BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
------------
PHAN THỊ NHÂN
PHÁT TRIIỂN HIIỆU QUẢ THỊ TRƯỜNG
TÍÍN DỤNG BẤT ĐỘNG SẢN CỦA VIIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : KINH TẾ - TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 60.31.12
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS . TS. NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG
Thành phố Hồ Chí Minh – 2008
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các
thông tin và số liệu được sử dụng trong luận văn
88 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển hiệu quả thị trường tín dụng Bất động sản của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được trích dẫn đầy đủ nguồn tài
liệu tại danh mục tài liệu tham khảo là hoàn toàn trung thực.
Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 09 năm 2008
Phan Thị Nhân
Học viên cao học khóa 15
Chuyên ngành: Kinh tế - Tài chính – Ngân hàng
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ
LỜI MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
Phần 1: Khung lý thuyết về thị trường bất động sản và thị trường tín dụng bất
động sản. ......................................................................................................................4
1.1 Tổng quan thị trường bất động sản. .....................................................................4
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của thị trường bất động sản .....................................4
1.1.1.1 Khái niệm về bất động sản và hàng hóa bất động sản ...............................4
1.1.1.2 Đặc trưng của hàng hóa bất động sản .......................................................4
1.1.1.3 Khái niệm thị trường bất động sản ...........................................................5
1.1.2 Đặc điểm của thị trường bất động sản ..........................................................6
1.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bất động sản.....................................7
1.1.4 Rủi ro thuộc thị trường bất động sản..........................................................10
1.2 Tổng quan về thị trường tín dụng bất động sản............................................11
1.2.1 Khái niệm và đặc trưng của thị trường tín dụng bất động sản.....................11
1.2.1.1 Khái niệm ..............................................................................................11
1.2.1.2 Đặc trưng của thị trường tín dụng bất động sản ......................................11
1.2.2 Quản trị rủi ro thuộc các tổ chức tín dụng cho vay bất động sản ................12
1.2.3 Sản phẩm và xu hướng phát triển của thị trường tín dụng bất động sản......13
1.3 Tín dụng bất động sản tại Mỹ, Singapore và bài học kinh nghiệm..............16
1.3.1 Tín dụng bất động sản tại Mỹ ....................................................................17
1.3.1.1 Một số khái niệm ...................................................................................17
1.3.1.2 Quá trình phát triển, nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả của khủng
hoảng tín dụng bất động sản tại Mỹ ......................................................................18
1.3.2 Tín dụng bất động sản tại Singapore ..........................................................23
1.3.3 Các bài học kinh nghiệm từ khủng hoảng tín dụng bất động sản Mỹ..........25
Phần 2: Thực trạng thị trường tín dụng bất động sản tại Việt Nam.......................27
2.1 Thực trạng của thị trường bất động sản của Việt Nam................................27
2.1.1 Thực trạng phát triển của thị trường Bất động sản tại Việt Nam.................27
2.1.1.1 Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2002 ....................................................27
2.1.1.2 Giai đoạn từ năm 2003 đến nay..............................................................30
2.1.2 Đánh giá chung về thị trường bất động sản Việt Nam. ...............................40
2.2 Thực trạng thị trường tín dụng bất động sản của Việt Nam ........................42
2.2.1 Hành lang pháp lý đối với thị trường tín dụng bất động sản ở Việt Nam....42
2.2.2 Các sản phẩm tín dụng được tung ra trên thị trường Việt Nam...................43
2.2.2.1 Các sản phẩm qua kênh truyền thống .....................................................43
2.2.2.2 Các sản phẩm mới..................................................................................50
2.2.3 Tín dụng bất động sản tại Việt Nam, những tồn tại và nguyên nhân...........52
2.2.4 Tác động của bùng nổ tín dụng đến môi trường tài chính tiền tệ ................56
Phần 3: Các giải pháp phát triển thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản ....................................................59
3.1 Nhu cầu bất động sản .....................................................................................59
3.2 Nhu cầu tín dụng của thị trường bất động sản..............................................63
3.3 Một số giải pháp phát triển thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản ....................................................64
3.3.1 Các giải pháp với kênh tín dụng qua Ngân hàng ........................................64
3.3.2 Cho phép hình thành thị trường thế chấp cầm cố thứ cấp ...........................67
3.3.3 Chứng khoán hóa bất động sản .................................................................69
3.3.3.1 Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp cầm cố ...........................70
3.3.3.2 Trái phiếu công trình..............................................................................72
3.3.3.3 Chứng chỉ bất động sản..........................................................................73
3.3.4 Phát hành quyền mua chọn mua đối với kênh huy động truyền thống từ
người mua và nhà đầu tư..........................................................................................75
3.3.5 Các giải pháp về phía nhà nước .................................................................76
3.3.6 Các giải pháp khác.....................................................................................77
Kết Luận ....................................................................................................................80
Tài liệu Tham khảo
Phụ lục
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ABBank : Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình
BĐS : Bất động sản
Eximbank : Ngân hàng xuất nhập khẩu Việt Nam
Fannie Mae : Federal National Mortgage Association (Hiệp hội Quốc gia tài trợ
bất
FDI : Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FHA : Federral Housing Administration
Freddie Mac : Federal Home Loan Mortgage Cororation (Công ty Quốc gia tài
trợ địa ốc)
Habubank : Ngân hàng thương mại cổ phần nhà
HDBank : Ngân hàng thương mại cổ phần Phát triển nhà TP.HCM
HOLC : Home Owners’s Law Corporation
OCB : Ngân hàng Phương Đông
Techcombank: Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam
động sản)
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
TP : Trái phiếu
WTO : Tổ chức thương mại thế giới
TP.HCM : Thành phố Hồ Chí Minh
TTCK : Thị trường chứng khoán.
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Động thái về tiền vay khế ước bất động sản Mỹ......................................19
Bảng 1.2: Tiến độ huy động vốn dự án tại Singapore ..............................................24
Bảng 2.1: Bảng giá một số đất dự án tại TP.HCM...................................................33
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ ĐỒ THỊ
Hình 2.1: Biến động khu công nghiệp trong các năm qua.......................................29
Hình 2.2: Diện tích đât sử dụng cho các khu công nghiệp qua các năm.................29
Hình 2.3: Số căn hộ chào bán qua các năm..............................................................30
Hình 2.4: FDI qua các năm.......................................................................................31
Hình 2.5: Số căn hộ đã bán trong 3 năm vừa qua....................................................32
Hình 2.6: Giá bán căn hộ sắp giao ............................................................................32
Hình 2.7: Tổng dự án FDI đầu tư vào Việt Nam......................................................35
Hình 2.8: Tổng dự án đầu tư vào bất động sản qua các tháng................................35
Hình 2.9: Vốn FDI đầu tư cho bất động sản phân bổ cho từng ngành ...................35
Hình 3.1: Dự báo số lượng căn hộ dự kiến bán 2008 - 2010 ....................................60
Hình 3.2: Nguồn cung thị trường bán lẽ...................................................................62
LỜI MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Thị trường bất động sản đóng một vai trò rất lớn trong quá trình phát triển
của nền kinh tế Việt Nam, nhất là sau khi gia nhập WTO. Phát triển hiệu quả thị
trường này sẽ góp phần quan trong trong việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh
tế xã hội, đóng góp thiết thực vào quá trình phát triển đô thị và nông thôn ngày
càng văn minh hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để phát triển tốt thị trường
bất động sản, một yêu cầu rất quan trọng cần phải đáp ứng được đó là vốn, và
phải cần rất nhiều vốn. Thị trường tín dụng bất động sản là một thị trường quan
trọng cung cấp nguồn vốn cho thị trường bất động sản, trong các năm qua đã đáp
ứng được nhu cầu vốn của thị trường bất động sản.
Tuy nhiên, đến thời điểm này, đứng trước bối cảnh nền kinh tế đang bị lạm
phát cao, vật giá tăng chóng mặt. Nhà nước đang ưu tiên thực thi các biện pháp
chống lạm phát, trong đó chính sách thặt chặt tiền tệ là một biện pháp quan trọng.
Khi Nhà Nước thi hành chính sách thắt chặt tiền tệ, rút một lượng lớn tiền ờ
ngoài lưu thông về thì thị trường bất động sản bị ảnh hưởng ngay lập tức đang
tăng nóng chuyển sang trạng thái bị đóng băng. Và cũng không ngoại lệ, thị
trường tín dụng bất động sản cũng bị tác động lớn, các kênh tính dụng truyền
thống bị nghẽn mạch. Đây là vấn đề thời sự nóng bỏng và là một bài toán khó
cho thị trường bất động sản vì nhu cầu về vốn thì ngày càng tăng. Vậy làm thế
nào để khơi thông các nguồn tín dụng đang bị tắc nghẽn, làm thế nào để thị
trường tín dụng vẫn là một kênh cung cấp vốn tốt cho thị trường bất động sản?
