LỜI MỞ ĐẦU
Ở mỗi nền kinh tế quốc gia hay lãnh thổ, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thế giữ những vai trò với mức độ khác nhau. Ở Việt Nam số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 90% tổng số doanh nghiệp trên cả nước, đóng góp khoảng 40% GDP, 37% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế. Đây là bộ phận kinh tế năng động, giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế và là trụ cột của nền kinh tế địa phương. Nhận ra ý nghĩa quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong sự phát triển của đất nước, chính phủ có n
86 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động cho vay Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Thành Công, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hững chính sách khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Nhưng trên thực tế, khối doanh nghiệp vừa và nhỏ này còn gặp rất nhiều trở ngại trong quá trình giải quyết những tồn tại của bản thân doanh nghiệp, những khó khăn từ môi trường xung quanh, cũng như trong quá trình hội nhập nền kinh tế. Một trong những vấn đề của doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề thiếu vốn hoạt động, thiếu vốn để đổi mới công nghệ và nguồn vốn tài trợ chủ yếu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nguồn vốn từ Chính phủ thông qua Ngân hàng thương Mại. Sau một thời gian thực tập tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 30-32 Láng Hạ Hà Nội, em đã nghiên cứu, tìm hiểu tình hình hoạt động của chi nhánh và đặc biệt quan tâm đến vấn đề phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm bổ sung thêm nguồn vốn cho khối doanh nghiệp này.
Với mục đích như trên, trong chuyên đề tốt nghiệp của mình, em đã chọn đề tài nghiên cứu: “Phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công”. Ở đề tài này em sẽ làm rõ những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công.
Bài viết được kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Lý thuyết chung về cho vay khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Do kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những sai sót, em rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy cô giáo để em có thể hoàn thiện bài viết này tốt hơn.
Trong thời gian qua, nhờ có sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của thầy giáo PGS.TS Lê Đức Lữ cùng các cô chú, anh chị cán bộ nhân viên ở chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DNV&N : doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTM : Ngân hàng thương mại
NHNT : Ngân hàng Ngoại thương
NHNTTC : Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
P. : Phòng
BP. : Bộ phận
XNK : xuất nhập khẩu
XNK&BL : xuất nhập khẩu và bảo lãnh
TCKT : Tổ chức kinh tế
VCB : Vietcombank
TCTD : Tổ chức tín dụng
HĐQT : Hội đồng quan trị
CBTD : Cán bộ tín dụng
NQH : Nợ quá hạn
TSCĐ : Tài sản cố định
TSBĐ : Tài sản bảo đảm
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Các bảng dữ liệu
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHNT Thành Công (trang 37)
Bảng 2: Tình hình cho vay tại chi nhánh NHNT Thành Công (trang 38)
bảng 3: Dư nợ cho vay các DNV&N tại chi nhánh NHNTTC (trang 52)
Bảng 4: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn tại chi nhánh NHNTTC (trang 54)
bảng 5: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thành phần kinh tế tại chi nhánh NHNT Thành Công (trang 55)
Bảng 6: Tình hình nợ quá hạn của chi nhánh NHNT (trang 57)
Các biểu đồ
Biểu đồ 1: Dư nợ cho vay phân theo quy mô của chi nhánh NHNTTC (trang 53)
Biểu đồ 2: Cơ cấu dư nợ cho vay theo thời hạn tại chi nhánh NHNTTC (trang 54)
Biểu đồ 3: Cơ cấu dư nợ cho vay DNV&N theo thành phần kinh tế tại chi nhánh NHNTTC (trang 56)
Sơ đồ
Sơ đồ bộ máy tổ chức chi nhánh NHNTTC (trang 34)
CHƯƠNG 1
LÝ THUYẾT CHUNG VỀ CHO VAY KHÁCH HÀNG
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1.Hoạt động cho vay của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1.1.1.Khái niệm, vai trò hoạt động cho vay của các ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
Cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của Ngân hàng, để tài trợ cho chi tiêu của các doanh nghiệp, cá nhân và các cơ quan chính phủ. Đối với hầu hết khách hàng, cả doanh nghiệp lẫn cá nhân, ngân hàng là một trong những nguồn vốn sẵn có rẻ nhất và linh hoạt nhất. Đặc biệt là đối với những doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng thường là nguồn duy nhất cung cấp dịch vụ tư vấn và nguồn vốn bổ sung. Hoạt động cho vay của các ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Cho vay là chưc năng kinh tế lâu đời nhất của ngân hàng, là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng song cũng mang lại nhiều rủi ro nhất.
Trong quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số 284/2000/QĐ/NHNN ngày 25/8/2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay được định nghĩa như sau : “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định trong thời gian nhất định theo sự thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi”.
Hoạt động cho vay có vai trò quan trọng đối với các cá nhân , doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, đối với ngân hàng, tổ chức tín dụng và đối với toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, cho vay là hoạt động cơ bản kết nối những nguồn vốn nhàn rỗi với những người thực sự có nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Hoạt động này làm tăng thu nhập cho những người chưa có kế hoặch đầu tư nói chung và những khoản tiền nhàn rỗi nói riêng, đồng thời làm tăng khả năng hoạt động của những người có nhu cầu về vốn là doanh nghiệp hay cá nhân. Có thể nói, hoạt động cho vay tạo ra sự phát triển chung của cả nền kinh tế.
Thứ hai, bằng việc cho vay ngân hàng đã tạo ra khối lượng tiền tệ lớn trong nền kinh tế. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Toàn bộ hệ thống ngân hàng đã tạo ra khối lượng tiền lớn khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu ( tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không có một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng).
Thứ ba, bằng việc cho vay với lãi suất ưu đãi cho một dự án phát triển mang tính chất chiến lược cũng là hoạt động tài trợ nằm trong chính sách của chính phủ để phát triển đất nước.
Thứ tư, cho vay là hoạt động mang lại thu nhập chính, lợi nhuận cao cho ngân hàng, dùng chi trả các khoản lãi tiền gửi huy động và các khoản chi phí quản lý, trang thiết bị, tiền lương và các khoản chi phí khác để duy trì hoạt động của ngân hàng.
1.1.2.Các hình thức cho vay của ngân hàng
Theo các tiêu thức khác nhau có thể phân chia làm rất nhiều loại hình cho vay khác nhau, cụ thể như sau:
1.1.2.1.Theo hình thức cấp tín dụng
Thấu chi : là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một thời gian nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này là hạn mức thấu chi. Để được thấu chi, khách hàng có thể làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Khi khách hàng có số tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo. Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với những khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.
Cho vay trực tiếp từng lần : là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để cấp hạn mức thấu chi. Chỉ khi có nhu cầu thời vụ hay mở rộng sản xuất đặc biệt thì khách hàng mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu ki sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay vốn, khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho cho vay, xác định quy mô cho vay, xác định thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt thành những hồ sơ khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối dơn giản. Ngân hàng có thể kiểm soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa vào giá trị của tài sản đảm bảo.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể cấp cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối thiểu tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoặch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá hạn mứac tín dụng. Mối lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức vay thuận tiện cho khách hàng vay mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh. Ngân hàng không ấn định ngày trả nợ mà sẽ thu nợ khi khách hàng có thu nhập.. do đó tạo tính chủ động trong quản lý ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên do các lần vay không tách biệt thành các kì hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó có thể kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần vay.
Cho vay luân chuyển : là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Việc cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá nên cả ngân hàng lẫn doanh nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoặch lưu chuyển hàng hoá để dự phòng ngân quỹ trong thời gian tới. Khi khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn nhập hàng và số tiền cần vay. Đồng thời khách hàng phải đảm bảo rằng tất cả số tiền cần vay sẽ được trả cho người bán và mọi khoản thu bán hàng đều dùng trả vào tài khoản tiền vay trước khi trích trả lại tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho các khách hàng: thủ tục vay chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay, khách hàng được đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Vì vậy việc thanh toán cho người cung cấp sẽ nhanh gọn. Còn đối với ngân hàng, nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ (hàng hoá tồn đọng…) thì ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được quy định rõ ràng.
Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng theo đó ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận. Cho vay trả góp thường áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng hàng hoá mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Nếu người vay mất việc, ốm đau, thu nhập giảm sút thì khả năng thu nợ của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng. Chính vì rủi ro cao nên lãi suất cho vay thường là lãi suất cao nhất trong khung hình lãi suất cho vay của ngân hàng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp nhận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Nghiệp vụ này tạo khả năng thanh toán linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế.
Cho vay theo hạn mức cho vay dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với một tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thực hiện theo quy định của Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành.
Hình thức cho vay này thường áp dụng đối với những dự án quy mô lớn, một ngân hàng không dủ khả năng cho vay đồng thời cũng không thể chiu đựng được rủi ro khi dự án không thành công. Vì vậy khi nhận được dự án vay vốn, ngân hàng này liên kết với nhiều ngân hàng khác để cùng tài trợ cho dự án.
Cho vay khác: Ngoài các phương thức trên, ngân hàng có thể cho vay theo các phương thức mà pháp luật không cấm, phù hợp với các quy định tại các Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng, điều kiện kinh doanh của tổ chức tín dụng và đặc điểm của khách hàng vay. Ví dụ như cho vay theo dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ các dự án đầu tư phục vụ đời sống; cho vay gián tiếp - tức là ngân hàng cho vay thông qua các tổ chức trung gian tổ, đội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ…
1.1.2.2. Theo thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian tính từ khi khách hàng nhận vốn vay cho đến thời điểm khách hàng trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo đó thì cho vay có thể chia làm thành hai loại:
Cho vay ngắn hạn: là các khoản cho vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng. Hơn một nửa số khoản vay thương mại của ngân hàng được thực hiện dưới hình thức cho vay ngắn hạn. Hầu hết những khoản cho vay là nhằm hỗ trợ cho việc tăng dự trữ hàng hoá, dịch vụ cho nguời vay hoạt động theo mùa. Khoản vay này được hoàn trả khi hàng tồn kho của người vay được bán và các khoản thu của nó được thu hồi; lãi suất chỉ được tính trên số vốn vay thực
Cho vay trung và dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng đến 60 tháng đối với cho vay trung hạn và từ 60 tháng trở lên đối với cho vay dài hạn. Trong một khoảng thời gian dài, các ngân hàng thương mại không cho vay dài hạn, thậm chí cũng không cho vay trung hạn, bởi vì thiếu các công cụ để quản lý rủi ro nảy sinh từ các hình thức cho vay trên, nhất là thiếu nguồn vốn lâu dài và khó huy động vốn. Nhưng sau này để đáp ứng nhu cầu khách hàng một cách tốt nhất, các ngân hàng phải dần chú ý đến phần thị trường cho vay trung, dài hạn và thay đổi phương thức của họ phù hợp với bối cảnh mới, đặc trưng bởi sự khuyến khích của chính quyền cũng như sự phức tạp hoá của thị trường tiền tệ hoặc tác động của sự rối loạn gắn chặt với thói quen. Cho vay trung và dài hạn thưòng dùng để tài trợ cho việc mua tài sản cố định hoặc mở rộng sản xuất với quy mô lớn, cấp tài chính cho việc thay đổi về công tác kiểm soát công ty hoặc mua lại khoản vay tín dụng tuần hoàn.
1.1.2.3.Theo tài sản đảm bảo
Trong nhiều trường hợp, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi vay. Lí do là khách hàng luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng..Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ những khách hàng có uy tín cao, nhiều khách hàng phải có tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân hàng muốn có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ. Theo đó, cho vay cũng được phân làm hai loại sau:
Cho vay có tài sản đảm bảo: đây là hình thức cho vay có đảm bảo đối vật, tài sản có thể được đảm bảo theo hình thức thế chấp hoặc cầm cố. Các tài sản đảm bảo thường là giấy tờ có giá, hàng hoá trong kho, nhà cửa, thiết bị…Ngân hàng chỉ chấp nhận những tài sản hợp pháp, có khả năng bán được làm đảm bảo.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo theo hình thức thế chấp: là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) của các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết song vẫn được quyền sử dụng tài sản với cam kết giữ nguyên hiện trạng.
Đảm bảo bằng thế chấp thuận lợi cho người đi vay có thể sử dụng tài sản đảm bảo để thực hiện hoạt động kinh doanh, tuy nhiên có thể gây khó khăn cho ngân hàng trong việc quản lý và kiểm soát tài sản đảm bảo bởi quá trình sử dụng sẽ làm biến dạng tài sản hoặc khách hàng có thể lợi dụng phân tán, làm giảm giá trị tài sản, gây thiệt hại cho ngân hàng. Vì vậy ngân hàng phải tăng khả năng đánh giá, xem xét kĩ vật thế chấp.
