Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng

Tài liệu Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng: LỜI MỞ ĐẦU Sau khi gia nhập WTO Việt Nam đã tạo ra cho mình rất nhiều thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, mọi thứ đều phát triển một cách nhanh chóng như vũ bão. Một điều đặc biệt là doanh nghiệp ở Việt Nam được thành lập ngày càng nhiều, doanh nghiệp quốc doanh ngày càng giảm đi thay vào đó là doanh nghiêp ngòai quốc doanh hay doanh nghiệp nhỏ và vừa phát triển nhanh chóng cả về số lượng và chất lượng. Chính điều này đã tạo ra nhiều cơ hội làm ăn cho các ngân hàng thương mại: cho vay,... Ebook Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1321 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chuyển tiền …và nhất là hoạt động bảo lãnh. Doanh nghiệp thành lập nhiều, nhiều hợp đồng thương mại được ký kết, tuy vậy một số doanh nghiệp vẫn muốn đảm bảo chắc chắn cho lợi nhuận nhất là những doanh nghiệp có đối tác làm ăn là nước ngoài vì vậy họ yêu cầu một ngân hàng nào đó bảo lãnh cho đối tác của mình. Vậy bảo lãnh là gì? Tại sao các doanh nghiệp lại thường đòi hỏi các đối tác làm ăn của mình phải được ngân hàng bảo lãnh? Các ngân hàng thương mại đều nhận thức rõ được điều này,đã thực hiện đẩy mạnh hoạt động bảo lãnh, và Ngân hàng TMCP Quân Đội cũng không nằm ngoài khối ngân hàng này. Sau hơn 12 năm thành lập Ngân hàng TMCP Quân Đội đã tạo cho mình những bước phát triển đáng kể, các chi nhánh đựoc thành lập ở khắp nơi trong cả nước tạo ra uy tín lớn mạnh cho Ngân hàng TMP Quân Đội. trong thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân Đội- Chi nhánh Trần Duy Hưng, em nhận thấy ngân hàng đã từng bước tăng trưởng cả về số lượng lẫn chất lượng của hoạt động tín dụng , và hoạt động bảo lãnh cũng không nằm ngoài sự tăng trưởng này. Nhận thấy được tầm quan trọng của việc phát triển hoạt động bảo lãnh trong nền kinh tế hiện nay, trên cơ sở tiểp thu những kiến thức tiếp cận từ nhà trườn và thực tế tại Chi nhánh trong thời gian thực tập em mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng làm chuyên đề tốt nghiệp. Qua đó em hy vọng sẽ đưa ra được một số giải pháp có ý nghĩa thực tiễn, góp phần vào sự thành công chung của Chi nhánh nói riêng và toàn bộ hệ thống Ngân hàng TMCP Quân Đội nói chung trong thời gian tới. Đề tài của em đựoc chia làm 3 chương: Chương I:Những vấn đề cơ bản về hoạt động bảo lãnh ngân hàng Chương II: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng. Chương III: Gỉai pháp để phát triển hoạt động bảo lãnh tại Ngân hàng TMCP Quân Đội chi nhánh Trần Duy Hưng. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH NGÂN HÀNG 1.1. Khái quát về hoạt động bảo lãnh ngân hàng 1.1.1. Sự hình thành và phát triển của hoạt động bảo lãnh ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng là một trong những hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại. Nhưng trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là ngân hàng thương mại? Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan hiếm. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là “ vốn- tiền”, trả lãi suất huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của ngân hàng thương mại. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục vụ cho mọi nhu cầu của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh nghiệp và các tổ chức khách trong xã hội. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trò rất quan trọng, vì nó đảm nhận vai trò giữ cho mạch máu ( dòng vốn ) nền kinh tế được lưu thông và có vậy mới góp phần bôi trơn cho hoạt động của một nền kinh tế thị trường non yếu. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thưong mại: Huy động vốn: Bảo lãnh là một trong những hoạt đông chủ yếu của ngân hàng thương mại. Có rất nhiều tổ chức tài chính phát hành bảo lãnh: Chính Phủ, Công ty Bảo hiểm, Công ty tài chính, Công ty chứng khoán…song chủ yếu là Ngân hàng thương mại phát hành. Đó là do các lý do: Ngân hàng thưong mại la trung gian tài chính của nền kinh tế với vai trò chủ yếu là dẫn vốn từ nơi thừa vôn sang nơi thiếu vốn, chính vì vậy mà có thể nắm bắt thông tin khách hàng một cách dễ dàng. Ngân hàng thương mại thường xuyên cung cấp các dịch vụ tài chính, nên khả năng tiềm lực tài chính rât cao kéo theo nó là uy tín của ngân hàng rất lớn. 1.1.1.1. Bảo lãnh ngân hàng là một tất yếu khách quan Nền kinh tế ngày càng phát triển kéo theo các mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp, các giao dịch kinh tế ngày càng co quy mô lớn, giá trị cao và phạm vi rộng. Mong muốn tìm kiềm lợi nhuận của các nhà kinh doanh không dừng lại ở đó họ luôn mở rộng quy mô sản xuất và tìm kiếm được nhiều hợp đồng. Vì mỗi giao dịch đều chứa đựng rủi ro như lãi suất, rủi ro tỷ giá… và các rủi ro này có thể xuất hiện bất cứ lúc nào: ký hợp đồng, giao hàng hay ngay cả khi thanh toán nên các nhà sản xuất rất cẩn thận xem xét kỹ lưỡng về việc hợp tác với đối tác của mình. Tuy nhiên phạm vi giao dịch ngày càng mở rộng, không những ở trong nước mà mở rộng ra tận phạm vi ngoài nước, việc tìm hiểu thông tin đối tác sẽ gặp rất nhiều khó khăn do có sự ngăn cách về không gian, thời gian, hay sự khác biệt về chính trị, pháp lý, điều kiện thị trường… Để phòng tránh những tổn thất có thể xáy ra, người ta sử dụng các biện pháp khác nhau như quy định thêm về điều khoản pháp lý về giải quyết tranh chấp, đòi hỏi phải có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc nhờ bên thứ ba có uy tín và tiềm lực tài chính đứng ra đảm bảo nếu xảy ra thiệt hại. Từ thực tế đó bảo lãnh ra đời như một tất yếu khách quan giúp phòng ngừa và giảm bớt thiệt hại trong các hợp đồng thương mại. 1.1.1.2. Sự phát triển của hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh về cơ bản có từ rất sớm vào thời kỳ Trung cổ Hy lạp trong những giao dịch nhỏ lẻ. Đến những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ XX bảo lãnh ngân hàng xuất hiện đầu tiên ở Mỹ như một dạng thư tín dụng dự phòng (Standby L/C). Sau đó, vào những đầu năm 70 bảo lãnh ngân hàng mới sự được sử dụng trong thương mại quốc tế. Vào thời điểm này các quốc gia Trung Đông trở nên giàu có nhờ nguồn tài nguyên thiên nhiên dầu mỏ, và họ bắt đầu tham gia vào các hợp đồng thương mại quốc tế nhằm mục đích là mua những máy móc thiết bị phục vụ cho việc phát triển kinh tế hay chủ yếu là khai thác tối đa nguồn dầu mỏ quý hiếm. Gía trị lớn của các hợp đồng và thế mạnh tài chính của các quốc gia Trung Đông đã buộc các đối tác của họ phải có sự đảm bảo chắc chắn khi tham gia vào các thương vụ. Khi đó bảo lãnh độc lập do ngân hàng của các nước phương tây phát hành sử dụng để đáp ứng yêu cầu này. Ngày nay bảo lãnh ngân hàng đã trở thành một trong những nghiệp vụ chủ yếu của các ngân hàng của nhiều nước trên thế giới. Quy mô và doanh thu bảo lãnh của mỗi ngân hàng trở thành một chỉ tiêu đánh giá sự phát triển, thể hiện uy tín trong nước cũng như quốc tế của ngân hàng đó đối với các đối tác ngân hàng cũng như đối với khách hàng hay Chính Phủ. Với xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa diễn ra ngày càng rộng rãi kéo theo đó là lượng vốn lưu chuyển, lựong hàng hóa lưu thông và các giao dịch quốc tế ngày càng nhiều nên nhu cầu về bảo lãnh vì thế cũng càng ngày tăng lên và trỏ lên rất cần thiết. Với lợi thế về thông tin khách hàng, về uy tín và khả năng tài chính các ngân hàng đều nhận thấy bảo lãnh là một lĩnh vực kinh doanh có tiềm năng do đó đã rất chú trọng hoàn thiện và phát triển, nhất là trong điều kiện mua bán trả chậm trong giao dịch thương mại ngày càng phổ biến ngày nay. Nghiệp vụ này không những mang lại thu nhập quan trọng cho ngân hàng mà còn mang lại nguồn vốn ngắn hạn cho các nhà kinh doanh. Tại Việt Nam hoạt động bảo lãnh mới được biết đến vào đầu những năm 90 khi Việt Nam bắt đầu mở cửa, nền kinh tế hôi nhập với khu vực và thế giới. Tuy nhiên phải mấy năm trở lại đây hoạt động bảo lãnh mới thực sự được quan tâm, đặc biệt là sau khi gia nhập Tổ chức thương mại Thế Giới ( WTO) đã mở ra cho doanh nghiệp Việt Nam những hợp đồng làm ăn lớn, chính những điều này đã làm cho số lượng và chất lượng của hoạt động bảo lãnh tăng lên một cách nhanh chóng. 