Vì vậy việc nghiên cứu “Phát triển hiệu quả thị trường tín dụng bất động
sản của Việt Nam” là một yêu cầu cấp thiết để góp phần khơi thông và phát triển
hơn nữa thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp ứng được nhu cầu vốn của thị
trường bất động sản. Và đây cũng là mục tiêu của đề tài đề ra.
2
2. Ý nghĩa khoa học thực tiễn của đề tài
Luận văn đưa ra một số đóng góp chính như sau:
- Hệ thống hóa các lý luận cơ bản về bất động sản, thị trường tín dụng bất
động sản.
- Điểm qua tình hình thị trường bất động sản Việt Nam, nhất là những năm
gần đây, đánh giá nhu cầu về bất động sản trong các năm tới.
- Điểm lại tình hình thị trường tín dụng bất động sản trong những năm gần
đây. Đánh giá tình hình cung cấp tín dụng qua các kênh, xem xét nguyên nhân và
tồn tại của thị trường tín dụng bất động sản.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm khơi thông và nâng cao hiệu quả
hoạt động của thị trường tín dụng bất động sản Việt Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích để nhận diện các tồn tại và các
vướng mắc của thị trường tín dụng bất động sản nhằm đưa ra các giải pháp, kiến
nghị các biện pháp khắc phục các yếu điểm hiện có và phát triển hơn nữa thị
trường tín dụng bất động sản trong thời gian lâu dài, góp phần nâng cao hiệu quả
hoạt động của thị trường tín dụng bất động sản trong nền kinh tế trong thời kỳ
hội nhập.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Các động thái trên thị trường bất động sản và thị trường tín dụng bất động
sản. Các yếu tố dẫn đến sự nghẽn mạch của các kênh tín dụng.
Thời gian nghiên cứu: Phân tích và đánh giá thị trường bất động sản và thị
trường tín dụng bất động sản Việt Nam từ năm 2003 đến tháng 8/2008.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, thống kê mô tả đóng vai trò chủ
đạo trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
3
6. Kết cấu của luận văn
Phần mở đầu
Phần 1: Khung lý thuyết về thị trường bất động sản và thị trường tín dụng
bất động sản.
Phần 2: Thực trạng thị trường tín dụng bất động sản tại Việt Nam.
Phần 3: Các giải pháp phát triển thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp
ứng đủ nhu cầu vốn cho thị trường bất động sản.
Kết luận
4
Phần 1: Khung lý thuyết về thị trường bất động
sản và thị trường tín dụng bất động sản.
1.1. Tổng quan thị trường bất động sản
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của thị trường bất động sản
1.1.1.1. Khái niệm về bất động sản và hàng hóa bất động sản
a. Bất động sản
Theo Bộ luật dân sự số 33/2005/QH11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 14/06/2005 thì: “Bất động sản là các tài
sản bao gồm: đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài
sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai
và các tài sản khác do pháp luật quy định”
b. Hàng hóa bất động sản
Hàng hóa bất động sản là các bất động sản được đưa ra giao dịch trên thị
trường.
1.1.1.2. Đặc trưng của hàng hóa bất động sản
- Bất động sản là hàng hóa gắn liền với một vị trí nhất định, một không gian
nhất định không thể di chuyển được. Chính đặc điểm này làm cho giá của bất
động sản chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố vị trí, ví dụ như: các bất động sản nằm
càng gần trung tâm đô thị, dân cư đông đúc thì giá càng cao và ngược lại.
- Bất động sản có tính lâu bền: điều này thể hiện rõ nhất ở chỗ đất đai
không bị hao mòn và giá có thể ngày càng tăng. Các công trình kiến trúc, vật
kiến trúc được xây dựng trên đất có thể tồn tại từ hàng chục năm và hơn thế nữa.
- Bất động sản là loại hàng hóa cần nhiều vốn và thời gian đầu tư nên
thường có giá trị cao.
- Khả năng co giãn của cung bất động sản rất kém so với những thay đổi
của giá cả do có những hạn chế nhất định về cung ứng đất đai, thể hiện trên các
khía cạnh sau:
+ Tổng quan toàn bộ về đất đai là gần như cố định hay nói cách khác quỹ
đất luôn luôn không thay đổi;
5
+ Cung đất đai phù hợp với các mục đích riêng biệt là có giới hạn;
+ Các hạn chế về mặt qui hoạch, đây là mặt hạn chế nổi bật nhất vì: việc
phân bổ đất đai cho những mục đích sử dụng cụ thể phải tuân thủ quy hoạch sử
dụng đất trong từng thời kỳ nên thông thường không thể tùy tiện chuyển mục
đích sử dụng đất trái với quy hoạch. Những thay đổi về cao độ, diện tích xây
dựng cũng phải đảm bảo tuân theo quy hoạch và quy định về xây dựng của
chính quyền địa phương.
- Thời gian mua, bán giao dịch dài; chi phí mua, bán giao dịch cao: do bất
động sản là một tài sản quan trọng có giá trị cao nên việc mua, bán bất động sản
phải được cân nhắc thận trọng dẫn đến thời gian mua, bán giao dịch thường dài
hơn so với các tài sản khác, điều này dẫn đến chi phí mua, bán giao dịch cao. Mặt
khác, giao dịch giữa người mua và người bán không trực tiếp, phải qua môi giới
(có thể là cá nhân hoặc tổ chức) nên đẩy chi phí giao dịch cao lên..
- Khả năng chuyển đổi thành tiền mặt kém linh hoạt: bất động sản là một
hàng hóa đặc biệt, quan trọng, không thể di dời và có giá trị cao do đó việc
chuyển đổi thành tiền mặt kém linh hoạt. Hơn nữa khi chuyển nhượng bất động
sản nhà nước yêu cầu các bên giao dịch thực hiện một số thủ tục chuyển quyền
nên mất một khoảng thời gian đáng kể.
- Sự can thiệp và quản lý chặt chẽ của nhà nước: vì bất động sản có tầm
quan trọng rất lớn với nền kinh tế, xã hội và chính trị của một quốc gia nên Nhà
nước luôn có những quy định để điều tiết, quản lý chặt chẽ đối với việc sử dụng
và chuyển dịch bất động sản vì vậy bất động sản chịu sự can thiệp trực tiếp của
Nhà Nước.
1.1.1.3. Khái niệm thị trường bất động sản
Thị trường bất động sản là thị trường mà các giao dịch, mua bán và trao
đổi về bất động sản được diễn ra giữa người mua và người bán thông qua cơ chế
giá.
Tuy nhiên bất động sản khác với các hàng hóa khác ở chỗ chúng không
chỉ được mua bán, mà còn là đối tượng của nhiều giao dịch khác như cho thuê,
thế chấp, chuyển dịch quyền sử dụng. Do đó, thị trường bất động sản hoàn chỉnh
6
không thể chỉ là quan hệ giữa người mua, người bán về bất động sản mà còn là
nơi diễn ra các giao dịch liên quan đến bất động sản như cho thuê, thế chấp, bảo
hiểm và chuyển dịch quyền sử dụng. Nên thị trường bất động sản có thể hiểu một
cách khái quát như sau: thị trường bất động sản là tổng thể các giao dịch về bất
động sản dựa trên cơ chế giá và được diễn ra trong một không gian và thời gian
nhất định.
1.1.2. Đặc điểm của thị trường bất động sản
- Không có thị trường trung tâm: thị trường bất động sản chưa hình thành
được thị trường trung tâm mà tại đó người mua và người bán có thể trực tiếp gặp
nhau và tác động trực tiếp qua lại lẫn nhau. Gần như tất cả các giao dịch được
thực hiện chủ yếu thông qua trung gian là các tổ chức môi giới bất kinh doanh
động sản, qua báo chí, hoặc thông qua các cá nhân môi giới.
Do không có thị trường trung tâm nên các thông thi về thị trường khó thu
thập và có độ tin cậy thấp tạo nên tính thiếu hiệu quả của thị trường này. Gần
đây tại Việt Nam, các Công ty kinh doanh địa ốc và các Công ty môi giới bất
động sản đã hình thành và phát triển rất nhanh đã tạo điều kiện cho các giao dịch
trên thị trường diễn ra dễ dàng, thuận lợi, an toàn và hiệu quả hơn. Mới đây Bộ
Xây Dựng đã ban hành Thông tư số 13/2008/TT-BXD ngày 21 tháng 5 năm
2008, theo đó: “Doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phải thực hiện việc bán,
chuyển nhượng, cho thuê, thuê mua bất động sản thông qua sàn giao dịch bất
động sản (trừ các dự án nhà ở xã hội theo Luật Nhà ở)”, điều này sẽ thúc đẩy hơn
sự phát triển của thị trường bất động sản.