+ Cho vay có tài sản đảm bảo theo hình thức cầm cố : là hình thức cho vay theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết ( thường gọi là thời gian tài trợ). Ngân hàng quản lý toàn bộ tài sản đó, mọi chi phí liên quan đến việc quản lý do người vay chịu.
Các tài sản cầm cố thưòng gọn nhẹ, dễ quản lý, ít chiu ảnh hưởng của các yếu tố môi trưòng tự nhiên. Cầm cố thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời viêc ngân hàng nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ. Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của vật cầm cố, sau đó ngân hàng cùng với khách hàng định giá vật cầm cố, kí hợp đồng cầm cố quy định quyền và nghĩa vụ liên quan đến vật cầm cố.
Cho vay không có tài sản đảm bảo: là hình thức đảm bảo đối nhân bao gồm cho vay tín chấp và cho vay có bảo lãnh
+ Cho vay theo tín chấp: là hoạt động cho vay trong đó ngân hàng không yêu cầu khách hàng có tài sản đảm bảo mà chỉ dựa trên uy tín của khách hàng. Trong trường hợp này, khách hàng phải là khách hàng truyền thống của ngân hàng, có uy tín lớn và tiềm lực tài chính mạnh.
+ Cho vay có bảo lãnh: Trong hình thức cho vay này có sự xuất hiện của người thứ ba cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với người bảo lãnh có uy tín (Nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn…) , ngân hàng chấp nhận bảo lãnh không cần có tài sản đảm bảo. Trường hợp còn lại, khi cho vay ngân hàng yêu cầu phải có tài sản đảm bảo.
1.1.2.4. Theo mục đích sử dụng vốn
Cho vay sản xuất và lưu thông hàng hoá : là hình thức cho vay đối với các doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để bổ sung vốn đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất lưu thông hàng hoá.
Cho vay tiêu dùng : là hình thức cho vay để thanh toán các chi phí hợp pháp phục vụ cho các mục đích tiêu dùng cá nhân bao gồm : mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hoá lâu bền như tủ lạnh, điều hoà, máy giặt, chuyển nhượng quyền sử dụng đất, sửa chữa nhà, cho vay du hoc...
1.1.2.5. Theo đối tượng cho vay
Đối tượng cho vay được xét trên các khía cạnh là qui mô vốn, qui mô lao động là chủ yếu và được chia ra làm hai loại : cho vay doanh nghiệp lớn và cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp lớn là những doanh nghiệp có qui mô vốn trên 10 tỷ, qui mô lao động trên 300 lao động. Còn lại là những doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc phân loại như thế này sẽ giúp cho việc quản lý, việc cho vay đối với những đối tượng này có hiệu quả hơn
Sau đây là những vấn đề nghiên cứu liên quan đến DNV&N
1.2.Những vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1.Khái niệm DNV&N
Trong phần các hình thức cho vay của ngân hàng thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được đề cập dưới tiêu thức phân loại là đối tượng cho vay. Trên thực tế, ở các quốc gia khác nhau, ở các địa phương khác nhau, ở các thời điểm kinh tế xã hội khác nhau thì DNV&N lại được xác định trên những cơ sở về quy mô vốn, số lượng lao động khác nhau. Có nghĩa là mặc dù được xác định trên cơ sở những số tuyệt đối ( quy mô vốn, số lượng lao động) nhưng khái niệm DNV&N lại vẫn mang tính chất tương đối. Vậy nên khi nói đến một doanh nghiệp là lớn hay vừa và nhỏ thì ta phải đặt doanh nghiệp vào những điều kiện cụ thể là quốc gia nào, địa phương nào, thời điểm nào, tình hình kinh tế nào, hoạt đông trong lĩnh vực kinh doanh nào.
Qua nghiên cứu và tìm hiểu cho thấy có rất nhiều tiêu thức phân loại DNV&N phổ biến như số lượng lao động thường xuyên, số vốn sản xuất kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng..trong đó thì hai tiêu thức được sử dụng nhiều nhất là quy mô vốn và lao động.
Ở Việt Nam: theo Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N đã đưa ra khái niệm: “ DNV&N là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký theo pháp luật hiện hành, có số vốn đăng kí không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”
Như vậy, DNV&N ở Việt Nam bao gồm:
Các doanh nghiệp thành lập và hoạt đông theo Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp Nhà nước.
Các hợp tác xã thành lập và hoạt động theo Luật hợp tác xã.
Các hộ kinh doanh cá thể đăng kí kinh doanh theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2001 về đăng kí kinh doanh
1.2.2.Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
Một nền kinh tế không thể tồn tại và phát triển nếu thiếu những cá nhân, những hộ kinh doanh, những doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Trong đó các DNV&N là đối tượng năng động, nhanh nhạy với cơ chế thị trường, phát huy được những ngành nghề truyền thống, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Những doanh nghiệp này đã đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, cụ thể như sau:
Thứ nhất, doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm tăng tổng thu nhập quốc nội, giải quyết việc làm và góp phần làm ổn định xã hội.
Theo số liệu các nước trên thế giới thì số DNV&N chiếm khoảng 96% tổng số các doanh nghiệp, thu hút 74-92% số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp và đóng góp 43-57% GDP ở mỗi nước. Riêng tại Việt Nam, tính đến cuối năm 2005 cả nước có trên 200.000 doanh nghiệp trong đó số lượng DNV&N chiếm 90%, đóng góp 40% tổng sản phẩm xã hội (GDP), 37% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, 78% mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và thu hút hơn 90% lao động. Sự phát triển của các DNV&N đang ngày càng mở rộng cơ hội việc làm cho người lao động. Do sự phân bố của các DNV&N rộng khắp trên cả nước nên lực lượng lao động cũng thu hút từ nông thôn đến thành thị. Các DNV&N chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, lao động chân tay, sản xuất thủ công nên cần rất nhiều lao động. Khi có việc làm, đời sống ngày càng được cải thiện, các tệ nạn xã hội sẽ có chiều hướng giảm, góp phần ổn định xã hội phát triển.
Thứ hai, DNV&N là bộ phận doanh nghiệp năng động, hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực, nhạy cảm với sự biến động của thị trường, DNV&N cung cấp ngày càng lớn và đa dạng sản phẩm phục vụ cho đời sống và xuất khẩu. Những lĩnh vực hoạt động chính của các DNV&N là ngành nghề thủ công truyền thống, mỹ nghệ, giầy da, may mặc, sản xuất gia công chế biến, đại lý khai thác những sản phẩm cho xuất khẩu. Đây là một yếu tố đặc biệt nổi bật của các DNV&N bởi sự phân bố của các DNV&N là rộng khắp trên cả nước nên có thể khai thác nguồn nguyên liệu riêng lẻ, trong khi đó các doanh nghiệp lớn thì chỉ thường tập trung khai thác nguồn nguyên liệu, hạn chế về khu vực địa lý nên khó tiếp cận với nguồn nguyên liệu. Trên thực tế, nhiều DNV&N lại trở thành đầu mối thu gom nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp lớn hoặc thực hiện một số công đoạn khác như chế biến, đóng gói…các công đoạn dịch vụ khác cho doanh nghiệp lớn. Vậy ở một khía cạnh khác, DNV&N có vai trò tích cực đối với các doanh nghiệp lớn.
Thứ ba, DNV&N góp phần lớn vào sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của vùng.
Chỉ có các DNV&N hoạt động trên khắp các vùng mới có điều kiện hiểu rõ về tiềm năng cũng như thế mạnh riêng có của các vùng. Cùng với các lĩnh vực hoạt động chính vốn có cộng với sự năng động của chính mình thì các DNV&N có những điều kiện và cơ sở để phát huy những thế mạnh đó của vùng. Ngoài ra, các DNV&N còn có điều kiện khai thác triệt để nguồn nguyên nhiên liệu trong vùng, tránh tình trạng lãng phí cho xã hội. Thêm vào đó, các DNV&N cũng góp phần khôi phục, duy trì và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống bởi mô hình DNV&N phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của làng nghề thủ công.
Thứ tư, là một bộ phận kinh tế năng động nên các DNV&N góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, thúc đẩy đô thị hoá.
Mặc dù được coi là bộ phận quan trong để khôi phục, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống nhưng các DNV&N lại rất nhạy bén với tình hình phát triển kinh tế. Hiện nay các DNV&N ngày càng triển khai, phát triển các ngành dịch vụ, công nghiệp, giảm bớt tỷ trọng nông nghiệp, đặc biệt là ở vùng nông thôn. Một bộ phận lớn lao động trong ngành nông nghiệp đã được thu hút và chuyển sang làm các ngành công nghiệp, dịch vụ cho các DNV&N ngay tại các địa phương chứ không cần phải chuyển lên các khu vực thành thị, gây áp lực về các vấn đề xã hội lên khu vực đô thị.
1.2.3. Đặc điểm chủ yếu của các DNV&N
Hiện nay ,trong nền kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam , số lượng DNV&N chiếm một tỷ lệ rất lớn trong tổng số doanh nghiệp. Đặc biệt là trong giai đoạn này, nền kinh tế phát triển rất nóng, cơ sơ pháp lý cũng được mở rộng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hình thành và phát triển. Nhìn chung loại hình DNV&N cũng đa dạng, có thể là công ty trách nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty hợp danh và một số là doanh nghiệp Nhà nước.
Loại hình DNV&N là một bộ phận doanh nghiệp không thể thiếu trong nền kinh tế, đóng góp một phần không nhỏ vào sự tăng trưởng GDP hàng năm, tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, sử dụng số lượng lớn lao động thường xuyên. Vì vậy, để phát triển DNV&N cần nắm rõ được những điểm mạnh, và hạn chế, khó khăn của loại hình doanh nghiệp này.
Những điểm mạnh của DNV&N
Thứ nhất, không như các doanh nghiệp lớn, các DNV&N đi vào hoạt động chỉ cần lượng vốn ban đầu ít, sản xuất các mặt hàng có khả năng thu hồi vốn nhanh, tránh được rủi ro do thời gian sản xuất ngắn. Với lưọng vốn không quá 10 tỷ đồng, số lao động không quá 300 lao động, thủ tục pháp lý đễ dàng cùng những điều kiện đơn giản sẽ là cơ sở cho sự hình thành ngày càng nhiều các DNV&N .
Thứ hai, với số lượng lao động không nhiều, việc tổ chức sản xuất cũng như bộ máy quản lý, kiểm tra, giám sát trong các DNV&N tương đối gọn, không có quá nhiều khâu trung gian. Đặc điểm này tiết kiệm chi phí quản lý cho doanh nghiệp và làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ngoài ra, với số lượng lao động không nhiều, mối quan hệ giữa người quản lý và người lao động trong DNV&N tương đối chặt chẽ, có thể dễ dàng trao đổi ý kiến, nhờ đó người lãnh đạo có thể nắm bắt được trình độ chuyên môn cũng như nguyện vọng, tâm tư của người lao động để phân công công tác hợp lý. Các quyết định, chính sách, tư tưởng của người lãnh đạo sẽ nhanh chóng được tiếp cận và triển khai bởi người lao động.
Thứ ba, phần lớn các chủ DNV&N là nhừng người có tính sáng tạo, bản thân họ phải vất vả gây dựng sự nghiệp trong cơ chế thị trường nên họ có xu hướng tạo ra tính năng động cho các DNV&N, thích nghi trước những thay đổi của nền kinh tế. Ngoài ra, số lượng doanh nghiệp quá lớn, Nhà nước không kham nổi, những điều khoản ưu đãi mà Nhà nước dành cho các DNV&N là không dễ dàng đạt được. Hiểu được tình hình đó, DNV&N phải đề cao tinh thần tự lực, tự cường cao, đi lên trong cạnh tranh.
Thứ tư, do vốn đầu tư nhỏ, vốn thiết bị công nghệ không lớn, các DNV&N dễ dàng đổi mới thiết bị, công nghệ và đối tượng kinh doanh để nâng cao chất lưọng, hạ giá thành sản phẩm. Ngoài ra, DNV&N có thể dễ dàng chuyển hướng kinh doanh kịp thời khi gặp những điều kiện bất lợi trong kinh doanh và nền kinh tế có những biến động bất thường.
Những hạn chế, khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Thứ nhất, điều kiện thành lập nên các DNV&N là rất đơn giản, không đòi hỏi quá cao nên nhìn chung trình độ kĩ năng quản lý, trình độ tay nghề công nhân còn hạn chế. Hiện nay, khoảng một nửa số chủ doanh nghiệp chưa qua đào tạo chính thức, hầu hết là tự đào tạo lấy. Khả năng quản lý doanh nghiệp chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân, vào cách nhìn chủ quan của các chủ doanh nghiệp, họ chưa thực sự hiểu đầy đủ về việc quản lý doanh nghiệp trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Thêm vào đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn ít, đặc biệt là tại một số vùng nông thôn, những vùng xa thành phố..tỷ lệ lao động qua đào tạo có khi chỉ chiếm hơn 10%, không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Tình trạng này làm giảm năng suất lao động và hiệu quả làm việc của các DNV&N . Vì vậy, tại một số DNV&N luôn có những chính sách đào tạo lại lao động khi vào làm hoặc vừa lao động vừa đào tạo để nâng cao chất lượng lao động. Tuy nhiên, cũng có nhiều doanh nghiệp chưa quan tâm đến trình độ nhân sự, đào tạo và bồi dưỡng lao động đã gây khó khăn và giảm hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp.
