việc ngân hàng mua lại các phiếu( hoá đơn) bán hàng cuả các nhà bán lẻ hàng hoá. Tín dụng tiêu dùng gián tiếp còn được gọi là tài trợ bán hàng trả góp. Cho vay trung và dài hạn Đối với hình thức cho vay này, ngân hàng cho khách hàng vay để sửa sang và xây dựng nhà cửa, hoặc các mục đích đầu tư Đặc điểm hoạt động cho vay tín chấp - đối với khách hàng cá nhân. Cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân là một hoạt động không thể thiếu đối với một ngân hàng. Đây là hoạt động rất rủi ro nhưng lại được chú trọng phát triển, có những đặc điểm riêng thể hiện sự khác biệt với các loại hình cho vay khác như sau: Quy mô khoản vay nhỏ: hầu hết các khoản vay tín chấp của khách hàng cá nhân có quy mô nhỏ và khối lượng cũng không lớn lắm, do cho vay đối với khách hàng cá nhân đáp ứng nhu cầu của cá nhân và các hộ gia đình nhằm mục đích tiêu dùng hoặc thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh nhỏ nên quy mô của một khoản vay tương đối nhỏ so với tài sản của ngân hàng, số lượng các khoản vay cũng không lớn bởi khoản vay này được ngân hàng duyệt dựa vào sự uy tín của khách hàng. Do đặc thù của khoản vay tín chấp đã giới hạn số lượng của các khoản vay. Tuy nhiên, đối tượng là cá nhân và các hộ gia đình cũng nhiều, nhu cầu tiêu dùng đa dạng nên khoản vay này đôi khi cũng có những bước chuyển biến đáng kể. Mục đích vay: nhằm phục vụ nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh nhỏ của cá nhân và hộ gia đình. Do đó, nhu cầu vay vốn phụ thuộc vào tâm lý khách hàng và chu kỳ kinh tế của người đi vay. Khi nền kinh tế có sự tăng trưởng cao và ít biến động , KHCN sẽ có thái độ lạc quan hơn về tương lai, họ kỳ vọng sẽ có khoản thu nhập nhiều hơn trong tương lai và do vậy sẽ thúc đẩy sự chi tiêu cho tiêu dùng hoặc sản xuất kinh doanh ở hiện tại. Ngược lại, khi nền kinh tế suy thoái, giá trị của đồng tiền biến động. Do đó, người dân thường có xu hướng giảm tiêu dùng, giảm đầu tư vào sản xuất kinh doanh, thay vào đó là sẽ tăng cường tiết kiệm và hạn chế vay mượn từ Ngân hàng. Nhu cầu vay của khách hàng thường kém nhạy cảm với lãi suất, thông thường khách hàng vay quan tâm tới số tiền phải thanh toán hơn là lãi suất mà họ phải chịu. Mức thu nhập và trình độ dân trí là hai nhân tố tác động rất lớn đến nhu cầu vay của người đi vay. Rủi ro đối với cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân cao: cho vay KHCN có mức độ rủi ro lớn và được coi là tài sản rủi ro nhất trong danh mục tài sản của ngân hàng. Xuất phát từ bản thân khách hàng vay vốn có thể có sự biến động về tình hình tài chính dẫn đến mất khả năng chi trả hay khi khách hàng cố tình không chịu trả nợ, hoặc do sự biến động về tình trạng sức khoẻ, công việc… Việc thẩm định khả năng trả nợ của các cá nhân hoặc hộ gia đình cũng hết sức khó khăn. Đặc biệt ngân hàng cho khách hàng vay dựa trên sự tin tưởng của cả đôi bên và không có tài sản đảm bảo cũng như bảo đảm nào nếu rủi ro sảy ra. Ngoài ra, để có được khoản vay có nhiều khách hàng giấu các thông tin về tình hình sức khoẻ và công việc trong tương lai của mình nên các ngân hàng dễ gặp phải rủi ro đạo đức khi cho vay. Do khoản cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân có rủi ro cao nhất nên các ngân hàng thường xem xét rất kỹ lưỡng trước khi đồng ý ký kết hợp đồng. Lãi suất cho vay cao: do quy mô của các khoản vay thường nhỏ, dẫn đến chi phí để cho vay (về thời gian, nhân lực đi thẩm định, quản lý các khoản cho vay này) cao đồng thời rủi ro của các khoản vay này cũng rất cao. Do vậy, lãi suất cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân thường cao hơn lãi suất các khoản cho vay khác của NHTM. Từ trước đến nay, cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân vẫn được các ngân hàng coi là khoản mục mang lại lợi nhuận tương đối cao với lãi suất “cứng nhắc”. Điều đó có nghĩa là nó có thể bù đắp một phần khá lớn chi phí huy động vốn của ngân hàng, không như hầu hết các khoản cho vay khác hiện nay với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, như vậy với cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân ngân hàng phải chịu rủi ro về lãi suất khi chi phí huy động vốn tăng lên. Tuy nhiên, các khoản vay này thường được định giá rất cao (vì đã bao hàm cả một phần bù rủi ro lãi suất) đến mức mà bản thân lãi suất vay vốn trên thị trường lẫn tỷ lệ tổn thất tín dụng phải tăng lên đáng kể thì hầu hết các khoản cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân mới không mang lại lợi nhuận. Nguồn trả nợ của khách hàng được trích từ thu nhập, thu nhập này có thể thay đổi tuỳ theo tình trạng công việc, sức khoẻ của người vay cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của họ. Những khách hàng có việc làm, mức thu nhập ổn định, có trình độ học vấn hoặc có phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả, là khách hàng truyền thống có quan hệ thân thiết với ngân hàng, lý lịch trong sạch, là những tiêu chí quan trọng để ngân hàng thương mại quyết định cho vay. Hạn mức cho vay tín chấp KHCN: là số tiền tối đa mà ngân hàng cho khách hàng vay. Hạn mức cho vay tín chấp KHCN được xác định dựa trên các yếu tố như: nhu cầu vốn của khách hàng, số vốn tự có của khách hàng, sự uy tín của khách