1.1.2.Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng Theo Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 5/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế bảo lãnh Ngân hàng Bảo lãnh ngân hàng đã được khái niệm như sau: Bảo lãnh ngân hàng là cam két bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền ( bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hòan trả cho tổ chức tín dụng số tiền đuợc trả thay. Sơ đồ 1.2: Bảo lãnh ngân hàng Bên được bảo lãnh Ngân hàng ( Bên bảo lãnh) Bên thụ hưởng bảo lãnh Một nghiệp vụ bảo lãnh bao gồm ít nhất ba bên: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh và bên thụ hưởng bảo lãnh. Bên bảo lãnh: là bên phát hành thư bảo lãnh như Ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại và các tổ chức Tín dụng khác theo quy định của pháp luật. Dưới đây ta chỉ nghiên cứu tới bảo lãnh do ngân hàng thương mại phát hành. Bên được bảo lãnh: là bên yêu cầu được bảo lãnh, có thể là các tổ chức tín dụng khác, các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh hợp pháp tại Việt Nam, hộ kinh doanh cá thể, các tổ chức nước ngoài tham gia các hợp đồng hợp tác liên doanh và tham gia đấu thầu các dự án tại Việt Nam hoặc vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam. Bên nhận bảo lãnh( Bên thụ hưởng bảo lãnh): là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng. 1.1.3. Đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng 1.1.3.1. Bảo lãnh ngân hàng là mối quan hệ đa phương Một nghiệp vụ bảo lãnh luôn tồn tại 3 mối quan hệ của ba chủ thể: bên bảo lãnh ( ngân hàng), bên được bảo lãnh, và bên được bảo lãnh. Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là mối quan hệ thương mại- mối quan hệ cơ sở cho việc thực hiện bảo lãnh, qua mối quan hệ này bên bảo lãnh xem xét có thể đứng ra bảo lãnh hay từ chối. Xuất phát từ hợp đồng cơ sở, nhằm hạn chế rủi ro cho người thụ hưởng (bên nhận bảo lãnh) thì ngân hàng sẽ phát hành bảo lãnh theo yêu cầu của người được bảo lãnh. Quan hệ giữa bên được bảo lãnh và bên ngân hàng bảo lãnh là mối quan hệ giữa khách hàng nhận tín dụng và ngân hàng cấp tín dụng. Quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh là mối quan hệ đảm bảo bằng uy tín và khả năng tài chính. 1.1.3.2. Bảo lãnh ngân hàng mang tính độc lập Trong một hợp đồng bảo lãnh thường có ba hợp đồng độc lập: Hợp đồng giữa người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh ( Underlying contract) gọi là hợp đồng cơ sở. Đây là nguồn gốc để hình thành nên hai hợp đồng còn lại. Hợp đồng giữa người yêu cầu bảo lãnh và ngân hàng bảo lãnh, cụ thể là đơn xin bảo lãnh đã được xét duyệt. Thư bảo lãnh (Letter of guarantee) là hợp đồng giữa ngân hàng phát hành bảo lãnh và người thụ hưởng ( bên nhận bảo lãnh). Mỗi bên trong từng hợp đồng có quyền và nghĩa vụ riêng mặc dù chúng vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của nhau. Nội dung thư bảo lãnh được xây dựng trên nền tảng những điều khỏan trong hợp đồng cơ sở nhưng về mặt pháp lý, thư bảo lãnh có giá trị riêng tách rời khỏi cơ sở hình thành nó. Việc xác định đúng bản chất pháp lý của bảo lãnh ngân hàng là cơ sở phân định cơ cấu chủ thể của nó. Dựa trên các biểu hiện bên ngoài, việc bảo lãnh có ba bên: bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Nhưng xét về mặt pháp lý quan hệ bảo lãnh chỉ đòi hỏi bắt buộc 2 bên là bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh. Có thể nói rằng việc tham gia ký kết của bên được bảo lãnh không là không phải là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ hợp đồng bảo lãnh, mặc dù cam kết của bên được bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ với bên bảo lãnh sau khi họ thực hiện nghĩa thay cho mình là cơ sở để người bảo lãnh đưa ra cam kết bảo lãnh. Theo quy định thì cam kết bảo lãnh được đưa ra và chấp nhận giữa hai bên là người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Còn việc thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh được quy định như sau: khi người bảo lãnh đã hoàn thành nghĩa vụ thì có quyền yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ với mình trong phạm vi đã bảo lãnh, nếu không có thỏa thuận khác. Như vậy bên được bảo lãnh là bên thụ hưởng lợi ích từ hợp đồng bảo lãnh mà không phải là bên đóng vai trò thiết lập hợp đồng bảo lãnh là bên bắt buộc ký hợp đồng bảo lãnh. Về mặt nguyên tắc các bên có thể ký hợp đồng gồm 3 bên: là bên bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Tuy nhiên do bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh không phải là các chủ thể thuộc cấu trúc chủ thể của hợp đồng bảo lãnh, nên họ không có các quyền nghĩa vụ tương ứng như quan hệ giữa người bảo lãnh và người nhận bảo lãnh. Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh thưa kiện lẫn nhau, thì tư cách của họ không phải là tư cách của các bên ký hợp đồng bảo lãnh mà là tư cách của chủ thể quan hệ hợp đồng có nghĩa vụ của người được bảo lãnh được đảm bảo bằng biện pháp bảo lãnh. Khi ngân hàng thực hiện bảo lãnh thì các quan hệ sau đây phát sinh: Quan hệ bảo lãnh giữa ngân hàng với bên nhận bảo lãnh Bên đi vay ( Bên được bảo lãnh) Ngân hàng ( Bên bảo lãnh) Bên có quyền ( Bên nhận bảo lãnh) Quan hệ dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng với khách hàng ( bên được bảo lãnh) phát sinh do thỏa thuận giữa các bên trong việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay khách hàng và nghĩa vụ hoàn trả của khách hàng với tổ chức tín dụng. Quan hệ bảo lãnh Quan hệ dịch vụ bảo lãnh 1.1.3.3. Bảo lãnh ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng Bản chất của bảo lãnh là một hình thức tài trọ thông qua uy tín của các tổ chức tín dụng. Khi phát hành một cam kết bảo lãnh, bảng cân đối tài sản của ngân hàng không hề bị thay đổi vì ngân hàng không phải xuất tiền ngay khi bảo lãnh. Vì vậy bảo lãnh được coi là một hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên khi khách hàng thực hiện đúng những cam kết đã ghi trong hợp đồng bảo lãnh ngân hàng thì ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên nhận bảo lãnh. Khi đó nghiệp vụ bảo lãnh sẽ tác động đến bảng cân đối tài sản của ngân hàng, khoản chi phí chi trả cho bên thụ hưởng này được xếp vào loại tài sản “ xấu” trong nội bảng và cơ cấu thành nợ quá hạn. Chính vị vậy bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như một khoản vay và đòi hỏi phải được giám sát kỹ, quản lý chặt chẽ như các hình thức cấp tín dụng khác. 1.1.3.4. Bảo lãnh ngân hàng được tiên hành trên cơ sở chứng từ Bảo lãnh ngân hàng được tiến hành dựa trên hợp đồng thương mại giữa hai bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. 1.1.4. Chức năng và vai trò của bảo lãnh ngân hàng. Cũng như bao hoạt động kinh doanh khác, bảo lãnh ngân hàng cũng có những vai trò và chức năng nhất định: 1.1.4.1. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng * Chức năng hạn chế rủi ro do thông tin không cân xứng Khi nền kinh tế phát triển, các giao dịch thương mại không chỉ diễn ra ở phạm vi trong nước mà còn diễn ra phạm vi thế giới. Do có sự khác biệt về khoảng cách địa lý và tập quán kinh doanh nên việc tìm hiểu thông tin đối tác hết sức khó khăn. Các ngân hàng thương mại với hệ thống nhánh mở rộng ở khắp các quốc gia, khu vực lại có mối quan hệ với nhiều khách hàng nên nắm giữ rất nhiều thông tin về hoạt động kinh doanh, năng lực tài chính của khách hàng. Vì vậy yêu cầu cam kết bảo lãnh của ngân hàng uy tín được sử dụng như một công cụ đánh giá và lựa chọn đối tác. * Chức năng đôn đốc và thực hiện hợp đồng Bảo lãnh ngân hàng tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của ngân hàng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Sau ngân hàng phát hành thư bảo lãnh cho bên thụ hưởng,nếu trong thời gian bảo lãnh mà bên được bảo lãnh vi phạm một trong những điều khỏan được ghi trong hợp đồng thì bên thụ hưởng có quyền đòi só tiền bảo lãnh. Bên bảo lãnh buộc phải bồi hoàn số tiền này cho ngân hàng. Nếu chậm trả hoặc không trả số tiền này thì bên được bảo lãnh sẽ bị hạ thấp tín dụng và gặp nhiều khó khăn hơn khi cấp bảo lãnh và các khoản tín dụng khác sau này. * Chức năng hạn chế tổn thất phát sinh do vi phạm hợp đồng. Những vi phạm trong hợp đồng thương mại có nhiều nguyên nhân. Nguyên nhân đó có thể là do một trong hai bên cố ý vi phạm, tuy nhiên nhiều khi cả hai bên đều nỗ lực thực hiện hợp đồng thì vẫn tồn tại những rủi ro bất khả kháng như thiên tai, dịch họa, bãi công…Trong trường hợp đó cả hai phía đều gặp khó khăn, bên vi phạm sẽ gặp khó khăn về tài chính do bị phạt vi phạm hợpđồng hoặc bị buộc trả lại tiền bồi hoàn ứng trước…còn bên bị vi phạm tuy nhận đựoc khỏan bồi thường vi phạm hợp đồng hoặc được hoàn trả tiền ứng trước nhưng cũng sẽ gặp khó khăn vì phải tạm thời ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc còn có thể vi phạm với bên thứ ba. Nếu những vi phạm nằm trong điều khoản được quy định trong cam kết bảo lãnh thì ngân hàng sẽ góp phần giảm bớt thiện hại cho cả hai phía. Một mặt ngân hàng cung cấp thanh khỏan cho bên nhận bảo lãnh, mặt khác đảm bảo khả năng thanh tóan cho bên được bảo lãnh. Điều đó có nghĩa là bên thụ hưởng sẽ nhận được tiền bảo lãnh ngay khi có bằng chứng chứng minh sự vi phạm. Khỏan tiền bảo lãnh sẽ góp phần giúp bên nhận bảo lãnh xử lý được vấn đề phát sinh hay nộp phạt cho bên thứ ba (nếu có). Bên được bảo lãnh sẽ được cấp một khỏan tín dụng bắt buộc nếu như họ chưa có đủ khả năng để nộp phạt, bồi hoàn thiện tiền ứng trước…Chính sự đảm bảo này tạo ra sự tin tưởng khiến cho hợp đồng được ký kết một cách dễ dàng và thuận lợi hơn. Đây cũng chính là điểm khác biệt của bảo lãnh so với tín dụng chứng từ. * Bảo lãnh là công cụ tài trợ Không chỉ là công cụ đảm bảo, bảo lãnh còn là công cụ tài trợ cho người được bảo lãnh. Thông qua bảo lãnh ngươi được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được vay nợ hoặc được kéo dài thời gian thanh tóan tiền hàng hóa, dịch vụ… Do vậy,mặc dù không trực tiếp cấp vốn như trong tín dụng nhưng bảo lãnh ngân hàng giúp cho khách hàng được những thuận lợi về ngân quỹ như trong trường hợp cho vay. 1.1.4.2. Vai trò của bảo lãnh * Đối với ngân hàng - Bảo lãnh ngân hàng làm tăng doanh thu cho ngân hàng: Ngân hàng được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ % tính trên doanh số bảo lãnh, thu một lần đối với bảo lãnh ngắn ngày như dự thầu hay thu hằng quý đối với bảo lãnh dài hạn như thực hiện hợp đồng. Muốn được bảo lãnh khách hàng phải có tài khoản ký quỹ tại ngân hàng trong suốt thời gian bảo lãnh. Ngân hàng có thể sử dụng khỏan tiền này để cho vay thu lãi coi như một nguồn vốn khá ổn định của ngân hàng. Khỏan tiền ký quỹ bảo lãnh thường khá lớn. Khoản tiền đó có thể bằng một phần tự có của khách hàng nên khách hàng thường phải thế chấp tài sản hoặc xin vay để ký quỹ. Như vậy với chỉ một khỏan bảo lãnh mà ngân hàng có thể thu được lãi cho vay( mặc dù khỏan vay nay với lãi suất thường thấp), thu phí dịch vụ cam kết và thu lãi khi tạm thời trả thay cho khách hàng. - Bảo lãnh làm đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Với nhiều loại hình bảo lãnh và phương thức phát hành bảo lãnh góp phần vào thực hiện chiến lược đa dạng hóa nhằm giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng. Xu hướng của các ngân hàng thương mại hiện nay là tăng tỷ trọng thu nhập từ các hoạt động dịch vụ trong tổng thu nhập của ngân hàng, tránh phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động cho vay. - Bảo lãnh góp phần vào tăng cường vị thế và uy tín, mở rộng quan hệ đại lý, nhất là trên thị trường quốc tế. Chỉ những ngân hàng có uy tín hơn và khả năng tài chính mạnh thì bảo lãnh ngân hàng đó mới được chấp nhận. Như vậy chuyện chấp nhận bảo lãnh của một ngân hàng cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận uy tín và khả năng thanh toán của ngânhàng đó. Phát triển hoạt động bảo lãnh nghĩa là mở rộng hợp tác, mở rộng thị trừong hoạt động. * Đối với khách hàng - Với bên được bảo lãnh: Thực hiện chức năng tài trợ, bảo lãnh ngân hàng đã góp phần tháo gỡ khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thực hiện tái sản xuất mở rộng. Bảo lãnh ngân hàng có giá trị như một phương thức quảng bá hữu hiệu trong việc tìm kiếm đối tác và tạo dựng uy tín trên thị trường. - Với bên nhận bảo lãnh: bảo lãnh ngânhàng có một vai trò như thước đo uy tín, từ đó giúp doanh nghiệp tiết kiệm đựoc thời gian chi phí trong việc lựa chọn đối tác. Trong trường hợp doanh nghiệp bị vi phạm hợp đồng bảo lãnh ngân hàng đảm bảo bù đắp thiệt hại nhanh nhất. * Đối với nền kinh tế - Đáp ứng nhu cầu vay vốn trong nền kinh tế: với chức năng tài trợ bảo lãnh ngân hàng đóng một vai trò như một tài sản đảm bảo hiệu quả kinh tế hơn so với cầm cố thế chấp. Nó đặc biệtcó ý nghĩa đối với những dự án cần thu hút vốn từ các TCTD ở nước ngoài. Bên cạnh đó, bảo lãnh ngân hàng còn giúp doanh nghiệp có được những khỏan tín dụng thương mại quan trọng phục vụ trong phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh như các khỏan tiền ứng trước… - Thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng kinh tế: Với chức năng hạn chế thông tin không cân xứng, đôn đốc thực hiện hợp đồng và hạn chế tổn thất phát sinh do vi phạm hợp đồng, bảo lãnh góp phần thúc đẩy việc ký kết các hợp đồng kinh tế, đặc biệt là những giao dịch thương mại quốc tế. - Định hướng phát triển kinh tế: giống với các hình thức cấp tín dụng khác, chính sách phí bảo lãnh và điều kiện bảo lãnh sẽ có tác dụng định hướng phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn hay chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiến lược phát triển quốc gia. 1.1.6. Vai trò của ngân hàng khi thực hiện bảo lãnh 1.1.6.1. Cung cấp công cụ đảm bảo cho khách hàng Hầu hết các khách hàng tìm đến nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng, nghĩa là khách hàng này đã nhờ cậy sự uy tín của ngân hàng,đảm bảo giao dịch trong hợp đồng thương mại. Ngân hàng đóng vai trò là người bảo lãnh đứng ra cam kết với đối tác của khách hàng rằng việc thực hiện hợp đồng thương mại sẽ diễn ra một cách suôn sẻ, nghĩa là bên mua hàng sẽ thanh tóan tiền hàng cho bên bán hàng, nếu không thì ngân hàng sẽ đứng ra trả nợ thay cho khách hàng của mình cho bên nhận bảo lãnh. Và bên được bảo lãnh sẽ phải chịu một món nợ với ngân hàng, và phải trả đầy đủ lãi suất. 1.1.6.2. Cầu nối trung gian giữa các khách hàng,tạo mối quan hệ Ngân hàng đứng ra đảm bảo cho khách hàng của mình, vừa đôn đốc việc thực hiẹn hợp đồng của khách hàng, vừa tạo mối quan hệ làm ăn lâu dài của khách hàng với đối tác của họ. 1.1.7. Phân loại bảo lãnh ngân hàng 1.1.7.1. Căn cứ theo phương thức phát hành bảo lãnh * Bảo lãnh trực tiếp ( Direct Guarantee) Bảo lãnh trực tiếp là bảo lãnh mà trong đó ngân hàng phát hành bảo lãnh chịu trách nhiệm trực tiếp thay cho bên được bảo lãnh. Người bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phát hành bảo lãnh. Bảo lãnh trực tiếp thông thường có ba bên tham gia: ngân hàng phát hành bảo lãnh, bên đựoc bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh( người thụ hưởng bảo lãnh). Trong trường