Phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam

lời mở đầu Nền kinh tế là một cơ thể sống, nó liên tục vận động và phát triển cùng thời gian, trong nó bao gồm nhiều yếu tố cấu thành, mà vốn là một yếu tố không thể thiếu được trong sự vận động và phát triển đó. Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá kinh tế đã tạo điều kiện cho các nước nghèo có cơ hội bắt kịp với các nước giàu, nhưng các nước này không phải không gặp những khó khăn khi phải đương đầu với thách thức lớn lao là sản phẩm hàng hoá của nước mình phải chịu một sức ép cạnh tranh vô cùng ga

doc95 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y gắt và ác liệt trên thị trường quốc tế và ngay cả trên thị trường trong nước mình. Do đó, vấn đề chất lượng sản phẩm đang là vấn đề sống còn, yếu tố then chốt để cạnh tranh. Bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập dần với nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đã cảm nhận được áp lực ngày càng lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Lúc này cạnh tranh giá cả sẽ dần không còn phù hợp nữa mà giải pháp thực tế cho cạnh tranh hiện nay là bằng chất lượng. Chỉ có vậy mới có thể đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của các doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy giải pháp cần phải quan tâm trước hết là đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ bằng máy móc thiết bị hiện đại, để thực hiện được cần có lượng vốn lớn đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong khi các doanh nghiệp hầu như không có điều kiện lựa chọn phương thức tài trợ nào ngoài vay vốn ngân hàng hoặc sử dụng vốn chủ sở hữu. Chính từ tính cấp bách về nhu cầu vốn nên đòi hỏi cần phải có những biện pháp tài trợ hữu hiệu hơn cho các doanh nghiệp trong quá trình đổi mới công nghệ, tăng năng lực sản xuất. Xuất phát từ nhu cầu đó phương thức tài trợ bằng cho thuê tài chính xuất hiện ở Việt Nam. ở Việt Nam, cho thuê tài chính là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, nhưng đây là một phương thức tài trợ vốn thích hợp, góp phần đa dạng hoá các loại tín dụng, đặc biệt tín dụng trung, dài hạn, góp phần tháo gỡ những khó khăn về vốn đối với các doanh nghiệp. Tầm quan trọng của nó đã được các nhà kinh tế thế giới đánh giá như “một cuộc cách mạng về tài trợ vốn”, nhất là với các nước đang phát triển. Tại các nước phát triển, cho thuê tài chính cung cấp một lượng vốn khổng lồ cho các doanh nghiệp, thúc đẩy sự phát triển của quốc gia đó, và là một trong những yếu tố quan trọng hình thành nên thị trường vốn của mỗi quốc gia. Tính trung bình trong ba năm 1998 đến 2000, doanh số của ngành công nghiệp cho thuê thế giới đạt khoảng 500 tỷ USD, mức tăng trưởng bình quân mỗi năm là 7%. Tại Việt Nam, qua thời gian thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính chúng ta thấy những lợi ích mà nó mang lại là rất lớn, Nó là một lối thoát cho cơn khát vốn gay gắt đang trói tay các doanh nghiệp. Cho thuê tài chính tỏ ra thích hợp với các doanh nghiệp đang ở trong giai đoạn tái cấu trúc và cơ cấu lại dây truyền sản xuất. Có thể nói, cho thuê tài chính là một thị trường đầy tiềm năng ở nước ta. Song một sự thật là nghiệp vụ cho thuê tài chính chưa phát triển ngang tầm với những ưu thế vốn có của nó. Để mở rộng, phát triển hoạt động cho thuê tài chính đáp ứng cho nhu cầu vốn của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, trong thời gian thực tập tại công ty Cho thuê Tài chính – Ngân hàng Công thương Việt Nam, được sự hướng dẫn nhiệt tình của các thầy cô, cùng sự quan tâm giúp đỡ của cán bộ nhân viên Công ty, đặc biệt là các cô chú phòng kinh doanh, em đã mạnh dạn đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Trong luận văn này em xin đề cập về hoạt động cho thuê tài chính hiện nay với đề tài: “Phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê Tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam”. Kết cấu luận văn ngoài mục lục, lời mở , kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, gồm có những nội dung chính sau: Chương I: Những lý luận cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính Chương II: Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê Tài chính – Ngân hàng Công thương Việt Nam Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê Tài chính – Ngân hàng Công thương Việt Nam. Trong luận văn này, em xin đề cập tới những lý luận cơ bản và thực tiễn của hoạt động cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động làm cơ sở để đề xuất một số ‎ ý kiến đóng góp không chỉ với chi nhánh mà còn với Ngân hàng Nhà Nước và Chính phủ. Sinh viên Nguyễn Kiều Oanh Chương I Những lý luận cơ bản về hoạt động Cho thuê tài chính Hình thức tài trợ thông qua cho thuê tài sản đã có lịch sử lâu đời và diễn ra trong hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất, thuộc nhiều khu vực trên thế giới. Tuy nhiên, từ khi xuất hiện phương thức cho thuê tài chính (leasing) thì loại hình tài trợ này đã có những bước phát triển mang tính đột phá. Đối với nước ta cho thuê tài chính là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ với kết quả đạt được còn khiêm tốn. Nhưng sau hơn 5 năm đi vào hoạt động các công ty cho thuê tài chính ( CTTC ) đã chứng tỏ tính ưu việt của mình, hoạt động này đã tạo một kênh dẫn vốn rất quan trọng đến các doanh nghiệp, và thực tế cho thấy hoạt động cho thuê tài chính đã có những bước phát triển vượt bậc cả về quy mô và phạm vi địa ‎ lý. Hiện nay, ngành cho thuê đã dần khẳng định vị thế của mình trên thị trường vốn. Song song với sự phát triển về chiều rộng, chiều sâu đang dần thay đổi và phát triển. Với mục đích trang bị những vấn đề cơ bản về cho thuê tài chính ( từ khái niệm, đặc điểm, phương thức giao dịch,... đến bản chất, vai trò, lợi ích ) nội dung của chương I gồm các vấn đề sau: 1.1. Vai trò của hoạt động Cho thuê Tài chính trong nền kinh tế thị trường 1.1.1. Cho thuê tài chính - hoạt động của công ty cho thuê 1.1.1.1. Lịch sử ra đời của hoạt động cho thuê Cho thuê tài sản là một phương thức tài trợ được sáng tạo từ rất sớm trong lịch sử văn minh nhân loại. Theo các thư tích cổ, hoạt động cho thuê tài sản đã xuất hiện từ năm 2800 trước CN tại thành phố Sumeran của người UR (là một thành phố phía Nam của thành phố Mesopotania, gần vịnh Ba tư, là một phần của Iraq ngày nay). Trong đó những người cho thuê là các thầy tu, còn những người đi thuê là những nông dân tự do, tài sản thuê là những công cụ sản xuất nông nghiệp như súc vật kéo, nhà cửa, ruộng đất.... Những bộ luật quy định về nguyên tắc của hoạt động cho thuê đó cũng ra đời rất sớm. Vào khoảng năm 1700 trước CN, vua Babilon là Hamunurabi đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng tạo thành một luật lớn có liên quan tới hoạt động cho thuê tài sản. Đồng thời trong các nền văn minh cổ đại khác như Hy Lạp-La Mã hay Ai Cập cũng đã xuất hiện các hình thức cho thuê để tài trợ cho hoạt động sản xuất. Tuy nhiên các giao dịch cho thuê tài sản diễn ra ở những thời kỳ trước chỉ là những giao dịch của hoạt động cho thuê kiểu truyền thống, tương tự như hình thức cho thuê vận hành ngày nay, một hình thức cho thuê ngắn hạn nhưng trong suốt hàng ngàn năm lịch sử tính chất giao dịch của hình thức này gần như không thay đổi. Đến đầu thế kỷ 19 hoạt động cho thuê diễn ra rất sôi động gia tăng về cả số lượng lẫn chủng loại tài sản cho thuê. Và đến đầu những năm 50 của thế kỷ 20, hoạt động cho thuê tài sản đã tiến một bước dài và đã trở thành một ngành kinh doanh thực sự với việc ra đời của công ty United States Leasing Coporation (Hoa Kỳ), một hình thức cho thuê mới được thực hiện, cho thuê tài sản trung và dài hạn, hình thức cho thuê tài sản này đã có sự thay đổi về chất. Từ đó đến nay hoạt động cho thuê tài sản được chia thành hai nhánh: Cho thuê tài sản trong thời gian ngắn ( hay còn gọi là cho thuê vận hành, cho thuê thông thường, cho thuê kiểu truyền thống ) và cho thuê tài sản trung và dài hạn (hay còn gọi là cho thuê tài chính). Sau đó nghiệp vụ phát triển Leasing sang Châu Âu và được ghi vào Luật Thuê mua của Pháp ( năm 1960 ) với tên gọi “ Credit Bail “. Cũng trong năm 1960, hợp đồng cho thuê tài chính đầu tiên được thảo ra ở Anh có giá trị 18.000 bảng Anh. Từ khi xuất hiện hình thức cho thuê tài chính, các hoạt động cho thuê đã phát triển hết sức phi thường. Trong giao dịch ngày nay, các Công ty Leasing có thể cho thuê cả những nhà máy hoàn chỉnh theo phương thức “ chìa khoá trao tay “. Đồng thời về chủng loại, tài sản cho thuê cũng được đa dạng hoá. Chỉ tính riêng tại Hoa Kỳ, tổng số vốn thiết bị cho thuê năm 1987 lên tới 107,9 tỷ đôla ($) và có tốc độ gia tăng 7% mỗi năm. Ngày nay, ngành cho thuê thiết bị Hoa Kỳ chiếm từ 25% - 30% tổng số tiền tài trợ cho các giao dịch mua bán thiết bị hàng năm. ở Anh, năm 1993 tổng giá trị ngành công nghiệp cho thuê đạt 49 tỷ bảng Anh. Châu á, Nhật là quốc gia có ngành kinh doanh cho thuê ra đời sớm nhất. Công ty cho thuê đầu tiên của Nhật được thành lập vào năm 1963, đó là Công ty cho thuê Orient ( Orient leasing corporation ). ở Nhật hoạt động của các Công ty cho thuê được sự hỗ trợ của các NHTM, các Công ty thương mại tổng hợp và các hãng sản xuất, vì vậy ngành cho thuê ở Nhật phát triển khá nhanh. Năm 1970 tổng giá trị hợp đồng của 31 Công ty cho thuê lớn nhất là 726 triệu USD, năm 1981 là 7.500 triệu USD, tăng hơn 10 lần so với năm 1970. Đến đầu những năm 70 hoạt động cho thuê tài chính cũng bắt đầu xuất hiện ở Hàn Quốc, ấn Độ, Indonesia, đến cuối những năm 70 đầu 80 hoạt động cho thuê tài chính đã phát triển ở hầu hết các nước Châu á. Như vậy, Cho thuê tài chính đã phát triển mạnh ở Châu á và nhiều khu vực khác trên thế giới kể từ thập niên 70. Năm 1994, ngành công nghiệp cho thuê trên thế giới có giá trị trao đổi chiếm 350 tỷ đôla ($), đến năm 1998 đã là 450 tỷ đôla ($). Nguyên nhân chính thúc đẩy hoạt động cho thuê phát triển mạnh mẽ là do nó là hình thức tài trợ có tính an toàn cao, tiện lợi và đem lại hiệu quả cao cho các bên tham gia. So với các nước Châu á ngành công nghiệp cho thuê thâm nhập vào Việt Nam có phần muộn hơn. Ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực này là ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, năm 1994 ngân hàng này đã thành lập công ty cho thuê và đầu tư để thực hiện hoạt động cho thuê tài chính. Tuy nhiên, đến ngày 27/5/1995 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam mới ban hành thể lệ tín dụng thuê mua ( Quyết định 149/QĐ-NH5 ) và ngày 9/10/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 64/CP về “ Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính Việt Nam ”. Nhờ các văn bản pháp lý trên đã tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính ra đời. Cho đến nay có 8 công ty CTTC đang hoạt động tại Việt Nam, trong đó có 5 công ty CTTC trực thuộc tổ chức tín dụng ( công ty CTTC NH Công thương, công ty CTTC NH Ngoại thương, công ty CTTC NH Đầu tư, công ty CTTC NH Nông nghiệp I và công ty CTTC NH Nông nghiệp II ), 2 công ty CTTC 100% vốn nước ngoài (Kexim và ANZ - VTrac ) và 1 công ty CTTC Liên doanh (VILC ). Với dư nợ cho thuê ( bao gồm cả phần vốn đầu tư mua thiết bị ) của các công ty CTTC là 2.021,7 tỷ VNĐ chiếm 90,11% trên tổng tài sản có (Tính đến ngày 30/06/2002). 