hàng. Đối với các hình thức vay, các ngân hàng thường quy định các hạn mức khác nhau dựa mức độ tín nhiệm hoặc nhu cầu vay hợp lý. Thông thường, cho vay đối với cán bộ quản lý và cho vay cán bộ công nhân viên đang làm việc tại chính ngân hàng đó thường có hạn mức cao nhất, bởi chính nơi làm việc và việc kiểm soát tài khoản của ngân hàng đối với nhân viên của mình là yếu tố đảm bảo cho ngân hàng giải ngân. Để có thể xác định được hạn mức tín dụng dựa trên sự uy tín của khách, các ngân hàng cần phải xem xét các nguồn trả nợ của khách hàng. Cuối cùng, ngân hàng sẽ so sánh nhu cầu vay hợp lý (Nhu cầu vay hợp lý của khách hàng = nhu cầu vốn hợp lý - vốn tự có của khách hàng - vốn khách hàng vay mượn từ nguồn khác) và hạn mức tín dụng, từ đó xác định số tiền cho vay. Nếu nhu cầu vay hợp lý > hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay theo hạn mức tín dụng, nếu nhu cầu vay hợp lý < hạn mức tín dụng thì ngân hàng sẽ cho khách hàng vay số tiền theo nhu cầu vay hợp lý của khách hàng. Như vậy, sẽ vừa thoả mãn nhu cầu vay của khách hàng vừa để đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Quy trình cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân của ngân hàng thương mại Thực tế cho thấy việc đánh giá một khoản cho vay tín chấp KHCN là không hề đơn giản, điều này xuất phát từ một số nguyên nhân sau: Thông tin về khách hàng là không đầy đủ, khách hàng thường có hiện tượng che giấu tình trạng tài chính, sức khỏe của họ… Thêm vào đó, các cá nhân và hộ gia đình không dễ dàng vượt qua các khó khăn về tài chính. Thực tế cho thấy, tỷ lệ các khoản cho vay tín chấp KHCN không được thanh toán thường gấp nhiều lần so với tỷ lệ các khoản cho vay đối với doanh nghiệp hay tổ chức tài chính khác không được thanh toán. Một đặc điểm chính giúp ngân hàng giảm bớt thua lỗ từ các khoản cho vay này là giá trị của chúng thường nhỏ. Các cán bộ tín dụng đã tổng kết rằng trong hầu hết các loại cho vay, cho vay tín chấp KHCN có số lượng không được thanh toán lớn nhất, điều này làm tăng các khoản nợ có vấn đề của các ngân hàng thương mại do đó làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Quy trình cho vay được các cán bộ tín dụng áp dụng giúp cho quá trình cho vay diễn ra một cách khoa học, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng. 4. Giải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng 1. Tiếp nhận hồ sơ xin vay tín chấp của KHCN 3. Xét duyệt và kí hợp đồng tín dụng 2. Thẩm định tín dụng 5. Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới Sơ đồ 1.2: Quy trình cho vay tín chấp KHCN tại Vpbank. Bước 1: Tiếp nhận hồ sơ xin vay tín chấp của KHCN. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn, họ đến gặp nhân viên của ngân hàng và ghi những thông tin cần thiết vào hồ sơ xin vay. Cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ cho vay đầy đủ và đúng quy định theo mẫu của ngân hàng bao gồm: đơn xin vay vốn, phương án vay vốn và kế hoạch trả nợ, giấy tờ liên quan, các giấy tờ chứng minh nguồn thu nhập (nếu có), hộ khẩu, chứng minh thư nhân dân và các giấy tờ liên quan khác. Bước 2: Thẩm định tín dụng. Đây là bước quan trọng nhất trong quy trình cho vay tín chấp KHCN, quyết định chất lượng của món vay, thường bao gồm các nội dung sau: Thẩm định tư cách đạo đức và mục đích vay của khách hàng: Cán bộ tín dụng phải đảm bảo khách hàng vay vốn có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự, đủ tư cách pháp lý vay vốn ngân hàng. Nếu một khách hàng muốn vay từ ngân hàng, họ phải trả lời đầy đủ những câu hỏi của cán bộ tín dụng về lý do xin vay hay nhu cầu tín dụng xuất phát từ đâu. Cuộc trò chuyện giữa cán bộ tín dụng và khách hàng là rất quan trọng bởi vì qua đó cán bộ tín dụng có điều kiện để nhận biết tính cách cũng như mục đích xin vay của khách hàng. Nếu cán bộ tín dụng phát hiện ra sự không trung thực của khách hàng đối với nhu cầu vay vốn thì có nhiều khả năng hồ sơ xin vay của khách hàng sẽ bị từ chối. Thông thường thì những đặc điểm cơ bản của người đi vay được bộc lộ thông qua mục đích của việc vay tiền. Cán bộ tín dụng phải hỏi xem khách hàng sẽ dùng khoản tiền vay vào mục đích gì và liệu mục đích đó có phù hợp với chính sách cho vay của ngân hàng hay không. Những cán bộ có kinh nghiệm đặt câu hỏi cho khách hàng rồi tự tay điền vào trong đơn chứ không để khách hàng tự điền. Thẩm định tình hình tài chính và khả năng trả nợ của khách hàng: Bao gồm các công việc: xác định mức thu nhập của khách hàng, việc làm, số dư các tài khoản tiền gửi tại ngân hàng. Nhân viên tín dụng phải được đảm bảo rằng những khách hàng vay vốn ý thức rõ ràng về trách nhiệm hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ. Việc xác định nguồn thu nhập ổn định hàng tháng của khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng vì đây là nguồn trả nợ cho ngân hàng. Những khách hàng có thu nhập ổn định và thu nhập còn lại sau khi trừ các khoản chi phí sinh hoạt cần thiết cao thì khả năng vay sẽ cao. Đối với những khách hàng có chất lượng tín d._.