- Thị trường bất động sản mang tính khu vực và địa phương sâu sắc: đặc
tính của bất động sản là không thể thiêu hủy và khó chia cắt, không thể di dời; sự
thừa thải ở nơi này không thể bù đắp sự thiếu hụt ở nơi khác làm cho thị trường
bất động sản mang tính chất địa phương. Mặt khác, sự khác nhau về trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và mật độ dân số làm cho nhu cầu về bất động sản
cũng sẽ khác nhau về số lượng, hình dạng, chất lượng và từ đó dẫn đến sự khác
nhau về mức độ phát triển của thị trường bất động sản của từng địa phương.
7
- Thị trường bất động sản là thị trường không hoàn hảo: thị trường bất động
sản là một thị trường đòi hỏi sự can thiệp nhiều và trực tiếp của Nhà Nước nên
mức độ hoàn hảo của thị trường bất động sản thấp hơn các thị trường hàng hóa
tiêu dùng, thị trường tư liệu sản xuất và các thị trường khác. Bên cạnh đó, do
không tái tạo được hay tính khan hiếm của đất nên thị trường mang tính độc
quyền. Các thông tin về quy hoạch, về quản lý, kinh tế xã hội liên quan đến đất
đai chưa được phổ biến triệt để điều này làm cho thị trường bất động sản có cạnh
tranh nhưng là cạnh tranh ngầm, cạnh tranh không hoàn hảo.
- Thị trường bất động sản là thị trường có mối liên hệ mật thiết với các thị
trường khác nhất là thị trường tài chính tiền tệ, tín dụng và với sự phát triển kinh
tế của một quốc gia: Hầu hết các khoản đầu tư đều đi vào hai luồng là đầu tư vào
các tài sản hoặc là đầu tư trên thị trường tài chính tiền tệ. Trong mọi thời điểm
người ta luôn có nhu cầu chuyển dịch một lượng tiền bạc sang tài sản hoặc ngược
lại. Mặt khác, bản thân các giao dịch về bất động sản thường có nhu cầu rất lớn
về vốn. Điều đó cho thấy, thị trường bất động sản của một quốc gia chỉ có thể
phát triển lành mạnh và ổn định khi có một thị trường vốn phát triển lành mạnh
và ổn định.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường bất động sản
Cũng như các thị trường khác, sự hình thành và phát triển của thị trường
bất động sản cũng chịu sự ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội, dân
cư… Tuy nhiên, do bất động sản là những hàng hóa đặc biệt nên sự ảnh hưởng
của các yếu tố này đến thị trường bất động sản lại có những đặc điểm, biểu hiện
riêng, cụ thể:
-Sự phát triển kinh tế:
Phát triển kinh tế của một nước tất yếu làm gia tăng các nhu cầu sử dụng
đất trong các lĩnh vực sản xuất, nhất là lĩnh vực sản xuất phi nông nghiệp, vấn đề
này đòi hỏi phải có quá trình chuyển dịch đất sử dụng trong hoạt động sản xuất
nông - lâm nghiệp sang sử dụng vào mục đích công nghiệp - thương mại - dịch
vụ, động thái này đã làm gia tăng các giao dịch về bất động sản và tạo sự phát
8
triển cho thị trường bất động sản. Mặt khác, sự phát triển kinh tế cũng đồng thời
là quá trình phát triển của khoa học, kỹ thuật và công nghệ tác động trực tiếp vào
việc tạo lập, thay thế, cải tạo... hàng hoá bất động sản phù hợp với yêu cầu mới
của nền kinh tế và xã hội.
-Dân số:
Tăng dân số cũng đồng nghĩa với tăng các nhu cầu về các loại hàng hoá
trên thị trường, để đáp ứng nhu cầu các ngành sản xuất phải mở rộng, phát triển
về quy mô từ đó làm tăng nhu cầu về sử dụng đất. Tuy nhiên, do diện tích đất đai
giới hạn và tồn tại quá trình dịch chuyển đất sản xuất nông nghiệp sang sử dụng
vào các mục đích phi nông nghiệp khác nên luôn có những sức ép nhu cầu lớn
đòi hỏi thị trường bất động sản phải tự sắp xếp lại cho phù hợp với nhu cầu của
thị trường, và sức ép đó cũng phải giải quyết thông qua thị trường là chủ yếu từ
đó đẩy thị trường bất động sản phát triển hơn.
Thêm vào đó, sự gia tăng dân số là một áp lực lớn làm tăng nhu cầu sử
dụng nhà ở, đất ở, đồng thời cũng làm tăng các nhu cầu về hoạt động xã hội, dịch
vụ, thương mại, nhu cầu khám chữa bệnh, giáo dục, các hoạt động vui chơi, giải
trí, thể dục thể thao…, những nhu cầu này đều là những nhân tố làm gia tăng cầu
về bất động sản, nhất là các bất động sản tại các khu vực dân cư, trung tâm
thương mại, dịch vụ.
-Pháp luật
Pháp luật có thể được xem là yếu tố tác động quan trọng đến sự hình
thành và phát triển của thị trường bất động sản biểu hiện qua những quy định
pháp luật về quyền mua, bán, cho thuê, thế chấp, góp vốn liên doanh…. bằng bất
động sản. Thực tế cho thấy, yếu tố này có thể thúc đẩy, hạn chế hoặc có thể xóa
bỏ sự tồn tại của thị trường bất động sản do tính chất đặc biệt của hàng hóa bất
động sản là gắn liền với đất đai, mà điều này luôn được Nhà nước ở mọi thời kỳ
(trừ công xã nguyên thủy) nắm quyền điều chỉnh.
-Chính sách kinh tế, tài chính – tiền tệ của Nhà nước:
Chính sách kinh tế của Chính phủ Trung ương và Chính quyền Địa
phương cũng là nhân tố nhạy cảm ảnh hưởng đến thị trường bất động sản.
9
Trước hết, những chính sách khuyến khích sản xuất theo vùng, khu vực
kinh tế sẽ đi kèm với kế hoạch quy hoạch phát triển vùng, các quy hoạch này
thực chất sẽ xác định và xác định lại mục đích sử dụng đất từ đó những khu vực,
vùng nào nằm trong quy hoạch chuyển mục đích sử dụng đất từ sản xuất nông
nghiệp sang sản xuất và hoạt động công nghiệp hoặc nằm trong quy hoạch xây
dựng khu đô thị mới, các khu trung tâm thương mại, dịch vụ,…sẽ đồng thời làm
gia tăng các đơn vị sản xuất kinh doanh, gia tăng dân số từ đó làm tăng nhu cầu
về bất động sản, thúc đẩy tăng các chủng loại hàng hóa và giao dịch bất động sản
trên thị trường. Ngược lại, những vùng, khu vực không được Chính phủ Trung
ương, Chính quyền Địa phương chú trọng đầu tư phát triển kinh tế do yếu tố
vùng không thích hợp cho mục tiêu phát triển kinh tế thì nhìn chung cầu bất động
sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cho nhu cầu nhà ở, đất ở của dân cư
không được kích thích, đồng nghĩa với giao dịch trên thị trường bất động sản sẽ
trầm lắng, ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của thị trường bất động sản tại khu
vực, vùng tương ứng.
Bên cạnh đó các chính sách về tài chính và tiền tệ của nhà nước ảnh
hưởng rất lớn đến sự phát triển của thị trường bất động sản. Khi Nhà nước áp
dụng chính sách thắt chặt tiền tệ làm cho thị trường bất động sản gần như chững
lại và đóng băng, có những thời điểm gần như không có giao dịch mua bán bất
động sản. Ngược lại, khi Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng thì theo
đó thị trường bất động sản sôi động trở lại, các giao dịch về bất động sản tăng lên
rõ rệt.
-Tập quán, truyền thống và thị hiếu:
Tập quán, truyền thống là những yếu tố mang tính nhân văn của thị trường
bất động sản. Tập quán, truyền thống ảnh hưởng trực tiếp vào cách tiến hành
thực hiện các giao dịch mua, bán, thuê mướn, thế chấp… trên thị trường bất động
sản, nó có tác dụng đẩy nhanh hoặc làm hạn chế các vụ giao dịch, nó đảm bảo độ
tin cậy giữa các bên mua-bán, thuê-cho thuê,…; nó cũng có tác dụng làm đẩy
nhanh hoặc chậm tiến trình thanh toán giữa các bên với nhau.
Trong khi đó, thị hiếu lại tác động đến thị trường bất động sản trên hai
10
khía cạnh chủ yếu sau, thứ nhất là, thị hiếu về vị trí bất động sản, hình dạng,
phương hướng của bất động sản phù hợp với tính chất sử dụng cụ thể của người
có nhu cầu; thứ hai, thị hiếu về kiến trúc, kiểu dáng, tính hiện đại, cổ điển… cũng
là những nhân tố trực tiếp làm ảnh hưởng đến cung và cầu hàng hoá trên thị
trường bất động sản.