Thứ hai, trình độ khoa học công nghệ ở Việt Nam nhìn chung là rất thấp, thường yếu kém, lạc hậu, chậm đổi mới; và các DNV&N ở Việt Nam không nằm ngoài thực trạng chung đó. Khả năng tiếp cận và xử lý thông tin trên thị trường của các DNV&N còn hạn chế. Do qui mô nhỏ, hoạt động trong phạm vi hẹp nên khả năng tiếp cận và xử lý thông tin là hạn chế gây trở ngại trong quá trình phân tích và đưa ra dự đoán chiến lược kinh doanh cụ thể cho doanh nghiệp.
Thứ ba, các DNV&N hoạt động trong rất nhiều lĩnh vực nhưng năng lực về thị trường của các DNV&N còn yếu, thị trường tiêu thụ sản phẩm nhỏ bé, không có chiến lược kinh doanh dài hạn và ổn định cũng như chưa có kế hoặch chi tiết dài hạn về phát triển thị trường, thiếu hiểu biết đầy đủ pháp luật về thương mại quốc tế và các nước. Nhiều doanh nghiệp chưa tiến hành nghiên cứu thị trường nên ._.không biết rõ về khách hàng và đối thủ cạnh tranh , chưa tạo lập được những hình ảnh riêng cho doanh nghiệp, chưa tạo được uy tín lớn trên thị trường, các doanh nghiệp vẫn chưa có khă năng quan hệ trực tiếp với khách hàng để xuất khẩu, hầu như phải thông qua đối tác thứ ba …Nhìn chung năng lực cạnh tranh của các DNV&N là còn rất yếu.
Thứ tư, nguồn vốn tiếp cận của các DNV&N là rất hạn chế. Đối với nguồn vốn vay từ bạn bè, sử dụng tín dụng thương mại của các đối tác kinh doanh( mua trả chậm, nợ gối đầu…) thì thường có lãi suất cao,rủi ro lớn, không ổn định, số lượng vốn nhỏ, phân tán không đáp ứng được yêu cầu mua sắm tài sản cố định, mở rộng sản xuất kinh doanh. Đối với nguồn vốn vay từ các ngân hàng thương mại và nguồn vốn viện trợ của các tổ chức trong và ngoài nước, các DNV&N gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đặc biệt là các khoản tín dụng trung và dài hạn. Khi vay vốn thì các DNV&N luôn được yêu cầu phải có thế chấp hoặc không thì phải có 2-3 năm làm ăn có lãi và dự án có khả thi hay không. Ngoài ra các khoản vay có bảo lãnh rất hiếm khi được dành cho các DNV&N. Bên cạnh đó các ngân hàng thường mong muốn giữ mối quan hệ với một số lượng nhỏ các doanh nghiệp lớn thay vì một số lớn các DNV&N và tư tưởng thời bao cấp vẫn còn tồn tại nên ngân hàng chủ yếu cho các doanh nghiệp Nhà nước vay vì cảm thấy có sự đảm bảo hơn các DNV&N ngoài quốc doanh. Cũng chính vì thiếu vốn mà các DNV&N không có điều kiện mua đất đai, cơ sỏ hạ tầng làm mặt bằng sản xuất kinh doanh như các doanh nghiệp lớn, họ chủ yếu phải đi thuê để hoạt động.
Như vậy đối với các DNV&N thì vấn đề lớn nhất chính là vấn đề thiếu vốn. Giải quyết được vấn đề này đồng nghĩa với việc nâng cao trình độ công nghệ, năng lực cạnh tranh cho các DNV&N .
1.2.4. Sự cần thiết phát triển hoạt động cho vay DNV&N
Thứ nhất, Doanh nghiệp vừa và nhỏ - Thị trường tiềm năng với các Ngân hàng.
Số liệu thống kê gần đây cho thấy các Doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là khu vực có nhiều tiềm năng phát triển:
Số lượng DNV&N đang tăng lên rất nhanh:
Đến cuối năm 2005 cả nước có trên 200.000 doanh nghiệp ngoài quốc doanh (trong đó hầu hết là các DNV&N), gấp 4 lần năm 2000, gấp 5 lần tổng số Doanh nghiệp ngoài quốc doanh được thành lập từ năm 1991 đến 1999 cộng lại. Số lượng doanh nghiệp đăng kí thành lập trung bình hàng năm gấp 3.75 lần trung bình hàng năm thời kì 1991-1999, tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp bình quân khoảng 10%/ năm. Ngoài ra cả nước còn có gần 2.5 triệu hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp và 11 triêu hộ nông dân sản xuất hàng hoá (Nguồn số liệu: Phát biểu của Thủ tướng Phạm Văn Khải tại Hội nghi các doanh nghiêp tại Hà Nội ngày 9/2/2006)
Các DNV&N được đánh giá là bộ phận năng động, hoạt động có hiệu quả của nền kinh tế. Điều này xuất phát từ lợi thế của quy mô nhỏ, gọn nên việc chuyển hướng trong kinh doanh của cac DNV&N dễ dàng hơn các doanh nghiệp lớn. Các DNV&N hoạt động trên hầu hết mọi địa bàn, mọi ngành nghề của nền kinh tế (trong đó tập trung lớn nhất vào các ngành thương mại, dịch vụ và công nghiệp). Thêm vào đó, phần lớn các chủ DNV&N là lớp trẻ, rất năng động, nhạy bén với những thay đổi trên thị trường; họ có nhiều ý tưởng mới lạ có thể phát triển thành các dự án kinh doanh hiệu quả. Một số doanh nghiệp tại các làng nghề truyền thống được tiếp thu nhưng kinh nghiệm, bí quyết gia truyền để tạo ra những sản phẩm đặc thù, riêng biệt, có sức cạnh tranh.
Mức độ đóng góp của DNV&N vào nền kinh tế ngày càng lớn: Không chỉ tăng trưởng về mặt số lượng, các DNV&N đang trở thành bộ phận quan trọng có đóng góp đáng kể cho nền kinh tế. Số liệu thống kê cho thấy các doanh nghiệp này đóng góp khoảng 40% GDP, 37% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế, sử dụng trên 90% số lao động có việc làm thường xuyên. Đây là bộ phận có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất, lưu thông hàng hoá, cung ứng dịch vụ, là các vệ tinh gắn kết, hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp lớn trong nền kinh tế.
Phát triển DNV&N đang là vấn đề được Đảng và Nhà nước rất chú trọng, được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Trong tương lai, môi trường hoạt động của các doanh nghiệp này sẽ được cải thiện, các chính sách hỗ trợ sẽ được thực thi tốt hơn, có hiệu quả hơn và do đó các DNV&N sẽ có điều kiện phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
Thứ hai, các ưu thế của nhiều doanh nghiệp lớn đang giảm sút
Việt Nam đang trong xu hướng xoá bỏ độc quyền, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng. Trước sức ép của hội nhập, qui mô của một số Tổng công ty đang độc quyền hiện nay sẽ thu hẹp, song song với việc cổ phần hoá từng phần hoặc toàn bộ các Tổng công ty này thì các công ty mới, nhỏ hơn cùng ngành ra đời.
Chính bản thân một số doanh nghiệp được coi là lớn hiện nay không có tiềm lực kinh tế thực sự, điển hình là các Tổng Công ty khối Giao thông- Xây dựng cơ bản.
Khu vực Nhà nước, nơi tập trung hầu hết các doanh nghiệp lớn hiện nay, đã và đang bộc lộ tính kém hiệu quả.
Thứ ba, những lợi ích của ngân hàng từ phát triển cho vay đối với DNV&N
Các DNV&N từ trước đến nay vẫn bị coi là nhóm khách hàng có độ rủi ro và chi phí giao dịch lớn. Tuy nhiên nếu thực hiện tốt công tác thẩm định và sàng lọc thì ngân hàng có thể duy trì một danh mục khách hàng hiệu quả.
Việc ngân hàng phát triển cho vay đối với DNV&N đem lại các lợi ích cơ bản sau :
Phân tán rủi ro : Do số lượng khách hàng DNV&N lớn, quy mô từng khoản vay nhỏ, trải rộng trên hầu hết các ngành nghề, lĩnh vực nên việc cho vay các đối tượng này sẽ giúp phân tán rủi ro của các danh mục cho vay.
Tạo điều kiện để tăng thu dich vụ ngân hàng do tổng số lượng giao dịch lớn, các DNV&N lại thường có xu hướng sử dụng trọn gói dịch vụ tại một ngân hàng do đó tạo cơ hội để ngân hàng nâng cao và thay đổi dần cơ cấu thu nhập.
Ngân hàng dễ dàng quản lý do DNV&N thường có quy mô nhỏ, gọn, địa bàn hoạt động hẹp.
Khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh rộng khắp trên cả nước : Do các DNV&N có địa bàn hoạt động trải rộng trên cả nước nên các ngân hàng có thể khai thác tối ưu mạng lưới chi nhánh tại hầu hết các tỉnh, thành phố.
1.2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển hoạt động cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Có rất nhiều nhân tố tác động tới việc phát triển hoạt động cho vay của các ngân hàng đối với các DNV&N. Các nhân tố này có thể từ phía ngân hàng hoặc từ bản thân các doanh nghiệp hoặc từ môi trường kinh tế vĩ mô.
1.2.5.1. Các nhân tố từ phía ngân hàng
Thứ nhất, chính sách tín dụng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các DNV&N. Chính sách tín dụng bao gồm các quy định của ngân hàng về hạn mức cho vay tối đa với một khách hàng, kỳ hạn của khoản vay, chính sách lãi suất, các hạn mức kiểm soát rủi ro tín dụng, chính sách ưu đãi khách hàng, chính sách cạnh tranh… Chính sách tín dụng của ngân hàng thường thay đổi qua từng thời kì, phụ thuộc vào sự điều tiết vĩ mô của Ngân hàng Trung Ương và khả năng, điều kiện của bản thân các ngân hàng. Khi chính sách tín dụng được nới lỏng: hạn mức cho vay tối đa với một khách hàng được mở rộng, kỳ hạn của một khoản vay dài hơn, ngân hàng lại đang phải đối mặt với sự cạnh tranh lớn nên chính sách ưu đãi khách hàng tốt, lãi suất phù hợp, hạn mức kiểm soát rủi ro không quá khắt khe…sẽ khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sử dụng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên trong một só trường hợp, nền kinh tế lại phát triển quá nóng, NHTW muốn kiềm chế sự phát triển đó hoặc tình hình các doanh nghiệp hoạt động kém, ngân hàng cần phải nâng cao chất lượng tín dụng… thì chính sách tín dụng sẽ bi thắt chặt hơn, gây khó khăn trong quá trình tiếp cận vốn ngân hàng của doanh nghiệp.
Thứ hai, một nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến việc phát triển hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các DNV&N là tâm lý phân biệt cho vay giữa doanh nghiệp lớn và DNV&N. Thực tế cho thấy rằng tỷ trọng cho vay các DNV&N tại các ngân hàng thương mại cổ phần cao hơn so với các ngân hàng thương mại Nhà nước trên cùng địa bàn. Tâm lý phân biệt cho vay giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ bắt nguồn từ nguyên nhân e sợ rủi ro và chi phí giao dịch lớn của các ngân hàng. Ngân hàng luôn đặt mục tiêu an toàn lên hàng đầu, coi trọng chất lượng hơn số lượng, vì vậy ngân hàng luôn có tâm lý giữ mối quan hệ với một lượng nhỏ các doanh nghiệp lớn thay vì một số lượng lớn các DNV&N. Với lại cũng đã từng có những bài học về sự lừa đảo của các DNV&N gây tổn thất cho ngân hàng nên họ luôn e ngại cho các đối tượng này vay. Mặc dù hiện nay đã có rất nhiều sự thay đổi trong cách nhìn nhận đối với các DNV&N song các NHTM Nhà nước vẫn chưa hoàn toàn thoải mái về mặt tâm lý khi cho các DNV&N vay. Điều này cho thấy rằng, nếu còn kéo dài tình trạng phân biệt giữa các doanh nghiệp lớn và các DNV&N thì sẽ gây khó khăn rất lớn, cản trở hoạt động cho vay DNV&N, đồng thời cũng cản trở sự phát triển của các DNV&N bởi loại hình doanh nghiệp nào khi bước vào kinh doanh đều có thể gặp những rủi ro. Ngay cả các doanh nghiệp lớn, khi thực hiện hoạt động kinh doanh đều có thể xảy ra rủi ro và đặc biệt là nếu loại doanh nghiệp này mà xảy ra rủi ro thì tổn thất sẽ lớn hơn các DNV&N rất nhiều. Vì vậy chỉ cần các ngân hàng quan tâm hơn đến loại hình doanh nghiệp này, tổ chức kiểm tra thẩm định tốt thì việc cho vay DNV&N sẽ có thể được mở rộng và thu được kết quả tốt.