1.1.1.2. Hoạt động của công ty cho thuê Công ty cho thuê là một loại hình công ty tài chính, hoạt động chủ yếu là cho thuê tài sản. Từ lịch sử phát triển của hoạt động cho thuê tài sản, ta có thể thấy rõ hoạt động cho thuê của công ty cho thuê trong nền kinh tế thị trường sẽ bao gồm cả hoạt động cho thuê ngắn hạn (cho thuê vận hành) và cho thuê trung và dài hạn (cho thuê tài chính). Hoạt động của công ty cho thuê cũng như các doanh nghiệp kinh doanh ở các lĩnh vực khác đều gồm có hoạt động huy động vốn, sử dụng vốn và một số hoạt động khác. Các công ty cho thuê có thể được thành lập theo nhiều loại hình doanh nghiệp như công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc cũng có thể là doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy vốn hoạt động của công ty cho thuê có thể lấy từ các nguồn sau: - Nguồn vốn tự có: nguồn vốn tự có của công ty cho thuê có thể là nguồn vốn góp của các cổ đông, nguồn vốn do Nhà nước cấp, các quỹ và lợi nhuận giữ lại công ty. - Nguồn vốn đi vay: có thể là vay trực tiếp từ dân cư, vay ngân hàng hoặc vay qua thị trường vốn, vay nước ngoài. Hoạt động sử dụng vốn của công ty cho thuê chủ yếu được thực hiện qua hoạt động cho thuê tài sản, gồm cả cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Hình thức cho thuê vận hành đã được thực hiện ở Việt Nam từ lâu, một số tài sản có giá trị lớn như máy bay hay một số máy móc mà doanh nghiệp chỉ cần sử dụng trong một thời gian ngắn như máy nén cọc, cần cẩu công suất lớn chúng tài sản cũng thực hiện thuê theo phương thức này. Tại thành phố Hồ Chí Minh, các Business Center cung cấp các loại dịch vụ văn phòng thực chất chính là các doanh nghiệp cho thuê tài sản ngắn hạn (cho thuê vận hành). Gần đây các nhà đầu tư nước ngoài cũng áp dụng hình thức này với tài sản là máy móc thiết bị dùng trong ngành công nghiệp. Phía Việt Nam xin thuê thiết bị hiện đại, tự quản lý sản xuất, tiền thuê máy được tính vào số sản phẩm làm từ chiếc máy đó. Phía nước ngoài hướng dẫn kỹ thuật, giúp đỡ sáng tác mẫu mã sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm ở thị trường nước ngoài. Thực tế phương thức tài trợ này đã đem lại hiệu quả cao nhất là đối với các doanh nghiệp đang thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, cho thuê vận hành phù hợp với một nền kinh tế phát triển, các doanh nghiệp có kế hoạch sản xuất cụ thể cho từng thời điểm nhất định trong năm. Dựa vào đó các công ty cho thuê có thể nghiên cứu đa dạng hoá hoặc chuyên môn hoá đối tượng khách hàng và lập kế hoạch cho thuê cụ thể. Thực tế loại hình kinh doanh này đem lại lợi nhuận cao song độ rủi ro cũng lớn, đặc biệt là rủi ro do kỹ thuật lạc hậu, nên nó không thích hợp với các công ty leasing mới ra đời, chưa có kinh nghiệm. ở Việt Nam hiện nay các công ty cho thuê chưa thực hiện phương thức cho thuê này vì vậy trong luận văn này em xin đề cập về hình thức cho thuê tài sản trung và dài hạn (cho thuê tài chính). 1.1.1.3. Giao dịch cho thuê tài chính Phương thức cho thuê tài chính được “ du nhập ” từ nước ngoài, vì vậy thuật ngữ “ Cho thuê tài chính ” tiếng Anh là “ Finance Lease ” ( một số tài liệu gọi là “ Net Lease ” hay “ Capital Lease ” ) Trong tiếng Anh: “ Finance ” nghĩa là tài chính hay tài trợ, còn “Lease” nghĩa là cho thuê nên có thể dịch là: Cho thuê tài chính, tài trợ thuê mua, cho thuê tư bản hay cho thuê thuần,.. Từ “ Tài chính ” trong thuật ngữ “ Cho thuê tài chính ” xuất phát từ thực tế là: Người cho thuê tuy sở hữu thiết bị về mặt pháp l‎ý nhưng lại đứng vào vị thế kinh tế của một nhà tài chính ( hay nhà cấp tín dụng với thuật ngữ “Tín dụng thuê mua” ) hơn là người sở hữu. Tách biệt quyền sở hữu pháp lý với quyền sở hữu kinh tế là tinh thần cơ bản của cho thuê tài chính. Tuy nhiên vấn đề thuật ngữ không đóng vai trò quá quan trọng mà điều quan trọng là cần phải hiểu đúng và chính xác bản chất của sự việc. Để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử cụ thể, luận văn sẽ thống nhất sử dụng thuật ngữ Cho thuê tài chính theo như các văn bản pháp luật của Việt Nam hiện nay. Một giao dịch được coi là cho thuê tài chính nếu như nó chuyển gần như tất cả mọi rủi ro và lợi ích từ việc sở hữu tài sản cho người thuê. Như vậy, người thuê tuy không phải là chủ sở hữu về mặt pháp lý nhưng thực sự chịu mọi rủi ro và hưởng mọi lợi ích từ việc sử dụng tài sản (người thuê chỉ nắm quyền sở hữu kinh tế, còn quyền sở hữu pháp lý vẫn thuộc người cho thuê). Loại thuê này thường không thể huỷ bỏ nhằm đảm bảo cho người cho thuê có thể thu hồi vốn và lãi đối với số vốn cho vay. Sau khi đã thu hồi được vốn và lãi rồi thì quyền sở hữu pháp lý sẽ dễ dàng chuyển sang cho người thuê. Điều này giải thích tại sao giá mua tài sản khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Trên thực tế người thuê sẽ nhận thấy rằng lợi ích thu được trong quá trình sản xuất không phải từ việc sở hữu tài sản mà là từ việc sử dụng tài sản. Do đó, phương án thuê tài chính là một giải pháp tín dụng thay thế cho việc vay vốn ngân hàng để mua tài sản,... a. Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính: - Theo Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế (IASC) Hiện nay phần lớn các nước đưa ra các tiêu chuẩn dựa trên các tiêu chuẩn mà Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đã quy định để xác định một giao dịch được gọi là thuê tài chính. Uỷ ban tiêu chuẩn kế toán quốc tế đã đưa ra 4 tiêu chuẩn mà bất cứ một giao dịch nào thoả mãn ít nhất 1 trong 4 tiêu chuẩn đó đều được gọi là thuê tài chính. Bốn tiêu chuẩn đó như sau: Quyền sở hữu tài sản được giao khi hết thời hạn hợp đồng. Hợp đồng có quy định quyền mặc cả mua. Thời hạn hợp đồng bằng phần lớn thời hạn hoạt động của tài sản. Hiện giá của các khoản tiền thuê lớn hơn hoặc gần bằng giá trị của tài sản Nguồn: International Accounting Standards Conrittee, IAS 17, 1993/1994, P236. - Theo Hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính Mỹ (FASB) ở mỹ hội đồng tiêu chuẩn kế toán tài chính (FASB) đã quy định 4 tiêu chuẩn như sau: 1- Quyền sở hữu của tài sản thuê được chuyển giao cho người đã thuê khi chấm dứt hợp đồng thuê 2- Hợp đồng thuê cho phép người thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê với giá thấp hơn ở thời điểm nào đó hoặc đến khi chấm dứt thời hạn thuê. 3- Thời hạn thuê bằng 75% hoặc cao hơn so với đời sống hoạt động ước tính của tài sản thuê. 4- Hiện giá của các khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu là 90% so với giá trị tài sản thuê. - Theo quyết định 1205 – CT/CĐKT ngày 14/12/1996 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính. ở Việt Nam, theo quyết định này, một giao dịch được gọi là thuê tài chính phải thoả mãn 1 trong 4 tiêu chuẩn sau: 1- Quyền sở hữu tài sản thuê cố định được chuyển giao cho bên đi thuê khi hết hạn hợp đồng. 2- Hợp đồng cho phép bên đi thuê lựa chọn mua tài sản cố định thuê với giá trị thấp hơn giá trị của tài sản cố định tại một thời điểm nào đó hoặc vào lúc kết thúc hợp đồng. 3- ký hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4 thời gian hoạt động của tài sản thuê. 4- Giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi theo hợp đồng ít nhất bằng 90% giá trị của tài sản cố định thuê. Trên đây cụm từ “ Giá trị tài sản cố định hiện tại của các khoản chi ” được hiểu như là giá trị hiện tại và gọi tắt là hiện giá ( The present Value ), có nghĩa là 1 khoản tiền trong tương lai được quy đổi về hiện tại được tính theo lãi suất. Trong trường hợp thuê giá trị tương lai (Future Value) là số tiền mà người thuê phải thanh toán theo hợp đồng. Hiện giá của khoản thanh toán tiền thuê được tính theo công thức sau: Trong đó: P - Hiện giá f - Số tiền thuê phải trả mỗi kỳ n - Số kỳ thanh toán tiền thuê tới khi kết thúc hợp đồng. - Theo quy định số 16/2001/NĐ-CP của chính phủ về Tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê Cho thuê là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho thuê với bên thuê. Bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đồng cho thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp động cho thuê ít nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng cho thuê. Qua việc xem xét một giao dịch như thế nào được coi là một giao dịch cho thuê tài chính ta có thể thấy việc đưa ra những tiêu chuẩn nhận dạng cụ thể, rõ ràng về giao dịch cho thuê tài chính là rất cần thiết. Một hệ thống tiêu chuẩn chính xác sẽ góp phần phân định rõ ràng giao dịch cho thuê tài chính với các giao dịch thương mại cũng như các hoạt động tài chính khác. b. Phân biệt cho thuê tài chính với Vay vốn Ngân hàng Xét về bản chất, cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung và dài hạn, nhưng nó có những điểm khác cơ bản so với hình thức Vay vốn ngân hàng. Về lãi suất: lãi suất tài trợ của phương thức cho thuê tài chính thường cao hơn so với lãi suất cho vay trung, dài hạn của ngân hàng do nó được tính trên cơ sở lãi suất cho vay trung, dài hạn cộng với một tỷ lệ phần trăm nhất định để bù đắp các chi phí phát sinh đối với tài sản cho thuê cũng như chi phí quản lý của Công ty cho thuê. Về công cụ tài trợ: trong hoạt động tín dụng trung, dài hạn ngân hàng tài trợ cho các doanh nghiệp bằng tiền và doanh nghiệp sẽ sử dụng số tiền đó để mua máy móc, thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng đối với phương thức cho thuê tài chính, bên cho thuê tài trợ trực tiếp bằng các tài sản như máy móc, thiết bị, dây truyền công nghệ.... Về tính an toàn: đối với nhà tài trợ của phương thức cho thuê tài chính cao hơn so với tín dụng trung và dài hạn của ngân hàng vì các nguyên nhân sau: - Cho vay bằng tiền so với cho vay bằng tài sản khó đảm bảo tính mục đích của khoản vay hơn vì: Với cho vay bằng tài sản, công ty CTTC biết chắc khoản tiền mà cho thuê cho vay đã đầu tư vào tài sản - tài sản do công ty CTTC mua và công ty CTTC vẫn là chủ sở hữu tài sản trong suốt thời gian cho thuê nên họ hiểu rõ về tài sản cho thuê, có điều kiện kiểm soát tài sản cho thuê tài chính. Với cho vay bằng tiền thì khác hẳn, người đi vay vẫn là chủ sở hữu của tài sản nên khách hàng của NHTM có thể cầm cố, thế chấp, bán tài sản này cho người khác, trong khi khách hàng của công ty CTTC chỉ là người thuê tài sản nên không có quyền này. - Tính chủ động của NHTM đối với khoản cho vay kém hơn: Khách hàng của công ty CTTC không được huỷ ngang hợp đồng hay chấm dứt hợp đồng trước thời hạn mà hai bên đã k‎ý kết. Nếu bên đi thuê tự ý huỷ bỏ hợp đồng thuê thì bên đi thuê co trách nhiệm phải thanh toán toàn bộ tiền thuê còn lại cho công ty CTTC, trường hợp không thanh toán được tiền thuê còn lại, công ty CTTC có quyền thu hồi tài sản cho thuê và có thể bán hay cho thuê tài sản này cho người khác, đồng thời, bên thuê phải bồi thường toàn bộ thiệt hại của công ty CTTC do việc phá vỡ hợp đồng gây ra. Trong khi đó khách hàng vay vốn để mua tài sản của NHTM có quyền chủ động trả tiền gốc và lãi vay trước thời hạn mà chỉ phải kèm theo một khoản phí trả tiền vay trước hạn. - Khi khách hàng bị phá sản, đối với khách hàng của NHTM, tài sản thuộc quyền sở hữu của khách hàng nên được coi là tài sản xử lý để trả nợ như các tài sản khác của khách hàng, ngược lại với tài sản đi thuê tài chính, khách hàng người đi thuê không có quyền sở hữu tài sản, do vậy khi khách hàng phá sản, tài sản đi thuê tài chính không được coi như tài sản thuộc diện xử lý để trả nợ Về chủ thể tham gia giao dịch: trong cho thuê tài chính ngoài sự tham gia của bên thuê và bên cho thuê còn có sự tham gia của các chủ thể kinh tế khác như các nhà cung cấp,.... còn đối với giao dịch tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng chỉ có sự tham gia của hai bên là người đi vay và ngân hàng. c. Phân