hợp người thụ hưởng là người nước ngoài có thể thêm ngân hàng ở cùng quốc gia với những người thụ hưởng bảo lãnh trong vai trò ngân hàng thông báo. Sơ đồ1: Bảo lãnh trực tiếp Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo Người được bảo lãnh Người thụ hưởng Các mối quan hệ trong sơ đồ: Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thỏa thuận hợp đồng chính( hợp đồng thương mại) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng mình phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng Ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh cho ngân hàng thông báo Ngân hàng thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh của ngân hàng phục vụ người mua Trường hợp ngân hàng bảo lãnh phát hành bảo lãnh trực tiếp đến người thụ hưởng không thông qua ngân hàng thông báo. Quan hệ giữa ngừoi được bảo lãnh và ngân hàng phát hành bảo lãnh phát sinh hợp đồng bảo lãnh chỉ thị cho ngân hàng phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng với những điều khoản và điều kiện đã quy định, đồng thời cam kết bồi hoàn cho ngân hàng phát hành. Nếu ngân hàng đồng ý phát hành thì nó có nhiệm vụ phát hành bảo lãnh và thanh toán bảo lãnh theo những điều khỏan và điều kiện bảo lãnh, ngân hàng phát hành sau khi thanh tóan cho người thụ hưởng có quyền yêu cầu người được bảo lãnh bồi hòan. Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và ngân hàng thông bảo là quan hệ đại lý giữa các ngân hàng. Ngân hàng phát hành có thể phát hành trực tiếp bảo lãnh cho người thụ hưởng mà không cần thông qua ngân hàng thông báo. Quan hệ giữa ngân hàng phát hành và người thụ hưởng sau khi phát sinh khi ngân hàng phát hành phát hành bảo lãnh cam kết cho người thụ hưởng, và được thụ hưởng chấp nhận. Trách nhiệm của ngân hàng là phải kiểm tra chứng từ thanh toán khi người yêu cầu, còn thụ hưởng phải chuẩn bị những chứng từ phù hợp với các điều khỏan và điều kiện đã ghi trong hợp đồng bảo lãnh * Bảo lãnh gián tiếp (Indirect guarantee) Bảo lãnh gián tiếp hay còn gọi là bảo lãnh đối ứng là lọai bảo lãnh trong đó ngân hàng bảo lãnh đã phát hành bảo lãnhtheo chỉ thị của một ngân hàng trung gian phục vụ cho người được bảo lãnh dựa trên một bảo lãnh khác gọi là bảo lãnh đối ứng. Người được bảo lãnh không chịu trách nhiệm bồi hoàn trực tiếp cho ngân hàng phàt hành mà chính ngân hàng trung gian chịu trách nhiệm bồi hoàn.Bảo lãnh gián tiếp thường được dùng trong trường hợp người thụ hưởng yêu cầu ngân hàng phát hành bảo lãnh là ngân hàng mà người được bảo lãnh không có quan hệ với ngân hàng của người hưởng thụ. Sơ đồ 2: bảo lãnh gián tiếp Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo Người thụ hưởng Ngân hàng thứ nhất Người được bảo lãnh Bảo lãnh (4) BL đối ứng (3) (6) (5) Chỉ thị (2) (1) Các mối quan hệ trong sơ đồ (1) Người được bảo lãnh và người thụ hưởng thỏa thuận hợp đồng chính. (2) Người được bảo lãnh đề nghị ngân hàng phục vụ mình (ngân hàng thứ nhất ) phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng phát hành (ngân hàng thứ hai) (3) Ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ hai. (4) Ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh cho người hưởng thụ thông qua ngân hàng thông báo (5) Ngân hàng thông báo cho người thụ hưởng về bảo lãnh của ngân hàng thứ hai (6) Ngân hàng thứ hai có thể phát hành bảo lãnh trực tiếp đến người thụ hưởng , không thông qua ngân hàng thông báo. Như vậy trong bảo lãnh gián tiếp có ít nhất bốn bên tham gia :Ngân hàng phát bảo lãnh ,ngân hàng chỉ thị , người được bảo lãnh và người thụ hưởng bảo lãnh .Một số trường hợp có thể có một ngân hàng giữ vai trò thông báo như trong bảo lãnh trưc tiếp. Bảo lãnh gián tiếp xảy ra khi ngân hàng phục vụ người mua không có quan hệ đại lý với ngân hàng phục vụ người bán .Vì vậy ngân hàng người bán không chấp nhận bảo lãnh của ngân hàng phục vụ người mua.Vì vậy, trên cơ sở đề nghị của người được bảo lãnh ,ngân hàng phục vụ người mua phải đề nghị một ngân hàng khác (ngân hàng thứ hai) thay mặt mình phát hành bảo lãnh theo mẫu và các điều khoản nhất định.Ngân hàng thứ nhất xem xét phát hành bảo lãnh đối ứng cho ngân hàng thứ hai cũng tương tự như trường hợp ngân hàng thứ nhất phát hành bảo lãnh trực tiếp ( ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai phải có quan hệ đại lý với nhau). Quan hệ ngân hàng thứ nhất và ngân hàng thứ hai được thể hiện ở hai khía cạnh: Văn bản của ngân hàng thứ nhất đề nghị ngân hàng thứ hai phát hành bảo lãnh. Văn bàn của ngân hàng thứ nhất cam kết bồi hoàn cho ngân hàng thứ ha nếu ngân hàng thứ hai thanh tóan bảo lãnh và được thể hiện bằng một văn bản bảo lãnh đối ứng. Bảo lãnh đối ứng ghi rõ số tiền thanh toán bảo lãnh tối đa và số tiền này tương ứng với số tiền bảo lãnh tối đa của ngân hàng thứ hai. Vì vậy, ngân hàng phát hành chỉ có thể đòi ngân hàng thứ nhất số tiền tối đa bằng số tiền mà họ đã thanh toán cho người thụ hưởng. * Bảo lãnh xác nhận Bảo lãnh xác nhận là việc xác nhận của một ngân hàng đối với một bảo lãnh do một ngân hàng khác để xác nhận lại tính bảo đảm của bảo lãnh. Bảo lãnh xác nhận thường phát sinh trong trường hợp người thụ hưởng muốn một ngân hàng khác trong nước khó xác nhận bảo lãnh do một ngân hàng nước ngoài phát hành. Như vậy, người thụ hưởng có thể xuất trình những chứng từ theo yêu cầu của bảo lãnh đến ngân hàng xác nhận thanh toán nếu người được bảo lãnh không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Trong bảo lãnh này ngoài ngân hàng phát hành, người thụ hưởng, người được bảo lãnh còn có thêm ngân xác nhận bảo lãnh, người thụ hưởng bảo lãnh còn có thêm xác nhận bảo lãnh, người thụ hưởng bảo lãnh do không tin tưởng vào khả năng tài chính của ngân hàng phát hành đã chỉ định xác nhận bảo lãnh. Trách nhiệm thanh toán trực tiếp cho người thụ hưởng sẽ thuộc về ngân hàng xác nhận. Nhưng hình thức này không phổ biến vì nếu không tin tưởng ngân hàng phát hành, người thụ hưởng thường yêu cầu thực hiện nghiệp vụ tái bảo lãnh. Sơ đồ 3 : Bảo lãnh được xác nhận Ngân hàng xác nhận Người thụ hưởng Người được bảo lãnh Ngân hàng bảo lãnh Bảo lãnh Chỉ thị Thông báo phát hành xác nhận bảo lãnh Hợp đồng * Đồng bảo lãnh ( Synducated guarantee) Đồng bảo lãnh thường được áp dụng trong trường hợp có thương vụ lớn, khả năng rủi ro cao, một ngân hàng không thể thực hiện được vì các quy định về pháp luật của chính phủ. Do vậy, để phân tán rủi ro ngân hàng đó sẽ thực hiện một nghiệp vụ đồng bảo lãnh. Khi một nghiệp vụ đồng bảo lãnh phát sinh, sẽ có một ngân hàng đứng ra bảo lãnh chính trong số các thành viên tham gia đồng bảo lãnh. Trách nhiệm của ngân hàng này là phát hành thư bảo lãnh cho toàn bộ số tiền bảo lãnh, giữ những chứng từ thế chấp cầm cố, thu phí bảo lãnh từ người được bảo lãnh và chia lại cho các ngân hàng thành viên theo tỷ lệ. Trách nhiệm thanh tóan bảo lãnh của ngân hàng chính với người thụ hưởng là trách nhiệm trực tiếp. Sau khi đã thực hiện thanh toán, ngân hàng chính sẽ đòi từ các ngân hàng thành viên số tiền đã chia theo tỷ lệ. Sơ đồ 4: Đồng bảo lãnh Ngân hàng phát hành Ngân hàng thông báo Người được bảo lãnh Người thụ hưởng NH1 NH2 NH3 (4b) (3) (2) (4a) (1) Các mối quan hệ trong sơ đồ: Hợp đồng gốc Người được bảo lãnh yêu cầu phát hành bảo lãnh Ngân hàng chính xếp bảo lãnh cùng với các ngân hàng đồng minh. (4a) (4b) Ngân hàng chính phát hành bảo lãnh cho người thụ hưởng; chuyển trực tiếp qua ngân hàng thông báo. Ngoài những loại hình bảo lãnh trên đây dựa theo phương thức phát hành còn có một sô loại khác như: Bảo lãnh giáp lưng, bảo lãnh xác nhận, bảo lãnh phụ… được sử dụng chủ yếu trong quan hệ quốc tế. 1.1.7.2. Căn cứ theo mục đích phát hành * Bảo lãnh dự thầu ( Tender guarantee- bid bond) Bảo lãnh dự thầu là cam kết của ngân hàng phát hành với chủ đầu tư(hay chủ thầu) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là bảo đảm cho việc người dự thầu không rút lui, không ký hợp đồn._.g hay thay đổi ý định khi đã được trúng thầu gây ra thiệt hại cho người thụ hướng. Do vậy, khi tổ chức đấu thầu là đảm bảo cho việc người dự thầu không rút lui, không ký hợp đồng hay thay đổi ý định khi đã đựoc trúng thầu, người chủ đầu tư sẽ yêu cầu người đăng ký tham gia đấu thầu phải cung cấp một người bảo lãnh gọi là bảo lãnh dự thầu. Bảo lãnh này sẽ tự động hết hiệu lực nếu người dự thầu không trúng được thầu. Bảo lãnh dự thầu thực chất là phương tiện thay thế cho việc ký quỹ của người tham gia dự thầu, nên giá trị của bảo lãnh này được quy định theo mức ký quỹ chuẩn do người tổ chức đấu thầu đưa ra. Thông thường giá trị bảo lãnh dự thầu từ 1% đến 5% giá trị của hợp đồng. * Bảo lãnh thực hiện hợp đồng( Performance guarantee ) Bảo lãnh thực hiện hợp đồng là cam kết ngân hàng phát hành về việc chi nhánh trả tổn thất thay cho khách hàng nếu không thực hiện đầy đủ hợp đồng như đã cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Loại bảo lãnh này rất thường được sử dụng để cung cấp cho người thụ hưởng một đảm bảo về thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh. Bảo lãnh này thông thường được sử dụng kèm vơi phương thức thanh toán khác, giá trị hợp đồng bảo lãnh này tùy theo giá trị hợp đồng và tùy thuộc tính chất thương vụ. Tuy nhiên giá trị bảo lãnh thường từ khỏang 5% đến 10% giá trị hợp đồng. * Bảo lãnh vay vốn ( Loan guarantee) Bảo lãnh vay vốn là hình thức bảo lãnh thông dụng hiện nay. Bảo lãnh vay vốn cam kết của ngân hàng thực hiện trách nhiệm tài chính thay cho khách hàng nếu khách hàng vi phạm hợp đồng, không thanh toán khoản vay mà ngân hàng đã đứng ra bảo lãnh. Bảo lãnh vay vốn là một dạng nhỏ của bảo lãnh thanh toán. Đây là một nghiệp vụ bảo lãnh hàm chứa nhiều rủi ro, do vậy các ngân rất thận trọng khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh vay vốn, phải tiến hành phân tích tài chính khách hàng đầy đủ, thẩm định hiệu quả dự án đầu tư, đồng thời yêu cầu tài sản đảm bảo để hạn chế những rủi ro về việc phải thanh tóan thay cho khách hàng như một nghiệp vụ chovay khách hàng. Bảo lãnh vay vốn có thể bảo lãnh vay vốn trong nước hoặc vay vốn nước ngoài. Thời hạn bảo lãnh bắt đầu có hiệu lực kể từ khi người được bảo lãnh nhận được vốn vay và kết thúc khi hết khoản vay. Mức phí thường tính theo tỷ lệ phần trăm theo khoản vay, các ngân hàng sẽ tùy thuộc theo mức đồ rủi ro cũng như mối quan hệ khách hàng với ngân hàng mà quy định mức phí cụ thể. Thường không vượt quá 2% giá trị của khỏan vay. * Bảo lãnh thanh toán Bảo lãnh thanh toán là cam kết của ngân hàng phát hành về việc thanh tóan tiền đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu khách hàng của ngân hàng không thanh tóan đủ. Bảo lãnh thanh tóan hòan toàn có thể được sử dụng như một phương tiện đảm bảo trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài chính, hợp đồng đại lý, hợp đồng xây dựng…Đối với loại bảo lãnh này, về mục đích giống như tín dụng thương mại thông thường là đảm bảo nghĩa vụ thanh tóan. Tuy nhiên nó hoàn toàn khác về bản chất và phương thức truy đòi tiền, trong bảo lãnh thanh tóan, trách nhiệm thanh toán của ngân hàng là trách nhiệm thứ yếu. Nghĩa là ngân hàng chỉ chịu thanh tóan khi người được bảo lãnh không thanh toán và vi phạm hợp đồng. Còn thư tíndụng thương mại, trách nhiệm thanh toán của ngân hàng là đầu tiên, đại diện cho người mua thanh toán tiền cho người bán khi bán đã thực hiện đúng hợp đồng thương mại, mọi phát sinh từ hợp đồng thương mại đều ảnh hưởng tới quyết định thanh toán của ngân hàng. 1.1.7.3. Căn cứ vào điều kiện thanh toán * Bảo lãnh theo yêu cầu: là một bảo lãnh có điều kiện thanh toán như sau: người thụ hưởng chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh tóan mà không cần một chứng từ nào khác, người thụ hưởng không cần đưa ra những chứng từ hay chứng cứ gì để chứng minh việc vi phạm của người được bảo lãnh cũng như sự thiệt về phần mình. Do vậy người thụ hưởng luôn có thể yêu cầu ngân hàng phát hành thanh toán bảo lãnh bất cứ lúc nào nếu người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng mà không cần phải xuất trình chứng từ chứng minh và mô tả mức độ thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh gây ra. Và mức độ trách nhiệm của Ngân hàng phát hành là thực hiện thanh tóan ngay khi có yêu cầu của người thụ hửong mà không được quyền đòi hỏi những chứng từ đã đề cập ở trên. Yêu cầu thanh tóan có thể ở hai dạng: thứ nhất là một văn bản yêu cầu thanh toán của người thụ hưởng. Thứ hai, là một văn bản tuyên bố sự vi phạm hợp đồng của người được bảo lãnh do người thụ hửong lập. Từ điều kiện thanh tóan cho thấy bảo lãnh theo yêu cầu là một lợi thế rất lớn cho người thụ hưởng, vì họ luôn ở tư thế chủ động trong việc yêu cầu thanh toán bảo lãnh. Tuy nhiên đối với người được bảo lãnh,bảo lãnh theo yêu cầu mang lại một bất lợi quá lớn vì tạo ra một áp lực mạnh, đốc thúc người được bảo lãnh hoàn tất nghĩa vụ của mình và luôn phải phòng vệ trường hợp lừa đảo của người thụ hưởng. * Bảo lãnh kèm chứng từ Đây là hình thức bảo lãnh trong đó có yêu cầu chứng từ của một bên thứ ba. Chứng từ của bên thứ ba có thể gồm 2 loại : Chứng từ do người thụ hưởng xuất trình nhưng phải có xác nhận của bên thứ ba (một kiểm soát viên độc lập được chỉ định trước). Một bảo lãnh theo yêu cầu của người thụ hưởng nhưng có điều kiện là trừ khi người được bảo lãnh xuất trình chứng từ của một bên thứ ba phát hành xác nhận người được bảo lãnh đã hoàn tất nghĩa vụ. Nghĩa là người thụ hưởng không trung thực và có hành vi lừa đảo, như vậy ngân hàng sẽ không thực hiện thanh tóan cho người thụ hưởng. Tuy nhiên những chứng từ mà người thụ hưởng phải chuẩn bị là những chứng từ được yêu cầu trong thư bảo lãnh mà không cần những chứng từ chứng minh hay mô tả vi phạm của người được bảo lãnh. Hạn chế của bảo lãnh kèm chứng từ là kéo dài thời gian thanh toán cho người thụ hưởng ngay khi có hành vi vi phạm của người được bảo lãnh do phải đợi bên thứ ba lập chứng từ xác nhận nên người thụ hưởng không thể kiểm soát được. 1.2. Phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng 1.2.1. Khái niệm về phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng Hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng được coi là phát triển khi nó khôngngừng mở rộng và nâng cao chất lượng. Điều đó có nghĩa là bảo lãnh ngân hàng phải thực hiện tốt và đầy đủ chức năng nêu trên, thỏa mãn lợi ích cho tất cả các bên tham gia, góp phần phát triển ngân hàng và nền kinh tế. * Xét trên giác độ của một ngân hàng thương mại: Cũng như các hoạt động khác, hoạt động bảo lãnh được coi là phát triển khi lợi ích mà nó đem lạicho ngân hàng là rất lớn và rủi ro là nhỏ nhất. Điều đó có nghĩa là ngân hàng không phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, không phải cấp khỏan tín dụng bắt buộc cho người được bảo lãnh và phí bảo lãnh góp phần làm tăng doanh thu cho ngân hàng. Một khách hàng muốn được ngân hàng cấp bảo lãnh thì phải có tài khỏan ký quỹ tại ngân hàng. Khỏan tiền ký quỹ này là một phần trong nguồn vốn của ngân hàng và được sử dụng với mục đích sinh lời như các nguồn vốn khác. Như vậy chất lượng bảo lãnh của ngân hàng này còn được thể hiện ở việc ngân hàng sử dụng nguồn vốn này như thế nào để làm tăng lợi nhuận qua các hoạt động khác như cho vay, thanh toán... Đồng thời thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng sẽ tạo dựng được lòng tin của khách hàng và nâng cao uy tín của mình trên thị trường quốc tế. * Xét trên giác độ của khách hàng: Ngân hàng thương mại luôn phải xây dựng mối quan hệ bền chặt với khách hàng, bởi sự hợp tác lâu dài và bền vững ngân hàng có thể hiểu rõ nhu cầu của