1.1.4. Rủi ro thuộc thị trường bất động sản
Xuất phát từ bản chất của hàng hóa bất động sản làm cho hị trường bất
động sản là một thị trường đầy rủi ro:
- Sự phát triển bong bóng của thị trường BĐS: thông tin về các dự án bất
động sản trên thường được cung cấp rất mơ hồ và chưa có tính chuyên nghiệp
cao. Thậm chí nhiều công ty kinh doanh bất động sản đưa ra thông tin liên quan
đến những dự án đầu tư mà họ chỉ mới thoả thuận mua đất, hoặc chỉ mới được
chấp thuận về chủ trương đầu tư, v/v. Những động thái này tạo nên "cầu ảo" của
thị trường và góp phần đưa đến những cơn "sốt" đất khiến cho các dự án bất
động sản có sự chênh lệch rất lớn về giá so với giá trị thực tế của nó.
- Hiện tượng đầu cơ trên thị trường này là rất nhiều. Chính sự tham gia của
các nhà đầu cơ làm cho giá cả BĐS đẩy lên một cách nhanh chóng, tạo giá ảo.
Đây chính là nguyên nhân dẫn đến bong bóng thị trường, tạo ra những cơn sốt
nóng lạnh trên thị trường.
- Thị trường bất động sản là một thị trường không hoàn hảo, nhất là các
thông tin về phát triển và quy hoạch không được công khai rỏ ràng làm cho các
đối tượng tham gia vào thị trường có những quyết định không đúng. Điều này
làm cho tính minh bạch cả thi trường này thấp hơn các thi trường khác.
- Sự thiếu chuyên nghiệp trong quản lý của Nhà Nước: đã khiến thị trường
này hoạt động mang nhiều tính tự phát và dễ tổn thương, thể hiện nhiều khuyết
tật: hệ thống pháp luật chưa đồng bộ; hệ thống thuế chưa được đổi mới; hệ thống
đăng ký bất động sản đang bị chia cắt, chưa đủ điều kiện để có hệ thống quản lý
công khai, minh bạch; chưa đủ dễ dàng trong thực hiện quyền thế chấp, bảo lãnh,
góp vốn bằng bất động sản tăng nguồn vốn đầu tư phát triển từ chính vốn tiềm ẩn
11
trong bất động sản; quy hoạch sử dụng đất còn nhiều yếu kém; hệ thống cơ quan
quản lý, cán bộ quản lý còn nhiều bất cập; còn nhiều sai phạm trong áp dụng
pháp luật mới về đất đai...
- Năng lực của các doanh nghiệp bất động sản: thị trường bất động sản vẫn
rất hấp dẫn do chênh lệch cung cầu quá lớn. Do đó, hiện nay không ít các doanh
nghiệp không chuyên cũng tham gia kinh doanh bất động sản, hoạt động với tính
chuyên nghiệp không cao. Ngoài ra, quy mô vốn nhỏ không phù hợp với yêu cầu
của thị trường cũng là điều rất đáng quan tâm. Năng lực yếu kém khiến cho nhiều
doanh nghiệp không có được chiến lược kinh doanh thích hợp, góp phần gây ra
tình trạng hỗn loạn cho thị trường bất động sản, và tác động xấu đến hiệu quả đầu
tư.
- Quy hoạch tổng thể: việc thiếu nhất quán trong công tác quy hoạch đã gây
ra những khó khăn nhất định cho các chủ đầu tư trong việc phát triển và triển
khai các dự án bất động sản, làm giảm giá trị của các dự án đầu tư.
1.2. Tổng quan về thị trường tín dụng bất động sản
1.2.1. Khái niệm và đặc trưng của thị trường tín dụng bất động sản
1.2.1.1. Khái niệm
Có rất nhiều khái niệm về tín dụng, nhưng khái niệm phổ biến nhất là:
Tín dụng là phạm trù kinh tế, phản ánh quan hệ sử dụng vốn lẫn nhau giữa
các tác nhân và thể nhân trong nền kinh tế hàng hóa.1
Tín dụng bất động sản là hoạt động tín dụng liên quan đến việc mua sắm
và xây dựng bất động sản, nhà ở, đất đai, bất động sản trong lãnh vực công
nghiệp, thương mại và dịch vụ.
1.2.1.2. Đặc trưng của thị trường tín dụng bất động sản
Ngoài những đặc điểm của thị trường tín dụng thông thường thì tín dụng
bất động sản có những đặc trưng, do tính chất đặc biệt của hàng hóa bất động sản
mang lại, như sau:
1 Lý thuyết tiền tệ - Trường Đại học Tài chính – Kế toán Hà Nội do PGS.PTS Vũ Văn
Hóa chủ biên, 1998
12
- Thị trường tín dụng bất động sản thường là thị trường tín dụng dài hạn:
do bất động sản là những hàng hóa thời gian hình thành dài. Theo phân tích của
các chuyên gia bất động sản, quá trình hình thành một dự án đòi hỏi trung bình từ
5 năm trở lên. Mặt khác, bất động sản là những hàng hóa có giá trị lớn do vậy tín
dụng bất động sản thường là các khoản tín dụng có giá trị lớn nên việc hoàn tín
dụng trong một thời gian ngắn mang tính khả thi thấp.
- Người đi vay thường huy động theo tiến độ của dự án: Vốn đầu tư cho
dự án bất động sản cần vốn lớn nhưng vốn đầu tư sẽ dàn trải theo từng giai đoạn:
đền bù giải tỏa đất, xây dựng hạ tầng, nền móng, xây thồ và hoàn thiện…. Thế
nên, nhà đầu tư cần khoản tiền lớn cho dự án , nhưng những khoản tiền này cần
theo từng giai đoạn khác nhau do vậy nếu huy động theo từng giai đoạn sẽ giảm
áp lực về lãi suất. Còn nếu huy động vốn một lần thì vốn không được sử dụng
ngay một lúc nhưng vẫn phải trả lãi cho người cho vay dẫn đến việc sử dụng vốn
không hiệu quả.
- Là thị trường có độ rủi ro cao: điều này xuất phát từ bản thân thị trường
bất động sản là một thị trường tiềm rủi ro như: đầu cơ, tăng giá ảo, mất cân đối
cung cầu … Một khi, thị trường bất động sản chuyển từ tăng nóng sang đóng
băng, giá bất động sản sẽ nhanh chóng bị điều chỉnh giảm, các giao dịch về bất
động sản gần như không xãy ra làm cho các nhà đâu tư gặp rất nhiều khó khăn về
tài chính thậm chí có thể bị phá sản. Điều này làm cho khả năng thanh toán của
các khoản tín dụng của người đi vay gặp rất nhiều khó khăn có thể mất luôn khả
năng thanh toán. Do vậy, việc thu hồi các khoản tín dụng là một vấn đề nan giải,
nợ xấu tăng lên một cách nhanh chóng, nguy cơ đổ vỡ tín dụng là rất cao.
1.2.2. Quản trị rủi ro thuộc các tổ chức tín dụng cho vay bất độ._.ng sản
Để giảm thiểu rủi ro trong cho vay bất động sản, các tổ chức tín dụng
thường cấp cho phòng tín dụng các chức năng:
- Chức năng quản lý khách hàng và kênh bán hàng;
- Chức năng marketting thị trường;
- Chức năng hành chính;
13
- Chức năng quản lý rủi ro.
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết xin đề cấp đến chức năng quản
lý rủi ro. Để quản lý tốt rủi ro, các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các nguyên tắc
sau:
Nguyên tắc lãnh đạo: chính sách và chiến lược quản lý rủi ro cũng như tất
cả các hạn định và mức rủi ro đều do Ban Giám đốc đảm nhiệm.
Nguyên tắc phân quyền: phân quyền phải rỏ ràng giữa người áp dụng
chính sách và người kiểm tra.
Nguyên tắc “bốn mắt”: mọi hồ sơ tín dụng BĐS phải có ít nhất sự phân
tích và báo cáo của 2 bộ phận hoặc 2 người độc lập.
Và khi xét các tiêu chuẩn cho vay thì luôn luôn xét hai yếu tố sau:
Không cho vay hết, người đi vay phải bỏ vốn riêng (10-30%);
Tiền cho vay (lãi suất + khấu hao) không quá 1/3 thu nhập của người cho
vay, do vậy phải xác minh được nguồn thu của người đi vay.
Bên cạnh đó, khi thẩm định cho vay, công việc định giá bất động sản là
một khâu không kém phần quan trọng. tổ chức tín dụng cần lưu ý:
Tách rời bộ phận định giá với những bộ phận quản lý tín dụng và nhân
viên bán hàng;
Chuyên gia định giá phải biết về kiến thức và thông thạo thị trường bất
động sản trong vùng;
Bộ phận này có thể đảm nhiệm tư vấn cho khách hàng và giá cả nói chung
và về những dự án mua bán hàng nói riêng.