biệt Cho thuê tài chính với Cho thuê vận hành Cho thuê có hai loại chính: cho thuê vận hành ( operating leases ) và cho thuê tài chính ( financial lease ). Cho thuê vận hành là loại cho thuê ngắn hạn và bên đi thuê có thể huỷ bỏ hợp đồng và bên cho thuê có trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản. Xuất phát từ các đặc điểm trên dẫn đến tổng chi phí tiền thuê của một hợp đồng nhỏ hơn nhiều so với giá trị của tài sản. Thông thường khi kết thúc hợp đồng bên cho thuê có thể gia hạn hợp đồng, ký hợp đồng mới hoặc tìm một khách hàng thuê khác. Như vậy, cho thuê vận hành và cho thuê tài chính có những điểm giống nhau cơ bản sau: Quyền sở hữu: Có sự tách biệt giữa quyền sở hữu pháp lý và quyền sở hữu kinh tế. Ưu đãi về thuế: Người cho thuê hưởng và khấu trừ vào tiền thuê. Bồi thường bảo hiểm: Người cho thuê được hưởng tiền bồi thường bảo hiểm. Tuy nhiên, cho thuê vận hành và cho thuê tài chính còn có những điểm khác nhau cơ bản sau: Stt Tiêu thức Cho thuê vận hành Cho thuê tài chính 1 Thời hạn thuê Ngắn hạn Trung và dài hạn 2 Quyền huỷ bỏ hợp đồng Hợp đồng cho thuê có thể được huỷ bỏ Bên cho thuê và bên thuê không được phép huỷ bỏ hợp đồng 3 Trách nhiệm bảo trì, đóng bảo hiểm và thuế tài sản Bên cho thuê Bên đi thuê 4 Mức thu hồi vốn của một hợp đồng thuê Tổng số tiền thuê của một hợp đồng nhỏ hơn nhiều so với giá trị tài sản (Tổng số tiền tài trợ) Tổng số tiền thuê gần bằng hoặc lớn hơn giá trị tài sản. 5 Chuyển quyền sở hữu hoặc bán tài sản Không có thoả thuận chuyển quyền sở hữu hoặc bán lại tài sản cho bên đi thuê Trong hợp đồng thuê thường có điều khoản thoả thuận chuyển quyền sở hữu hoặc bán hoặc cho thuê tiếp 6 Trách nhiệm về rủi ro liên quan đến tài sản Bên cho thuê chịu phần lớn các rủi ro, chỉ trừ rủi ro do bên đi thuê gây ra Bên đi thuê chịu phần lớn các rủi ro, kể cả rủi ro không phải do mình gây ra d. Hợp đồng cho thuê tài chính Các giao dịch cho thuê tài chính đều được thực hiện thông qua một hợp đồng cho thuê tài chính, trong hợp này phải thể hiện đầy đủ các thông tin về bên cho thuê, bên thuê, tài sản cho thuê, thời hạn cho thuê, tiền thuê, quyền chọn mua, các trường hợp và cách xử lý việc chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và một số thông tin khác theo từng hợp đồng cho thuê tài chính cụ thể. Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại hợp đồng kinh tế được ký kết giữa bên cho thuê và bên đi thuê về việc cho thuê tài sản trong một thời gian nhất định thoã mãn điều kiện là cho thuê tài chính. Hợp đồng cho thuê tài chính sẽ bao gồm các nội dung sau: Bên thuê là người nắm quyền sử dụng tài sản thuê, là các cá nhân, các doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trực tiếp sử dụng tài sản thuê trong thời hạn thuê. Quyền và nghĩa vụ của bên thuê được lập theo quy định của pháp luật và một số thoả thuận riêng của hai bên (nếu có). Bên cho thuê là người nắm quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản cho thuê, là các công ty cho thuê có tư cách pháp nhân, được cấp giấy phép hoạt động. Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê được lập theo quy định của pháp luật và kèm theo một số thoả thuận riêng của hai bên (nếu có). Tài sản cho thuê là động sản như máy móc, thiết bị, ... và bất động sản như văn phòng, nhà cửa. Tuy nhiên, theo khoản 3, điều 2 Nghị định 64/CP ngày 09/10/1995 của Việt Nam thì tài sản thuê chỉ có máy móc, thiết bị và các động sản khác đạt tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, có thời gian sử dụng hữu ích trên một năm được sản xuất trong nước hoặc nhập khẩu. Thời hạn thuê là thời gian bên thuê sử dụng tài sản thuê và trả tiền thuê, được bên cho thuê và bên thuê thoả thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính. Trong hoạt động cho thuê tài chính, thời hạn cho thuê có thể chia thành hai giai đoạn theo sự thoả thuận của hai bên, gồm: - Thời hạn cho thuê cơ bản là thời hạn mà các bên không được huỷ ngang hợp đồng nếu không có sự chấp thuận của bên kia. Trong suốt thời gian này bên cho thuê kỳ vọng thu hồi đủ số tiền bỏ ra ban đầu cộng với một khoản tiền lãi tính trên số vốn đã bỏ ra ban đầu. - Thời hạn cho thuê gia hạn tuỳ chọn là thời hạn cho thuê mà bên thuê có thể tiếp tục thuê tài sản tuỳ theo ý muốn của họ. Tiền thuê trong giai đoạn này thường rất thấp so với tiền thuê trong thời hạn thuê cơ bản, thường chiếm tỷ lệ 1-2% so với tổng số vốn đầu tư ban đầu cho tài sản cho thuê của bên cho thuê. Tiền thuê là khoản tiền bên thuê phải thanh toán cho bên cho thuê theo thoả thuận trong hợp đồng. Các yếu tố hình thành tiền thuê - Chi phí mua thiết bị: đây là khoản chi phí lớn nhất, tác động đến mức tiền thuê mạnh mẽ nhất. Nó chiếm phần tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn đầu tư vào tài sản cho thuê, nó là điều kiện để quyết định thời hạn cho thuê cơ bản và phần chi phí sử dụng vốn tài trợ mà bên thuê phải trả. Phần chi phí này có thể tính theo mức lãi suất cố định hoặc thả nổi tuỳ theo sự lựa chọn và thoả thuận giữa người cho thuê và người thuê. Thoả thuận này xuất phát từ các yếu tố tình hình thị trường, lạm phát, công nghệ, cạnh tranh và nhiều yếu tố khác. - Chi phí marketing: bao gồm tất cả chi phí giúp cho việc mua thiết bị cho thuê, chi phí công chứng đối với những tài sản có giá trị cao và chi phí trả hoa hồng môi giới (nếu có). - Chi phí quản trị chung: bao gồm tất cả các loại chi phí cố định và chi phí biến đổi trong quản lý của văn phòng công ty cho thuê, được phân bổ cho thiết bị thuê và một tỷ lệ nhất định để dự phòng cho khoản tiền đã chi tiêu cho giao dịch cho thuê đó. - Khoản dự phòng trong trường hợp không thu được vốn tài trợ: Độ lớn của khoản dự phòng cho sự thiệt hại do không thu được vốn tài trợ được xác định trên cơ sở kinh nghiệm hoạt động cho thuê trước đó. Đối với những hợp đồng có giá trị lớn tỷ lệ này thường có giá trị thấp hơn so với các hợp đồng có giá trị nhỏ. - Lợi nhuận mong đợi trong tương lai : Lợi nhuận chịu sự chi phối của yêu tố cạnh tranh tại phu vực thị trường đang diễn ra giao dịch. Do đó, người cho thuê thường chấp nhận xác định mức tiền thuê thấp hơn đối với việc tài trợ cho những khách hàng lớn nếu thấy trong tương lai còn có thể thu được lợi nhuận từ khách hàng này và tài sản thuê chỉ là một phần của các dịch vụ hỗ trợ kèm theo. Đây là một chiến lược thu hút khách hàng của các công ty cho thuê. - Giá trị còn lại của tài sản cho thuê khi kết thúc hợp động cho thuê: Tuỳ theo giá trị còn lại của tài sản cho thuê khi kết thúc thời hạn cho thuê mà người cho thuê tính toán mức tiền thuê cho phù hợp. Nếu tài sản được chuyển giao cho người thuê vào thời điểm kết thúc hợp đồng với mức giá tượng trưng hay hoàn toàn miễn phí thì người cho thuê thường xác định mức tiền thuê cao hơn so với giá thị trường của tài sản được chuyển giao hay trả lại cho người thuê. Ngoài những yếu tố trên người cho thuê còn cung cấp các loại phụ tùng, các thiết bị kỹ thuật hay các loại dịch vụ bảo trì khác theo hình thức tài trợ cho thuê tài chính trọn gói thì chi phí này cũng được tính vào tiền thuê. Trong trường hợp không phải là hợp đồng tài trợ trọn gói những chi phí này không được tính vào tiền thuê mà phải được hai bên ký kết những phụ kiện hợp đồng để cung cấp và thanh toán riêng rẽ. Một số phương pháp tính tiền thuê: Tuỳ theo từng loại khách hàng cũng như tuỳ theo từng đối tượng của hợp đồng cho thuê tài chính mà bên cho thuê có thể lựa chọn phương pháp thích hợp áp dụng trong hợp đồng cho thuê tài chính để đem lại hiệu quả cao nhất. Sau đây là một số phương pháp tính tiền thuê cơ bản: - Nếu khi kết thúc hợp đồng thuê, người cho thuê chuyển quyền sở hữu tài sản cho người thuê miễn phí: có 3 phương pháp tính + Phương pháp tính tiền thuê vào cuối kỳ với số tiền bằng nhau: u = p: Tổng số tiền tài trợ n: Số kỳ thanh toán i: Lãi suất u: Số tiền thanh toán mỗi kỳ Khi nhận được tiền thuê do khách hàng trả mỗi kỳ thì người cho thuê sẽ xác định: Tiền lãi trong kỳ = GTCL của tài sản cho thuê tính đến kỳ thanh toán * Lãi suất Vốn gốc còn lại = Số tiền bên thuê trả từng kỳ - Tiền lãi +._. Phương pháp tính tiền thuê vào cuối kỳ với số tiền giảm dần: Nếu gọi ,,...là số tiền thanh toán mỗi kỳ và g là số tiền giảm mỗi kỳ kế tiếp. Khi đó = - g = - g ... = - g Khi đó kỳ thanh toán tiền được tính như sau: + Phương pháp tính tiền thuê cuối kỳ với số tiền tăng dần: Tuy nhiên nếu giả thiết tiền thuê thanh toán tăng tuyến tính, trả vào cuối kỳ thì khi đó = + g = + g ... = - g Công thức tính tiền thuê ở trên trở thành: - Nếu khi kết thúc hợp đồng thuê, người cho thuê sẽ bán lại tài sản cho người thuê theo một giá tượng trưng được xác định trước. + Công thức tính tiền thuê có giá bán ấn định khi kết thúc hợp đồng, thanh toán cuối kỳ. Khi đó gọi s là giá bán tài sản thuê khi hết hạn hợp đồng thuê thì các kỳ thanh toán được tính như sau: + Công thức tính tiền thuê có giá bán ấn định khi kết thúc hợp đồng, thanh toán đầu kỳ. (Nguồn: Sách tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua của Trần Tô Tử và Nguyễn Hải San) Các trường hợp chấm dứt hợp đồng trước hạn - Công ty cho thuê có thể kết thúc hợp đồng trước khi kết thúc thời hạn thuê nếu: + Bên thuê không trả tiền thuê theo quy định trong hợp đồng. + Bên thuê vi phạm một trong các điều khoản của hợp đồng. + Bên thuê mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể. + Trong trường hợp bên thuê phải có người bảo lãnh, nếu người bảo lãnh mất khả năng thanh toán, phá sản, giải thể nhưng bên thuê không tìm được người bảo lãnh khác thay thế được công ty cho thuê chấp nhận. - Bên thuê có thể chấm dứt hợp đồng trước khi thời hạn cho thuê kết thúc trong các trường hợp sau: + Tài sản cho thuê không được giao đúng thời hạn do lỗi của công ty cho thuê. + Bên cho thuê vi phạm các điều khoản trong hợp đồng thuê. - Hợp đồng được chấm dứt trước khi kết thúc thời hạn cho thuê trong trường hợp: tài sản thuê bị mất, hỏng, không thể phục hồi, sửa chữa. 1.1.2. các phương thức Cho thuê Tài chính Quan hệ cho thuê không chỉ bó hẹp trong phạm vi một nước, mà nó đã trở thành một mối liên hệ quốc tế, như phần lớn các máy bay đang sử dụng của hãng hàng không quốc gia Việt Nam là thuê của các tổ chức nước ngoài, trong đó một phần là thuê theo hợp đồng cho thuê tài chính. Các Công ty cho thuê, các ngân hàng lớn của các nước phát triển đã thâm nhập vào các nước đang phát triển dưới hình thức mở chi nhánh Công ty cho thuê nước ngoài hoặc liên doanh với các tổ chức tài chính sở tại. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một số khác biệt trong hoạt động cho thuê giữa các nước phát triển và các nước đang phát triển. Sự khác biệt này xuất phát từ điều kiện kinh tế và môi trường kinh doanh. ở các nước phát triển việc áp dụng các phương thức tài trợ mang tính phổ biến hơn, cách thức vận dụng linh hoạt hơn, mặt khác các công ty cho thuê không chỉ thực hiện nghiệp vụ cho thuê tài chính, mà còn thực hiện nghiệp vụ cho thuê vận hành, vì ở các nước này thị trường hàng hoá cũ hoạt động tốt hơn. 1.1.2.1. Các loại cho thuê tài chính cơ bản a. Cho thuê tài chính hai bên. Theo phương thức này, trước khi thực hiện nghiệp vụ cho thuê, tài sản cho thuê đã thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê bằng cách mua tài sản hoặc tự xây dựng. Hình 1. Tài trợ cho thuê hai bên (2a) Chuyển giao quyền sử dụng (1) Ký hợp đồng thuê Bên đi thuê Bên cho thuê ( 2b ) Giao tài sản (3) Thanh toán tiền thuê (1) Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng cho thuê (2a) Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao sử dụng cho bên đi thuê. (2b) Bên cho thuê giao tài sản cho bên đi thuê. Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê. b. Cho thuê tài chính ba bên. Theo phương thức này, bên cho thuê chỉ thực hiện việc mua tài sản theo yêu cầu của bên đi thuê và đã được thoả thuận theo hợp đồng thuê. Quy trình tài trợ có sự tham gia của ba bên bao gồm: Bên cho thuê, bên đi thuê và bên cung cấp. Hình 2: Tài trợ cho thuê ba (2c) 2a (1b) (1a) 2d (3) bên cho thuê bên cung cấp bên đi thuê (2b) 1a. Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng thuê tài sản. 1b. Bên cho thuê và bên cung cấp ký hợp đồng mua tài sản. 2a. Bên cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê. 2b. Bên cung cấp chuyển giao tài sản cho bên đi thuê. 2c. Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản. 2d. Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho bên đi thuê. Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê. Phương thức tài trợ có sự tham gia của ba bên còn được gọi là phương thức cho thuê tài chính thuần (net lease). Đây là phương thức cho thuê áp dụng phổ biến nhất. vì có các ưu điểm sau: - Bên cho thuê không phải mua tài sản trước và như vậy sẽ làm cho vòng quay của vốn nhanh hơn vì không phải dự trữ tồn kho. - Việc chuyển giao tài sản được thực hiện trực tiếp giữa bên cung cấp và bên đi thuê và giữa họ cũng chịu trách nhiệm trực tiếp về tình trạng hoạt động của tài sản. Như vậy, bên cho thuê trút bỏ được gánh nặng về tình trạng hoạt động của tài sản. - Bên cho thuê không trực tiếp nhận tài sản rồi sau đó chuyển giao cho bên đi thuê sẽ hạn chế được rủi ro liên quan đến việc từ chối nhận hàng của bên đi thuê do những sai sót về mặt kỹ thuật. Xuất phát từ những ưu điểm trên đây mà các ngân hàng và các tổ chức tài chính đã áp dụng chủ yếu phương thức này để tài trợ cho các doanh nghiệp, đặc biệt đối với cho thuê thiết bị. Trên thế giới 80% hợp đồng cho thuê áp dụng theo phương thức này. 1.1.2.2. Các loại cho thuê tài chính đặc biệt a. Tái cho thuê Tái cho thuê hay còn gọi là bán và thuê lại (sale and leaseback) là một dạng đặc biệt của phương thức cho thuê có sự tham gia của hai bên. Trong hoạt động kinh doanh có nhiều doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản cố định hiện có, nhưng lại không đủ uy tín để vay vốn ngân hàng. Trong trường hợp đó họ bắt buộc bán lại một phần tài sản cố định cho ngân hàng hoặc Công ty cho thuê tài chính, sau đó phải thuê lại tài sản để sử dụng và như vậy sẽ có thêm nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Đôi lúc các định chế tài chính áp dụng phương thức tài trợ này như là một biện pháp giải quyết nợ quá hạn mà không cần dùng đến biện pháp thanh lý, tức là đề nghị tuyên bố phá sản doanh nghiệp khi lâm vào tình trạng khó khăn tài chính. Hình 3: Tái cho thuê 2b 2a Bên đi thuê (Doanhnghiệp) Bên cho thuê (NHhoăc công ty tài chính) 2a 1a 1b 2c 3 1a. Bên cho thuê (NH hoặc Công ty tài chính) ký hợp đồng mua tài sản của doanh nghiệp. 1b. Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng cho thuê. 2a. Bên đi thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê. 2b. Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng cho bên đi thuê được phép sử dụng tài sản. 2c. Bên cho thuê trả tiền mua tài sản cho bên đi thuê. Nếu là biện pháp giải quyết nợ quá hạn thì khoản thanh toán này là khoản thu hồi nợ quá hạn. 3. Theo định kỳ bên đi thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê. b. Cho thuê hợp tác Cho thuê hợp tác là một phương thức đặc biệt, biến tướng từ hai loại cho thuê cơ bản nói trên. Trong cho thuê hợp tác bên cho thuê đã vay phần lớn vốn từ các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác để mua tài sản cho thuê. Đối với các tài sản thuê có giá trị lớn, một bên cho thuê không đủ vốn để tài trợ hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn vào một khách hàng. Trong trường hợp này một hoặc một số bên cho thuê hợp tác với một hoặc nhiều bên cho vay khác để cùng tài trợ. Hình 4: Cho thuê hợp tác Bên cho thuê (Leasor) ) Bên cho vay (Lender) 3b 2b 1c 2a 1b 1a 2c 3a Bên đi thuê (Leasee) Bên cung cấp (Supplier) 1d 1a. Bên cho thuê và bên đi thuê ký hợp đồng cho thuê. 1b. Bên cho thuê và bên cung cấp ký hợp đồng mua tài sản. 1c. Bên cho thuê và bên cho vay ký hợp đồng tín dụng. 1d. Bên cung cấp và bên đi thuê ký hợp đồng về bảo hành và bảo dưỡng tài sản. 2a. Bên cung cấp lập thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê 2b. Bên cho thuê thanh toán tiền mua tài sản bằng một phần vốn của mình và một phần vốn đi vay. 2c. Bên cho thuê lập thủ tục chuyển giao quyền sử dụng tài sản cho bên đi thuê. 3a. Bên đi thuê thanh toán tiền thuê theo định kỳ. 3b. Bên cho thuê thanh toán tiền thuê cho bên cho vay. Trong cho thuê hợp tác, vốn vay thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số tiền tài trợ, khoảng 60% - 80% và khoản cho vay được bảo đảm bằng chính tài sản cho thuê và cam kết chuyển nhượng hợp đồng cho thuê và các khoản tiền thuê. c. Cho thuê giáp lưng Cho thuê giáp lưng là phương thức mà trong đó, thông qua sự đồng ý của bên cho thuê, bên đi thuê thứ nhất cho bên đi thuê thứ hai thuê lại tài sản đó. Trên thực tế, thực chất bên đi thuê thứ nhất chỉ là trung gian giữa bên cho thuê và bên đi thuê thứ hai, nhưng về mặt pháp lý thì bên thuê thứ nhất phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện hợp đồng với bên cho thuê. Với phương thức thuê này, mặc dù bên đi thuê thứ hai không đủ điều kiện để trực tiếp thuê với bên cho thuê, nhưng vẫn thuê được tài sản để sử dụng cho sản xuất kinh doanh. Hình 5: Cho thuê giáp lưng Bên đi thuê thứ 2 Bên đi thuê thứ 1 Bên cho thuê (3b) (1a) (1b) (2) 2 (3a) 1a. Bên cho thuê và bên thuê thứ nhất ký hợp đồng cho thuê. 1b. Bên thuê thứ nhất và bên thuê thứ hai ký hợp đồng cho thuê. 2. Bên cho thuê, hoặc bên cung cấp chuyển giao tài sản cho bên đi thuê thứ hai. 3a. Bên đi thuê thứ hai trả tiền thuê cho bên thuê thứ nhất. 3b. Bên đi thuê thứ nhất trả tiền thuê cho bên cho thuê. Số tiền mà bên thuê thứ hai phải trả thường cao hơn số tiền mà bên thuê thứ nhất trả cho bên cho thuê. Phần chênh lệch giữa hai khoản tiền đó bên đi thuê thứ nhất được hưởng, coi như hoa hồng trách nhiệm. Ngoài ra, cho thuê giáp lưng cũng áp dụng trong trường hợp bên đi thuê thứ nhất đã thuê tài sản và sử dụng tài sản đó nhưng sau đó không có nhu cầu sử dụng thì có thể cho bên khác thuê lại với sự đồng ý của bên cho thuê. 1.1.3. Kinh nghiệm của một số nước về hoạt động Cho thuê tài chính 1.1.3.1. Hoạt động cho thuê tài chính ở Nhật Bản Vào cuối những năm 80 hầu hết các Công ty cho thuê tài chính ở Nhật Bản đều tập trung kinh doanh bất động sản, họ cho rằng tại Nhật giá trị đất đai và các công sở sẽ tăng không bao giờ giảm. Tuy nhiên vào năm 1990, Chính phủ Nhật đã ra một loạt các chính sách hạn chế sự bùng nổ của thị trường bất động sản. Kết quả là một loạt các Công ty cho thuê tài chính của Nhật bị phá sản. Để thích hợp với tình hình mới, đa phần các Công ty cho thuê tài chính ở Nhật đã chuyển sang kinh doanh cho thuê trên thị trường động sản. Nhật là quốc gia đầu tiên và cũng là nước phát triển nhất về hoạt động cho thuê tài chính tại Châu á. Tính đến năm 1986, tổng giá trị tài sản cho thuê của Nhật đã đạt tới con số 32 tỷ USD. Người ta ước tính có tới 90% số doanh nghiệp ở Nhật sử dụng phương thức tài trợ bằng cho thuê tài chính để mua sắm thiết bị phục vụ sản xuất. 1.1.3.2. Hoạt động cho thuê tài chính ở Trung Quốc Cùng với chính sách mở cửa, hoạt động cho thuê tài chính ở Trung Quốc được áp dụng từ đầu những năm 1980 với mục tiêu cơ bản là nhập khẩu những máy móc, thiết bị tiên tiến từ nước ngoài. Tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp cho thuê của Trung Quốc được thể hiện rất rõ qua tốc độ phát triển của doanh số cho thuê: năm 1981 chỉ đạt được 13,2 triệu USD, năm 1984 là 450,1 triệu USD, năm 1986 là 1 tỷ USD; đến nay chỉ tính riêng vốn nước ngoài đầu tư qua con đường cho thuê tài chính vào Trung Quốc đã chiếm hơn 7 tỷ USD Tất cả các nghiệp vụ cho thuê đều phải chịu sự chi phối của kế hoạch và chính sách của Nhà nước. Chính phủ Trung Quốc đã dành những điều kiện ưu đãi cho hoạt động cho thuê tài chính trên các mặt như: miễn giảm thuế, được phép thu hút vốn từ quỹ tín thác. quỹ trợ cấp mất việc làm. quỹ nghiên cứu khoa học, quỹ hỗ trợ xã hội, thậm chí còn được nhận tiền gửi ngoại tệ và vay vốn nước ngoài. 1.1.3.3. Hoạt động cho thuê tài chính ở Hàn Quốc Đứng trước thị trường nhu cầu vốn đầu tư cho máy móc thiết bị rất lớn, trong khi tỷ lệ nợ của các doanh nghiệp ở Hàn Quốc trong những năm 70 đang ở mức độ cao, khó có thể vay vốn thêm từ các ngân hàng, nên lựa chọn phương thức tài trợ bằng cho thuê lúc này là phù hợp nhất đối với các doanh nghiệp. Bên cạnh đó các quy định khắt khe về vay vốn trung và dài hạn của ngân hàng đối với các doanh nghiệp cùng với chính sách tiền tệ thắt chặt của Chính phủ làm cho các doanh nghiệp tìm đến hình thức cho thuê tài chính nhiều hơn, cho thuê tài chính trở nên hấp dẫn hơn. Vì vậy, cho thuê tài chính đã hình thành và phát triển ở Hàn Quốc vào những năm 70. Với nỗ lực thúc đẩy và tạo điều kiện phát triển thị trường cho thuê tài chính, Chính phủ đã ban hành Luật Cho thuê năm 1973. Đến 1979, giá trị các hợp đồng cho thuê tài chính mỗi năm tăng lên gấp đôi. Chỉ tính riêng năm 1991, giá trị của những hợp đồng mới đã đạt 7,2 ngàn tỷ Won (9,4 tỷ USD). Sự đóng góp của hoạt động cho thuê trong đầu tư máy móc thiết bị là 13,9%. 1.1.3.4. Hoạt động cho thuê tài chính ở Malaixia Công ty cho thuê tài chính đầu tiên ở Malaixia được thành lập năm 1974. ở Malaixia, các công ty cho thuê tài chính chủ yếu thực hiện các giao dịch cho thuê thiết bị và tiến hành cả hai hình thức: Cho thuê tài chính và Cho thuê trả góp. Cho thuê trả góp ở Malaixia có chiều hướng tăng lên: Năm 1989, cho thuê tài chính chiếm 86%, cho thuê trả góp chiếm 14% trong tổng số hợp đồng cho thuê thì năm 1990 tỷ lệ này thay đổi tương ứng là 79,3% và 20,7%. Có thể nói sự phát triển của hình thức cho thuê trả góp ở Malaixia là: Các công ty cho thuê tài chính ở Malaixia không có đủ nguồn vốn dài hạn tương ứng với những khoản cho thuê dài hạn. Bên cạnh đó, khách hàng thích hình thức trả góp bởi tính linh hoạt của nó. Khi muốn chấm dứt hợp đồng sớm, người thuê chỉ phải trả phần dư nợ cho người cho thuê mà không phải bồi thường một khoản thất thu nào về thuế; nếu hợp đồng cho thuê kết thúc, người thuê được quyền sở hữu tài sản mà không phải mua lại tài sản đó với giá thị trường tại thời điểm chuyển quyền sở hữu (Quy định về cho thuê tài chính ở Malaixia không có quyền chọn bán ở thời điểm kết thúc hợp đồng). 