ụng thấp thì ngân hàng yêu cầu phải có người đứng ra bảo lãnh về việc hoàn trả các khoản vay. Nếu người đi vay không thanh toán cho các khoản nợ được bảo lãnh thì người đứng ra bảo lãnh có trách nhiệm phải thanh toán. Tuy nhiên, nhiều ngân hàng chỉ xem việc có người bảo lãnh là một đảm bảo về mặt tâm lý hơn là một nguồn đảm bảo thực sự. Người đi vay sẽ thấy có trách nhiệm hơn trong việc hoàn trả khoản vay vì uy tín của người bảo lãnh. Bước3: Xét duyệt và ký kết hợp đồng tín dụng. Sau khi nhận báo cáo thẩm định kèm theo hồ sơ vay vốn liên quan, trưởng phòng tín dụng xem xét lại và yêu cầu cán bộ tín dụng giải thích bổ sung hoặc chỉnh sửa nếu có thiếu sót. Sau đó báo cáo sẽ được trình lên Hội đồng tín dụng xét duyệt, quyết định cho vay hay không cho vay. Trong trường hợp cần thiết (ví dụ như đối với các khoản vay lớn), Hội đồng tín dụng có thể yêu cầu một bộ phận khác tái thẩm định hồ sơ vay. Sau đó, khi hồ sơ vay vốn được chấp thuận, cán bộ tín dụng sẽ gặp trực tiếp khách hàng để kí kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng là một văn bản viết với nội dung chủ yếu là ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một khoản tín dụng (hạn mức tín dụng) trong một khoảng thời gian và lãi suất nhất định. Nội dung chính của hợp đồng tín dụng: Mục đích sử dụng vốn vay, quy mô, lãi suất, thời hạn tín dụng, phí, các loại đảm bảo, điều kiện thanh toán, các điều kiện khác. Bước 4: Gíải ngân và kiểm soát trong khi cấp tín dụng. Hợp đồng tín dụng đã được ký kết và được giám đốc ký duyệt, ngân hàng sẽ tiến hành giải ngân cho khách hàng tương ứng với số tiền đã được ký kết trong hợp đồng. Trong quá trình giải ngân, ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích, đúng tiến độ hay không, quá trình sản xuất kinh doanh có những thay đổi bất lợi gì, có dấu hiệu lừa đảo hoặc làm ăn thua lỗ hay không, tài sản thế chấp có được giữ đảm bảo hay không,… Quá trình này cho phép ngân hàng thu thập thông tin về khách hàng, nếu các thông tin phản ánh chiều hướng tốt cho thấy chất lượng tín dụng đang được đảm bảo, ngược lại,thì chất lượng khoản cho vay bị đe dọa. Bước 5: Thu nợ hoặc đưa ra các phán quyết tín dụng mới. Đây là bước cuối cùng của quy trình cho vay tín chấp KHCN. Cán bộ tín dụng theo dõi, đôn đốc việc trả nợ của khách hàng. Quá trình này giúp ngân hàng thu hồi gốc và lãi đồng thời xác định các nhu cầu mới của khách hàng. Nói chung, các khoản tín dụng hoàn trả đầy đủ và đúng hạn là các khoản tín dụng an toàn. Nhưng trong một số trường hợp, các khoản tín dụng đã không được hoàn trả hoặc không hoàn trả đủ, đúng hạn. Việc thanh toán nợ không đúng hạn cho thấy các trục trặc trong hoạt động của khách hàng. Việc xem xét tìm nguyên nhân là rất quan trọng giúp ngân hàng kịp thời đưa ra các quyết định mới để đảm bảo thu hồi khoản cho vay. Khi phát hiện các khoản nợ có dấu hiệu xấu song khách hàng vẫn kiên quyết tìm cách khắc phục để trả nợ, cán bộ tín dụng xem xét việc gia hạn nợ, bổ sung các điều kiện như giảm lãi hoặc cho vay thêm. Trong trường hợp khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, cố tình nợ nần dây dưa hoặc làm ăn yếu kém không còn phương cách cứu vãn, ngân hàng áp dụng phương án thanh lý, tức là sử dụng các biện pháp có thể được để thu hồi nợ, bao gồm phong toả tài khoản, tước đoạt các khoản tiền gửi,… Phát triển cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân Khái niệm phát triển cho vay tín chấp khách hàng cá nhân Phát triển cho vay tín chấp đối với một đối tượng khách hàng cụ thể là việc ngân hàng tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực của mình nhằm gia tăng hoạt động cho vay đối với đối tượng khách hàng đó, cả về doanh số và chất lượng cho vay. Theo đó, việc phát triển cho vay tín chấp đốí với một đối tượng khách hàng nào đó không chỉ nhằm mục đích tăng lợi nhuận từ hoạt động cho vay với đối tượng khách hàng đó mà còn nhằm nâng cao uy tín, hình ảnh của ngân hàng trong tâm trí đối tượng khách hàng đó. Tuỳ vào từng loại hình ngân hàng, nguồn lực, vị thế của ngân hàng mà họ sẽ ưu tiên phát triển cho vay tín chấp với một đối tượng khách hàng khác nhau. Tuy nhiên, vào thời điểm hiện nay khi nền kinh tế Việt Nam đang phát triển với một tốc độ rất nhanh, thì thị trường cho vay tín chấp KHCN là một thị trường rất “màu mỡ”, nhưng mới chỉ ở giai đoạn sơ khai, chưa được khai thác nhiều. Do vậy, hiện nay rất nhiều ngân hàng đang tập trung nguồn lực của mình nhằm phát triển cho vay tín chấp đôí với đối tượng KHCN. Từ những phân tích trên, ta thấy tầm quan trọng của việc phát triển cho vay tín chấp KHCN đối với sự phát triển của từng NHTM. Do vậy cần thiết đưa ra một khái niệm đối với hoạt động này: “Phát triển cho vay tín chấp KHCN là việc ngân hàng tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực của mình như vốn, hệ thống mạng lưới, công nghệ,… nhằm gia tăng hoạt động cho vay tín chấp đối với KHCN cả về qui mô và chất lượng”. Các chỉ tiêu phản ánh hoạt động phát triển cho vay tín chấp khách hàng cá nhân Có rất nhiều chỉ tiêu phản ánh hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN. Các chỉ tiêu này bao gồm: dư nợ cho vay tín chấp KHCN, cơ cấu dư nợ cho vay tín chấp KHCN, chất lượng cho vay tín chấp KHCN, lợi nhuận từ cho vay tín chấp KHCN, số lượng các hình thức cho vay tín chấp KHCN. Dư nợ cho vay tín chấp KHCN Đây là một chỉ tiêu cho thấy mức độ để đánh giá hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN. Dư