Thứ ba là quy trình và thủ tục cho vay : Quy trình cho vay là trình tự các bước cần thiết phải thực hiện trong quá trình cho vay được thực hiện giữa ngân hàng với doanh nghiệp, là tổng hoà các quy trình từ xét duyệt cho vay (nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn của khách hàng, thẩm định cho vay, quyết định cho vay) , quy trình phát tiền vay ( hướng dẫn nhận hồ sơ phát tiền vay, xét duyệt phát tiền vay, thực hiện phát tiền vay) , quy trình kiểm tra sử dụng vốn vay (xây dựng kế hoặch kiểm tra sử dụng vốn vay, thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay, lập biên bản báo cáo kết quả kiểm tra sử dụng vốn vay) , quy trình thu hồi nợ vay (đôn đốc thu hồi nợ gốc và nợ lãi khi đến hạn, thực hiện thu nợ, chuyển nợ quá hạn, xử lý tài sản bảo đảm để thu nợ). Hiện nay, quy trình và thủ tục cho vay của nhiều ngân hàng chưa phù hợp với nhu cầu của các DNV&N. Hầu hết các ngân hàng đều áp dụng một quy trình cho vay chung đối với các doanh nghiệp lớn và DNV&N, do vậy không phù hợp với bản thân các DNV&N. Thực tế cho thấy rằng lượng vốn của các DNV&N là khác các doanh nghiệp lớn nên chu kỳ kinh doanh của hai loại hình doanh nghiệp này cũng khác nhau nên quy trình phát tiền vay, kiểm tra sử dụng vốn vay và thu hồi nợ vay sẽ là khác nhau. Mặt khác thì quy trình cho vay hiện nay lại được xây dựng trên các đặc điểm và chu kì kinh doanh của doanh nghiệp lớn nên gây khó khăn cho các DNV&N. Vì vậy nếu thay đổi quy trình và thủ tục cho vay phù hợp sẽ tạo điều kiện cho các DNV&N tiếp cận được vốn ngân hàng và mở rộng hoạt động kinh doanh hơn. Từ đó hoạt động cho vay DNV&N của ngân hàng sẽ càng phát triển hơn.
Thứ tư là chất lượng nhân sự : Chất lượng nhân sự thể hiện ở trình độ nghiệp vụ, khả năng giao tiếp, kiến thức tổng hợp, trách nhiệm với công việc, thái độ phục vụ khách hàng và đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng. Cán bộ tín dụng là hình ảnh của ngân hàng, khách hàng đánh giá ngân hàng qua cách phục vụ của cán bộ tín dụng. Nếu cán bộ tín dụng có trách nhiệm, nhiệt tình với công việc, quan tâm đến khách hàng, tạo sự tin tưởng, hài lòng cho khách hàng tức là tạo uy tín cho ngân hàng cũng như sự ưa thích của khách hàng với ngân hàng. Đây là nhân tố quan trọng để thu hút khách hàng tìm đến ngân hàng. Nếu như ngân hàng chú trọng trong công tác đầo tạo, nâng cao và tự nâng cao chất lượng nhân sự thì chắc chắn hoạt động cho vay DNV&N sẽ phát triển hơn nữa.
Thứ năm là sản phẩm cho vay : Nếu ngân hàng phát triển nhiều sản phẩm dịch vụ thuận tiện cho khách hàng DNV&N như đa dạng kì hạn vay vốn, có những hình thức cho vay phù hợp với chu kì kinh doanh của từng doanh nghiệp, đa dạng các hình thức bảo đảm tiền vay, không nhất thiết phải có tài sản bảo đảm mà có thế dùng các hình thức khác như cho vay dựa trên dự án khả thi… thì chắc chắn các DNV&N sẽ nhận thấy được những lợi ích khi vay vốn ngân hàng và họ sẽ tìm đến. Từ đó, hoạt động cho vay DNV&N sẽ phát triển và đạt hiệu quả tốt hơn. Để có được những sản phẩm cho vay phù hợp với các DNV&N thì các ngân hàng phải quan tâm và tìm hiểu kĩ về đặc điểm của các DNV&N. Hiện nay sản phẩm cho vay chưa phù hợp với các DNV&N, chưa tạo điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu của các DNV&N bởi các ngân hàng chưa thực sự có thái độ quan tâm phát triển khu vực cho vay này nên hoạt động cho vay DNV&N tại các ngân hàng chưa thực sự phát triển, vẫn còn chiếm tỷ trọng nhỏ so với dư nợ cho vay các doanh nghiệp lớn.
1.2.5.2.Các nhân tố từ phía doanh nghiệp
Thứ nhất là tài sản thế chấp để vay vốn : Để có thể vay vốn từ phía ngân hàng, các cá nhân hay doanh nghiệp đều được ngân hàng yêu cầu phải có tài sản thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba, song đối với các DNV&N thì chủ yếu là tài sản thế chấp, hầu như không có trường hợp bảo lãnh của bên thứ ba.. Tuy nhiên thực tế lại cho thấy rằng, đến hơn 60% DNV&N lại gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng, bởi tài sản thế chấp thì chủ yếu là đất đai mà các DNV&N chủ yếu là đi thuê đất đai nên không dễ có dủ các điều kiện như các doanh nghiệp lớn. Như vậy, để có thể tiếp cận được vốn của ngân hàng, các DNV&N cần phải hoàn thiện các thủ tục pháp lý về tài sản bảo đảm thì sẽ tiếp cận được với vốn vay của ngân hàng dễ hơn.
Thứ hai là phương án sản xuất kinh doanh : ngân hàng cho các khách hàng của mình vay trên cơ sở các cá nhân, doanh nghiệp đó phải trình ra các phương án sản xuất kinh doanh có tính khả thi cao cả về mặt kĩ thuật lẫn mặt tài chính, tức là các phương án sản xuất kinh doanh đó phải chứng minh được tính hiệu quả và thành công thì mới được ngân hàng cho vay vốn. Điều này cũng đồng nghĩa với việc nếu doanh nghiệp mặc dù có ý tưởng kinh doanh tuyệt vời đến mấy nhưng không xây dựng một phương án sản xuất kinh doanh khả thi thì cũng không được ngân hàng đồng ý cho vay. Vì vậy nên các doanh nghiệp này cần phải học cách tự xây dựng cho mình những phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Làm được như vậy thì khả năng các DNV&N tiếp cận vốn của ngân hàng sẽ cao hơn, hoạt động cho vay DNV&N sẽ phát triển hơn.
Thứ ba là hệ thống thông tin và sổ sách kế toán : Trước khi ra quyết định có cho vay hay không thì ngân hàng phải tiếp nhận nhận hồ sơ vay vốn của khách hàng và tiến hành thẩm định hồ sơ vay vốn xem có chính xác không, có đủ điều kiện vay vốn hay không. Trong quá trình đó, ngân hàng sẽ xem xét các báo cáo tài chính để đưa ra những nhận định về tình hình hoạt động, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời gian qua. Các báo cáo tài chính là điều kiện để ngân hàng xét duyệt cho vay, chính vì thế, các báo cáo tài chính của DNV&N phải đầy đủ, đúng đắn, đáng tin cậy với ngân hàng thì mới có khả năng được vay vốn. Phần lớn các DNV&N hiện nay đều chưa thực sự xây dựng được một hệ thống sổ sách kế toán một cách khoa học do nhiều các nguyên nhân khác nhau từ phía các DNV&N như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp, trình độ của các nhân viên kế toán… Đây cũng là một yếu tố gây cản trở vô cùng lớn đối với các DNV&N trong quá trình tiếp cận vốn ngân hàng. Nếu các DNV&N khắc phục được hạn chế này thì hoạt động cho vay DNV&N sẽ được mở rộng hơn.
1.2.5.3.Các nhân tố khác từ môi trường kinh tế vĩ mô
Môi trưòng kinh tế vĩ mô bao gồm những tác động chuyển biến của tình hình kinh tế chung trong từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa phương, quốc gia; những biến đổi trong môi trường chính trị, môi trường pháp lý…Môi trưòng chính trị ổn định, môi trường pháp lý đồng bộ, nhất quán, cơ sở chính sách mở rộng, các doanh nghiệp mới có thể tự do phát huy sáng tạo, tận dụng hết được các nguồn lực để đáp ứng nhu cầu tối đa thị hiếu của khách hàng, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi hơn để doanh nghiệp có điều kiện vay vốn tại ngân hàng. Ngược lại, một sự thay đổi bất lợi nào đó về thể chế, chính sách sẽ tác động tới hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp nói chung và DNV&N nói riêng (như hạn ngạch xuất nhập khẩu, chính sách kinh tế đối với từng ngành, điều kiện kinh tế thế giới tác động đến Việt Nam…). Thực tế, trong từng thời kì khác nhau, Chính phủ thường có những sự điều chỉnh khác nhau về mặt kinh tế, chính trị xã hội gây tác động tới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy các doanh nghiệp cần phải nhanh nhạy nắm bắt các thời cơ kinh doanh trong từng thời kì…
Trên đây là phần lý thuyết tổng quan về cho vay của ngân hàng thương mai đối với các DNV&N . Để thấy được tình hình như thế nào, chung ta hãy đi xem xét thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công Hà Nội.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
VỪA VÀ NHỎ TẠI CHI NHÁNH NHNT THÀNH CÔNG
2.1. Tổng quan về chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công Hà nội 30-32 Láng Hạ
2.1.1. Quá trình hình thành chi nhánh NHNT Thành Công
Ngay từ khi vừa ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà công tác quản lý ngoại hối đã được đặt ra như một thách đó sinh tử đối với vân mệnh quốc gia. Nhận thức được vai trò to lớn đó, Chính phủ Việt Nam quyết định thành lập Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mà tiền thân là sở quản lý ngoại hối.
Sự ra đời Ngân hàng Ngoại thương- Vietcombank
Kết thúc giai đoạn 300 ngày, kể từ tháng 5/1955 miền Bắc hoàn toàn giải phóng, miền Nam chuyển sang giai đoạn mới. Điều kiện hoà bình tạo thuận lợi cho kinh tế miền Bắc, hỗ trợ cho kinh tế cho miền Nam. Một loạt các yêu cầu mới được đặt ra đặc biệt là trong lĩnh vực ngoại thương: việc buôn bán giữa các nước trong khu vực XHCN với các nước ngoài khu vực, việc chi viện cho miền Nam bắng các loại tiền tệ khác nhau… đòi hỏi phải có một bộ phận chuyên trách kỹ thuật này. Theo đó, Sở quản lý ngoại hối - tiền thân của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo nghị định 443/TTG của thủ tướng chính phủ ngày 20/1/1955. Nghị định quy định 4 nhiệm vụ của Sở quản lý ngoại hối là:
Quản lý và kinh doanh ngoại hối, không để tiền vốn của quốc gia chạy ra nước ngoài
Quản lý việc mua bán ngoại hối dưới mọi hình thức (trao đổi tiền mặt, chuyển ngân…)
Kiểm soát mọi việc kinh doanh và chuyển vận vàng bạc
Nghiên cứu các vấn đề hối đoái với nước ngoài, đề nghị những thể lệ về ngoại hối
Từ thập kỷ 60 trở đi, tình hình mới đòi hỏi phải có những thay đổi và chuyên môn hoá hơn về mặt tổ chức trong lĩnh vực ngoại thương. Cho đến năm 1960, Việt Nam đã có quan hệ với 141 ngân hàng ở 34 nước. Trong quan hệ đó nếu nhập cuộc cả hai chức năng quản lý và kinh doanh ngoại tệ vào một dầu mối thì không còn thuận tiện cho việc giẩi quyết các mối quan hệ ngày càng đa dạng và phức tạp hơn nhiều.
Trong hệ thống Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cũng thấy rõ yêu cầu phải tách bạch giữa chức năng quản lý tiền tệ với hoạt động kinh doanh nghiệp vụ ngân hàng cơ sở. Đó chính là lý do ra đời hệ thống tổ chức ở các địa phương gồm các chi nhánh NHNN tại các tỉnh và hai thành phố Hà Nội, Hải phòng. Các chi nhánh này thực hiện vai trò quản lý Nhà nước về tiền tệ- tín dụng. Sau đó hệ thống các chi nhánh ngân hàng nghiệp vụ thị xã cũng như các chi nhánh cấp 2 của ngân hàng tại cấp huyện cũng lần lượt được hình thành, thực hiện nghiệp vụ kinh doanh trực tiếp phục vụ khách hàng.
Tại bộ máy NHNN trung ương cũng đã đến lúc đặt ra yêu cầu thành lập một ngân hàng chuyên nghiệp ngoại hối, có vị trí pháp lý và chức danh giao dịch trên thương trường Việt Nam và quôc tế, thay thế NHNN Việt Nam là cơ quan quản lý vĩ mô về ngoại hối. Đây không chỉ là vần đề riêng của Việt nam mà là yêu cầu và xu hướng chung của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa thời đó.
Sau một thời gian chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai nghị đinh 115CP, vào ngày 1-4-1963, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức ra mắt và đi vào hoạt động, với tư cách là một pháp nhân ngân hàng thương mại giao dịch trên thương trường trong nước và quốc tế. Kể từ đó thương hiệu Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chính thức ra đời với tên gọi tiếng Anh là Bank for foreign Trade of Vietnam, tên viết tắt là Vietcombank.
Hoạt động kinh doanh của Vietcombank chủ yếu trên 5 nội dung chính:
Vốn kinh doanh
Tín dụng ngoại thương
Thanh toán quôc tế
Quản lý và điều hành tác nghiệp quỹ ngoại tệ của Nhà nước
Quản lý ngoại hối
Việt Nam thống nhất, sự quản lý đất nước thuộc hội đồng bộ trưởng tức chính phủ của nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tất cả các nagnhf chính thức được hợp nhất. Ngành ngân hàng cũng tiến hành hợp nhất Bắc Nam. từ đây xuất hiện hệ thống ngân hàng của cả nước, NHNN trung ương tại Hà Nội. Tại các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, tại các quận, huyện, thị xã đều có các chi nhánh ngân hàng với chức năng tương đương, phù hợp. Cũng từ đây vị trí quốc tế của Việt Nam được nâng cao do đó quan hệ kinh tế đối ngoại cũng được mở rộng. Phục vụ kinh tế đối ngoại là Vietcombank theo cơ chế kiêm nghiệm của cục quản lý ngoại hối thuộc ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Trong điều kiện mới đó, Vietcombank cũng cần hình thành một hệ thống tổ chức từ cơ sở đến trung ương.
Sự thành lập chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công
Từ sau khi đất nước thống nhất, đến cuối nhưnữg năm 80, vietcombank đã xác lập một hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp đối ngoại thống nhất trong cả nước, gồm hội sở trung ương ở Hà Nội và 11 chi nhánh tại các địa bàn chủ yếu. Chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội được thành lập ngày 11-3-1985, là thành viên trong hệ thống ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được Nhà nước công nhận là doanh nghiệp hạng 1. Cùng với sự phát triển của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, chi nhánh ngân hàng ngoại thương Hà Nội có truyền thống kinh doanh đối ngoại, thanh toán quôc tế, các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc tế khác. Đến cuối năm 2006, với yêu cầu mở rộng mạng lưới chi nhánh, ngân hàng Ngoại thương Hà Nội đã có mạng lưới bao gồm: 6 phòng giao dịch, 1 quầy thu đổi ngoại tệ cùng 4 chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương trên địa bàn Hà Nội trong đó có chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công 30-32 Láng Hạ, Đống Đa Hà Nội. Đến ngày 1/1/2007 chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công chính thức trở thành chi nhánh cấp 1, có vị trí ngang bằng với chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
2.1.2. Bộ máy hoạt động của ngân hàng và mối liên hệ giữa các phòng ban của chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
Bắt đầu từ ngày 1/1/2007, chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công chính thức trở thành chi nhánh cấp 1, trực thuộc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và có bộ máy tổ chức hoạt động như sau:
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC
Chi nhánh NHNTTC
BAN GIÁM ĐỐC
P.NGÂN QUỸ
TỔ KIỂM TRA NỘI BỘ
P.HÀNH CHÍNH-NHÂN SỰ
TỔ TỔNG HỢP
P.KINH DOANH DỊCH VỤ
P.QUẢN LÝ RỦI RO
P.QUAN HỆ KHÁCH HÀNG
P.KẾ TOÁN-THÁNH TOÁN
BP.KẾ TOÁN TỔNG HỢP
BP.THANH TOÁN XNK&BL
BP.QUẢN LÝ NỢ
BP.TIN HỌC
BP.THÔNG TIN KHÁCH HÀNG
BP.DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
BP. THẺ
BP.CHO VAY THỂ NHÂN
BP.TỔ CHỨC CÁN BỘ
BP.HÀNH CHÍNH-QUẢN TRỊ
SƠ ĐỒ BỘ MÁY TỔ CHỨC
Chi nhánh NHNTTC
Mối quan hệ giữa các bộ phận:
Các bộ phận, phòng ban trong chi nhánh NHNT Thành Công hoạt động trong mối quan hệ chặt chẽ gắn bó. Ban giám đốc có quyền quyết định cao nhất về phương hướng phát triển của chi nhánh; trực tiếp quản lý và giám sát nhằm giúp cho chi nhánh có được những thành công hơn nữa trong quá trình hoạt động và phát triển của mình.
Phòng quản lý rủi ro, phòng hành chính nhân sự, tổ kiểm tra nội bộ là những phòng ban có trách nhiệm giúp cho chi nhánh hoạt động liên tục, thông suốt và an toàn. Khối này đảm bảo về cơ sở hạ tầng, cơ sở kĩ thuật, máy móc của chi nhánh, giúp cho quá trình hoạt động kinh doanh không gặp các trở ngại. Tổ kiểm tra nội bộ còn làm công tác thanh tra kiểm tra quá trình hoạt động của các phòng ban sao cho mọi hoạt động của chi nhánh đúng theo quy định của ngành, luật pháp của Nhà nước và trong giới hạn cho phép. Phòng rủi ro thì nghiên cứu, lường trước những rủi ro có thể xảy ra cho chi nhánh để phòng ngừa. Tất cả các phòng ban này đều có thể đưa ý kiến đóng góp lên giám đốc.
Phòng tổng hợp không tham gia vào quá trình kinh doanh nhưng lại là cánh tay đắc lực của cơ quan lãnh đạo ngân hàng, giúp ban Giám đốc quản lý một cách chi tiết và cụ thể trong từng lĩnh vực. Phòng tổng hợp nghiên cứu tổng hợp,lập kế hoặc kinh doanh, phân tích kinh tế tất cả những vấn đề có liên quan đến hoạt động của chi nhánh để tham mưu cho Ban Giám đốc trong chỉ đạo, điều hành hoạt động kinh doanh.
Phòng quan hệ khách hàng, phòng kế toán thanh toán, phòng kinh doanh dịch vụ là các bộ phận có sự giao tiếp với khách hàng, trực tiếp tạo thu nhập cho chi nhánh. Thu nhập được tạo ra từ việc tiến hành các nghiệp vụ huy động, cho vay, trao đổi mua bán ngoại tệ, cung cấp các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tới khách hàng. Quá trình hoạt động của các phòng ban này được bảo đảm và chịu sự giám sát kiểm tra của Ban Giám đốc thông qua Tổ kiểm tra nội bộ, phòng quản lý rủi ro. Các số liệu giao dịch sẽ được gửi về phòng tổng hợp để từ đó lập báo cáo tổng hợp về quá trình kinh doanh để giúp Ban Giám đốc quản lý được và có biện pháp điều hành kịp thời.
Phòng ngân quỹ sẽ quản lý thu chi đông Việt Nam và ngoại tệ và các giấy tờ có giá theo đúng chế độ quy định của Nhà nước và của Ban giám đốc.
Như vậy các bộ phận của chi nhánh NHNT Thành Công có mối quan hệ tương hỗ cả trong hoạt động cũng như phân phối thu nhập, sự phát triển của một bộ phận không chỉ làm tăng thu nhập của chính họ mà còn là cơ sở cho các bộ phận khác hoạt động tốt hơn, tạo sự phát triển vững chắc và tăng doanh thu cho cả chi nhánh.
2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh tại chi nhánh ngân hàng ngoại thương Thành Công
2.1.3.1. Tình hình huy động vốn trong 3 năm gần đây
Chi nhánh NHNT Thành Công luôn coi công tác huy động vốn là mặt trận hàng đầu và là hoạt động có tính chiến lược. Xác định công tác huy động vốn là trọng tâm, ngay từ đầu chi nhánh đã tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh công tác huy động vốn, thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất trong và ngoài nước để điều chỉnh lãi suất linh hoạt, phù hợp và đảm bảo đúng sự chỉ đạo của NHNT Việt Nam, chi nhánh NHNT Hà Nội. Chi nhánh luôn duy trì kết quả huy động vốn rất cao và đã triển khai nhiều đợt huy động chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu, tiết kiệm bậc thang…do NHNT Việt Nam phát hành trong năm qua, tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn trên tổng nguồn vốn, tăng khả năng thanh khoản và đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn để phục vụ sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Bảng 1: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh NHNT Thành Công
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
Tỷ đồng
(%)
Tỷ đồng
(%)
Tỷ đồng
(%)
I.Huy động vốn
Trong đó:
+ Ngoại tệ
+ VNĐ
1493.37
809.776
683.594
100
54
46
1777.11
902.11
875
100
51
49
2256.729
1189.229
1067.5
100
53
47
1.Tiền gửi của các TCKT
285.478
19
334.009
19
423.857
19
2.Tiền gửi của dân cư
1063.829
71
1244.68
70
1618.094
72
3. Phát hành giấy tờ có giá
119.063
8
159.421
9
168.878
7
4.Huy động khác
25
2
39
2
45.9
2
Nguồn : phòng quan hệ khách hàng chi nhánh NHNTTC
Qua số liệu trên ta thấy nguồn vốn huy động trong từng năm từ 2004 đến 2006 tăng lên đáng kể từ 1493.37 tỷ đồng năm 2004 lên đến 2256.729 tỷ đồng năm 2006, trong đó tỷ lệ huy động bằng đồng ngoại tệ và đồng Việt Nam là tương đương nhau. Các thành phần huy động vẫn giữ một tỷ lệ ổn định trong tổng nguồn huy động, trong đó tiền gửi của dân cư luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất ở mức trên 70%. Có được kết quả này là do chi nhánh luôn tăng cường các giải pháp quảng cáo, tiếp thị sản phẩm mới, nâng cao phong cách giao dịch và thực hiện có hiệu quả các loại sản phẩm dịch vụ huy động vốn. Hiểu rõ được tình hình kinh tế trên địa bàn hoạt động, tâm lý của người gửi tiền, chi nhánh NHNT Thành Công đã gây dựng được uy tín và niềm tin cho họ và ngày càng thu hút được lượng tiền nhàn rỗi lớn trong nền kinh tế.
2.1.3.2. Tình hình cho vay của chi nhánh NHNT Thành Công
Bảng 2: Tình hình cho vay tại chi nhánh NHNT Thành Công
Chỉ tiêu
Năm 2004
Năm 2005
Năm 2006
tỷ đồng
%
tỷ đồng
%
tỷ đồng
%
Dư nợ
Trong đó
+ Ngoại tệ
+ VNĐ
658.096
131.413
526.683
100
20
80
691.901
161.639
529.362
100
23
77
721.951
234.367
487.584
100
32
68
1. CV ngắn hạn
552.801
84
572.814
83
574.577
79
2.Cho vay trung và dài hạn
105.295
16
119.087
17
147.374
21
Nguồn: phòng quan hệ khách hàng chi nhánh NHNTTC
Với việc đẩy mạnh vốn và tăng trưởng nguồn vốn thì việc sử dụng vốn an toàn, hiệu quả luôn được chi nhánh NHNT Thành Công chú trọng và quan tâm hàng đầu vì nghiệp vụ kinh doanh tín dụng là nguồn thu chủ yếu của ngân hàng, riêng đối với chi nhánh NHNTTC thì cho vay là hoạt động chính.
Qua bảng số liệu trên cho thấy dư nợ qua các năm đều tăng, năm 2006 sư nợ là 721.951 tỷ đồng tăng so với năm 2004 là 63.855 tỷ đồng, tức là tăng 9.7%. Qua 3 năm, cả cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn đếu tăng, tỷ trọng cho vay trung và dài hạn càng ngày càng lớn, song cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Điều này cho thấy rằng, ngoài việc tăng cường cho vay các DNV&N thì chi nhánh còn mở rộng cho vay đối với các dự án lớn dài hạn. Cùng với uy tín hoạt động trong lĩnh vực ngoại thương tăng cao, hình thức cho vay bằng ngoại tệ cũng đang được chi nhánh đẩy mạnh phát triển.
Có được kết quả như vậy, đội ngũ cán bộ nhân viên của chi nhánh luôn phải chủ động tìm kiếm khách hàng tiềm năng, duy trì khách hàng truyền thống, tìm kiếm các dự án, các phương án sản xuất kinh doanh khả thi, tạo điều kiện hỗ trợ kịp thời nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Phong cách giao dịch, chất lượng giao dịch và chất lượng các sản phẩm tín dụng của chi nhánh NHNT Thành Công đã tạo được niềm tin và uy tín đối với khách hàng, trở thành đối tác quan trọng cùng khách hàng kinh doanh hiệu quả
2.1.3.3. Thanh toán xuất nhập khẩu và kinh doanh ngoại tệ
Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta phát triển vượt bậc, đặc biệt là sự kiệ._.hằm triển khai ứng dụng một cách có hiệu quả các sản phẩm mới, đặc biệt các sản phẩm đi kèm khuyến mãi. Đổi mới công tác khách hàng, trước hết là phong các giao tiếp.
Tăng trưởng tín dụng hợp lý, song song với tăng trưởng nguồn vốn. Tăng nhanh cả về số lượng và chất lượng khách hàng.
Tập trung tăng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo đúng quy chế tín dụng của ngân hàng Nhà nước và giảm tỷ lệ nợ quá hạn, không để phát sinh thêm các khoản nợ khó đòi
Tăng nhanh các sản phẩm dịch vụ, đổi mới công nghệ, tổ chức cán bộ hợp lý và nâng cao chất lượng cán bộ ngân hàng
Một số chỉ tiêu hoạt động
Kế hoặch xác định chung cho các chi nhánh NHNT trên địa bàn Hà Nội năm 2007:
Tổng nguồn vốn huy động đạt 12700 tỷ đồng, tăng 22.7% so với năm 2006.
Huy động ngoại tệ chiếm 50-53% nguồn vốn huy động từ khách hàng
Dư nợ tín dụng đến hết năm 2007 đạt 4890 tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2006
Khống chế nợ quá hạn dưới 2.5% tổng dư nợ
Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đạt 32% tổng dư nợ
Tăng tỷ trọng cho vay có TSBĐ lên 40%
3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động cho vay của chi nhánh NHNT Thành Công
Bám sát định hướng của ngành, mục tiêu phát triển kinh tế của thành phố Hà Nội và sự chỉ đạo của NHNT Việt Nam, chi nhánh NHNT Thành Công quyết tâm nâng cao hơn nữa chất lượng công tác quản trị điều hành, thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ được giao, khắc phục những tồn tại thiếu sót trong năm qua. Cụ thể, chi nhánh đã đề ra những chính sách chiến lược sau:
Thực hiện đa dạng hoá các hoạt động, sản phẩm dịch vụ ngân hàng, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng,
Tăng trưởng tín dụng luôn đi đôi với việc đảm bảo chất lượng tín dụng, không mở rộng tín dụng một cách tràn lan mà không tính đến nâng cao chất lượng tín dụng. Tăng trưởng tín dụng phải đảm bảo nhu cầu và lợi ích khách hàng, lợi nhuận và an toàn cho ngân hàng đồng thời tuân theo qui định của pháp luật.
Phát triển tín dụng nên tập trung vào các doanh nghiệp, khách hàng làm ăn có hiệu quả, các khách hàng truyền thống, có uy tín. Bên cạnh đó phải quan tâm phát triển khách hàng mới
Trên cơ sở về quan điểm phát triển tín dụng như vậy, chi nhánh NHNT Thành Công đã đề ra các chương trình hoạt động của chi nhánh trong thời gian tới là:
Tổ chức phân loại khách hàng và có kế hoặch chăm sóc khách hàng một cách thường xuyên. Có kế hoặch phát triển khách hàng với các ưu đãi kèm theo để tạo khả năng hấp dẫn, lôi cuốn khách hàng. Bên cạnh đó luôn giữ vững ổn định khách hàng cũ.
Tăng cường phát triển tối đa nguồn vốn huy động VNĐ và ngoại tệ từ các tổ chức kinh tế và dân cư bằng cách đa dạng hoá các loại hình tiết kiệm, mở rộng mạng lưới huy động vốn
Tiếp tục đổi mới cơ cấu tín dụng, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn , cho vay có bảo đảm bằng tài sản
Mở rộng tín dụng đối với các khu vực kinh tế vừa và nhỏ với lãi suất phù hợp. Tập trung vào các ngành như: điện tử, chế biến, vận tải… Phát triển nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng để đáp ứng nhu cầu dịch vụ của khách hàng
Mở rộng và tổ chức các dịch vụ nhằm hỗ trợ phát triển hoạt động tín dụng như thanh toán chuyển tiền điện tử nhanh, thu chi tiền mặt và trả lương tại đơn vị.
Tăng cường đổi mới công nghệ, có kế hoặch ra đời các thanh toán nối mạng vi tính đến các doanh nghiệp tạo thuận lợi và giảm thời gian đi lại với các doanh nghiệp
Nâng cao chất lượng thẩm định cho vay, thực hiện nghiêm túc các qui trình thủ tục cấp tín dụng theo nội dung qui định của NHNT Việt Nam
Củng cố đội ngũ cán bộ tín dụng có ý thức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, thực hiện tốt nhiệm vụ thẩm định, xét và quyết định cho vay; kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay của khách hàng, chủ động thu hồi nợ đầy đủ gốc lãi theo từng kì hạn đúng khế ước hợp đồng vay vốn, phấn đấu không để phát sinh nợ quá hạn mới.
Có hoạt động hỗ trợ khách hàng như tư vấn, cung cấp thông tun chính xác để khách hàng có thể nắm bắt được xu thế phát triển, giải quyết được các khó khăn
Đẩy mạnh hoạt động đoàn thể, động viên cán bộ nhân viên đóng góp các ý kiến và trực tiếp tham gia tìm kiếm khách hàng để đảm bảo chỉ tiêu kinh doanh và thu nhập ổn định
Một số chỉ tiêu mà chi nhánh NHNT Thành Công đề ra trong năm 2007:
Chi nhánh NHNT Thành Công đặt ra các chỉ tiêu dựa trên các chỉ tiêu của chi nhánh NHNT Hà Nội nhưng cũng quan tâm đến đặc điểm riêng của chi nhánh :
Tổng nguồn vốn huy động đạt 2978.882 tăng 32% so với năm 2006
Huy động ngoại tệ chiếm 55% nguồn vốn huy động từ khách hàng
Dư nợ tín dụng đến hết năm 2007 đạt 781.873 tỷ đồng tăng 8.3% so với năm 2006
Khống chế nợ quá hạn ở mức 0.69% tổng dư nợ
Tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn đạt 32% tổng dư nợ
3.2. Một số giải pháp nhằm mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N tại chi nhánh NHNT Thành Công
3.2.1. Thống nhất quan điểm, nhận thức về phát triển khách hàng DNV&N
Việc thống nhất quan điểm, nhận thức khách hàng từ trung ương đến chi nhánh, từ cấp lãnh đạo tới cán bộ nhân viên. Trên cơ sở đó cụ thể hoá mục tiêu phát triển DNV&N vào chương trình hành động của chi nhánh. trợ giúp kịp thời cho các DNV&N.
Thống nhất về quan điểm nhận thức ở đây có nghĩa là chi nhánh cần mở rộng, khuyến khích cho vay DNV&N, loại bỏ tâm lý lo ngại rủi ro đối với cho vay DNV&N. Thay vào đó, ngân hàng cần phải đi thẩm định xem xét về tình hình làm ăn của khách hàng, hoạt động ra sao, có yêu cầu về vốn như thế nào, tình hình tài chính ra sao…để có những quyết định cho vay phù hợp đáp ứng yêu cầu của khách hàng vừa tránh được rủi ro cho ngân hàng. Ngoài ra chi nhánh cần phải có những trợ giúp trong tâm lý e ngại khi đến vay vốn ngân hàng của các DNV&N bằng việc giải thích và hướng dẫn cụ thể cho các doanh nghiệp về quy trình thủ tuc vay vốn, giúp doanh nghiệp khắc phục những khó khăn của mình.
3.2.2. Tăng cường tuyên truyền, quảng bá hoạt động của chi nhánh NHNT Thành Công với DNV&N
Đây là nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2007 và những năm sắp tới. Cụ thể là xây dựng triển khai một chương trình tuyên truyền, quảng bá bài bản, thống nhất trong toàn bộ hệ thống trong toàn bộ hệ thống NHNT nói chung và chi nhánh NHNT Thành Công nói riêng. Chi tiết có thể như sau:
Dù là một chi nhánh nhỏ nhưng nếu chi nhánh NHNT Thành Công có được một website riêng cho ngân hàng của mình và trong đó có thêm mục “chi nhánh NHNT với DNV&N” thì đây sẽ là một kênh tuyên truyền và quảng bá hoạt động rất tốt. Trang web này sẽ là cầu nối của chi nhánh NHNT Thành Công với các DNV&N thông qua cung cấp thông tin, quảng cáo, giới thiệu, tạo điều kiện cho các khách hàng DNV&N biết về chi nhánh và về các dịch vụ của chi nhánh nhiều hơn.
Xúc tiến quảng cáo trên phương tiện thông tin đại chúng như quảng cáo trên báo chí, truyền thanh, truyền hình hay phát tờ rơi đặc biệt là quảng cáo về những dịch vụ tiện ích mà ngân hàng cung cấp. Ngoải ra có thể tổ chức các hội nghị khách hàng các DNV&N để tăng cường mối quan hệ giữa ngân hàng với DNV&N. Ở đây, là một chi nhánh nhỏ, chi nhánh NHNT Thành Công khó có thể thực hiện quảng cáo trên truyền thanh truyền hình nhưng có thể nghiên cứu đế thiết kế các tờ rơi giới thiệu sản phẩm hoặc có thể đăng một số thông tin liên quan đến các dịch vụ của chi nhánh, giới thiệu về chi nhánh cũng như các chính sách hỗ trợ của chi nhánh đối với các DNV&N trên một số tờ báo, tạp chí mà được nhiều người quan tâm trong lĩnh vực kinh tế, tài chính như : Thời báo kinh tế, Thời báo ngân hàng, Tạp chí ngân hàng…
3.2.3. Hoàn thiện bổ sung các sản phẩm phù hợp với đối tượng khách hàng DNV&N
Giải pháp này thực hiện theo cả hai hướng đó là thiết kế lại các sản phẩm hiện có cho phù hợp với khách hàng DNV&N và nghiên cứu các sản phẩm mới. Trên cơ sở đó ban hành hệ thống văn bản hướng dẫn cho từng loại sản phẩm riêng biệt. Quá trình thực hiện có sự đúc rút, sơ kết, tổng kết những cái được, chưa được theo từng loại sản phẩm.
Thứ nhất, chi nhánh cần đa dạng hoá các sản phẩm hiện có theo xu hướng phù hợp với từng đối tượng khách hàng như khách hàng DNV&N.
Mặc dù ngân hàng cũng định hướng áp dụng tất cả các phương thức cho vay đối với DNV&N nhưng lại chưa xem xét để đưa ra phương thức cho vay nào là phù hợp nhất, là tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các DNV&N. Thực tế hiện nay ở chi nhánh áp dụng chủ yếu phương thức cho vay đối với các DNV&N là phương thức cho vay từng lần và cho vay theo hạn mức. Mặc dù đây là phương thức cho vay gây ít rủi ro cho ngân hàng nhưng lại gây phiền toái cho khách hàng về vấn đề thủ tục.
Qua xem xét chi nhánh có thể cho các DNV&N vay theo hình thức hạn mức thấu chi bởi khi khách hàng muốn vay phải mở tài khoản tại ngân hàng. Do đó ngân hàng có thể kiểm soát được tình hình thu chi của doanh nghiệp để có quyết định cho vay tiếp hay không, đồng thời doanh nghiệp có thế chủ động, kịp thời, linh hoạt trong việc sử dụng vốn.
Chi nhánh NHNT Thành Công sẽ kết hợp với NHNT Việt Nam lấy ý kiến để tìm hiểu, đánh giá quy trình thủ tục của các ngân hàng bạn và lấy ý kiến từ nhiều nguồn khác nhau như CBTD, khách hàng DNV&N để cải tiến quy trình của NHNT nhằm đảm bảo tính cạnh tranh, đặc biệt là các vấn đề thường vướng mắc khi cho vay khách hàng DNV&N như định giá tài sản bảo đảm, thu thập và xử lý thông tin trong trường hợp hệ thống báo cáo tài chính của khách hàng DNV&N không đầy đủ.
Phát triển sản phẩm mới thông qua nhu cầu khách hàng, khảo sát, học tập kinh nghiệm của các ngân hàng trong và ngoài nước. Trước mắt dự kiến nghiên cứu, triển khai một số sản phẩm mới như bao thanh toán, cho vay nhượng quyền thương mại, tư vấn khách hàng (tư vấn vay vốn, tư vấn lựa chọn dự án đầu tư…)
Thứ hai, ngân hàng có thể mở rộng cho vay trung và dài hạn đối với DNV&N đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, đầu tư tài sản cố định của DNV&N bằng cách thẩm định kĩ lưỡng dự án sản xuất kinh doanh cũng như tình hình tài chính của doanh nghiệp, tránh hiện tượng DNV&N vay vốn ngắn hạn để đầu tư vào TSCĐ gây rủi ro cho ngân hàng.
Thứ ba, ngân hàng cần đổi mới quy trình cho vay phù hợp với DNV&N.
DNV&N thường có quy mô hoạt động nhỏ, trình độ quản lý còn hạn chế, hệ thống sổ sách không rõ ràng, nhu cầu món vay nhỏ… Do vậy để DNV&N có thể tiếp cận vốn ngân hàng một cách dễ dàng cần xây dựng quy trình, thủ tục vay vốn phù hợp với điều kiện và nhu cầu vay vốn của DNV&N. Trong khi xây dựng quy trình cho vay, ngân hàng cố gắng rút bớt các thủ tục không cần thiết, rườm rà cho DNV&N, chỉnh sửa kịp thời những quy định không còn phù hợp với thực tiễn nữa để tạo tâm lý thoải mái cho khách hàng vay, để đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời của DNV&N
Khi xây dựng quy trình thủ tục vay đối với DNV&N thì chi nhánh cần cụ thể hoá thể lệ, chế độ Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để tránh việc thực hiện sai sót hay CBTD không hiểu hết, đồng thời phù hợp với đối tượng khách hàng DNV&N và đặc điểm của chi nhánh.
Thứ tư, ngân hàng nên xây dựng chính sách lãi suất linh hoạt, phù hợp với các DNV&N.
Việc xác định một mức lãi suất phù hợp là rất khó vì các doanh nghiệp đi vay luôn mong muốn mong muốn được vay với mức lãi suất thấp để giảm chi phí sử dụng vốn và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp trong khi các ngân hàng không những một mức lãi suất có thể bù đắp chi phí huy động mà còn muốn một khoản lãi để duy trì hoạt động cũng như để phát triển, vì vậy ngân hàng phải đẩy lãi suất lên cao ở mức tối thiểu. Việc vay mượn chỉ có thể diễn ra khi có sự “thuận mua vừa bán” giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Ngoài ra, lãi suất cho vay của NHTM phụ thuộc vào lãi suất của NHNN, vì vậy không phải ngân hàng nào cũng có thể dùng lãi suất thấp thấp để thu hút khách hàng vì điều này có thể gây hậu quả xấu tác động tới toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa khi lãi suất biến đổi sẽ gây ảnh hưởng đến giá cả của nhiều sản phẩm dịch vụ khác bởi lẽ nguồn vốn ngân hàng là một bộ phận cấu thành nên nguồn vốn của doanh nghiệp. Vì thế ngân hàng cần xác định mức lãi suất cho vay căn cứ vào rủi ro mà ngân hàng có thể gặp phải chứ không căn cứ vào quy mô doanh nghiệp là lớn hay nhỏ.
Ngân hàng cũng nên áp dụng mức lãi suất ưu đãi đối với các DNV&N quan hệ làm ăn lâu dài với ngân hàng và những DNV&N mới đến quan hệ với ngân hàng.
Mặt khác, các doanh nghệp có các chu kỳ sản xuất kinh doanh khác nhau, vì vậy ngân hàng phải phân lãi suất cho vay theo nhiều kỳ hạn khác nhau tương ứng với lãi suất huy động theo từng kỳ hạn, tránh tình trạng hoà đồng lãi suất cho vay. Ngân hàng cần căn cứ vào hai luồng tiền: Huy động vốn (đầu vào) và cho vay (đầu ra) để đưa ra mức lãi suất phù hợp. Thông thường, lãi suất đầu vào nhỏ hơn lãi suất đầu ra, lãi suất huy động không kì hạn nhỏ hơn lãi suất huy động 3 tháng, lãi suất huy động 3 tháng nhỏ hơn lãi suất huy động 6 tháng… Chính vì vậy lãi suất cho vay theo nhiều kì hạn như 3 tháng, 6 tháng…sẽ căn cứ trên lãi suất huy động có kì hạn tương ứng.
Thứ năm, cần mở rộng điều kiện vay vốn bằng việc mở rộng hình thức đảm bảo tiền vay.
Ngân hàng luôn yêu cầu các DNV&N phải có tài sản đảm bảo khi vay, lý do là các DNV&N luôn phải đối đầu với những rủi ro trong kinh doanh, có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng..Những biến cố không mong đợi có thể gây cho ngân hàng những tổn thất lớn, chính vì vậy hầu hết các khách hàng DNV&N phải có tài sản đảm khi nhận các khoản cho vay của ngân hàng. Yêu cầu có TSĐB, ngân hàng muốn có được nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động kinh doanh không đảm bảo trả nợ.
Mặc dù bảo đảm tiền vay tránh được rủi ro cho ngân hàng nhưng lại gây khó khăn cho DNV&N bởi TSCĐ của họ rất ít hoặc là tài sản của cá nhân chủ doanh nghiệp không tách biệt với tài sản của doanh nghiệp. Hiện nay, tại chi nhánh NHNT Thành Công tất cả các DNV&N khi vay vốn ngân hàng phải có TSBĐ đã gây những khó khăn cho DNV&N. Vì vậy khả năng vay được vốn ngân hàng của DNV&N là rất thấp. Cho nên ngân hàng cần mở rộng hình thức cho vay không cần tài sản thế chấp trong một quy mô vốn, chỉ cần thế chấp kèm theo phương án vay vốn mang tính khả thi. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu vốn của DNV&N.
3.2.4. Khai thác tối đa các nguồn vốn rẻ, dài hạn để tài trợ DNV&N
Do nguồn vốn trung và dài hạn của chi nhánh NHNT Thành Công còn hạn chế trong khi nhu cầu đầu tư để phát triển của các doanh nghiệp, đặc biệt là của DNV&N rất lớn, việc thu hút các nguồn vốn rẻ, dài hạn từ bên ngoài có ý nghĩa rất lớn. Để tăng được nguồn vốn huy động này thì phải xúc tiến chính sách huy động phù hợp, tạo niềm tin cho khách hàng gửi tiền. Đây cũng là vấn đề liên quan đến hoạt động Marketing ngân hàng. Bên cạnh việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn quỹ quay vòng của các chương trình tín dụng nước ngoài hiện có, chi nhánh NHNT Thành Công đang tích cực tìm kiếm, thu hút các nguồn vốn rẻ, dài hạn để bổ sung nguồn tài trợ DNV&N .
3.2.5. Tăng cường hoạt động hỗ trợ phi tài chính đối với khách hàng DNV&N
Đây là giải pháp nhằm thu hút và tạo sự gắn bó của khách hàng với chi nhánh NHNT Thành Công. Các hoạt động hỗ trợ phi tài chính bao gồm cung cấp thông tin kinh tế tài chính, hướng dẫn thủ tục, giới thiệu các cơ hội kinh doanh, giới thiệu đối tác đầu tư/bạn hàng/nhà cung cấp cho khách hàng thông qua nhiều kênh khác. Đồng thời chi nhánh NHNT Thành Công cũng có thể hỗ trợ những khách hàng tiêu biểu tham gia các khoá đào tạo, tham gia triển lãm, hội chợ giới thiệu sản phẩm, thúc đẩy quan hệ mua bán, chuyển giao công nghệ giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong nước và sắp tới đây có thêm ngân hàng nước ngoài đòi hỏi mỗi ngân hàng ngay từ bây giờ ngoài các khách hàng DNV&N truyền thống phải chủ động tìm kiếm các khách hàng riêng cho mình trong đó chắc chắn đối tượng khách hàng DNV&N sẽ chiếm đa số bởi xu hướng phát triển nhanh chóng của loại hình doanh nghiệp. Để thu hút được khách hàng, chi nhánh nên có chính sách khách hàng một cách chi tiết, chủ động tìm kiếm khách hàng. Các DNV&N thường có nguồn thông tin kinh tế rất hạn chế, họ không còn gì mong muốn hơn nếu các nhà ngân hàng là người tư vấn, là người giúp doanh nghiệp giải quyết sự cố, thực hiện được vấn đề hơn là người cung cấp tín dụng đơn thuần. Riêng đối với ngân hàng thì việc quan tâm đến khách hàng, chia sẻ thông tin, tư vấn giúp đỡ khách hàng sẽ giúp ngân hàng nắm rõ được các vấn đề mà các doanh nghiệp gặp phải, hiểu rõ được tình hình hoạt động của doanh nghiệp hơn để ra những quyết định cho vay hợp lý. Mặt khác, được sự giúp đỡ, tư vấn của ngân hàng, DNV&N sẽ làm ăn hiệu quả hơn, tin tưởng vào ngân hàng hơn và doanh nghiệp sẽ có lựa chọn đầu tiên là vay vốn ngân hàng đó.
3.2.6. Hoàn thiện hệ thống thông tin
Để có thể phục vụ một số lượng lớn khách hàng DNV&N, việc hoàn thiện hệ thống thông tin (bao gồm cả thông tin quản lý và thông tin phục vụ khách hàng) có ý nghĩa quan trọng và là một nhiệm vụ cấp thiết.
Muốn có được các thông tin đáng tin cậy thì phải chấn chỉnh ngay từ khâu nhập dữ liệu từ cơ sở. Các trường số liệu cần đặc biệt lưu ý là đăng kí kinh doanh, loại hình doanh nghiệp. Chi nhánh có thể kết hợp cùng hội sở chính cần sớm đưa ra quy chế phối hợp cung cấp thông tin thống nhất, xác định rõ thẩm quyền cũng như trách nhiệm trong việc cung cấp, quản lý thông tin.
Trên cơ sở đó, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chấm điểm xếp hạng tín dụng, làm căn cứ đưa ra các quyết định kinh doanh hiệu quả đối với mỗi khách hàng.
Chi nhánh cũng không nên hạn chế chi tiêu vào vấn đề hoàn thiện hệ thống thông tin. Bởi chỉ có bằng cách này chi nhánh mới có thể tự hoàn thiện, nâng cao tính hội nhập cao, có khả năng kiểm soát thông tin hơn, tiết kiệm thời gian trong mọi hoạt động, tính chính xác trong công việc cũng được đẩy mạnh, và về lâu dài thì sẽ là giảm
3.2.7. Ngân hàng cần hình thành một bộ phận chuyên cho vay DNV&N và quỹ riêng để cho vay DNV&N
Nếu ngân hàng có sự quan tâm đến việc cho vay khu vực các DNV&N thì sẽ hình thành một bộ phận chuyên cho vay DNV&N và quỹ riêng để cho vay DNV&N. Có được một phòng ban chuyên trách, có lực lượng cán bộ tín dụng chuyên môn và một quỹ riêng để cho vay DNV&N thì không có lý gì hoạt động cho vay DNV&N không phát triển. Bởi các cán bộ và phòng ban phục vụ riêng cho hoạt động cho vay DNV&N sẽ tìm hiểu nhu cầu của DNV&N, tìm hiểu được thông tin đúng đắn về khách hàng qua đó có những kiến nghị lên các cấp lãnh đạo ngân hàng ra quyết định chính xác là không đáp ứng hay đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho DNV&N. Ngoài ra việc hình thành quỹ riêng để cho vay DNV&N sẽ tạo sự lưu thông không bị ngắt quãng hay chậm trễ trong quá trinh giải ngân, tạo sự chủ động trong hoạt động cho vay DNV&N.
3.2.8. Đào tạo cán bộ chuyên sâu về DNV&N
Song song với việc bố trí đủ số lượng cán bộ phù hợp với số lượng khách hàng, cần quán triệt tới cấp cán bộ để thống nhất quan điểm, nhận thức về sự cần thiết phát triển khách hàng DNV&N và đào tạo kĩ năng, kiến thức chuyên sâu về phục vụ khách hàng DNV&N.
Trình độ CBTD là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển cho vay các doanh nghiệp nói chung và các DNV&N nói riêng cũng như hiệu quả cho vay của một ngân hàng thương mại. Vì vậy chi nhánh luôn phải tổ chức các khoá học hoặc gửi cán bộ đi học liên tuc để tiếp thu những kiến thức mới, bổ sung những phần chưa đủ trong đó có vấn đề khoa học công nghệ trong ngân hàng.