1.1.3.5. Bài học rút ra qua kinh nghiệm của các nước Cùng là hoạt động cho thuê tài chính nhưng xuất phát từ điều kiện kinh tế và môi trường kinh doanh của mỗi quốc gia khác nhau mà cách thức vận dụng cũng như việc áp dụng của nó ở các quốc gia có những khác biệt nhất định. Tuy nhiên giữa các nước trong khu vực Châu á có sự tương đồng nhau về điều kiện phát triển, môi trường, phong tục tập quán. Do đó qua kinh nghiệm hình thành và phát triển hoạt động cho thuê tài chính của một số nước trong khu vực như đã nêu trên chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Thứ nhất: Về mặt pháp l‎ý Chính phủ phải tạo ra một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ cho hoạt động cho thuê tài chính và có những chính sách ưu đãi đối với hoạt động này như chính sách thuế. Thứ hai: Hoạt động cho thuê tài chính chịu ảnh hưởng bởi kinh tế của mỗi quốc gia. Khi nền kinh tế phát triển thì nhu cầu về thuê tài chính cũng phát triển và ngược lại, vì vậy trong thời kỳ kinh tế gặp khủng hoảng các công ty cho thuê tài chính nên chú ý nhiều hơn đến vấn đề rủi ro trong hoạt động vì dù có thu hồi được tài sản thì giá trị của tài sản cho thuê cũng sụt giảm từ 20% đến 30%. Thứ ba: Về thị trường hoạt động cho thuê tài chính chủ yếu tập trung vào các ngành công nghiệp, tài sản cho thuê chủ yếu là máy móc thiết bị thi công cơ giới và phương tiện vận tải. Đối tượng của các công ty cho thuê tài chính chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, khi thị trường cho thuê đã phát triển mạnh như ở Hàn Quốc thì có thể tham gia vào thị trường nước ngoài với các doanh nghiệp lớn, dự án lớn. Thứ tư: Trong thời gian đầu hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tập trung vào các động sản, sau đó cùng với sự phát triển và kinh nghiệm các công ty này mới mở rộng sang lĩnh vực hoạt động cho thuê vận hành và các hoạt động tài chính khác. Bên cạnh đó trong quá trình hoạt động các công ty này đều nhận được sự hỗ trợ to lớn từ phía các ngân hàng. Các công ty này có thể là công ty con của ngân hàng mẹ như ở Trung Quốc, Malaixia. hoặc là công ty độc lập nhưng vay vốn rất nhiều từ ngân hàng như ở Nhật Bản. Khi nền kinh tế bị khủng hoảng chỉ có các công ty là thành viên của các ngân hàng thương mại hoặc những công ty cho thuê tài chính có quy mô lớn mới có thể tồn tại. Mặt khác, muốn phát triển các cho thuê cho thuê tài chính phải đưa ra thủ tục cho thuê thật đơn giản và có các nghiệp vụ hỗ trợ cho các doanh nghiệp thuê như: tư vấn... 1.1.4. Những lợi ích của hoạt động cho thuê tài chính Như chúng ta đã biết hoạt động cho thuê tài chính ngày càng phát triển cả về quy mô và chất lượng, vậy câu hỏi đặt ra là tại sao hoạt động này lại có thể phát triển như vậy? 1.1.4.1. Lợi ích của cho thuê tài chính đối với nền kinh tế Cho thuê tài chính góp phần thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế Do cho thuê tài chính có mức độ rủi ro thấp, phạm vi tài trợ rộng rãi hơn các hình thức khác nên cho thuê tài chính có thể khuyến khích các thành phần kinh tế, cá nhân và nhất là các định chế tài chính đầu tư vốn để kinh doanh. Do đó hoạt động cho thuê tài chính đã huy động được những nguồn vốn còn nhàn rỗi trong nội bộ nền kinh tế, thậm chí thu hút vốn từ các lĩnh vực đầu tư khác. Mặt khác, trong điều kiện giao lưu quốc tế ngày nay, cho thuê tài chính góp phần giúp cho các quốc gia thu hút các nguồn vốn quốc tế thông qua các loại máy móc thiết bị cho thuê mà quốc gia đó nhận được. Đồng thời, hình thức thu hút vốn đầu tư nước ngoài này không làm tăng khoản nợ nước ngoài của quốc gia nhận được thiết bị cho thuê. Cho thuê tài chính góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ, thiết bị, cải tiến khoa học kỹ thuật Thông qua hoạt động cho thuê tài chính, các loại máy móc, thiết bị có trình độ công nghệ tiên tiến được đưa vào các doanh nghiệp góp phần nâng cao trình độ công nghệ của nền sản xuất trong những điều kiện có khó khăn về vốn đầu tư. Ngay cả đối với các nền kinh tế phát triển cao như Nhật Bản, Hoa Kỳ, Pháp ... cho thuê tài chính vẫn phát huy tác dụng, cập nhật hoá công nghệ hiện đại cho nền kinh tế. Đối với các quốc gia chậm phát triển, nếu có những biện pháp đúng đắn, đồng bộ và toàn diện thì tác dụng của nó còn mạnh mẽ hơn nhiều. nhất là trong thời đại ngày nay, việc đầu tư công nghệ hiện đại một cách kịp thời nhanh chóng đối với nền kinh tế chậm phát triển gặp rất nhiều khó khăn. Nếu có những chính sách đúng đắn, hoạt động cho thuê tài chính có thể đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ nhanh chóng. 1.1.4.2. Lợi ích đối với người cho thuê ( Công ty cho thuê tài chính ) Đối với bên cho thuê, việc ra đời và áp dụng phương thức tài trợ cho thuê không phải là loại hình thay thế các phương thức tài trợ cổ điển như cho vay trung và dài hạn bằng tiền, mà nó là hình thức tài trợ bổ sung nhằm tạo điều kiện cho các định chế tài chính mở rộng khách hàng và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đứng trên góc độ người cho thuê phương thức tài trợ này có một số lợi ích so với loại tài trợ khác như sau: Cho thuê tài chính là hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao Bên cho thuê với tư cách là chủ sở hữu pháp lý, vì vậy họ được quyền quản lý và kiểm soát tài sản theo các hợp đồng cho thuê. Trong trường hợp bên đi thuê không thanh toán tiền thuê đúng hạn thì bên cho thuê được thu hồi tài sản, đồng thời buộc bên đi thuê phải bồi thường các thiệt hại. Khi tiến hành tài trợ thông qua hoạt động cho thuê tài chính sẽ đảm bảo cho khoản tài trợ được sử dụng đúng mục đích mà người tài trợ yêu cầu nhờ vậy giúp hạn chế “rủi ro đạo đức” và đảm bảo khả năng trả nợ của người thuê. Bên cạnh đó, do hoạt động cho thuê tài chính tài trợ bằng hiện vật nên người cho thuê hạn chế được ảnh hưởng của lạm phát, không làm “teo” dần khoản vốn đã tài trợ. Hoạt động cho thuê tài chính giúp cho người cho thuê không bị khó khăn về khả năng thanh toán do tiền thuê và vốn gốc được thu hồi dựa trên hiệu quả hoạt động của tài sản cho thuê, mặc dù tài trợ bằng cho thuê tài chính mang tính chất trung và dài hạn nhưng việc thanh toán tiền thuê định kỳ dựa vào kết quả hoạt động của doanh nghiệp đã giúp nâng cao tính thanh khoản của hình thức tài trợ này. Cho thuê tài chính cho phép người cho thuê linh hoạt trong hoạt động kinh doanh Trong hoạt động cho thuê tài chính, vốn tài trợ mua máy móc, thiết bị cho thuê được thu hồi dần cho phép công ty cho thuê sử dụng nguồn vốn này để tái đầu tư vào các hoạt động sinh lời khác mà vẫn giữ vững nhịp độ hoạt động. Người cho thuê có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh do tập trung vào lĩnh vực hẹp nên có điều kiện đầu tư theo chiều sâu cả về kinh tế kỹ thuật và hoạt động nghiệp vụ. Công ty cho thuê tài chính có ưu thế hơn trong việc xử lý hợp đồng bị đổ vỡ Ngay cả khi giao dịch cho thuê tài chính bị đỗ vỡ, nhờ có mạng lưới giao dịch rộng rãi, các công ty cho thuê tài chính vẫn có thể sử dụng tài sản đó để sản cho một chủ thể khác thuê. Và nếu cần, công ty cho thuê tài chính cũng có thể cải tiến tài sản đó cho phù hợp với người thuê mới hoặc trực tiếp tái xuất các tài sản cho thuê đã thu hồi. Hồ sơ, thủ tục cho thuê đơn giản hơn nhiều so với xin vay vốn ngân hàng Tất cả các thủ tục trong cho thuê tài chính đều đi thẳng vào vấn đề cho cả người đi thuê và người cho thuê quan tâm vì vậy nó tránh được các phức tạp, rườm rà so với vay vốn. 1.1.4.3. Lợi ích của cho thuê tài chính đối với doanh nghiệp đi thuê Người thuê có thể gia tăng năng lực sản xuất trong những điều kiện hạn chế về nguồn vốn đầu tư Trong quá trình kinh doanh, nhu cầu gia tăng công suất, sử dụng tài sản cố định của doanh nghiệp có thể tăng lên bất cứ lúc nào, nó đòi hỏi có sự tích luỹ. Song, khả năng tài chính của doanh nghiệp không phải luôn đáp ứng được nhu cầu đó, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn trung và dài hạn, nếu đi vay theo các tổ chức tín dụng thông thường lại thiếu tài sản thế chấp thì rất khó khăn. Thông qua các tổ chức cho thuê tài chính, các doanh nghiệp có thể từ tay không mà vẫn có thể có được máy móc thiết bị phục vụ yêu cầu sản xuất và sau một số năm có thể có được một số tài sản tích luỹ nhất định. Những doanh nghiệp không thoả mãn các yêu cầu vay vốn của ngân hàng cũng có thể nhận được vốn tài trợ qua cho thuê tài chính Các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ hay những doanh nghiệp vừa mới thành lập, chưa có uy tín với ngân hàng thường rất khó thoả mãn các điều kiện chống rủi ro, nên thường bị ngân hàng từ chối cho vay bởi lẽ ngân hàng không trực tiếp quản lý được các khoản tiền cho khách hàng vay. Khi có rủi ro xảy ra, khách hàng không trả được nợ, thì ngân hàng chỉ có quyền hạn giống như các chủ nợ khác trong khuôn khổ vật thế chấp mà thôi. Trái lại, trong hoạt động cho thuê người cho thuê nắm quyền sở hữu pháp lý đối với tài sản cho thuê và họ có thể trực tiếp kiểm soát theo dõi việc sử dụng tài sản, tình hình kinh doanh của người thuê. Nếu người đi thuê không trả được tiền thuê thì người cho thuê sẽ tiến hành thu hồi lại tài sản với tư cách là chủ sở hữu pháp lý về tài sản đó. Do đó, các công ty cho thuê tài chính có thể sẵn sàng thoả mãn nhu cầu đầu tư của khách hàng ngay cả khi tài chính, uy tín của họ có những hạn chế, Hơn nữa, do các công ty cho thuê tài chính chuyên biệt kinh doanh các loại tài sản thiết bị nên các công ty cho thuê tài chính thường có mạng lưới hoạt động rộng rãi, có trình độ chuyên môn sâu, thiết bị, công nghệ cao nên họ có thể cải tiến, điều chuyển các loại tài sản cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng ở từng khu vực thị trường khác nhau. Cho thuê tài chính giúp cho người đi thuê không bị đọng vốn đầu tư vào tài sản cố định Trong quá trình hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp có thể sẽ có lúc muốn thay đổi hoạt động kinh doanh của mình khi nhận thấy rằng lĩnh vực mình đang kinh doanh là không có lợi hoặc trở nên bất lợi. Thông thường, thay đổi hoạt động kinh doanh sẽ kéo theo sự thay đổi cơ cấu vốn và tài sản cố định. Trong những trường hợp thay đổi tài sản cố định như vậy giá bán tài sản rất thấp so với giá thực tế của tài sản hoặc không bán được do doanh nghiệp không có khả năng tìm kiếm khách hàng có nhu cầu đúng loại tài sản đó. Như vậy, những tài sản cố định được mua sắm thường dễ bị ứ đọng vốn đầu tư vào đó. Với trường hợp những tài sản cố định được thuê thì lại khác, nếu tài sản được thuê dưới hợp đồng thuê nghiệp vụ, hoặc hợp đồng thuê tài chính nhưng đã hết thời hạn cơ bản của hợp đồng. Khi cần thay đổi tài sản, doanh nghiệp có thể huỷ hợp đồng, trả lại tài sản và sau đó thuê tài sản khác để sử dụng. Lợi ích này của cho thuê tài chính tỏ ra rất quan trọng đối với những thiết bị hiện đại có tốc độ lỗi thời cao. Nó giúp cho doanh nghiệp thay đổi thiết bị đã lạc hậu một cách dễ dàng và nhanh chóng. Thông qua nghiệp vụ bán và tái thuê, các doanh nghiệp có thể chuyển nguồn tài sản cố định thành tài sản lưu động hay chuyển dịch vốn đầu tư cho các dự án kinh doanh khác có hiệu quả hơn trong khi vẫn duy trì được hoạt động đầu tư hiện hành vì tài sản vẫn được tiếp tục sử dụng. Cho thuê tài chính là phương pháp tài trợ thuận lợi cho những khoản đầu tư nhanh chóng đáp ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh So với các phương thức tài trợ khác thì cho thuê tài chính ít rủi ro hơn, thủ tục tài trợ cũng đơn giản hơn. Bằng cách cho phép người đi thuê được tìm kiếm lựa chọn trước tài sản từ nhà cung cấp, sau đó mới yêu cầu công ty cho thuê tài chính tài trợ nên có thể cho phép người thuê rút ngắn thời gian đầu tư thiết bị. Mặt khác, thẩm định tài sản trong nghiệp vụ thuê tài chính thường ít phức tạp do phần lớn các tài sản cho thuê đã có sẵn, cho nên những thông tin về thông số kỹ thuật, hiệu quả kinh tế, giá cả là biết trước. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính thường chuyên môn hoá về tài sản cho thuê, nên tài sản cho thuê thường được tổ chức cung ứng các loại thiết bị theo phương thức khép kín. Thiết bị thường gắn liền với phụ tùng, linh kiện, kỹ năng quản trị, huấn luyện đào tạo, thậm chí cả tư vấn về kỹ thuật công nghệ, thị trường, sản phẩm cho khách hàng, do đó giúp người thuê nhanh chóng đáp ứng được các cơ hội kinh doanh. Cho thuê tài chính cho phép doanh nghiệp thuê tiết kiệm thuế thu nhập Các khoản tiền thuê phải trả được tính vào chi phí của doanh nghiệp. Do đó, chúng làm giảm thu nhập tính thuế của doanh nghiệp bằng chính những khoản chi phí đó, vì vậy sẽ làm giảm một phần thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Cho thuê là hình thức tài trợ không làm thay đổi các hệ số tài chính Hầu hết các nước, kể cả Việt Nam đều coi hoạt động cho thuê là phương thức tài trợ ngoại bảng cân đối nên người thuê không phải hạch toán tài sản thuê vào bảng tổng kết tài sản. Do đó, không làm tăng, giảm tài sản hay nguồn vốn của bên thuê. Khi đó giá trị tài sản đi thuê được hạch toán ngoại bảng và được coi là một khoản nợ phát sinh trong năm tài chính. Vì vậy, các hệ số phân tích tài chính của người thuê sẽ được biểu hiện tốt hơn của người mua tài sản bằng tiền đi vay ngân hàng; tuy rằng về bản chất, thực tế hoạt động kinh doanh cơ bản là giống nhau. 1.1.5. Hạn chế của Cho thuê Tài chính Bên cạnh những lợi ích mà hình thức cho thuê tài chính mang lại cho nền kinh tế cũng như các chủ thể trong nền kinh tế, hoạt động này vẫn còn những hạn chế sau: Thứ nhất, lãi suất cho thuê tài chính thường cao hơn lãi suất vay vốn trung và dài hạn của các hình thức tài trợ khác trên cùng một thị trường vốn. Thứ hai, người thuê không được hưởng những khoản tiền chiết khấu như mua tài sản bằng tiền mặt. Vào giai đoạn cuối của hợp đồng dù đã trả gần đủ số tiền thuê nhưng bên thuê vẫn không được quyền sử dụng tài sản thuê vào mục đích khác. Bên cạnh đó, doanh nghiệp đi thuê cũng không được hưởng những khoản miễn giảm thuế dành cho tài sản thuê.thiết bị, máy móc dùng vào việc cho thuê thường được miễn giảm thuế nhập khẩu và bên cho thuê được hưởng khoản lợi này. Thứ ba, Hợp đồng cho thuê tài chính là hợp đồng không huỷ ngang. Do đó, cho thuê tài chính chưa phải là hình thức hoàn hảo nhất để đối phó với sự lác hậu về kỹ thuật. Người thuê không thể xử lý tài sản ngay để đầu tư vào tài sản tiên tiến hơn. Nếu hợp đồng cho thuê tài chính đã có sự dự liệu bán tài sản với giá tượng trưng bị phá vỡ, người thuê sẽ bị thiệt hại do mất quyền ưu tiên hưởng giá trị còn lại của tài sản bởi trong phí thuê đã tính gộp cả phần tiền trả cho quyền chọn mua. 1.1.6. Quy trình nghiệp vụ Cho thuê tài chính Quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính là văn bản hướng dẫn về tổ chức thực hiện các nội dung cơ bản của kỹ thuật nghiệp vụ cho thuê tài chính. Tuỳ theo từng loại hợp đồng cho thuê tài chính mà quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính có những đặc điểm riêng.Tuy vậy, về cơ bản các giao dịch cho thuê tài chính đang thực hiện ở Việt Nam và các nước khác hầu hết đều sử dụng loại hình hợp đồng cho thuê tài chính gồm có ba bên tham gia: bên cho thuê, bên thuê và nhà cung cấp. Dưới đây chúng ta sẽ đề cập về nội dung cơ bản quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính của công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng công thương Việt Nam. 1.1.6.1. Tiếp xúc và thẩm định sơ bộ khách hàng Cán bộ phòng Kinh doanh có trách nhiệm tiếp thị, giới thiệu hoạt động của công ty với khách hàng, chủ động lựa chọn tìm kiếm khách hàng để xem xét cho thuê tài chính và hướng dẫn các thủ tục cần thiết. 1.1.6.2. Thẩm định dự án cho thuê tài chính a. Thu thập hồ sơ xin thuê Cán bộ được giao thẩm định dự án yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ hồ sơ xin thuê và kiểm tra tính pháp lý của hồ sơ. b. Thu thập các thông tin liên quan đến dự án thuê tài chính Căn cứ vào nội dung, yêu cầu của từng dự án, cán bộ thẩm định thu thập thông tin từ khách hàng, từ thị trường và ừ các nguồn thông tin khác tuỳ theo từng dự án cụ thể. c. Phân tích và xử lý thông tin Trên cơ sở các thông tin thu thập được, cán bộ thẩm định tiến hành phân tích và xử lý đảm bảo tính trung thực, khách quan. d. Lập tờ thẩm định dự án Sau khi thẩm định, cán bộ thẩm định lập tờ trình thẩm định dự án theo mẫu tờ trình thẩm định, nội dung tờ trình gồm 2 phần chính sau: phần I: Thẩm định khách hàng và phần II: Thẩm định về dự án xin thuê và sẽ được chuyển cho trưởng phòng kinh doanh (hoặc phó phòng được uỷ quyền) để thẩm định lại và ghi rõ ý kiến của mình. Sau đó trình giám đốc cho ý kiến quyết định. e. Trường._.áp luật không quy định phải đăng ký sở hữu, phạm vi hoạt động xa trụ sở Công ty thì Công ty có thể cử cán bộ của mình trực tiếp giám sát quá trình hoạt động của máy móc, thiết bị để thường xuyên có thông tin chính xác nhất về tình hình sử dụng máy móc, thiết bị và sản xuất kinh doanh của khách hàng. Năm là, Bên cạnh đó, Công ty thực hiện trích lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính theo quy định, liên kết với các công ty cho thuê tài chính khác để đồng tài trợ trong các dự án lớn nhằm phân tán rủi ro. e. Thiết lập sự cân đối trong hoạt động cho thuê để hạn chế rủi ro Cần đảm bảo sự ăn khớp chính xác giữa thời hạn huy động các nguồn vốn và thời hạn tài trợ của hợp đồng cho thuê tài chính. Cũng như xây dựng một cơ cấu lãi suất cho thuê phù hợp với lãi suất huy động vốn sao cho thu từ phí cho thuê có thể đủ trang trải cho các khoản chi phí dự phòng rủi ro và Công ty có lợi nhuận ở mức hợp lý. Cần tránh tập trung vốn để tài trợ cho một khách hàng hay một giao dịch lớn, thực hiện nguyên tắc phân tán rủi ro, "không để tất cả trứng vào một giỏ". 3.3.5. ổn định tổ chức, đào tạo cán bộ 3.3.5.1. Mở rộng cơ cấu tổ chức Như đã đề cập ở chương II, cơ cấu tổ chức phòng ban của Công ty mới chỉ có 3 phòng và 1 tổ là chưa phù hợp, các cán bộ Công ty đồng thời phải đảm nhiệm nhiều công việc cùng một lúc, ví dụ như tại phòng kinh doanh các cán bộ phải lo nguồn vốn đầu vào cho đến đầu ra của vốn, từ việc tiếp xúc với khách hàng thuê, hướng dẫn khách hàng hoàn chỉnh hồ sơ cho thuê đến việc liên hệ với toàn bộ chi nhánh để mở mang hoạt động cho thuê kiêm luôn là hoạt động tiếp thị, marketing,... Do vậy, trong thời gian tới Công ty nên bổ sung một số phòng ban sau: a. Phòng Marketing Phòng này có chức năng xây dựng chiến lược marketing - mix cụ thể là nghiên cứu thị trường, nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, từ đó lập ra các chính sách khách hàng, sản phẩm hợp lý tạo định hướng phát triển cho Công ty. Bên cạnh đó, phòng này có chức năng tiếp xúc khách hàng, thực hiện các biện pháp khuyếch trương quảng cáo về hoạt động của Công ty, tìm kiếm khách hàng tạo điều kiện cho phòng kinh doanh thực hiện các khâu tiếp theo. b. Phòng kỹ thuật Phòng này bao gồm các chuyên gia có trình độ, am hiểu về máy móc, thiết bị và công nghệ, có khả năng đưa ra các kết luận đúng đắn về trình độ công nghệ, chức năng, chất lượng, giá cả của tài sản. Tuy nhiên, vì tài sản cho thuê của các công ty cho thuê rất đa dạng, nên cán bộ phòng này không nhất thiết phải hiểu biết về tất cả các loại tài sản cho thuê, mà chỉ cần nắm vững kiến thức về các loại tài sản cho thuê chủ yếu của Công ty, đồng thời có nhiều mối quan hệ trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật để có thể có những tư vấn chính xác và cần thiết. c. Phòng xuất nhập khẩu Trong tương lai, các công ty cho thuê tài chính sẽ được nhập khẩu trực tiếp. Do đó, để đảm bảo điều kiện hoạt động chuyên sâu cho các phòng ban, Công ty cần nghiên cứu tổ chức phòng nhập khẩu, chuyên trách vào lĩnh vực vào lĩnh vực này, đảm bảo cho việc nhập khẩu máy móc diễn ra thuận lợi. d. Phòng quản lý tài sản cho thuê Phòng này kết hợp với phòng kinh doanh để thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc khách hàng có sử dụng đúng tài sản thuê theo hợp đồng hay không. Đồng thời, cán bộ phòng này phải được đào tạo, có trình độ và am hiểu pháp luật về hoạt động cho thuê và các vấn đề liên quan đến tranh chấp tài sản thuê,... Bên cạnh đó, phòng này còn có nhiệm vụ quản lý tài sản đã kết thúc thời hạn thuê mà quyền sở hữu không thuộc về bên thuê, thực hiện việc thanh lý hay trao đổi trên thị trường máy móc, thiết bị cũ. e. Phòng kiểm tra, kiểm soát nội bộ Trong thời gian tới, Công ty cần nâng cấp Tổ kiểm tra để tăng cường thẩm quyền và chức năng phối hợp. 3.3.5.2. Chiến lược đào tạo phát triển Nhân tố con người là không thể thiếu được trong quá trình phát triển của hoạt động kinh tế, do đó đội ngũ cán bộ được trang bị đầy đủ kiến thức, có năng lực và óc sáng tạo sẽ là yếu tố quyết định sự phát triển của Công ty trong tương lai. Vì vậy, trong thời gian tới, Công ty cần phải có những biện pháp phù hợp để tận dụng khai thác triệt để nguồn năng lực này như: a. Nâng cao về kỹ thuật nghiệp vụ cho thuê tài chính bằng cách Cử cán bộ đi học các khoá đào tạo về cho thuê tài chính của các trường Đại học tổ chức. Nếu có điều kiện cho cán bộ đi thực tập ở các công ty cho thuê tài chính của các nước có thị trường cho thuê phát triển và có sự tương đồng về quá trình phát triển kinh tế như Việt Nam (Trung Quốc, Indonesia,...). Thường xuyên tập huấn trao đổi nghiệp vụ giữa các cán bộ trong Công ty và các công ty cho thuê tài chính khác. b. Cập nhật các kiến thức về kinh tế - xã hội, định hướng phát triển kinh tế của đất nước trợ giúp cho việc thẩm định dự án cho thuê. Bên cạnh các khoá học về nghiệp vụ cho thuê tài chính, Công ty cần cử cán bộ nhân viên tham gia vào các khoá học về nghiệp vụ ngân hàng, tin học,... của Ngân hàng Công thương Việt Nam để ngày một nâng cao kiến thức cho cán bộ của Công ty. Sắp xếp đội ngũ cán bộ nhân viên một cách hợp lý, đúng người, đúng việc để họ có thể phát huy tốt nhất năng lực của mình cũng là yếu tố giúp Công ty đạt được hiệu quả cao hơn. 3.4. Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam Thực tế hoạt động của công ty Cho thuê Tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng, cũng như các công ty cho thuê tài chính đang tham gia thị trường nói chung cho thấy rằng một trong những nguyên nhân cơ bản của những hạn chế trong hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam là còn tồn tại những bất cập trong hệ thống văn bản quản lý của Chính phủ và các Bộ, ngành có liên quan. Do vậy, để hoạt động của các công ty cho thuê tài chính có thể đạt được hiệu quả tốt nhất thì bên cạnh các giải pháp từ phía bản thân Công ty, cần có sự quan tâm giúp đỡ từ phía các cơ quan có thẩm quyền nhằm tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi khuyến khích phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam. Vậy dưới đây, em xin mạnh dạn đề xuất một số ý kiến, kiến nghị đối với các cơ quan, ban ngành có liên quan: 3.4.1. Kiến nghị với Chính phủ 3.4.1.1. Về huy động vốn Một là: Theo quy định tại Điểm 3 Điều 20, tổ chức tín dụng phi ngân hàng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên (Điểm 2 Điều 45). Tuy nhiên trong thực tế, một khách hàng gửi tiền thường có nhu cầu gửi cả ngắn hạn và trung dài hạn, nếu TCTD chỉ thực hiện huy động một hình thức ngắn hạn hoặc trung hạn thì sẽ hạn chế rất nhiều về mặt thu hút khách hàng và lãng phí nhân lực cũng như cơ sở vật chất địa điểm huy động vốn. Vì vậy, nên đưa vào Luật việc cho phép các TCTC phi ngân hàng làm Đại lý hoặc nhận uỷ thác huy động vốn ngắn hạn cho các TCTD được phép huy động vốn ngắn hạn. Hai là: Các công ty CTTC cũng có những nhu cầu nhận tiền gửi, vay, trả nợ vay, chi trả tiền gửi như các ngân hàng. Vậy nên chăng có quy định cho phép các công ty CTTC tham gia thị trường liên ngân hàng, tạo thêm năng lực cho các công ty CTTC. 3.4.1.2. Về đối tượng khách hàng thuê, tài sản cho thuê và các đối tác trong cho thuê tài chính a. Cần xác