Ngoài ra, khâu tổ chức công việc và quản lý hồ sơ cũng phải phù hợp với
từng bộ phận, đảm bảo đúng nguyên tắc khâu nào thì việc đấy.
1.2.3. Sản phẩm và xu hướng phát triển của thị trường tín dụng bất
động sản
Đã có rất nhiều sản phẩm tín dụng bất động sản đã được tung ra trên thi
trường từ hình thức cho vay theo kênh truyền thống là qua ngân hàng cho đến các
hình thức như phát hành trái phiếu dự án và một số hình thức cao hơn. Tuy
14
nhiên, trong giới hạn bài viết này chỉ thống kê một số hình thức phổ biến và nổi
bật.
Trước hết là chúng ta xét các sản phẩm tín dụng thông qua kênh truyền
thống là ngân hàng:
- Tín dụng xây dựng: là các khoản cho vay để xây dựng các công trình như
nhà ở, chung cư, cao ốc văn phòng, khách sạn, trung tâm thương mại, cơ sở sản
xuất, các công trình xây dựng khác. Các khoản tín dụng này được thanh toán cho
bên xây dựng (thi công) khi đã hoàn thành bộ công trình hoặc từng hạn mức công
trình theo thỏa thuận hợp đồng nhận thầu. Ngân hàng cấp cho khách hàng một
khoản tín dụng tương ứng một số phần trăm nào đó giá trị dự án xây dựng.
Khoản tín dụng này chỉ được giải ngân khi có đủ chứng từ chứng minh là công
việc xây dựng đã diễn ra. Loại tín dụng này được đảm bảo hoặc bằng quyền sử
dụng đất, hoặc bằng tài sản hình thành từ vốn vay, hoặc khoản phải thu từ bên
chủ đầu tư theo hợp đồng nhận thầu, hoặc bằng tài sản đảm bảo khác. Đây là sản
phẩm tín dụng dễ quản lý nhưng phải theo dõi, lãi suất cho vay tương đối cao và
chỉ tính trên số tiền đã giải ngân. Và khoản tín dụng này phải dự chuyển thành
một khoản tín dụng bất động sản trong tương lai. Tín dụng xây dựng có thể là
khoản tín dụng ngắn hạn hoặc dài hạn tùy thuộc vào đối tượng đi vay, kế hoạch
của dự án. Thông thường, nếu người đi vay là các chủ đầu tư thì đây thường là
các khoản tín dụng dài hạn, nếu người đi vay là các nhà thầu xây dựng thì đây
thường là các khoản tín dụng ngắn hạn, và nguồn để trả nợ là các khoản thanh
toán của chủ đầu tư.
- Tín dụng bất động sản thế chấp: với hình thức này khách hàng phải có tài
sản khác để thế chấp đảm bảo cho khoản tín dụng này hoặc phải đảm bảm bằng
tài sản hình thành từ vốn vay. Để được cấp tín dụng, người đi vay phải có vốn tối
thiểu là bao nhiêu phần trăm của tài sản hình thành tùy theo quy định của từng
nước, ở Việt Nam thông thường thì người đi vay phải có vốn tự có tối thiểu là
30% giá trị tài sản hình thành. Tín dụng bất động sản thế chấp này thường là các
khoản tín dụng dài hạn, và được giải ngân trong một thời gian ngắn. Sự kết hợp
giữa ngân hàng và chủ đầu tư để cấp các khoản tín dụng trả góp cho người mua
15
các sản phẩm của chủ đầu từ theo hình thức trả góp là một sản phẩm điển hình.
- Tín thác đầu tư bất động sản: là nghiệp vụ mà ở đó giao dịch ủy thác được
thực hiện giữa người ủy thác và người nhận ủy thác. Người ủy thác được hiểu là
chủ dự án hay chủ đất đai trong khi người nhận ủy thác là ngân hàng. Bằng một
hợp đồng ủy thác, ngân hàng sẽ được chủ đất chuyển quyền sử dụng đất đai và
chịu trách nhiệm quản lý chúng khi việc xây dựng dự án và chuyển giao bất động
sản hoàn tất. Người nhận ủy thác sẽ được nhận thù lao tín thác và khi đáo hạn có
trách nhiệm chuyển trả quyền sở hữu tài sản tín thác về cho người ủy thác hoặc
người được chỉ định thụ hưởng. Sau khi một khế ước tín thác được ký kết, ngân
hàng nhận ủy thác sẽ tiến hành cho vay thực hiện dự án bất động sản dựa trên tài
sản tín thác được xem như tài sản thế chấp cho ngân hàng (lúc này được xem là
chủ sở hữu tạm thời của tài sản tín thác). Nghiệp vụ tín thác bất động sản huy
động được bốn nguồn vốn bao gồm vốn tự có của chủ dự án, của đơn vị xây
dựng, vốn vay của ngân hàng và vốn đóng góp của khách hàng. Nhờ hình thức
huy động theo hình thức tứ trụ này mà việc thực hiện dự án sẽ được đảm bảo kể
cả đầu ra và đầu vào của dự án bất động sản.
Các sản phẩm tín dụng huy động trực tiếp thông qua người mua bất động
sản: đây là kênh mà các chủ đầu tư các dự án xây dựng chung cư, căn hô thường
sử dụng để huy động vốn với giá rẻ (không phải trả lãi), và có thể huy động vốn
theo từng giai đoạn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Huy động vốn của
khách hàng thì có hai cách:
- Thứ nhất là huy động vốn theo hợp đồng mua bán nhà trong tương lai,
theo đó khách hàng sẽ ứng trước cho chủ đầu tư các khoản tiền nhất định theo
từng giai đoan quy định trong hợp đồng.
- Thứ hai là huy động vốn theo kiểu góp vốn để xây dựng sau này được chia
lợi nhuận hoặc được quyền mua nhà.
Cho thuê tài chính bất động sản: là một hoạt động tín dụng trung dài hạn,
theo đó ngân hàng hoặc công ty tài chính mua lại cơ sở rồi sau đó cho doanh
nghiệp thuê lại. Sản phẩm này chỉ áp dụng được cho cơ sở thương mại hay công
nghệ đang được xây cất hoặc mua và cho thuê lại. Với hình thức này thì người đi
16
vay không cần bỏ vốn, ngân hàng hoặc công ty cho thuê bỏ toàn bộ vốn để đầu tư
hoặc mua bất động sản sau đó cho thuê lại. Đây là một hình thức tín dụng dài
hạn, có lãi suất cao.
Tín dụng bất động sản “Gác lửng” (Mezzanine): theo đó chủ đầu tư của
một số dự án lớn phát hành một số trái phiếu dài hạn, ngân hàng sẽ ghi mua với
điều kiện chủ đầu tư hứa sẽ mua lại sau một thời gian hạn định. Với hình thức
này thì lãi suất được cố định trước và có thể có một phần tùy thuộc vào lợi nhuận
của chủ đầu tư. Hình thức này chỉ áp dụng cho những dự án lớn – có thể nói là đồ
sộ với sự hợp tác của nhiều nhà đầu tư chiến lược và nó phụ thuộc vào việc xác
định của nhóm đầu tư này sẽ bỏ thêm vốn vào dự án.
Trái phiếu công trình: phát hành trái phiếu là một giải pháp hiệu quả cho
các công ty bất động sản để huy động vốn khi phải đối mặt với tình trạng hạn chế
cho vay của Ngân hàng. Phát hành trái phiếu cho phép công ty bất động sản tích
cực quản lý tỉ lệ lãi suất, đồng thời có khả năng kiểm soát tốt hơn khung thời gian
cho dự án. Tuy nhiên, huy động vốn bằng cách phát hành trái phiếu là huy động
một lượng vốn nhiều trong một lần, nhưng việc sử dụng vốn thì sẽ dàn trải theo
từng giai đoạn của dự án nên việc sử dụng vốn của chủ đầu tư sẽ kém hiệu quả,
phải trả lãi cho những đồng vốn chưa sử dụng đến.
Chứng chỉ bất động sản: đây là sản phẩm gắn kết thị trường bất động sản
và thị trường tài chính. Thông qua thị trường chứng khoán, nhà đầu tư sẽ có cơ
hội quảng bá hình ảnh, còn hoạt động thị trường được minh bạch và ổn định hơn.
Sản phẩm này trước hết sẽ nhắm đến đối tượng các khách hàng chuyên nghiệp là
ngân hàng, công ty bảo hiểm, chứng khoán... sau đó sẽ mở rộng đối tượng khách
hàng là những người thực sự có nhu cầu về nhà ở. Nếu mua trái phiếu công trình,
nhà đầu tư không kiểm soát được việc sử dụng vốn của đơn vị phát hành trái
phiếu. Nhưng đối với chứng chỉ bất động sản, nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn, vì đã
có ngân hàng kiểm soát, giải ngân theo tiến độ triển khai dự án.