Việc đào tạo không chỉ dừng lại ở kiến thức chuyên môn mà quan trọng hơn cả là tăng cường tính chủ động của cán bộ chi nhánh NHNT Thành Công tiếp cận với khách hàng và hoàn thiện các kĩ năng giao dịch, đạo đức của cán bộ nhằm tạo uy tín cho khách hàng về ngân hàng. CBTD là hình ảnh đầu tiên mà các doanh nghiệp ấn tượng về ngân hàng, về sự chuyên nghiệp, tận tình của ngân hàng. Các CBTD cũng cần phải xoá đi mặc cảm rủi ro về khu vực DNV&N đầy tiềm năng này. Tự thân các cán bộ trên mọi cương vị cần thường xuyên nghiên cứu học hỏi để không ngừng rèn luyện tư cách đạo đức và tinh thần trách nhiệm nghề nghiệp. Chi nhánh cũng cần có những chính sách khuyến khích các cán bộ nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng nghiệp vụ.
Chi nhánh NHNT Thành Công cần xây dựng một cơ chế lương, thưởng gắn với chất lượng và hiệu quả công việc, đảm bảo động lực cho cán bộ tâm huyết với nghề. Chi nhánh cũng cần đề ra chế độ thưởng phạt nghiêm minh đối với các cán bộ ngân hàng. Trong vấn đề này, chi nhánh nên có chính sách cụ thể về các hình thức, chế độ khen thưởng đối với các cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, có tinh thần trách nhiệm với công việc cũng như các chính sách liên quan đến hình thức kỷ luật nghiêm minh đối với cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ, không có trách nhiệm với công việc.
3.3. Một số kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động cho vay khách hàng DNV&N
3.3.1.Kiến nghị với chính phủ
Thứ nhất, chính phủ cần hoàn thiện môi trường pháp lý để tao môi trường kinh doanh bình đẳng cho DNV&N phát triển. Hiện tại địa vị pháp lý của các DNV&N chưa được xác định rõ ràng, hoạt động của các DNV&N chưa đượcđiều chỉnh và hướng dẫn ngoại trừ Nghị định 90 của Chính phủ về hỗ trợ các DNV&N. các DNV&N phải hoạt động theo nhiều luật khác nhau gây ra nhiều khó khăn cho cả phía doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý Nhà nước. Vì vậy chính phủ cần phải có văn bản chung, thống nhất, qui định cho loại hình doanh nghiệp này
Thứ hai, để tăng cường công tác quản lý DNV&N trong đăng kí kinh doanh cũng như giám sát hoạt động của loại hình doanh nghiệp này, Chính phủ nên sơm hình thành một cơ quan riêng phụ trách việc tổ chức đăng kí kinh doanh và giám sát quản lý các DNV&N. Bên cạnh đó, tăng cường công tác kiểm tra, gáim sát công tác kế toán tại các DNV&N buộc các DNV&N chấp hành đúng luật thống kê, kế toán, kiểm toán
Thứ ba, chính sách thuế hiện nay đang áp dụng với DNV&N còn nhiều bất cập bởi vẫn còn tồn tại nhiều mức thuế khác nhau với cách quản lý phức tạp, không chặt chẽ đã gây ra nhiều phiền hà cho các DNV&N đồng thời dẫn đến hiện tượng trốn thuế. Vì vậy, chính phủ phải điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp với DNV&N
Thứ tư, chính phủ cần có những biện pháp đơn giản hoá vấn đề thủ tục trong việc giao, cấp đất, hay chuyển nhượng tài sản cố định; đơn giản các thủ tục công chứng, xác nhận, sao đăng kí xe đối với tài sản thế chấp là ô tô..
Thứ năm, chính phủ cần tăng cường cung cấp thông tin và dịch vụ tài chính cho các DNV&N; mở rộng các danh mục dịch vụ, đa dạng hoá dịch vụ và phương thức cung cấp dịch vụ kế toán, dịch vụ xem xét báo cáo tài chính đối với doanh nghiệp chưa có bộ máy kiểm toán nội bộ và khả năng tài chính hạn chế không thể thuê kiểm toán báo cáo tài chính.
Ngoài ra, chính phủ cũng cần cung cấp các kênh thông tin cho ngân hàng về tình hình hoạt động, tình hình tài chính của các DNV&N giúp ngân hàng có thể phân tích kĩ lưỡng, chính xác và nhanh chóng hơn trước khi quyết định cho vay DNV&N.
3.3.2. Kiến nghị đối với ngân hàng Nhà nước Việt nam
Ngân hàng Nhà nước là cơ quan chủ quản, trực tiếp chỉ đạo hoạt động cho vay đối với DNV&N nên việc làm quan trọng để phát triển hoạt động cho vay DNV&N cần phải ban hành một cơ chế riêng, một quy trình cho vay riêng phù hợp với đặc điểm của các DNV&N; mở rộng các điều kiện cho vay đối với DNV&N như vấn đề bảo đảm tiền vay không chỉ là thế chấp các TSCĐ mà còn mở rông sang các hình thức khác.
Ngân hàng Nhà nước cần phát triển hệ thống thông tin qua trung tâm thông tin tín dụng (CIC), một nơi cung cấp tất cả những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác, và bảo mật cho các ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nước cũng cần tìm kiếm các nguồn vốn tài trợ cho các DNV&N của các tổ chức quốc tế, tổ chức phi chính phủ để gia tăng nguồn vốn hoạt động, đáp ứng nhu cầu vốn cấp thiết của khu vực doanh nghiệp này
3.3.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là cơ quan lãnh đạo cao nhất chỉ đạo hoạt động của chi nhánh NHNT Thành Công cần chỉ đạo các chi nhánh có những quan điểm tích cực về các DNV&N và có những quy định cụ thể hơn nữa về cho vay DNV&N. Ngân hàng cần ban hành các văn bản hướng dẫn quy định thực hiện quy trình nghiệp vụ cho vay riêng đối với loại hình DNV&N , cách tính điểm trong thẩm định cho vay các DNV&N sao cho phù hợp với các điều kiện cụ thể của từng chi nhánh; thường xuyên có những hướng dẫn, định hướng cho vay DNV&N để đôn đốc các chi nhánh thực hiện tốt hoạt động cho vay DNV&N.
Thêm vào đó, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện quy trình cho vay riêng đối với các DNV&N để có những chỉ đạo, điều chỉnh kịp thời.
Cùng với các cơ quan Nhà nước như chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần hỗ trợ tài chính, thông tin, nhân lực cho các chi nhánh để toàn hệ thống để phát triển hoạt động cho vay nói chung và hoạt động DNV&N nói riêng
Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần có các chương trình như: khoá học tập ngắn hạn và dài hạn cho cán bộ ngân hàng nhất là cán bộ phòng tín dụng, thẩm định… đi học nước ngoài để họ có thể nâng cao nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm các nước. Đó cũng là khuyến khích lòng nhiệt tình ham học hỏi của nhân viên ngân hàng.
3.3.4. Kiến nghị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Mối liên hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp là mối liên hệ đối tác cùng kinh doanh và cùng có lãi. Do đó, hai đối tương này cần xích lại gần nhau, cùng giúp đỡ nhau. Ngoài các nỗ lực từ phía ngân hàng, các DNV&N cũng phải hoàn thiện, nâng cao năng lực kinh doanh, tạo các phương án kinh doanh hiệu quả để nâng cao uy tín, mang đến sự tin tưởng của ngân hàng thì khả năng được vay mới cao.
Để làm được điều này, các DNV&N cần phải tạo cho mình chiến lược kinh doanh phù hợp với khả năng và đáp ứng nhu cầu thị trường, nâng cao tay nghề, trình độ chuyên môn cho người lao động, đồng thời đẩy mạnh khả năng quản lý giỏi, thích ứng được môi trường kinh doanh, thúc đẩy quá trình sản xuất hiệu quả, mang lại lợi nhuận cao. Từ việc làm ăn hiệu quả, các DNV&N sẽ có khả năng trả nợ đúng đúng hạn, tạo lòng tin cho ngân hàng.
Hệ thống sổ sách cần rõ ràng, minh bạch và dầy đủ thông tin, không nên lập các báo cáo mang tính chất hình thức, không đúng thực tế. Vì khi ngân hàng đi thẩm định luôn quan tâm đến hệ thống sổ sách của doanh nghiệp. Nếu ngân hàng không cảm thấy tin tưởng vào hệ thống sổ sách của doanh nghiệp thì nhiều khả năng DNV&N sẽ không được ngân hàng cho vay vốn. Do đó các DNV&N cần tuân thủ các quy định, các chế độ tài chính kế toán, kiểm toán của Nhà nước. Các DNV&N cũng nên áp dụng các phần mềm kế toán để chi phí và cũng để ngân hàng dễ theo dõi.
Các DNV&N cũng cần tiếp cận thường xuyên hệ thống thông tin của Nhà nước, của ngân hàng để tìm hiểu về thực trang chung của nền kinh tế nói chung và cuả các DNV&N nói riêng, đồng thời cũng tìm hiểu về các dịch vụ gì của ngân hàng mà các DNV&N có thể sử dụng. Các DNV&N nên tham gia vào các chương trình phát triển DNV&N, trung tâm hỗ trợ DNV&N để có giao lưu các doanh nghiệp với nhau, tìm hiểu được nhiều thông tin hữu ích cho DNV&N, đồng thời cũng có thể nhận được những sự tư vấn kịp thời.
Các DNV&N nên nâng cao trình độ kế toán của các cán bộ kế toán doanh nghiệp mình để có thể thực hiện đúng, chính xác chế độ kế toán của Nhà nước, đáp ứng được yêu cầu của các ngân hàng
Ngoài ra DNV&N cũng cần làm tiến hành các thủ tục pháp lý của các TSCĐ để bảo đảm tính pháp lý khi là tài sản bảo đảm. Cần phân biệt rõ tài sản của chu doanh nghiệp và tài sản của DNV&N
Trên đây là một vài kiến nghị đối với các cơ quan chức năng có thẩm quyền và các DNV&N. Để thực hiện tốt các giải pháp đề ra, tất cả các cơ quan chức năng, hệ thống ngân hàng trong đó có chi nhánh NHNT Thành Công phải liên kết chặt chẽ, phối hợp một cách đồng bộ thì mới phát triển được hạot động cho vay các DNV&N đồng thời nâng cao hiệu quả cho vay của ngân hàng và trợ giúp cho các DNV&N trong nhu cầu về vốn.
KẾT LUẬN
Với những nghiên cứu rất cơ bản trong phạm vị một chuyên đề tốt nghiệp, bài viết này đã phần nào làm rõ các vấn đề cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, thực trạng doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung, thực trạng cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công và cũng đưa ra được một số giải pháp, kiến nghị phát triển hoạt động cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công cùng các cơ quan ban ngành các cấp có liên quan. Qua những nghiên cứu trên cho thấy rằng tình hình cho vay của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công đang ngày càng được cải thiện song vẫn cần phải có sự quan tâm, phối hợp của các cơ quan ban ngành các cấp và bản thân các doanh nghiệp vừa và nhỏ để hoạt động cho vay DNV&N tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công nói riêng và toàn bộ hệ thống ngân hàng nói chung để có thể đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời cho cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình hội nhập kinh tế.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của thầy giáo và các cô chú, anh chị tại chi nhánh NHNT Thành Công đã giúp em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn!
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.TS. Nguyễn Hữu Tài (chủ biên), 2002, Giáo trình lý thuyết tài chính-tiền tệ, NXB Thống Kê Hà Nội.
2.PGS.TS Phan Thu Hà (chủ biên), 2006, Ngân hàng thương mại, NXB Thống Kê Hà Nội.
3.Frederic S.Mishkin, 2001, Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và kĩ thuật Hà Nội
4.QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 về quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng của Thống đốc ngân hàng Nhà nước
5.QĐ 127/2005/QĐ-NHNN ngày 03/02/2005 ban hành sửa đổi, bổ sung quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001.
6.Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
7.Báo cáo thường niên, báo cáo kết quả kinh doanh, bảng cân đối kế toán, định hướng phát triển kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
8.Cẩm nang tín dụng của NHNT Thành Công
9.Nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001 của Chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N
10.Phát biểu của thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị với các Doanh nghiệp Hà Nội ngày 9/2/2006
11.Hà Vy, 9/12/2005, DNV&N còn mơ hồ với hội nhập, www.vnexpress.net
12.TBTC, 2004, DNV&N: Sáu bước vượt “rào cản”, www.mof.gov.vn
13.Theo vneconomy, Vốn cho DNV&N: Ngân hàng nói gì?, www.kiemtoan.com.vn
14.Bài viết: DNV&N…quay lưng với ISO, 2004, www.moi.gov.vn
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 32118.doc