khách hàng và thỏa mãn một cách tối ưu nhu cầu của khách hàng. Chính vì vậy mà để có thể duy trì được mối quan hệ lâu dài này thì ngân hàng luôn phải chú trọng đến chất lượng dịch vụ mà mình đưa ra. Nó quyết định sự thành công của ngân hàng, do đó chúng ta có thể hiểu hoạt động bảo lãnh được coi là phát triển khi: tạo ra sự thuận tiện nhanh chóng mà đem lại lợi ich cho khách hàng: thủ tục nhanh gọn, mức phí thấp hoặc có nhiều chương trình khuyến mãi kèm theo… * Xét trên giác độ nền kinh tế: hoạt động bảo lãnh được coi là phát triển khi: Đáp ứng nhu cầu về vốn và công nghệ của nền kinh tế, thúc đẩy phát triển và mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Không vượt quá các tỷ lệ đảm bảo an tòan trong hoạt động ngân hàng theo quy định của thống đốc ngân hàng Nhà nước, gây bất ổn cho toàn hệ thống… Hoạt động bảo lãnh không thể coi là phát triển khi nó chỉ đơn phương mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Bởi vì nếu vậy thì sự phát triển đó chỉ là sự tăng trưởng lợi nhuận tức thời không bền vững. Như vậy sự phát triển hoạt động bảo lãnh phải được đánh giá trên nhiều khía cạnh và phát triển phải là phát triển ổn định, bền vững. 1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá sự phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng * Doanh số bảo lãnh và dư nợ bảo lãnh Dư nợ bảo lãnh là tổng giá trị các khỏan bảo lãnh của ngân hàng tại một thời điểm nhất định. Dư nợ Bảo lãnh cuối năm = Dư nợ bảo lãnh đầu năm + Phát hành bảo lãnh- Giải tỏa bảo lãnh Một tỷ lệ dư nợ bảo lãnh cao sẽ phản ánh nguy cơ rủi ro tiềm ẩn. Khi ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh cho bên nhận bảo lãnh thì khỏan bảo lãnh này sẽ trở thành khỏan cho vay bắt buốc đối với bên được bảo lãnh. Như vậy ngân hàng sẽ có thể đứng trước nguy cơ mất khả năng thanh toán nếu không có biện pháp phòng ngừa rủi ro thích hợp. Doanh số bảo lãnh là tổng giá trị các khỏan bảo lãnh phát sinh trong một thời kỳ. Hoạt động bảo lãnh của một ngân hàng được coi là phát triển khi doanh số bảo lãnh tăng đều qua các năm, trong đó các món bảo lãnh phải đảm bảo điều kiện an toàn và hàm chứa rủi ro. * Doanh thu từ hoạt động bảo lãnh Trong bất kỳ hoạt động nào thì doanh thu cũng là chỉ tiêu đầu tiên được xem xét vì nó là tiêu chí phản ánh khả năng sinh lời của hoạt động đó. Với hoạt động bảo lãnh cũng vậy doanh thu từ hoạt động bảo lãnh là một chỉ tiêu quan trọng và có tính chất đánh giá bao chùm nhất trong các chỉ tiêu định lượng. Nguồn thu bảo lãnh là tiền lệ phí mà bên nhân bảo lãnh phải trả cho để có được bảo lãnh của ngân hàng, nó được tính theo tỷ lệ phần trăm theo số tiền và thời gian bảo lãnh. Doanh thu bảo lãnh là tổng số phí mà ngân hàng đã thu được từ khách hàng nhờ hoạt động bảo lãnh. Một ngân hàng có hoạt động bảo lãnh được coi là phát triển thì doanh thu của hoạt động này phải có sự tăng trưởng qua các năm. Tuy nhiên nếu xét chỉ số tuyệt đối của phí bảo lãnh thì rất khó đánh giá được sự phát triển của hoạt động bảo lãnh. Vì vậy ngoài số liệu tuyệt đối còn phải xem xét doanh thu bảo lãnh trong mối quan hệ tương quan với doanh thu từ các hoạt động khác của ngân hàng. = Chỉ tiêu này cho thấy khả năng sinh lời và sự đóng góp doanh thu của hoạt động bảo lãnh vào doanh thu toàn bộ các hoạt động dịch vụ của ngân hàng. Tỷ trọng này ngày càng lớn càng chứng tỏ tầm quan trọng và sự phát triển của bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng = Chỉ tiêu này thể hiện vị trí của hoạt động bảo lãnh trong hoạt động kinh doanh nói chung của ngân hàng. * Dư nợ bảo lãnh quá hạn Dư nợ bảo lãnh quá hạn là khoản tiền mà ngân hàng phải trả thay cho khách hàng khi bảo lãnh đến hạn thanh tóan. Khỏan tiền này trở thành khỏan cho vay bắt buộc đối với khách hàng, nó được tính lãi và xác định thời hạn trả nợ như khoản vay bình thường. Nếu đến kỳ thanh tóan mà khách hàng vẫn chưa bồi hoàn lại cho ngân hàng thì khỏan này chuyển thành dư nợ bảo lãnh quá hạn. Dư nợ bảo lãnh quá hạn lớn chứng tỏ chất lượng công tác thẩm định của ngân hàng chưa tốt và ngân hàng đang đứng trước nguy cơ thất thoát vốn. Và ngược lại một dư nợ bảo lãnh quá hạn nhỏ chứng tỏ ngân hàng đã quản lý tốt nguồn vốn của mình. Dư nợ bảo lãnh quá hạn Tỷ trọng bảo lãnh quá hạn = Dư nợ bảo lãnh Tỷ lệ này cho biết tỷ trọng dư nợ bảo lãnh quá hạn trong tổng dư nợ bảo lãnh, phần trăm doanh số bảo lãnh đã phát sinh rủi ro. Khi dư nợ bảo lãnh giảm hoặc doanh số bảo lãnh tăng thì tỷ lệ này sẽ giảm. * Sự đa dạng của các loại hình bảo lãnh Đa dạng hóa loại hình bảo lãnh là một trong những mục tiêu của các ngân hàng trong quá trình phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng có thể được chia thành nhiều loại, mỗi loại bảo lãnh khác nhau lại có mục đích sử dụng khác nhau. Tuy nhiên, trong trường hợp do khả năng hạn chế, nhiều ngân hàng chỉ tập trung một loại bảo lãnh mà có nhu cầu lớn và bỏ qua các loại bảo lãnh khác. Nếu một ngân hàng có thể thực hiện đa dạng hóa danh mục bảo lãnh thực hiện, chứng tỏ ngân hàng đó có uy tín lớn và thực sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh. * Sự mở rộng về đối tượng và số lượng khách hàng. Với nhiều loại hình khác nhau, nghiệp vụ bảo lãnh có thể đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khác nhau. Trong quá trình mở cửa nền kinh tế hiện nay, các thành phần kinh tế đều tham gia vào các hoạt động sản xuất kinh doanh một cách sôi nổi. Các hoạt động đó đem lại những món lợi lớn, nhưng đồng thời cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro gây tổn thất đáng kể cho họ. Mọi đối tượng tham gia vào đó đều có thể gặp rủi ro từ nhiều phía, một trong các rủi ro là do đối tác gây ra. Nghiệp vụ bảo lãnh hoàn toàn có thể thu hút được tất cả các thành phần kinh tế. Vì vậy mà ngân hàng có nghiệp vụ bảo lãnh phát triển phải đáp ứng được những nhu câu đó ngày càng tốt. Do đó, việc tăng đối tượng khách hàng và số lượng khách hàng sử dụng nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng là một tiêu chí cơ bản phản ánh sự phát triển nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng. 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt động bảo lãnh ngân hàng 1.3.1. Các nhân tố chủ quan * Quy trình bảo lãnh Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh là sự chuẩn hóa các bước thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Các bước trong quy trình này đã được quy đinh cụ thể và ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng bảo lãnh. Vì vậy trong quá trình thực hiện ngân hàng phải quản lý chặt chẽ và có sự phân công trách nhiệm rõ ràng đối với từng bước thực hiện một. Một quy trình không phù hợp hay các bước tiến hành không đầy đủ sẽ đánh giá sai và mang lại một khỏan bảo lãnh kém chất lượng,đẩy ngân hàng đứng trước nguy cơ thất thoát vốn. Tuy nhiên, một quy trình quá chặt chẽ sẽ làm tốn mất thời gian, gây phiền hà cho khách hàng, tốn kém không cần thiết mà lại có thể bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Một quy trình bảo lãnh được coi là hợp lý khi nó vừa đảm bảo được sự chặt chẽ để không gây rủi ro cho khách hàng, vừa đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Thỏa mãn được các điều kiện này thì ngân hàng mới có thể mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động bảo lãnh của mình. * Phí bảo lãnh và mức ký quỹ Vấn đề đầu tiên mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng quan tâm là họ phải trả cho ngân hàng bao nhiêu cho mỗi bảo lãnh của ngân hàng vì phí bảo lãnh và mức ký quỹ bảo lãnh phản ánh chi phí tài chính và chi phí cơ hội để được ngân hàng bảo lãnh. Phí bảo lãnh phản ánh doanh thu hoạt động bảo lãnh và đóng góp doanh thu của ngân hàng. Vì vậy, hoạt động bảo lãnh chỉ được coi là phát triển khi nó có được một chính sách phí và mức ký quỹ phù hợp sao cho có sựcân bằng giữa chi phí và mức độ rủi ro mà ngân hàng phát hành phải gánh chịu so với doanh thu mà họ có được * Trình độ chuyên môn của cán bộ thực hiện bảo lãnh Trong hoạt động kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào, con người là yếu tố trực tiếp vận hành máy móc và điều hành hoạt động kinh doanh. Như vậy yếu tố con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự sống còn của doanh nghiệp đó. Nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay cùng với sự thay thế máy móc, lao động phổ biến cũng ít dần đi thì chất lượng nguồn nhân lực cũng ngày càng phải được nâng cao phù hợpvới sự phát triển công nghệ và sự phát triển kinh tế. Đối với ngân hàng thương mại thì chất lượng nhân sự còn phải có yêu cầu cao hơn nữa vì hành hóa kinh doanh của ngân hàng là tiền. Nguồn chủ yếu của ngân hàng là nguồn đi vay và tài sản chủ yếu là tài sản tài chính nên bất kỳ một sai phạm nào cũng có thể gây ra rủi ro lớn đẩy ngân hàng tới nguy cơ phá sản. Cũng giống như cho vay, bảo lãnh đòi hỏi người thực hiện nó phải thẩm định kỹ càng trước khi ra quyết định bảo lãnh và phải giám sát chặt chẽ sau khi phát hành bảo lãnh. Bất kỳ một sự nhầm lẫn, thiếu sót nào đó của cán bộ tín dụng cũng có thể dẫn tới việc đánh giá sai về bên được bảo lãnh, mang lại khỏan bảo lãnh kém chất lượng gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung. Ngoài ra sự năng động, linh hoạt nhiệt tình, của cán bộ tín dụng cũng là một điều hết sức quan trọng góp phần xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngân hàng đối với khách hàng. * Quy mô vốn và uy tín của ngân hàng Theo quyết định 26/2006/QĐ-NHNN thì ngân hàng chỉ được bảo lãnh đối với mỗi khách hàng tối đa là 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Với quy mô vốn tự có như hiện nay của ngân hàng thì một ngân hàng khó có thể đáp ứng được những hợp đồng bảo lãnh lớn. Vì vậy với quy mô vốn tự có lớn thì ngân hàng sẽ tiến hành thực hiện hợp đồng bảo lãnh lớn mang lại nguồn thu đáng kể. Bảo lãnh được phát hành chủ yếu là dựa trên uy tín của ngân hàng hay nói cách khác bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Vì vậy uy tín của ngân hàng là yếu tố quan trọng để khách hàng đưa ra quyết định lựa chọn ngân hàng phát hành bảo lãnh cho mình. Ngoài ra hầu hết hiện nay các hợp đồng thương mại, bên đối tác yêu cầu phải có bảo lãnh ngân hàng của một ngân hàng quốc doanh. Điều này cho thấy là các ngân hàng thương mại cổ phần mấy năm gần đây tuy hoạt động kinh doanh có tăng trưởng nhanh nhưng uy tín vẫn chưa tạo được độ tin cậy đối với khách hàng. Vì vậy việc nâng cao uy tín của ngân hàng là một việc hết sức cấp thiết và quan trọng cho hoạt động bảo lãnh nói riêng và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung. 1.2.2. Nhân tố khách quan * Về phía khách hàng Nhu cầu của khách hàng là nhân tố đầu tiên quyết định đến khả năng mở rộng nghiệp vụ bảo lãnh, chính nhu cầu khách hàng sẽ tác động đến quy mô bảo lãnh, do vậy việc tìm hiểu khách hàng và đánh giá nhu cầu của họ là rất quan trọng, giúp ngân hàng đưa ra những chiến lược mở rộng hợp lý cho từng lọai nhu cầu hiện tại cũng như phát triển các nhu cầu tiềm năng. Bên cạnh đó khi tiếp nhận một hồ sơ bảo lãnh, ngân hàng phải tiến hành thẩm định khách hàng về năng lực tài chính, khả năng đảm bảo biện pháp đảm bảo cũng như tình khả thi của dự án(nếu có) nhằm đưa ra quyết định đúng đắn. Như vậy các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng mở rộng bảo lãnh, mặc dù nhu cầu của khách hàng đã có nhưng những thẩm định về khách hàng đều cho thấy rủi ro tiềm ẩn cao, cũng có khả năng đáp ứng điều kiện đảm bảo thấp sẽ cho ngân hàng khó lòng mở rộng cho vay đối tượng khách hàng này. Tóm lại nhân tố khách hàng là rất quan trọng đối với khả năng mở rộng bảo lãnh ngân hàng,vì họ là thượng đế, là trung tâm chú ý phục vụ của ngân hàng chính ọ làm nảy sinh hoạt động bảo lãnh, nhưng cũng chính họ có thể khiến ngân hàng dè dặt hơn trong việc mở rộng bảo lãnh. * Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế hoặc tác động trực tiếp hoặc tác động gián tiếp đến khả năng mở rộng bảo lãnh, người ta có thể ví môi trường kinh tế chính trị là môi trường sống của các ngân hàng, chính vì vậy mà môi trường kinh tế cũng như môi trường tự nhiên là nơi cung cấp cho ngân hàng các điều kiện giúp ngân hàng tồn tại như nhu cầu của nền kinh tế, các quy hoạch và dự báo phát triển nền kinh tề đất nước cũng như tại đia bàn mà ngân hàng hoạt động, sự biến mất và hình thành của các doanh nghiệp. Cũng như môi trường tự nhiên,môi trường kinh tế sẽ có thể tạo ra những thuận lọi cũng như những khó khăn và cản trở đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động bảo lãnh nói riêng do sự biến động của lãi suất, lạm phát… * Môi trường chính trị xã hội Hoạt động ngân hàng là một hoạt động mang tính xã hội hóa cao, tác động vĩ mô đến nền kinh tế. Do vậy môi trường chính trị xã hội ổn định là một nhân tố quan trọng thúc đẩy hoạt động đầu tư, kích thích sự gia tăng của các hoạt động thương mại trong nước cũng như quốc tế. Bên cạnh đó mối quan hệ giữa chính trị xã hội và kinh tế ngày càng khăng khít. Một sự thay đổi nào đó về chính trị cũng như xã hội đều tác động đến nền kinh tế và ngược lại bất cứ sự biến động nào của kinh tế lại làm cho chính trị xã hội không ổn định, gián tiếp tác động đến hoạt động bảo lãnh ngân hàng. * Môi trường pháp lý Vì hoạt động ngân hàng có ảnh hưởng rộng lớn tới nền kinh tế nên chịu nhiều chi phối mang tính pháp lý từ nhà nước, phải tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật.Với tư cách là các quy phạm pháp luật điều chỉnh các hoạt động cung cấp, quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh và dịch vụ ngân hàng, pháp luật về các tổ chức tín dụng và dịch vụ ngânhàng có tác động rất lớn đến ngân hàng. Một hệ thống pháp lý đầy đủ,đồng bộ ổn định sẽ giúp ngân hàng thương mại có điều kiện xây dựng kế hoạch kinh doanh tốt và tiến hành trôi chảy các nghiệp vụ chức năng bao gồm cả hoạt động bảo lãnh, thúc đẩy hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của dịch vụ ngân hàng nhưng cũng có thể là rào cản kìm hãm sự phát triển của bảo lãnh ngân hàng. Do vậy hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kinh doanh ngân hàng ma cụ thể là các quy định về bảo lãnh cũng như pháp luật, quy định về hoạt động kinh doanh của ngân hàng là cần thiết. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI NGÂN HÀNG TMCP QUÂN ĐÔI - CHI NHÁNH TRẦN DUY HƯNG 2.1. Khái quát về Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội 2.1.1. Cơ cấu tổ chức mạng lưới hoạt động Ngân hàng TMCP Quân Đội ( Military Commerical Join Stock Bank) tên viết tắt là MB được thành lập năm 1994, theo quyết định số 00374/GP-UB của ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Ngày 4/11/1994 Ngân hàng TMCP Quân Đội chính thức đi vào hoạt động theo giấy phép số 0054/NH-GP của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, thời gian hoạt động là 50 năm. Mục tiêu ban đầu của ngân hàng là đáp ứng nhu cầu vốn và các dịch vụ tài chính của các Doanh nghiệp Quân Đội làm kinh tế. Cùng với quá trình phát triển kinh tế đất nước, với đường lối chính sách đúng đắn, Ngân hàng TMCP Quân Đội đã gặt hái được nhiều thành công, không chỉ đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp Quân Đội mà còn phục vụ rất hiệu quả tất cả các thành phần kinh tế, đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển của khách hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Từ năm 1994-2004 Ngân hàng có trụ sở tại 28A Điện Biên Phủ, quận Ba Đình Hà Nội. Từ năm 2005 đến nay Ngân hàng chuyển trụ sở chính đến số 3, Liễu Giai, quận Ba Đình, Hà Nội. Đồng thời một sở giao dịch mới được thành lập với địa điểm Trụ sỏ chính. Đến nay qua 13 năm hoạt động, MB đã liên tục kinh doanh có hiệu quả và được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những ngân hàng TMCP hàng đầu tại Việt Nam. MB phục vụ các đối tượng khách hàng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp và các cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cá nhân. Với phương châm hoạt động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của Ngân hàng, những năm qua MB luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của ngân hàng ngày càng củng cố và phát triển. Để có thể tiếp cận nhanh nhất với khách hàng đồng thời nâng cao hình ành của ngân hàng và đáp ứng mục tiêu ngân hàng, vì vậy mà Ngân hàng ngày càng quan tâm tới hoạt động phát triển mạng lưới. Từ 1 điểm giao dịch là trụ sở ban đầu, đến nay Ngân hàng TMCP Quân Đội đã có gần 40 điểm giao dịch tại các thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ, Việt Trì, Bình Định. Không chỉ mở rộng mạng lưới hoạt động trong nước mà đến nay mạng lưới ngân hàng đại lý được Ngân hàng TMCP Quân Đội mở rộng trên một số quốc gia trên thế giới. Bên cạnh đó Ngân hàng TMCP Quân Đội đã thành lập những công ty trực thuộc : Công ty Chứng Khoán Thăng Long thành lập tháng 5/2000, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thành lập năm , và mới đây là công ty Quản lý Qũy thành lập 29/11/2006. Chi nhánh Trần Duy Hưng- Ngân hàng TMCP Quân Đội ( sau đây gọi tắt là Chi nhánh) là một chi nhánh cấp II được thành lập theo quyết định QĐ 1646/NHNN-HAN7 của NHNN Chi nhánh Thành phố Hà Nội về việc “Ngân hàng TMCP Quân Đội mở chi nhánh cấp II Trần Duy Hưng tại Hà Nội”. Tại tờ trình số 122/TTr- NHQĐ-HĐQT ngày 21/102004, chấp thuận đề nghị của Ngân hàng Quân Đội thành lập chi nhánh cấp II Trần Duy Hưng thuộc Sở Giao dịch Hà Nội. Trên cơ sở đó, cùng với sự động ý của UBND TP Hà Nội, UBND quận Cầu Giấy Chi nhánh đã bắt đầu đi vào hoạt động ngày 26/12/2004. Tên gọi: Chi nhánh cấp II Trần Duy Hưng- Ngân hàng TMCP Quân Đội. Trụ sở: số 73 Đường Trần Duy Hưng, phường Trung Hòa , Quận Cầu Giấy, TP Hà Nội. Khi mới thành lập chi nhánh được sở giao dịch Hà Nội- Ngân hàng TMCP Quân Đội giao cho một phần nguồn vốn để tiến hành hoạt động kinh doanh. Trên cơ sở có sự chuẩn bị nhân sự từ đầu, ngay từ những năm đầu tiên đi vào hoạt động kinh doanh và đã thu được lợi nhuận đáng kể. Tuy vậy do mới thành lập,Chi nhánh vẫn còn gặp khá nhiều khó khăn do kinh nghiệm còn non trẻ, khách hàng chưa biết nhiều về chi nhánh về hoạt động và địa chỉ.. Về nhân sự thì hầu hết còn non trẻ, phần lớn là những người lần đầu tiên làm quen với công việc ngân hàng, kinh nghiệm chuyên môn còn ít. Tuy nhiên, sự nhiệt huyết của tuổi trẻ cộng với sự hăng say và lòng yêu nghề, các nhân viên của chi nhánh đã cống hiến hết mình trong môi trừong làm việc năng động đoàn kết. Điều này thể hiện rõ trong kết quả hoạt dộng kinh doanh thời gian qua, việc cạnh tranh và tìm kiếm thị phần trên một địa bàn có rất nhiều Ngân hàng đặt chi nhánh trong điều kiện mới thành lập cũng là một vấn đề không hoàn toàn đơn giản. Để bù đắp lại những khó khăn đó, Chi nhánh đã tận dụng hết khả năng cơ hội kinh doanh của mình. Kinh tế phát triển, môi trường giao lưu hàng hóa tiền tệ và các dịch vụ tài chính và phi tài chính phát triển, là cơ hội lớn cho chi nhánh thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh của mình. Vượt qua những khó khăn, biết tận dụng những thuận lợi sẵn có Chi nhánh đã nhanh chóng tạo cho mình vị trí vững vàng, từng bước chiếm lĩnh thị trường, tạo ra sự phát triển “ bền vững, tin cậy” cho Ngân hàng của mình. 2.1.2. Về cơ cấu tổ chức Chi nhánh Trần Duy Hưng hiện tại có 15 cán bộ công nhân viên, được chia thành các phòng ban như sau: Ban Giám đốc gồm: 1 Giám đốc, Trưởng phòng Giao dịch và 1 phó giám đốc. Hai phòng nghiệp vụ: + Phòng tín dụng: gồm 6 người, thực hiện chức năng tư vấn, thẩm định, cho vay và cân đối nguồn vốn. + Phòng kế tóan ngân quỹ: gồm 7 người, thực hiện chức năng giao dịch với khách hàng, quản lý tài chính và thanh toán, huy động vốn… Sơ đồ 5: Mô hình tổ chức lãnh đạo của Ngân hàng Ban Giám Đốc Giám Đốc Phó Giám Đốc Phòng Tín Dụng Phòng Kế toán Ngân Qũy 2.1.3. Những hoạt động kinh doanh chủ yếu của Chi nhánh 2.1.3.1. Huy động vốn Trong hoạt động kinh doanh của một Ngân hàng, hoạt động tạo lập nguồn vốn cho NHTM đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới quy mô và chất lượng hoạt động ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động từ dân cư và các tổ chức kinh tế… để cho vay, đầu tư và thực hiện các dịch vụ ngân hàng. Chi nhánh Trần Duy Hưng mặc dù mới thành lập nhưng vẫn luôn có thế mạnh về nguồn vốn đặc biệt là huy động tiền gửi tiết kiệm. Huy động vốn để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế, Chi nhánh đã thực hiện nhiều biện pháp khai thác sử dụng vốn để theo hứong ổn định và có lợi trong kinh doanh (cho vay là chủ yếu). Ta thấy tốc độ tăng trưởng nguồn vốn hằng năm rất ổn định, luôn đạt và vượt mức kế hoạch, tổng nguồn vốn huy động năm sau luôn cao hơn năm trước; có thể thấy rõ điều này qua các bảng số liệu sau: Bảng 3: Tình hình huy động vốn tại Chi nhánh Trần Duy Hưng Chỉ tiêu 31/12/2005 31/12/2006 31/12/2007 1.TG không kỳ hạn - 41.604.294.497 102.425.754.654 2. TG có kỳ hạn - 15.000.000.000 15.000.000.000 3. TG tiết kiệm 51.491.877.491 133.465.875.435 201.654.234.245 4. TG KQ 1.234.638.847 3.234.124.498 5. HĐ BQ tháng có kỳ hạn 33.481.531.957 101.862.565.848 186.327.950.354 6. HĐ BQ tháng không kỳ hạn 6.248.226.598 16.559.457.660 35.546.327.456 Tổng 51.491.877.491 191.304.808.779 ( Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2005 đến năm 2007) Qua bảng trên ta thấy: Nguồn vốn huy động của Chi nhánh năm 2006 đã thể hiện sự tăng nhanh chóng của nguồn vốn huy động đến năm 2007 thì đã tăng vọt lên một cách nhanh chóng, ngoài ra việc huy động vốn còn được đa dạng hóa cả về kỳ hạn, đối tượng và loại tiền. Từ khi chi nhánh bắt đầu hoạt động đến khi đã dần đi vào ổn định thì nguồn vốn từ việc huy động vốn đã chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Chi nhánh. Tiền gửi tiết kiệm tăng nhanh (151,1%), trong đó đặc biệt Chi nhánh huy động được lượng ngoại tệ ngày càng tăng (177,4% với USD, và bắt đầu thu hút được tiền gửi bằng EURO). Tiền gửi không kỳ hạn cũng chiếm một tỷ trọng khá lớn (21,7%), điều này cho thấy Chi nhánh đã bắt đầu tiến hành các hoạt động thanh toán đặc trưng của một ngân hàng vì loại tiền này, các chủ thể gửi vào chủ yếu là để giao dịch. Sự có mặt của tiền gửi ký quỹ trong nguồn vốn huyđộng cho thấy Chi nhánh đã thực hiện các hoạt động như bảo lãnh, mở L/C… Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế còn chiếm ty trọng khá khiêm tốn trong tổng nguồn vốn huy động sang năm 2007. Huy động vốn bình quân tháng tăng mạnh ở cả hai loại CKH và KKH với tỷ lệ tương ứng là 183% và 201%, đặc biệt là USD không kỳ hạn đã tăng rất lớn (14.034%). Nhìn chng, sau một thời gian đi vào hoạt động, Chi nhánh đã thu hút được một lượng vốn khá lớn đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh không chỉ băng VND mà cả ngoại tệ. Đây là những thành công đầu tiên đáng ghi nhận trong thời gian qua mà không thể không kể đến sự nỗ lực của một tập thể năng động nhiệt tình. 2.1.3.2. Hoạt động tín dụng Từ khi thành lập đến nay, Chi nhánh đã sử dụng nguồn vốn huy động vào một số hoạt động kinh doanh như: cho vay ( cho vay tiêu dùng, cho vay doanh nghiệp, cho vay mua ô tô…), kinh doanh ngoai tệ bắt đầu từ năm 2006, hoạt động bảo lãnh (với cá nhân hoặc doanh nghiệp dưới hình thức bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán…) hoạt động thanh toán (dịch vụ thu hộ, thu từ thanh toán quốc tế…._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12099.doc
Tài liệu liên quan