1.3. Tín dụng bất động sản tại Mỹ, Singapore và bài học kinh nghiệm
Hiện nay, thị trường bất động sản và tín dụng bất động sản bị chi phối bởi
17
nền kinh tế toàn cầu, nhất là của các nền kinh tế lớn, trong đó nền kinh tế Mỹ có
tầm ảnh hưởng rất lớn nó tác động đến nền kinh tế toàn thế giới. Điều này thể
hiện rõ qua cuộc khủng hoảng thị trường bất động sản tại Mỹ mà bắt nguồn là từ
cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản trên thị trường thứ cấp năm 2007. Cuộc
khủng hoảng từ Mỹ đã lan rộng và tác động xấu đến thị trường bất động sản và
thị trường chứng khoán quốc tế. Cạnh đó thì thị trường BĐS Singapore cũng là
một thị trường phát triển mạnh mẽ, có nhiều thành quả và là một nước thuộc khối
ASEAN nên tham khảo khi định hướng phát triển thị trường BĐS Việt Nam.
1.3.1. Tín dụng bất động sản tại Mỹ
Thị trường tín dụng bất động sản ở Mỹ đã phát triển ở một trình độ cao,
bằng nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố thế chấp trên thị
trường cầm cố thế chấp thứ cấp, cụ thể là phát hành trái phiếu bất động sản, đã
huy động được nhiều ngân hàng và nhà đầu tư trên thế giới tham gia vào việc tài
trợ vốn cho thị trường bất động sản Mỹ. Tuy nhiên các trái phiếu này lại được
đảm bảo bằng các khoản nợ xấu, khả năng trả nợ của người đi vay là thấp.
1.3.1.1. Một số khái niệm
- Thi trường cầm cố thế chấp thứ cấp: là thị trường nơi diễn ra việc mua bán
các khoản cho vay có thế chấp bằng tài sản giữa nhà cho vay trực tiếp trên thị
trường cầm cố thế chấp sơ cấp (là chủ yếu) với các tổ chức mua bán nợ. Các nhà
cho vay trực tiếp tập hợp các khoản cho vay thế chấp cầm cố của mình lại thành
một danh mục và bán chúng lại cho các các tổ chức mua bán nợ.
- Thi trường cho vay thứ cấp: là nơi mua bán các trái phiếu, cổ phiếu được
đảm bảo bằng giá trị của các khoản cho vay thế chấp cầm cố.
- Lãi suất cho vay thả nổi (Option ARM): là phương thức cho vay theo đó
người đi vay có quyền chọn một trong bốn phương thức trả nợ sau:
Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu là 30 năm, hoặc;
Trả theo tiêu chuẩn chiết khấu là 15 năm, hoặc;
Trả tiền lãi,hoặc;
Trả một mức tối thiểu nhỏ hơn tiền lãi hàng tháng.
18
Khi chọn Option ARM, người đi vay sẽ chọn phương án chi trả mức tối
thiểu. Theo phương án này thì những năm đầu tiên người đi vay sẽ trả số tiền
thấp hơn tiền lãi hàng tháng, và mỗi năm sẽ tăng mức tối thiểu này lên theo tốc
độ bằng với lãi suất thấp. Người đi vay có thể trả mức tối thiểu này trong vòng
năm năm, sau năm năm sẽ tính lại mức chi trả. Và sự thiếu hụt này sẽ đưa vào số
dư nợ gốc và số dư nợ gốc cứ thế mà tăng lên. Tuy nói là năm năm sẽ tính lại,
nhưng khi số tiền vay vượt quá một mức hạn định so với nợ gốc ban đầu thì ngân
hàng sẽ tính lại ngay lập tức. Và gánh nặng chi trả bắt đầu xuất hiện, người đi
vay phải chịu một cú sóc lớn khi số tiền chi trả nhảy vọt lên một cách không ngờ.
- Nợ dưới chuẩn: là các khoản cho vay các đối tượng có mức tín nhiệm
thấp. Những đối tượng này thường là những người nghèo, có thu nhập thấp, công
việc không ổn định, vị thế xã hội thấp hoặc có lịch sử thanh toán tín dụng không
tốt trong quá khứ. Những đối tượng này tiềm ẩn rủi ro không có khả năng thanh
toán nợ đến hạn do đó rất khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn.
1.3.1.2. Quá trình phát triển, nguyên nhân khủng hoảng và hậu quả
của khủng hoảng tín dụng bất động sản tại Mỹ
Quá trình phát triển tín dụng bất động sản tại Mỹ
Trước năm 1930, gần giống với tình trạng thị trường tín dụng tại Việt
Nam hiện nay, tín dụng bất động sản Mỹ có các tính chất như: lãi suất linh hoạt,
tỷ lệ thanh toán lần đầu cao, khoản tín dụng có thời hạn ngắn.
Cuộc khủng hoảng 1929 - 1933 dẫn tới giai đoạn giá trị bất động sản giảm
mạnh, chỉ còn khoảng 50% của thời kỳ đỉnh cao trước khủng hoảng. Người mua
nhà thấy tình trạng bất trắc đã chấp nhận tuyên bố mất khả năng thanh toán với
các ngân hàng, chấm dứt nghĩa vụ tài chính cá nhân. Làn sóng phát mại tài sản
điển hình lên tới 250.000 vụ mỗi năm trong giai đoạn 1931 - 1935. Vào lúc xấu
nhất, 10% số bất động sản bị siết nợ. Các tổ chức đặc biệt quan trọng đã được
thành lập, gồm:
- HOLC: Huy động vốn từ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, dùng vốn
mua các bất động sản vỡ nợ, phục hồi trạng thái, đổi kỳ hạn khoản nợ. Đổi từ lãi
19
suất biến động, ngắn hạn và không khấu trừ dần sang loại tài chính lãi suất cố
định, dài hạn (20 năm trở lên) và khấu trừ dần tới khi hoàn thành nghĩa vụ tài
chính. HOLC trong vụ này đã mua lại và xử lý khoảng 1 triệu hợp đồng vay.
- FHA: Được thành lập để bảo hiểm cho các hợp đồng vay tài trợ bất động
sản. Các hợp đồng bảo hiểm để đảm bảo cho những khế ước của HOLC có thể
được giao dịch. HOLC không phải cơ quan kinh doanh bất động sản nên cần tính
thanh khoản để thu hồi tài chính. HOLC và FHA hợp sức thành một cơ cấu kỹ
thuật tài chính cho phép các tổ chức tài chính không còn thanh khoản trở nên
thanh khoản, giúp phục hồi thị trường tài chính. Tới năm 1936, HOLC hoàn
thành sứ mệnh và dừng hoạt động.
- Fannie Mae: Ra đời 1938. Nó hà hơi tiếp sức cho FHA qua thị trường
thứ cấp giao dịch các khế ước FHA. Fannie Mae phát hành trái phiếu mua các
hợp đồng tín dụng ở mệnh giá. Những thay đổi này dẫn tới năm 1948, kỳ hạn vay
dài nhất tăng lên 30 năm (so với 20 năm trước đó). Năm 1956, FHA tăng tỷ lệ
vay trên giá trị bất động sản lên tối đa 95% (so với 80% trước đó) với xây dựng
mới và 90% với nhà đang có.
Tới năm 1980 thì chứng khoán hóa đã trở thành nguồn tài chính chủ yếu
tài trợ cho hoạt động vay bất động sản nhà ở. Sự liên thông này khá toàn diện.
Điều này làm thay đổi cơ cấu tiêu dùng của người dân Mỹ rất rỏ rệt:
Bảng 1.1: Động thái về tiền vay khế ước bất động sản Hoa Kỳ
Năm 1949 1979 2001
Nợ mua BĐS/Tổng thu
nhập hộ gia đình 20% 46% 73%
Nợ mua BĐS/Tổng tài
sản hộ gia đình 15% 28% 41%
Nguồn: Green & Watcher (2005)
Và nó giúp đẩy toàn bộ thị trường bất động sản Mỹ lên mức giá trị 8.370
20
tỷ USD năm 2003.2 Tuy nhiên đến cuối năm 2007, thị trường tín dụng BĐS tại
Mỹ lâm vào một cuộc khủng hoảng mới với quy mô rất lớn làm rúng động nền
kinh tế thế giới.
Nguyên nhân khủng hoảng tín dụng bất động sản:
Bùng nổ cho vay nợ dưới chuẩn: Một phần nguyên nhân đáng kể dẫn
đến khủng hoảng tín dụng bất động sản là vụ khủng hoảng tín dụng nhà ở dưới
chuẩn trong những tháng cuối năm 2007. Đó chính là sự bùng nổ về cho vay
dưới chuẩn trong các năm gần đây.