nợ cho vay tín chấp KHCN tăng chứng tỏ hoạt động cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng đang được mở rộng tạo điều kiện cho sự phát triển hoạt động này. Tuy vậy, kết quả phát triển cho vay tín chấp KHCN chỉ thực sự đạt có cơ hội phát triển nếu dư nợ cho vay tín chấp KHCN tăng cả về số lượng tuyệt đối, lẫn số lượng tương đối (tỷ trọng dư nợ cho vay tín chấp KHCN so với tổng dư nợ). Cơ cấu dư nợ cho vay tín chấp KHCN Cơ cấu dư nợ cho vay tín chấp KHCN so với các loại hình cho vay khác như cho vay doanh nghiệp, cho vay các tổ chức tín dụng cũng là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN của NHTM. Khi tỷ trọng dư nợ cho vay tín chấp tăng lên, trong khi tỷ trọng các loại hình cho vay khác giảm đi, hoặc tỷ lệ dư nợ cho vay tín chấp KHCN năm nay so với năm ngoái tăng lên với một tỷ lệ phần trăm nhiều hơn so với tỷ lệ tương ứng của các loại hình cho vay khác, thì hoạt động phát triển cho vay KHCN của ngân hàng đã đạt kết quả tốt. Chất lượng cho vay tín chấp KHCN Chất lượng cho vay tín chấp KHCN là một tiêu chí quan trọng phản ánh kết quả của hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN. Nếu ngân hàng có những khoản cho vay tín chấp KHCN được thanh toán đúng hạn, thì cho thấy kết quả hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN là tốt. Ngược lại, nếu ngân hàng có nhiều khoản cho vay tín chấp KHCN bị chuyển sang nợ quá hạn, thì ngân hàng cần đánh giá lại hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN của mình. Các khoản cho vay tín chấp KHCN chất lượng tốt được hiểu là các khoản cho vay được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Có nhiều chỉ tiêu để đánh gía chất lượng của một khoản cho vay, tuy nhiên chỉ tiêu được sử dụng phổ biến hiện nay là nợ quá hạn. Nợ quá hạn là các khoản nợ đến hạn nhưng chưa được thanh toán. Theo quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam thì nợ quá hạn bao gồm 4 nhóm: Nhóm 2 ( Nợ cần chú ý ) bao gồm các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại, các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 2. Nhóm 3 ( Nợ dưới tiêu chuẩn ) bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 90 – 180 ngày, các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ nhưng vẫn quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại, các khoản nợ khác được cơ cấu vào nhóm 3. Nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ ) bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 181 – 360 ngày, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời gian trả nợ nhưng vẫn quá hạn từ 90 – 180 ngày theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại, các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4. Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn ) bao gồm các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày, các khoản nợ khoanh chờ chính phủ xử lý, các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn trả nợ đã cơ cấu lại, các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 5. Đối với cho vay tín chấp KHCN thì chất lượng của một khoản vay được đánh giá cũng được dựa trên quyết định trên. Một khoản vay được đánh giá là có chất lượng tốt nếu khoản vay đó được phân vào nhóm 1( Nợ đủ tiêu chuẩn ). Nhóm 1 bao gồm các khoản nợ trong hạn mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn, các khoản nợ khác được phân vào nhóm 1. Còn các khoản cho vay KHCN mà thuộc một trong 4 nhóm từ 2 – 5 thì nó có chất lượng xấu. Nếu ngân hàng có những khoản vay tín chấp KHCN với chất lượng tốt, hoạt động cho vay tín chấp KHCN sẽ trở nên khả thi dễ triển khai hơn. Lợi nhuận từ cho vay tín chấp KHCN Đây là một chỉ tiêu sát thực để đánh giá kết quả của hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN. Hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN của NHTM với mục tiêu lớn nhất là gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng trong xu thế cạnh tranh ngày càng trở nên khốc liệt hơn. Việc tăng doanh số cho vay KHCN phải có kết quả là tăng lợi nhuận trên tổng doanh số cho vay thì hoạt động phats triển cho vay này mới được coi là đạt hiệu quả. Số lượng các hình thức cho vay tín chấp KHCN Đây là tiêu chí phản ánh việc gia tăng qui mô của hoạt động cho vay tín chấp KHCN. Với số lượng các hình thức cho vay tín chấp KHCN càng nhiều thì chi nhánh càng dễ dàng mở rộng và phát triển hoạt động cho vay với đối tượng này. Ngược lại, việc phát triển cho vay tín chấp KHCN chỉ đạt kết quả tốt khi ngân hàng gia tăng số lượng các hình thức cho vay tín chấp KHCN, nhằm mục đích thu hút nhiều đối tượng KHCN đến với ngân hàng. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay tín chấp - đối với khách hàng cá nhân của Ngân hàng thương mại. Để có thể đa dạng hoá sản phẩm, tăng quy mô cho vay thì việc phát triển hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân là một hoạt động rất cấn thiết. Mở rộng cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân là việc Ngân hàng đầu tư tiền bạc, công sức nhằm đa dạng hoá các sản phẩm cho vay tín chấp khách hàng cá nhân đồng thời tăng quy mô cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Hoạt động cho vay tín chấp khách hàng cá nhân chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố bao gồm các nhân tố khách quan như môi trường hoạt động của Ngân hàng, các yếu tố thuộc về khách hàng và các nhân tố chủ quan thuộc về chính Ngân hàng. Nhóm nhân tố thuộc về ngân hàng. Đây là các nhân tố tác động trực tiếp tới việc mở rộng cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng. Việc phát triển cho vay tín chấp KHCN phụ thuộc rất lớn vào chính sách cho vay; năng lực tài chính của ngân hàng; chất lượng cho vay tín chấp KHCN; số lượng, trình độ nghiệp vụ của các cán bộ ngân hàng; hoạt động marketing của ngân hàng và mạng lưới của ngân hàng. Chính sách cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng Chính sách cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng là hệ thống các chủ trương, quy định chi phối hoạt động cho vay do hội đồng quản trị đưa ra nhằm sử dụng hiệu quả nguồn vốn để tài trợ cho hộ gia đình và cá nhân. Chính sách cho vay phản ánh cương lĩnh tài trợ của một ngân hàng, trở thành hướng dẫn chung cho cán bộ tín dụng và các nhân viên ngân hàng, tăng cường chuyên môn hoá trong phân tích cho vay, tạo sự thống nhất chung trong hoạt động cho vay nhằm hạn chế rủi ro và nâng cao khả năng sinh lời. Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến tài trợ một khoản cho vay tín chấp nói chung đều được xem xét và đưa ra trong chính sách cho vay của ngân hàng như: chính sách khách hàng, chính sách quy mô và giới hạn cho vay, lãi suất và phí suất cho vay, thời hạn cho vay và kỳ hạn nợ, khả năng hoàn trả của khách hàng, chính sách đối với các tài sản có vấn đề. Những yếu tố trong chính sách cho vay đều tác động một cách mạnh mẽ tới việc mở phát triển cho vay nói chung và hoạt động cho vay tín chấp KHCN nói riêng. Một ngân hàng chỉ có thể mở rộng hoạt động cho vay tín chấp KHCN khi có mục tiêu phát triển rõ ràng được thể hiện như một cương lĩnh trong chính sách cho vay. Và chỉ khi ngân hàng đó xác định phát triển cho vay tín chấp KHCN thì ngân hàng mới dồn nỗ lực và khả năng để tập trung phát triển lĩnh vực này. Mặt khác, khi một ngân hàng đã có sẵn các hình thức cho vay tín chấp KHCN đa dạng thì việc mở rộng cũng dễ dàng và thuận lợi hơn là các ngân hàng mới chỉ có các sản phẩm đơn giản. Năng lực tài chính của ngân hàng và khả năng quản lý của ngân hàng. Năng lực tài chính của ngân hàng được xác định dựa trên một số yếu tố như qui mô vốn chủ sở hữu, các tỷ lệ ROE, ROA, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập qua các năm, tỷ trọng nợ quá hạn trong tổng dư nợ. Một ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu lớn, khả năng huy động vốn trong ngắn hạn lớn, danh mục tài sản thanh khoản nhiều, nợ quá hạn ít thì ngân hàng đó có thể gọi là có sức mạnh về tài chính và ngân hàng đó có thể đầu tư vào các danh mục mà ngân hàng hướng tới và hoạt động cho vay được mở rộng trong đó cho vay tín chấp KHCN sẽ được phát triển; ngược lại ngân hàng mà năng lực tài chính thấp thì sẽ không có đủ số vốn để tài trợ cho các danh mục mà ngân hàng quan tâm, do đó hoạt động cho vay sẽ bị hạn chế, cho vay tín chấp KHCN sẽ không được mở rộng. Vì vậy, đây là một nhân tố giúp cho ban lãnh đạo ngân hàng xem xét khi đưa ra quyết định phát triển hay hạn chế việc cho vay trong đó có hoạt động cho vay tín chấp KHCN. Số lượng, trình độ nghiệp vụ của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng là người trực tiếp tiếp xúc và đưa ra quyết định cho vay đối với khách hàng, vì vậy có thể coi họ chính là hình ảnh của ngân hàng. Đội ngũ cán bộ tín dụng đông đảo cùng với phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn tốt chính là yếu tố có tác động tích cực đối với hoạt động cho vay tín chấp KHCN. Ngân hàng có đội ngũ cán bộ với những khả năng trên sẽ thúc đẩy hoạt động cho vay trở nên nhanh chóng, tiết kiệm được thời gian, chất lượng cho vay cao, hạn chế được rủi ro tạo ấn tượng cho khách hàng, nhờ đó thu hút khách hàng, phát triển được cho vay tín chấp KHCN. Vì đội ngũ cán bộ tín dụng thể hiện cho hình ảnh hữu hình của ngân hàng, cho nên họ sẽ góp phần tăng tính cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ của ngân hàng nói chung và hoạt động cho vay tín chấp KHCN nói riêng. Hoạt động Marketing của ngân hàng. Hoạt động marketing là hoạt động giới thiệu, quảng bá về hình ảnh cũng như các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Đây cũng là một hoạt động quan trọng góp phần phát triển cho vay tín chấp KHCN. Từ hoạt động marketing, khách hàng sẽ hiểu về ngân hàng cũng như các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp nhiều hơn. Nếu thực hiện hoạt động marketing tốt, khách hàng sẽ có ấn tượng tốt về ngân hàng cũng như các dịch vụ của ngân hàng nói chung, và hoạt động cho vay tín chấp KHCN nói riêng. Từ đó KHCN sẽ tìm đến ngân hàng vay vốn nhiều hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng phát triển cho vay tín chấp KHCN. Thị trường cho vay tín chấp KHCN còn rất tiềm năng ở Việt Nam, vì trong một thời kì dài khối NHTM Quốc doanh chỉ tập trung chủ yếu cho vay khách hàng doanh nghiệp, để khắc phục những nhược điểm như vậy, tại Vpbank công tác Marketing tốt và phù hợp sẽ quyết định đến việc ngân hàng đó có một miếng bánh thị phần lớn ở thị trường rất