định rõ đối tượng khách hàng thuê (Bên thuê) và tài sản cho thuê vào trong Luật (Điểm 2 Điều 7 Nghị định 16). Trong các văn bản hiện hành, “bên thuê” chỉ là các doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam. nên chỉnh sửa lại: “bên thuê” là mọi tổ chức, đơn vị và cá nhân chứng minh được khả năng thanh toán tiền thuê của mình. b. Hiện tại trong Luật không cấm cho thuê tài chính đối với bất động sản, nhưng trong Nghị định 16 chỉ cho phép CTTC đối với máy móc, thiết bị và động sản. Vậy nên thống nhất nội dung này như thế nào. Nên chăng nói rõ trong Luật tài sản cho thuê bao gồm cả động sản và bất động sản, còn khi nào cho phép mở ra cho thuê bất động sản giao cho Chính phủ và NHNN Việt Nam quyết định. c. Các đối tác tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính không nên dừng lại ở các doanh nghiệp trong nước mà bổ sung thêm đối tác tham gia thành lập là các doanh nghiệp nước ngoài, việc các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng tham gia thành lập công ty cho thuê tài chính đã trở nên khá phổ biến ở nhiều nước. Do vậy, sự tham gia của các doanh nghiệp nước ngoài trong đối tác của các công ty cho thuê tài chính giúp cho các công ty cho thuê tài chính trong nước tiếp cận nhanh với nguồn máy móc thiết bị và công nghệ hiện đại trên thế giới. Tuy nhiên, đối tác là các tổ chức tín dụng trong công ty cho thuê tài chính phải chiếm tỷ lệ vốn đủ lớn để chi phối hoạt động của công ty. 3.4.1.3. Về cấp phép thành lập Công ty CTTC Giữa Luật và Nghị định hiện nay đang trùng nhau rất nhiều về hồ sơ, thủ tục cấp phép thành lập và hoạt động của TCTD cũng như Công ty CTTC. Vậy nên chăng thu gọn vào một mối. Nên đưa chi tiết thẳng vào Luật, Nghị định không cần nhắc lại nữa. 3.4.1.4. Về đăng k‎ý sở hữu tài sản cho thuê a. Hiện nay nước ta có rất nhiều loại tài sản, máy móc thiết bị không bắt buộc đăng ký sở hữu, hoặc muốn đăng ký cũng không thực hiện được do không có cơ quan nhận đăng ký. Đây là một khó khăn lớn cho các công ty CTTC. Nên đưa vào trong luật điều khoản về việc đăng ký sở hữu tài sản cho thuê và giao cho Chính phủ cùng các cơ quan hữu quan thành lập các tổ chức thực hiện việc đăng ký này. b. Đối với các tài sản hiện nay đang bắt buộc phải có đăng ký (như ô tô,...). Do các công ty CTTC có trụ sở chính và đăng ký kinh doanh tại một địa phương cụ thể, nên tài sản cho thuê khi đăng ký sở hữu phải thực hiện tại địa phương đó. Tuy nhiên, địa bàn hoạt động của hầu hết các công ty CTTC là toàn quốc hoặc từ Đà nẵng trở vào đến hết các tỉnh phía Nam, khách hàng thuê ở các tỉnh, Tp khác đang mở ra rất nhiều, nhưng việc đăng ký sở hữu tại địa phương nơi đăng ký hoạt động của khách hàng không thể thực hiện được, trong khi nếu đăng ký được tại địa phương đó, khách hàng thuê sẽ có rất nhiều lợi thế như có thể được miễn phí cầu đường địa phương, lợi thế trong đấu thầu, đấu giá, cạnh tranh,... Đây là một khó khăn lớn cho các công ty CTTC trong tiến trình mở rộng thị trường và khách hàng. Vì vậy, trong Luật có điều khoản để khắc phục vướng mắc này. 3.4.1.5. Vấn đề xuất, nhập khẩu và quản lý tài sản thuê a. Các công ty cho thuê tài chính muốn có tài sản cho thuê thường phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại tài sản của các đơn vị kinh doanh xuất, nhập khẩu nên làm tăng chi phí và không chủ động cho thuê. Để tháo gỡ khó khăn này, đề nghị cho phép các công ty cho thuê tài chính được phép nhập khẩu trực tiếp tài sản cho thuê như các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu. b. Để đảm bảo an toàn hoạt động cho các công ty cho thuê tài chính, theo kinh nghiệm của nhiều nước, cần phải đăng ký quyền sở hữu tài sản cho thuê, tránh trường hợp bên thuê sử dụng tài sản cho thuê vào mục đích cầm cố, thế chấp và bán,... 3.4.1.6. Về xử lý thu hồi tài sản cho thuê do bên thuê vi phạm hợp đồng Trong luật cũng như Nghị định hiện nay đều quy định các công ty CTTC được thu hồi ngay lập tức tài sản cho thuê nếu bên thuê vi phạm hợp đồng cho thuê mà chủ yếu là không trả nợ tiền thuê. Tuy nhiên trong luật cũng như trong Nghị định không xác định rõ trách nhiệm phối hợp thực hiện giữa các Ban, ngành có liên quan, đặc biệt là các cơ quan pháp luật. Chính vì vậy, hầu hết các công ty CTTC đều rất vướng mắc rất nặng nề về vấn đề này. Đây là rào cản cực kỳ lớn làm cho các công ty CTTC không thể mạnh dạn mở rộng đầu tư. Vì vậy, trước hết phải nhận thức rõ ràng tài sản CTTC trong thời hạn thuê đang thuộc quyền sở hữu của công ty CTTC, nếu có đủ cơ sở xác định bên đi thuê vi phạm hợp đồng, bên cho thuê có quyền thu hồi về ngay lập tức không cần phải qua cơ quan tài phán nào và các cơ quan quyền lực Nhà nước như Chính quyền các cấp, Công an,... phải có trách nhiệm hỗ trợ các công ty CTTC trong việc thu hồi. 3.4.1.7. Tiếp tục hoàn thiện các điều kiện của một giao dịch cho thuê tài chính Theo các văn bản hiện hành, một giao dịch cho thuê tài chính thoã mãn các điều kiện là: Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của hai bên. Để được quyền sở hữu tài sản thuê, bên thuê mua lại tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá trị thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại. Thời hạn cho thuê một tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng. Vậy trong các văn bản hiện hành cần bổ sung thêm quy định về việc bên thuê có quyền sở hữu tài sản thuê vào thời điểm kết thúc thời hạn thuê. 3.4.1.8. Các giải pháp khác a. Cần có chính sách miễn, giảm thuế để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính áp dụng lãi suất cho thuê phù hợp, đủ sức cạnh tranh trên thị trường như thuế xuất nhập khẩu, thuế chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản, thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hoạt động cho thuê. b. Sớm hình thành các trung tâm giao dịch, mua bán máy móc, thiết bị cũ. Khi kết thúc hợp đồng cho thuê tài chính hoặc vì lý do nào đó hợp đồng cho thuê tài chính kết thúc trước thời hạn, để tìm được một khách hàng mới thuê lại máy móc, thiết bị này quả là một việc khó khăn. Việc hình thành các trung tâm môi giới, mua bán, kinh doanh thiết bị cũ giúp tháo gỡ khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc thu hồi vốn. c. Vấn đề Marketing trong cho thuê tài chính. Do các công ty cho thuê tài chính mới ra đời và hoạt động, nghiệp vụ cho thuê tài chính rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam, địa bàn hoạt động của công ty lại rộng khắp trong toàn quốc, do vậy, việc quy định chi phí quảng cáo, tiếp thị của các công ty cho thuê tài chính (5% - 7% tổng chi phí) giống như các tổ chức tín dụng hiện hành là chưa hợp lý. Mức chi phí này đối với các công ty cho thuê tài chính từ 7% - 10% là hợp lý hơn. d. Một số vấn đề khác trong Nghị định hiện nay cần nâng lên thành luật - Quy định về việc đăng ký tại Trung tâm giao dịch có đảm bảo (Điều 9 NĐ 16) - Quy định về việc sử dụng bản sao giấy chứng nhận đăng ký đối với tài sản thuê sử dụng trong nước và bản chính đối với tài sản sử dụng tại nước ngoài. - Quy định về việc chấm dứt hợp đồng CTTC trước thời hạn (Điều 27 NĐ 16),... 3.4.2. Kiến nghị với các Bộ, ngành liên quan Kinh nghiệm từ các nước trong khu vực Châu á cho thấy thị trường cho thuê tài chính ở Việt Nam muốn phát triển thì vai trò của Nhà nước, Chính phủ, các Bộ, Ban, Ngành hữu quan trong việc tạo hành lang pháp lý ổn định, đồng bộ và ban hành các chính sách, chế độ khuyến khích, ưu đãi là cực kỳ quan trọng. 3.4.2.1. Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước Việt Nam Một là, nguồn vốn hoạt động NHNN cho phép các công ty cho thuê tài chính được vay vốn, cũng như huy động tiền gửi trung và dài hạn từ các tổ chức tín dụng và dân cư, cũng như được vay vốn từ các nguồn tài trợ, nguồn vốn ưu đãi như nguồn vốn ODA, các dự án tài trợ của Chính phủ, ngân hàng, các tổ chức quốc tế như hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, trợ giúp hồi hương tạo công ăn việc làm,... Hai là, Thành lập hiệp hội cho thuê tài chính, chức năng của hiệp hội là: - Khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính, cung cấp cho các thành viên hiệp hội các khuôn mẫu Quốc tế cho việc học tập trao đổi kinh nghiệm. Cung cấp các vấn đề về luật cũng như các quy định về cho thuê tài chính, cung cấp các ấn phẩm về hoạt động cho thuê tài chính trên thế giới cũng như trong nước. Tổ chức các hội nghị, hội thảo về cho thuê tài chính. Tổ chức các cuộc gặp gỡ nhà cho thuê, người đi thuê và nhà cung cấp thiết bị trong phạm vi trong nước cũng như quốc tế. Là đầu mối tư vấn giải quyết những khó khăn, vướng mắc hoặc tranh chấp về hoạt động cho thuê trước khi các bên phải nhờ đến sự can thiệp của pháp luật. Ba là, NHNN nên quy định trần lãi suất cho thuê để tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho thị trường cho thuê tài chính, và sớm ban hành những quy định hướng dẫn cụ thể về hoạt động mua bán bằng ngoại tệ để tạo sự chủ động cho các công ty cho thuê tài chính nhằm hạn chế rủi ro, đặc biệt là rủi ro về tỷ giá. Cũng như cần ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ hạch toán kế toán đối với nghiệp vụ cho thuê tài chính rõ ràng, chi tiết hơn. 3.4.2.2. Kiến nghị với Bộ Tài chính Hiện nay, khi các doanh nghiệpđầu tư mua sắm máy móc, thiết bị thì thuế giá trị gia tăng được khấu trừ trong vòng từ 1 - 3 tháng sau khi mua. Nhưng đối với các doanh nghiệp khi đi thuê tài chính thì theo quy định của Bộ tài chính thuế đó sẽ được khấu trừ dần qua mỗi lần doanh nghiệp thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê. Điều này khiến cho các doanh nghiệp phải chịu một khoản chi phí cao hơn, làm giảm sức cạnh tranh của CTTC với các hình thức tài trợ khác. Vậy đề nghị Bộ tài chính sửa đổi để cho các doanh nghiệp đi thuê được khấu trừ thuế giá trị gia tăng một lần ngay khi ký hợp đồng. Bên cạnh đó, các công ty cho thuê tài chính thường là mới thành lập hoặc mới đi vào hoạt động, do đó việc nộp thuế thu nhập doanh nghiệp 32% là cao, không khuyến khích các công ty này đầu tư. Vì vậy, công ty cho thuê tài chính nên được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp. Hơn nữa, trong luật khuyến khích đầu tư trong nước có quy định trường hợp được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là: - Đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ xây dựng công trình, đầu tư xây dựng các khu thương mại, các loại nhà phục vụ nhu cầu của nhân dân thành phố... - Đầu tư thành lập phân xưởng sản xuất mới, lắp đặt thêm máy móc vào dây truyền sản xuất hiện có, lắp đặt máy móc, thiết bị mới thay thế thiết bị hiện có,... Nếu xem xét hoạt động của công ty cho thuê tài chính thì hầu hết đều làm những công việc trên. Các công ty cho thuê tài chính đã đóng góp một phần rất lớn trong việc đổi mới nâng cao trình độ công nghệ cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, các công ty cho thuê tài chính theo quan điểm xem xét như một ngân hàng phát triển, là chiếc cầu nối chuyển giao công nghệ, nên cũng xứng đáng được hưởng mức thuế ưu đãi như các doanh nghiệp trực tiếp đổi mới công nghệ. Kiến nghị Bộ tài chính nên miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty cho thuê trong 2 năm đầu hoạt động, và cho phép các công ty cho thuê tài chính được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi trên phần lợi nhuận tạo ra từ việc cho thuê những tài sản được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ. 3.4.2.3. Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam Với vai trò là ngân hàng mẹ, những sự giúp đỡ từ phía Ngân hàng Công thương Việt Nam có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển của công ty Cho thuê Tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam. a. Với đặc thù kinh doanh một loại hình đơn lẻ, không được phép mở ra các loại hình kinh doanh khác để hỗ trợ như nhận tiền gửi, cho vay ngắn hạn,... nên Công ty gặp nhiều khó khăn trong việc huy động vốn để cho thuê. Do nguồn vốn điều lệ của Công ty đã sử dụng hết nên nguồn vốn kinh doanh của Công ty sẽ chủ yếu dựa vào nguồn vốn vay. Đề nghị Ngân hàng Công thương Việt Nam có chính sách hỗ trợ về vốn cụ, thể là có chính sách ưu đãi về nguồn vốn và lãi suất cho Công ty đảm bảo khi có khách hàng là có đủ nguồn vốn để đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng và đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng khác trên địa bàn. Đặc biệt Ngân hàng Công thương hỗ trợ hơn nữa trong việc phát hành trái phiếu của Công ty nhằm nâng cao vị thế của Công ty. b. Phê duyệt quy trình, quy chế về nghiệp vụ cho thuê tài chính nhằm tạo hành lang pháp lý cho Công ty trong việc mở rộng phạm vi kinh doanh. c. Có chính sách đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn, đào tạo chuyên môn sâu cho cán bộ Công ty. d. Đề nghị các chi nhánh Ngân hàng Công thương Việt Nam phối hợp cùng Công ty mở rộng hoạt động cho thuê tài chính tại địa bàn các chi nhánh. Bên cạnh những nội dung trong hoạt động hợp tác hiện nay, giữa chi nhánh và Công ty có thể thực hiện đồng tài trợ đối với một dự án. Đây là hoạt động nhằm đa dạng hoá sản phẩm của Ngân hàng Công thương Việt Nam và cũng để tạo đà phát triển nghiệp vụ cho thuê tài chính. kết luận Hoạt động cho thuê tài chính của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nói chung và công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng tuy mới được thực hiện nhưng đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn Việt Nam. Sự ra đời của phương thức tài trợ này là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế đầu tư trong thời gian qua, góp phần tháo gỡ các khó khăn trong việc đầu tư vốn cho quá trình đổi mới máy móc thiết bị công nghệ, tạo điều kiện tiền đề thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đồng thời, thị trường cho thuê tài chính trở thành một bộ phận không thể thiếu của thị trường vốn Việt Nam. Mặc dù hiện nay hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam nói chung chưa phát triển đúng với tiềm năng của mình nhưng trong tương lai hoạt động này sẽ có một vai trò quan trọng hơn trong việc cung cấp vốn cho các doanh nghiệp tại Việt Nam. Trong luận văn, những vấn đề cơ bản sau đã được giải quyết: - L‎ý luận chung về hoạt động cho thuê tài chính của công ty cho thuê. - Nêu lên thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam và đưa ra đánh giá hoạt động đó. - Cuối cùng là đề xuất các giải pháp khắc phục những vướng mắc của công ty trong quá trình hoạt động và đưa ra một số kiến nghị đối với các cơ quan chức năng có thẩm quyền nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động này có thể phát triển. Bằng những hiểu biết, cố gắng của mình cùng với sự giúp đỡ tận tình của các anh chị, cô chú cán bộ công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam và cô giáo hướng dẫn Phan Thị Hạnh, em đã hoàn thành luận văn với hy vọng sẽ góp phần giúp hoạt động cho thuê tài chính của công ty ngày càng phát triển hoà chung vào sự phát triển của hoạt động cho thuê trong nền kinh tế. Nhưng như chúng ta biết “Khoa học không có điểm cuối cùng”. Những vấn đề về hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Tuy đã có rất nhiều cố gắng nhất định nhưng vì thời gian thực tập có hạn, đồng thời kinh nghiệm thực tế còn ít nên không tránh khỏi thiếu sót trong quá trình nghiên cứu. Vậy em mong nhận được sự hướng dẫn của các thầy cô giáo và sự đóng góp của các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn. danh mục tài liệu tham khảo Tiếng việt 1. Công ty tài chính Quốc tế: “ Nghiên cứu khả thi về việc thiết lập nghiệp vụ tài trợ thuê mua máy móc, thiết bị ở Việt Nam ” - 1993. 2. Trần Tô Tử, Nguyễn Hải Sản: “ Tìm hiểu và sử dụng thị trường tín dụng thuê mua ”- Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, 1996. 3. Lưu Thị Hương: Giáo trình “ Tài chính doanh nghiệp ” - Nhà xuất bản Giáo dục, 1999. 4. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 của Chính Phủ, ban hành thay thế Nghị định số 64/CP về “ Tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính ”. 5. Thông tư số 08/TT-NHNN ngày 06/09/2001 của Thống đốc NHNN Việt Nam hướng dẫn thực hiện Nghị định 16/2001/NĐ-CP. 6. Báo cáo Tổng kết hoạt động kinh doanh năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 và Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2002 - Công ty CTTC - NHCT Việt Nam. 7. Kế hoạch kinh doanh năm 2003 - Công ty CTTC - NHCT Việt Nam. 8. Quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính, Công ty CTTC - NHCT Việt Nam. 9. Báo cáo Tổng kết hoạt động cho thuê tài chính của NHNN VN. 10. Báo cáo Tổng kết hoạt động 5 năm và phương hướng nhiệm vụ năm 2003. 11. Hội thảo Tổng kết luật các tổ chức tín dụng loại hình công ty cho thuê tài chính Việt Nam. Tp. Hồ Chí Minh 10/2002. 12. Các bài viết có liên quan đến nghiệp vụ Cho thuê tài chính trên thời báo Kinh tế, Tạp chí ngân hàng, Thị trường tài chính tiền tệ,... năm 2000, 2001, 2002. tiếng anh 1. Corporate Financial - Nhà xuất bản Irwin/ Mac Graw Hill, 1996. 2. Leasing in Developing Asia Development Bank, 1996. mục lục Lời mở đầu 1 Chương1: Những lý luận cơ bản về hoạt động cho thuê tài chính 3 1.1 Vai trò của hoạt động cho thuê tài chính trong nền kinh tế thị trường 3 1.1.1 Cho thuê tài chính - hoạt động của công ty cho thuê 3 1.1.1.1 Lịch sử ra đời của hoạt động cho thuê 3 1.1.1.2 Hoạt động của công ty cho thuê 5 1.1.1.3 Giao dịch cho thuê tài chính 6 a Đặc điểm của giao dịch cho thuê tài chính 7 b Phân biệt cho thuê tài chính với vay vốn ngân hàng 9 c Phân biệt cho thuê tài chính với cho thuê vận hành 10 d Hợp đồng cho thuê tài chính 11 1.1.2 Các phương thức cho thuê tài chính 16 1.1.2.1 Các loại cho thuê tài chính cơ bản 16 a Cho thuê tài chính hai bên 16 b Cho thuê tài chính ba bên 16 1.1.2.2 Các loại cho thuê tài chính đặc biệt 17 a Tái cho thuê 17 b Cho thuê hợp tác 18 c Cho thuê giáp lưng 19 1.1.3 Kinh nghiệm của một số nước về hoạt động cho thuê tài chính 20 1.1.3.1 Hoạt động cho thuê tài chính ở Nhật Bản 20 1.1.3.2 Hoạt động cho thuê tài chính ở Trung Quốc 20 1.1.3.3 Hoạt động cho thuê tài chính ở Hàn Quốc 21 1.1.3.4 Hoạt động cho thuê tài chính ở Malaixia 21 1.1.3.5 Bài học rút ra qua kinh nghiệm của các nước 22 1.1.4 Những lợi ích của hoạt động cho thuê tài chính 23 1.1.4.1 Lợi ích của cho thuê tài chính đối với nền kinh tế 23 1.1.4.2 Lợi ích đối với người cho thuê (Công ty cho thuê tài chính) 23 1.1.4.3 Lợi ích của cho thuê tài chính đối với doanh nghiệp đi thuê 24 1.1.5 Hạn chế của cho thuê tài chính 27 1.1.6 Quy trình nghiệp vụ cho thuê tài chính 27 1.1.7 Các nhân tố tác động đến hoạt động cho thuê tài chính 29 1.1.7.1 Nhóm nhân tố cơ chế, chính sách, pháp luật và môi trường kinh doanh 29 1.1.7.2 Nhóm nhân tố thuộc về công ty cho thuê tài chính 30 1.1.7.3 Nhóm nhân tố thuộc về doanh nghiệp đi thuê 31 1.2 Sự cần thiết phải phát triển hoạt động cho thuê tài chính đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay 31 1.2.1 Các nguồn vốn trong nước 33 1.2.1.1 Vốn ngân sách nhà nước cấp 33 1.2.1.2 Vốn tự có của các doanh nghiệp 33 1.2.1.3 Vốn đi vay từ các tổ chức tài chính 33 1.2.1.4 Huy động vốn trên thị trường chứng khoán 34 1.2.2 Nguồn vốn từ nước ngoài 34 1.2.2.1 Nguồn vốn ODA 34 1.2.2.2 Đối với nguồn FDI 34 ChươngII: Thực trạng hoạt động Cho thuê tài chính tại công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 36 2.1 Quá trình hình thành và phát triển của công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 36 2.1.1 Sự hình thành và phát triển của công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 36 2.1.2 Chức năng và các mặt hoạt động chính của công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 37 2.1.2.1 Chức năng, nhiệm vụ 37 2.1.2.2 Nội dung hoạt động của Công ty 38 2.1.3 Mô hình tổ chức Công ty 38 2.1.3.1 Nguyên tắc tổ chức và điều hành 38 2.1.3.2 Bộ máy tổ chức 38 2.1.3.3 Nhiệm vụ, chức năng của các phòng 39 2.2 Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 41 2.2.1 Tình hình hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam 41 2.2.1.1 Nguồn vốn 41 2.2.1.2 Sử dụng vốn 41 2.2.1.3 Kết quả kinh doanh 42 2.2.2 Thực trạng hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam trong thời gian qua (từ năm 1998 - 2002) 43 2.2.2.1 Nguồn vốn 44 2.2.2.2 Cho thuê tài chính 45 2.2.2.3 Kết quả tài chính của Công ty 51 2.2.2.4 Về tỷ lệ nợ quá hạn của Công ty 52 2.2.3 Một số kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu đã đạt được 54 2.2.3.1 Nguồn vốn 54 2.2.3.2 Cho thuê tài chính 54 2.2.3.3 Mở rộng quy mô khách hàng và đa dạng hoá các lĩnh vực cho thuê 55 2.2.3.4 Kết quả tài chính 55 2.2.3.5 Công tác tổ chức cán bộ 56 2.2.3.6 Mô hình tổ chức gọn nhẹ, linh hoạt, phát huy được năng lực nhân viên 57 2.2.3.7 Chất lượng hoạt động cho thuê cao 57 2.2.3.8 Những thành tựu về marketing, tài chính, kế toán 57 2.2.3.9 Công tác kiểm tra, kiểm soát 58 2.2.4 Những hạn chế và nguyên nhân 59 2.2.4.1 Những hạn chế 59 2.2.4.2 Nguyên nhân của những hạn chế trên 62 a Nguyên nhân khách quan 62 b Nguyên nhân chủ quan 65 Chương III: Giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 69 3.1 Những quan điểm cơ bản định hướng hoạt động cho thuê tài chính 69 3.2 Định hướng hoạt động kinh doanh của công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 70 3.2.1 Định hướng hoạt động chung 70 3.2.2 Định hướng hoạt động kinh doanh của Công ty năm 2003 70 3.2.2.1 Các chỉ tiêu kinh doanh 70 3.2.2.2 Một số biện pháp công tác trong năm 2003 70 3.3 Giải pháp phát triển hoạt động cho thuê tài chính tại công ty Cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam 71 3.3.1 Hoàn thiện chiến lược kinh doanh của Công ty 71 3.3.2 Xây dựng chính sách Marketing tổng hợp 72 3.3.2.1 Mở rộng thị trường cho thuê tài chính của Công ty 72 3.3.2.2 Mở rộng các nghiệp vụ cho thuê tài chính 73 3.3.2.3 Tăng cường công tác tiếp thị của Công ty 74 3.3.2.4 Xây dựng một chính sách khách hàng hợp lý và linh hoạt 75 3.3.2.5 Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh 75 3.3.3 Tạo lập các nguồn vốn hoạt động 76 3.3.3.1 Vay từ ngân hàng mẹ và các tổ chức tín dụng khác 76 3.3.3.2 Phát hành trái phiếu trong nước 77 3.3.3.3 Nguồn vốn từ huy động tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức và cá nhân 77 3.3.3.4 Nguồn vốn thông qua liên doanh với nước ngoài 78 3.3.3.5 Hợp tác đồng tài trợ 78 3.3.3.6 Nguồn vốn trả chậm trong việc mua máy móc, thiết bị từ nhà cung cấp 78 3.3.3.7 Các nguồn vốn khác 78 3.3.4 Các biện pháp phòng ngừa rủi ro 79 3.3.4.1 Xét trên giác độ vĩ mô 79 3.3.4.2 Xét trên giác độ vi mô 79 3.3.5 ổn định tổ chức, đào tạo cán bộ 84 3.4 Một số kiến nghị nhằm phát triển hoạt động cho thuê tài chính Việt Nam 86 3.4.1 Kiến nghị với Chính Phủ 86 3.4.2 Kiến nghị với các Bộ, Ngành liên quan 89 3.4.2.1 Kiến nghị đối với Ngân hàng nhà nước Việt Nam 89 3.4.2.2 Kiến nghị với Bộ Tài Chính 90 3.4.2.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Công thương Việt Nam 90 Kết luận 92 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0074.doc
Tài liệu liên quan