Xuất phát từ việc mất cân đối cung cầu nguồn vốn, các nguồn vốn thừa
trên thị trường không được sử dụng hiệu quả. Các tổ chức cho vay nhận thấy cho
vay dưới chuẩn là giải pháp để tối đa hóa lợi nhuận vì cho vay dưới chuẩn
thường có mức lãi suất cao hơn các hình thức cho vay khác nên nhiều ngân hàng
đã tiến hành cho vay dưới chuẩn. Mặt khác, Cục dự trử liên bang Mỹ liên tục hạ
lãi suất. Nhiều người đã đổ tiền bạc vào thị trường bất động sản vì họ cho rằng
đầu tư vào lĩnh vực này sẽ mang lại những khoản lợi nhuận cao hơn các lĩnh vực
khác. Số người mua ngày một gia tăng, cầu vượt cung đã đẩy giá đã tăng lại còn
tăng cao hơn. Trong vòng 10 năm qua, giá nhà ở Mỹ tăng liên tục khoảng 20%
mỗi năm và có nơi thì tăng gấp ba.
Và với giá BĐS tăng liên tục, lãi suất cho vay thấp cùng với sự cạnh tranh
khốc liệt trên thị trường, nhiều công ty tài trợ địa ốc đã săn sàng cho vay không
cần tiền đặt cọc, cũng không cần người đi vay phải chứng tỏ rỏ ràng về khả năng
trả nợ. Với cách cho vay quá dễ dàng, thì những người trước đây bị xếp hạng
không đạt chuẩn có thể tiếp cận một cách dễ dàng với các nguồn tín dụng, được
vay trả góp một cách thoải mái. Từ đấy có rất nhiều khách hàng trước đây chưa
hề có lý lịch vay mượn, hoặc có lý lịch yếu vì từng chậm trả nợ, hoặc không đủ
khả năng trả góp hàng tháng cho đến những người từng bị phá sản … cũng có thể
2 Nguồn: Vương Quân Hoàng, TS Đại học Tổng hợp Bruxelles (Bỉ): Mối liên thông giữa thị
trường bất động sản, vốn và tiền tệ.
21
tiếp cận nguồn vay và trở thành chủ nhân của những ngôi nhà lớn với những
khoản vay lớn. Và rất nhiều người đi vay đã chọn Option ARM và các công ty
cho vay cũng cho vay vì họ đều nghỉ rằng giá bất động sản sẽ lên và khi phải tính
lại món nợ ấy thì có thể tái tài trợ dễ dàng. Khi giá bất động sản sụt giảm thì
người cho vay không thể tái tài trợ được, và người cho vay sẽ tịch biên BĐS
mang ra bán đấu giá để đòi lại khoản nợ. Người đi vay không trả được thì đành
phải phá sản và người cho vay đành mất tiền. Vấn đề nằm ở chỗ người mua bất
động sản bằng tín dụng dưới chuẩn phần đông có thu nhập thấp, khả năng chi trả
là không cao.
Nguồn tài trợ bất động sản gia tăng: Trước đây nguồn tín dụng bất
động sản chủ yếu là từ các ngân hàng với các ràng buộc gắt gao về luật lệ hoạt
động ngân hàng. Lượng tiền cho vay có hạn do các nguồn cung tiền cho vay của
các ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào lượng tiền ký gởi của khách hàng, và chỉ
một phần trong số tiền này được dùng cho vay bất động sản do yêu cầu quản lý
rủi ro tín dụng.
Với sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của thị trường thế chấp cầm cố thứ
cấp và cao hơn nữa là nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản vay cầm cố thế
chấp trên đã có thêm rất nhiều đối tượng tham gia tài trợ cho bất động sản như
các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các quỹ hưu trí, các nhà đầu tư nhỏ lẽ ….
Theo đó lượng vốn đổ vào cho vay bất động sản tăng lên rất nhiều và tính thanh
khoản của các khoản cho vay này cũng tăng lên. Thị trường tín dụng bất động
sản đã được liên thông với thị trường tiền tệ.
Hậu quả của khủng hoảng tín dụng bất động sản tại Mỹ
Cuộc khủng hoảng tín dụng bất động sản tại Mỹ đã để lại cho nên kinh tế
Mỹ và nền kinh tế toàn cầu những hậu quả rất lớn. Thị trường bất động sản và thị
trường chứng khoán bị ảnh hưởng nặng nề. Thị trường trái phiếu hình thành từ
chứng khoán hóa bất động sản bị mất khả năng thanh toán. Ngành xây dựng Mỹ
góp 15% GDP có thể bị cắt giảm xuống còn một nửa sản lương và cắt giảm 1-2
triệu công việc. Hàng loạt các ngân hàng và các quỹ đầu tư, không chỉ ở Mỹ mà
các nước khác trên thế giới, rơi vào tình trạng thua lỗ nặng và phá sản. Tình trạng
22
mua bán và sát nhập các ngân hàng các công ty diễn ra liên tục. Nhiều ngân hàng
lớn trên thế giới đã bị quốc hữu hóa.
Tháng 9.2007, theo công bố của Hiệp hội Bất động sản Mỹ (NAR), số vụ
giao dịch nhà đất thành công trong tháng này đã giảm 8% so với 5,04 triệu vụ
giao dịch tháng trước, tỷ lệ các hợp đồng giao dịch bị hủy là 50%. Đây là con số
kỷ lục kể từ năm 1999 đến nay, thấp hơn nhiều so với dự báo của Phố Wall.
Đồng thời, giá nhà đất cũng "rớt" khoảng 4,2% kể từ năm 2006 (từ 234.000 USD
xuống còn 211.000 USD) và tụt khoảng 5,7% kể từ tháng 8 vừa qua.
Theo Moody’s Economy.com, từ tháng 8 năm 2007 tới tháng 8 năm nay
nay, các định chế tài chính toàn cầu đã thua lỗ tổng số tiền khoảng 925 tỷ USD vì
khủng hoảng tín dụng, tương đương 3% tổng tài sản của họ. Trong số này, trầm
trọng nhất là khoản thua lỗ có thể lên tới 525 tỷ USD liên quan đến các khoản
cho vay địa ốc.
Những công ty tài chính từng một thời hùng mạnh của Mỹ như Bear
Stearns, Countrywide Financial và IndyMac đã vỡ nợ hoặc vị mua lại. Hàng loạt
tập đoàn khác như Fannie Mae, Freddie Mac, Washington Mutual, Citigroup và
Wachovia hiện đang trong cảnh ngàn rất khó khăn. Tập đoàn cung cấp tín dụng
mua nhà Fannie Mae lớn nhất của Mỹ cho biết trong quý I/2008 bị thua lỗ tới
2,51 tỷ USD, thấp hơn khoản lỗ 3,6 tỷ USD trong quý IV/2007 nhưng là một sự
trái ngược so với khoản lãi 826 triệu USD trong quý I/2007.3
Từ đầu năm tới nay, đã có tới 10 ngân hàng ở Mỹ bị phá sản, riêng trong
khoảng thời gian từ ngày 11/7/2008 tới nay đã có 5 ngân hàng phá sản.
Không chỉ dừng lại bên trong biên giới nước Mỹ, cuộc khủng hoảng còn
lan khắp thế giới. Nó đã khiến các ngân hàng lớn ở châu Âu tiếp tục thua lỗ hàng
tỷ euro.
Các định chế tài chính nước ngoài đang có mức độ liên quan rất cao tới
các tổ chức cho vay khổng lồ ở Mỹ. Ước tính, khoảng 50% các loại chứng khoán
được phát hành từ các khoản nợ cho vay cầm cố ở Mỹ hiện nằm trong tay các
3 Nguồn: Vietnamnet.vn
23
nhà đầu tư nước ngoài. Cùng lúc các ngân hàng đầu tư Mỹ như Merrill Lynch và
Citigroup phải gánh những khoản thâm hụt tài sản “vĩ đại” do nợ xấu ở thị
trường Mỹ, ngân hàng khổng lồ mang “quốc tịch” Thụy Sỹ UBS và Ngân hàng
IKB Deutsche Industriebank của Đức cũng ở trong tình trạng tương tự. Deutsche
Bank vừa cho biết có thể thua lỗ tổng cộng 2,5 tỷ euro trong quý I/08.
Tại Norway, 8 thành phố đã công bố thua lỗ ít nhất 125 triệu USD vì đầu
tư vào các loại chứng khoán bất động sản của Mỹ. Vì khủng hoảng thanh khoản,
một ngân hàng lớn của Anh là Northern Rock đã bị Chính phủ nước này quốc
hữu hóa vào tháng 2 vừa qua. (Nguồn: VnEconomy)
Mặt khác, khi khủng hoảng xảy ra, người vay đã bị cú giáng nặng nề.