màu mỡ này. Hoạt động Marketing một mặt phải luôn luôn thích ứng với sự thay đổi của thị trường và môi trường nhưng sự thích ứng này phải luôn luôn là sự thích ứng có lợi cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhằm đảm bảo mục tiêu cuối cùng là an toàn, lợi nhuận và sức mạnh trong cạnh tranh. Mạng lưới của ngân hàng. Số lượng các chi nhánh, phòng giao dịch nói lên quy mô của một ngân hàng, để thuận lợi cho việc giao dịch giữa khách hàng với ngân hàng, các ngân hàng thường mở rộng các chi nhánh và các phòng giao dịch, nhằm thu hút sự quan tâm của khách hàng đối với ngân hàng. Các ngân hàng có càng nhiều chi nhánh, phòng giao dịch thì việc phát triển cho vay tín chấp đối với KHCN càng trở nên thuận lợi, nhất là khi các chi nhánh, phòng giao dịch này đặt tại các khu dân cư có nhiều nhu cầu vay vốn. Tại đây ngân hàng dễ dàng đáp ứng được nhu cầu vay vốn của khách hàng, đồng thời ngân hàng nắm bắt được thông tin từng khách hàng trên cơ sở đó tiến hành thẩm định, giải ngân và thu nợ. Do đó, việc mở rộng mạng lưới các chi nhánh, phòng giao dịch là nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng thương mại. Các nhân tố khách quan . Nhóm nhân tố thuộc về khách hàng Khách hàng là người lựa chọn và ra các quyết định vay vốn từ ngân hàng nên các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng có tác động rất lớn đến khả năng phát triển cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng. Khi quy mô về nhu cầu vay của khách hàng tăng thì ngân hàng mới có điều kiện phát triển cho vay tín chấp đối với KHCN. Nhu cầu vốn của khách hàng Sản phẩm cho vay tín chấp KHCN của NHTM là sản phẩm dịch vụ nên nhu cầu vốn của khách hàng là yếu tố quyết định các hình thức cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng. Nhu cầu vốn của khách hàng chính là căn cứ để xây dựng và mở rộng chiến lược phát triển sản phẩm cho vay tín chấp KHCN của Ngân hàng. KHCN của ngân hàng là các cá nhân và hộ gia đình với các nhu cầu vay vốn rất đa dạng, từ các nhu cầu phục vụ tiêu dùng đến các nhu cầu vay phục vụ sản xuất kinh doanh. Tuỳ từng giai đoạn, thời điểm mà sẽ xuất hiện các nhu cầu nổi bật cần tài trợ. Vấn đề là ngân hàng phải phát hiện những nhu cầu đó nhanh nhất để đáp ứng kịp thời vì những người đi đầu sẽ có ưu thế trong việc thu hút khách hàng đến với mình. Những khách hàng có nghề nghiệp khác nhau, tình trạng gia đình và hôn nhân, độ tuổi khác nhau sẽ có những nhu cầu được tài trợ khác nhau. Ví dụ, những khách hàng trẻ tuổi (20- 30 tuổi) năng động, trẻ trung ưa thích các sản phẩm thẻ tín dụng nhằm phục vụ nhu cầu mua sắm, đi chơi,…Như vậy, xác định được nhu cầu vốn của khách hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng trong việc phát triển cho vay tín chấp KHCN. Khả năng đáp ứng các điều kiện khi vay của khách hàng Đó là các yếu tố về tài chính, thu nhập, đạo đức, tài sản đảm bảo của khách hàng thoả mãn các điều kiện vay vốn của ngân hàng để đảm bảo an toàn cho khoản cho vay. Việc phát hiện ra nhu cầu được tài trợ thôi chưa đủ mà cái quan trọng hơn là ngân hàng phải phát hiện ra các nhu cầu có khả năng thanh toán, bởi chỉ có đáp ứng những nhu cầu có khả năng thanh toán mới đem lại thu nhập cho ngân hàng. Nhu cầu có khả năng thanh toán được hiểu là các nhu cầu cần tài trợ của khách hàng mà việc trả nợ trong tương lai được đảm bảo. Khách hàng có trình độ văn hoá, sự hiểu biết về cho vay thì họ sẽ có trách nhiệm với các khoản nợ và có ý thức trả nợ đối với ngân hàng. Nếu khách hàng là người có đạo đức tốt, có ý thức với khoản nợ đối với ngân hàng, trả nợ đúng hạn và đầy đủ thì rủi ro của món vay là thấp, khách hàng sẽ tạo được niềm tin với ngân hàng, do vậy ngân hàng sẽ có điều kiện để phát triển cho vay tín chấp KHCN. Ngoài ra còn có các yếu tố khác như: quy mô gia đình, đặc điểm, tính cách của khách hàng, khả năng đáp ứng các điều kiện vay của khách hàng như các giấy tờ về quyền sở hữu cũng ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn của khách hàng. Nhóm nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng Có thể hiểu đây là nhóm các nhân tố thuộc về môi trường hoạt động của ngân hàng. Môi trường hoạt động của ngân hàng cũng gây ra các tác động lớn đến mở rộng cho vay đối với khách hàng nói chung và đối với khách hàng cá nhân nói riêng. Bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường luật pháp, môi trường văn hoá – xã hội, sự phát triển của Khoa học – công nghệ và đối thủ cạnh tranh. Môi trường kinh tế Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính quan trọng nhất đối với nền kinh tế. Vì vậy, bất kỳ sự biến động của nền kinh tế đều ảnh hưởng đến các hoạt động cho vay của ngân hàng trong đó có cho vay tín chấp KHCN. Khi nền kinh tế ổn định và tăng trưởng cao, hoạt động cho vay tín chấp tín chấp KHCN có xu hướng tăng lên bởi vì thu nhập và mức sống của người dân được cải thiện, hơn nữa sẽ có nhiều cá nhân vay vốn ngân hàng nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh của họ. Từ đó, sẽ tạo điều kiện mở rộng cho vay tín chấp KHCN một cách có hiệu quả. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái, mất ổn định, khiến thu nhập trong tương lai của người tiêu dùng trở nên bấp bênh, người dân sẽ lựa chọn tiết kiệm hơn là vay tiêu dùng hay vay vốn để sản xuất kinh doanh, từ đó sẽ hạn chế việc mở rộng cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng. Ngoài ra, nếu ngân hàng hoạt động trong nền kinh tế có trình độ phát triển cao và tiên tiến thì hoạt động cho vay tín chấp KHCN cũng đa dạng và phát triển hơn ở các nước đang phát triển. Môi trường luật pháp Ngân hàng là trung gian tài chính nắm giữ một khối lượng vốn và tài sản rất lớn trong nền kinh tế, do đó hoạt động ngân hàng chịu sự kiểm soát chặt chẽ của luật pháp cũng như các cơ quan chức năng. Điều này không chỉ làm đảm bảo an toàn cho ngân hàng, mà còn cho các khách hàng thực hiện giao dịch cũng như sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế. Mỗi một quốc gia khác nhau có những quy định khác nhau về tổ chức hoạt động của ngân hàng cũng như hoạt động cho vay tín chấp KHCN. Nếu các quy định đó đầy đủ, chặt chẽ, hợp lý, không rườm rà và chồng chéo lên nhau thì sẽ tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động phát triển cho vay tín chấp KHCN nói riêng. Hệ thống các văn bản, các quyết định, quy định,… ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng nói chung, cho vay tín chấp KHCN nói riêng. Hệ thống luật pháp ổn định, hoàn thiện sẽ thúc đẩy cho vay tín chấp KHCN đồng thời là cơ sở nâng cao năng lực cung cấp dịch vụ tài chính chất lượng cao cho dân cư, đảm bảo mối quan hệ hợp tác giữa ngân hàng với khách hàng. Môi trường văn hoá – xã hội Những yếu tố của môi trường văn hoá xã hội như: lối sống, thói quen, tập quán xã hội, thị hiếu… ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa ra các hình thức cho vay tín chấp đối với KHCN của ngân hàng. Ở những nơi mà có thói quen chi tiêu nhiều hơn tiết kiệm thì họ thường có xu hướng vay tiêu dùng và vay phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh nhiều hơn các nơi khác. Chẳng hạn, ở nước ta người dân ở miền Bắc thường tích luỹ, tiết kiệm nhiều hơn so với người dân ở miền Nam, do vậy việc phát triển cho vay tín chấp KHCN sẽ khó khăn hơn so với miền Nam. Sự phát triển của Khoa học – Công nghệ Ngày nay, với sự phát triển không ngừng của khoa học, công nghệ đã tạo điều kiện cho nhiều nghành, lĩnh vực khác phát triển với quy mô toàn cầu, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Với sự phát triển của khoa học, công nghệ việc xử lý giao dịch của các ngân hàng trở lên nhanh chóng, dễ dàng hơn, đồng thời các nghiệp vụ cũng được xử lý theo một quy trình chặt chẽ do máy móc thực hiện thay cho lao động thủ công. Từ đó, giảm bớt thời gian giao dịch giữa ngân hàng với khách hàng, tăng sự chính xác trong phân tích, thẩm định tín dụng, do đó hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Nhờ đó, các ngân hàng có thể phát triển cho vay và đưa ra các sản phẩm mới đối với cho vay tín chấp KHCN. Đối thủ cạnh tranh Sự xuất hiện các đối thủ cạnh tranh trên thị trường tài chính dẫn đến thị phần cho vay tín chấp KHCN bị chia nhỏ và khiến cho ngân hàng cần phải tìm ra các chiến lược, các chính sách đặc trưng của ngân hàng nhằm thu hút được khách hàng đến với ngân hàng, không chỉ giữ chân khách hàng cũ mà còn thu hút thêm khách hàng mới. Như vậy, với sự xuất hiện của các đối thủ cạnh tranh sẽ khiến thị phần cho vay tín chấp KHCN của ngân hàng bị giảm sút, điều này sẽ gây ra sự khó khăn cho ngân hàng trong việc phát triển qui mô cho vay tín chấp KHCN, nhưng sẽ khuyến khích ngân hàng trong việc tăng chất lượng cho vay tín chấp đối với KHCN. CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TÍN CHẤP ĐỐI VỚI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN TẠI VPBANK CHI NHÁNH TRẦN HƯNG ĐẠO 2.1. Khái quát về Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội. 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển. Tiền thân của Vpbank - Trần Hưng Đạo là phòng giao dich 1. Ngày 23/1/2003 được chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà Nội ban hành công văn số 706/NHNN – HSN7 – KSDB chấp thuận cho Vpbank mở phòng giao dịch Trần Hưng Đạo tại Thành phố Hà Nội. Và đến ngày 23/5/2005 phòng giao dịch Trần Hưng đạo được nâng cấp thành chi nhánh cấp II Trần Hưng Đạo. Nằm ở trung tâm thương mại, kinh tế của Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội ,phòng giao dịch đã hoạt động và thu hút khá đông khách hàng trong nước và nước ngoài. Với tinh thần phục vụ khách hàng cởi mở, phòng giao dịch đã chiếm đượ sự tin tưởng của khách hàng và đã thu hút được khách hàng không chỉ ở Hà Nội mà còn ở các tỉnh xa đến giao dịch khá đông. Đã có thời kỳ thu hút được số khách hàng lên đến gần 2000 người với số tiền huy động gần 70 tỷ đồng, trở thành phòng giao dịch huy động khá lớn của Vpbank. Khách nước ngoài đến đổi tiền tệ, thanh toán séc giao dịch, VisaCard khá tấp nập, không khí làm việc giữa các nhân viên trong phòng làm việc chan hòa, đoàn kết, gắn bó với nhau, và với Vpbank điều đã tạo nên sức mạnh khắc phục khó khăn về đời sống và điều kiện vật chất, nơi làm việc chật hẹp, tiện nghi thiếu thốn. Ngay cả khi Vpbank khó khăn nhất, phòng giao dich I vẫn duy trì được nhiều khách hàng truyền thống đã gắn bó với Vpbank trong suốt mấy năm qua. Trong năm 2005, mặc dù phải đương đầu với những khó khăn thử thách lơn như: giá cả năng lượng biến động mạnh, thiên tai, dịch bệnh, tình trạn khủng bố nghiêm trọng xảy ra nhiều nơi trên thế giới. Trong tình trạng đó, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thử thách, Việt Nam vẫn được đánh giá là nước có tình hình kinh tế ổn định, mức tăng trưởng GDP trên dưới 8% là mức cao nhất trong 7 năm qua từ khi tổ chức Vpbank thành lập. Đóng góp không nhỏ vào thành quả đó phải kể đến vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng. Những năm qua ngân hàng tài chính của ta không ngừng phát triên, tỷ lệ nợ xấu, nợ quá hạn trong các ngân hàng quốc doanh được cải thiện đáng kể. Vốn điều lệ của ngân hàng quốc doanh không ngừng được đáp ứng để bổ sung để đáp ứng tỷ lệ an toan theo quy định của quốc tế. Bên cạnh đó nhà nước và cơ quan chức năng nói riêng cũng đưa ra chính sách nhằm ổn định điều kiện phát triển toàn diện hệ thống ngân hàng. Cùng xu hướng đó, Chi nhánh không ngừng cải thiện và mở rộng để đáp ứng đòi hỏi thực tế, nâng cấp các cơ sở vật chất, đẩy mạnh hoạt động dịch vụ, nghiên cứu đưa ra các sản phẩm mới đáp ứng nhu cầu khách hàng. Với khẩu hiệu: “ tận tình chu đáo phục vụ khách hàng” và phương châm “ tín nhiệm là trên hết”, toàn thể cán bộ nhân viên và ban lãnh đạo quyết tâm phát triển chi nhánh thành một trong những chi nhánh mạnh nhất của hệ thống. Nhìn chung những năm vừa qua chi nhánh đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong tất cả lĩnh vực. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức. Là chi nhánh cấp II được nâng cấp chưa lâu, bộ máy chi nhánh được tổ chức gọn nhẹ, độc lập, phân cấp rõ ràng phục vụ đắc lực cho giám đốc quản lý chi nhánh. Theo đó bộ máy của Vpbank - Chi nhánh Trần Hưng đạo được tổ chức theo mô hình trực tuyến : Giám Đốc chi nhánh Phòng phục vụ khách hàng Phòng kế toán giao dịch Mô hình tổ chức trên đã cho phép chi nhánh quản lý nhân viên một cách hiệu quả nhất trên cơ sở độc lập giữa các phòng ban , là nhân tố chủ chốt giúp chi nhánh hoạt động hiệu quả. 2.2. Thực trạng hoạt động cho vay tín chấp đối với khách hàng cá nhân tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Cho vay tín chấp KHCN là một hoạt động của cho vay. Chính vì thế cho vay tín chấp cũng là thành phần gây ảnh hưởng đến hoạt động cho vay chung của ngân hàng. 2.2.1. Thực trạng hoạt động cho vay nói chung tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo. Trong các hoạt động ngân hàng, cho vay là hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu. Chính vì thế, chiến lược phát triển tín dụng lành mạnh, an toàn và hiệu quả được Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo đặc biệt quan tâm.Trong những năm qua chi nhánh đã thực hiện đúng những quy định của Ngân hàng nhà nước, quy chế tín dụng chung của ngân hàng, từng bước lành mạnh hoá tình hình tín dụng của mình. Chi nhánh có được nền tảng của Vpbank đã xây dựng quy chế riêng của mình về cho vay doanh nghiệp, cho vay cá nhân rất chặt chẽ, rõ ràng. Bảng 2.2: Dư nợ cho vay tại Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo Đơn vị: tỷ đồng 2005 2006 2007 29/02/2008 Dư nợ vay 119,286 145,217 167 172,285 Dư nợ vay có tài sản đảm bảo 119,286 130,6957 152,1 156 Dư nợ vay không có tài sản đảm bảo 0 14,52174 14,9 16,285 Dư nợ vay khách hàng doanh nghiệp 71,573 87,13 100,2 103,371 Dư nợ vay khách hàng cá nhân 47,72 58,0869 67,2 68,914 Những ngày cuối năm 2007 Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo hoạt động rất sôi nổi trong không khí hoà cùng nhịp xuân. Tuy nhiên sau tết nguyên đán Mậu Tý 2008, cũng như nhiều ngân hàng khác, lượng tiền bị rút khỏi ngân hàng rất nhiều khiến Vpbank rơi vào tình trạng thiếu tiền kinh khủng, có những ngày chi nhánh không còn tiền để giải ngân. Đến đầu năm 2008, Ngân hàng Trung Ương tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11% khiến các ngân hàng đua nhau huy động vốn với lãi suất cao. Không ngoại lệ Vpbank chi nhánh Trần Hưng Đạo cũng tăng lãi suất tiền gửi lên trên 12%/năm. Do nguồn tiền vào thiếu nên chi nhánh đang tạm ngừng cho vay và đến đầu tháng 3 mới bắt đầu bước sang một công cuộc mới. Nên dư nợ vay của Vpbank Trần Hưng Đạo tăng lên không đáng kể. Cuối năm 2007 tổng dư nợ tại chi nhánh là 167 tỷ đồng,. tăng 15 % so với năm 2006 và 35% so với năm 2005. Tính đến thời điểm 29/02/2008 tổng dư nợ là 172,285 tỷ đồng. Tăng 3,1% so với năm 2007. Điều này cho thấy dư nợ tại chi nhánh chưa có biến triển, và là con số tương đối thấp so với một số ngân hàng thương mại khác và chỉ chiếm khoảng 2% đến 3% so với toàn hệ thống. Hiện nay Chi nhánh Trần hưng Đạo phân loại các hoạt động cho vay dựa trên quy định chung của Vpbank. Trong đó, cho vay có tài sản đảm bảo chiếm khoảng 90% hoạt động cho vay của chi nhánh trong năm 2006 và 2007. Còn năm 2005 thì 100% là cho vay có tài sản đảm bảo, cho vay tín chấp chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong hoạt động cho vay. Chính vì thế, mảng cho vay tín chấp tại chi nhánh chưa được khai thác triệt để. Đây là một kho tàng để chi nhánh tiếp tục mở rộng và phát triển. Nếu xét về phương diện khách hàng là doanh nghiệp và khách hàng cá nhân th._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33365.doc
Tài liệu liên quan