Khoảng 2 triệu tài sản dưới chuẩn đã bị tái xác định lãi suất thanh toán từ khoảng
7%/năm cho hợp đồng dài hạn, lên mức cao hơn nhiều trong những năm tiếp theo
tới đây. Nhiều người phải ra đường, từ giã tài sản của mình vì không thể trả nổi
mức lãi hàng tháng. Theo Hiệp hội các nhà kinh doanh ngân hàng bất động sản
thì trong số 3 triệu khoản vay lãi suất biến động có tới gần 19% đã rơi vào nợ quá
hạn. Một kỷ lục mới nữa là 4,72 tổng số các khoản vay đã rơi vào chu trình phát
mại tài sản trong thời kỳ vừa rồi.
1.3.2. Tín dụng bất động sản tại Singapore
Singapore từng bùng nổ thị trường bất động sản vào cuối thập niên 1970,
suy thoái giữa thập niên 1980. Lần bùng nổ thứ hai là vào đầu đến giữa thập niên
1990, suy thoái từ năm 1997 đến 2006. Từ năm 2007, đất nước này bắt đầu lần
bùng nổ thứ 3. Năm 2007, thị trường nhà đất Singapore phát triển “nóng” nhất
thế giới, khi giá bất động sản tăng 31%. Tuy nhiên, thị trường bất động sản nước
này cũng không tránh khỏi những nghi ngại dây chuyền bắt nguồn từ sự đi xuống
của kinh tế Mỹ, cũng như những áp lực lạm phát đang diễn ra ở nhiều nền kinh
tế. Chính phủ Singapore cho biết, giá nhà dân chỉ tăng 0,4% quý 2/2008, mức
tăng thấp nhất 4 năm qua. Mặc dù mức tăng chung của thị trường nhà đất quý
2/2008 vẫn đạt 3,7% so với quý 1/2008, song những triển vọng mua bán vẫn ở
mức đáng thất vọng.
24
Các cơn sốt nóng lạnh của Singapore cũng bắt nguồn từ việccho vay dễ
dàng của các ngân hàng và tâm lý ai cũng cho ràng giá nhà chỉ lên cao mà thôi.
Hầu hết mọi người cho rằng: cứ mua ngay đi rồi chịu khó vài năm sau đó hoặc
hy vọng tiền lương tăng lên để dễ trả nợ, bằng không thì cũng bán đi có lãi nhiều.
Bên cạnh đó, nghiệp vụ chứng khoán hóa bất động sản Singapore cũng đã phát
triển đến trình độ cao. Các chính sách cho phát triển thị trường bất động sản của
Singapore cũng đồng bộ hơn, cho phép nhiều hình thức huy động vốn với những
điều kiện dễ hơn nhưng vẫn đảm bảo quyền lợi cho những người tham gia vào thị
trường BĐS, ví dụ:
Singapore cho phép chủ đầu tư huy động trước khi xây dựng xong móng.
Và để bảo vệ người mua, luật pháp Singapore có quy định về quyền chọn mua,
đây là quyền mà người bán (thường là chủ đầu tư) phải cung cấp cho người mua.
Quyền chọn mua có hiệu lực trong vòng 3 tuần tính từ ngày trao giấy chứng nhận
quyền sở hữu và bản thảo hợp đồng mua bán.
Bảng 1.2: Tiến độ huy động vốn dự án tại Singapore
Nguồn: do bà Sim Loo Lee cung cấp
25
1.3.3. Các bài học kinh nghiệm
Các cuộc khủng hoảng nợ dưới chuẩn 2007 bắt nguồn từ sự quản lý lỏng
lẻo trong cho vay tín dụng dưới chuẩn và từ lòng tham của thị trường. Lợi nhuận
cao kết hợp với lòng tham đã dẫn đến lạm dụng việc cho vay nợ dưới chuẩn. Các
thủ tục thẩm định thực hiện bởi các đại lý cho vay diễn ra hết sức lỏng lẻo và
việc tiếp cận vốn tín dụng mua nhà trở nên nhanh chóng, dễ dàng hơn bao giờ
hết. Những người có thu nhập thấp, đặc biệt là dân định cư đầu tiên có cơ hội
mua nhà.
Chứng khoán hóa là một công cụ tài chính thông minh song đã bị lợi dụng
vào việc xấu gây nên hậu quả khôn lường. Thông qua các công cụ này các ngân
hàng đã chuyển rủi ro do cho vay dưới chuẩn sang cho các nhà đầu tư nhằm thu
lãi cao.
Bênh cạnh đó, với tâm lý cho rằng giá BĐS chỉ có tăng chứ không giảm
và cho rằng đầu tư vào BĐS luôn mang lại lợi nhuận cao làm nhiều người lao
vào đầu tư kinh doanh bất động sản. Tuy nhiên, khi lao vào đầu tư và mua nhà
không phải nhà đâu tư và người dân cũng hiểu hết các rủi ro trước khi mua các
sản phẩm tài chính phức tạp nên không tránh khỏi những tổn thất nặng nề. Các
nhà đầu tư và khách hàng cần tỉnh táo để nhận ra các hình thức cho vay trả góp
trong đó không ít sản phẩm là cái bẫy "giết" người.
Hơn nữa làn sóng đầu tư vào BĐS luôn ra hiệu ứng bầy đàn của cơn sốt
đầu cơ, khiến giá nhà đất tăng đến mức phi lý.
Ngoài ra cũng cần nói đến vai trò trò quá lố của giới truyền thông, các
chương trình quảng cáo, các bài viết kích thích cơn sốt tậu nhà cửa, mua đất đai.
Đây là những bài học không thừa cho bất cứ quốc gia nào trong quá trình
hội nhập và phát triển.
Kết luận phần 1
Ở chương này, tác giả trình bày khung lý thuyết về bất động sản và tín
dụng bất động sản. Nói lên nhu cầu về tín dụng bất động sản cũng như các sản
phẩm và xu hướng phát triển của tín dụng bất động sản .
26
Nhu cầu về tín dụng vầ bất động sản là rất lớn, nhu cầu phát sinh từ các
chủ đầu tư, các doanh nghiệp, các nhà đầu tư…. Để đáp ứng những nhu cầu này,
thi trường tín dụng bất động sản đã ra đời rất nhiều sản phẩm từ cho vay trực tiếp
với quan hệ một – một đến hình thức tín dụng được tài trợ bởi rất nhiều nhà đầu
tư. Tuy nhiên, tín dụng bất động sản luôn chứa đựng rất nhiều rủi ro bởi chính thị
trường bất động sản đã luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro bởi các chu kỳ nóng lạnh của
nó. Do vậy phát triển một thị trường tín dụng bất động sản lành mạnh, minh bạch
đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho thị trường bất động sản là yêu cầu đặt ra cho Việt
Nam trong giai đoạn này.
27
Phần 2: Thực trạng thị trường tín dụng bất động
sản của Việt Nam.
2.1 Thực trạng của thị trường bất động sản của Việt Nam.
2.1.1. Thực trạng phát triển của thị trường Bất động sản tại Việt
Nam
Để hiểu hơn sự phát triển của thị trường Bất động sản tại Việt Nam trong
năm năm qua, cần sơ lược về thị trường bất động sản các giai đoạn trước.
2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2002
a) Thị trường bất động sản trước khi có luật đất đai: Sau khi thống
nhất đất nước, chúng ta tiến hành xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung.
Trong quá trình đó là sự hình thành các hợp tác xã nông nghiệp, mọi người phải
góp chung ruộng đất vào hợp tác xã theo chế độ sở hữu tập thể. Trong suốt thời
kỳ này, ở các vùng nông thôn hiện tượng mua bán đất hầu như không xảy ra mà
chủ yếu được thực hiện qua cơ chế “xin-cho” trong các Hợp tác xã. Trong khi đó
tại thành thị hiện tượng mua bán bất động sản vẫn cứ xảy ra (thường là dưới hình
thức nhượng bán nhà) nhưng thông qua việc mua bán trao tay cùng với các nhân
chứng. Cùng với điều đó tại các thành phố lớn việc mua bán nhà ở thuộc sở hữu
Nhà nước phân cho cán bộ viên chức cũng thường xuyên xảy ra nhưng chủ yếu
vẫn nằm ngòai sự chi phối của Nhà nước. Sau khi đất nước thực hiện cuộc cải
cách năm 1986 thì thị trường bất động sản có phát triển hơn tuy nhiên vẫn ở mức
độ tự phát các giao dịch vẫn chưa được Nhà nước công nhận, chưa xuất hiện các
tổ chức kinh doanh, môi giới, dịch vụ bất động sản.
b) Giai đoạn từ sau khi có luật đất đai
Luật đất đai năm 1993 khẳng định lại hiến pháp năm 1992: “ Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Và: “Nhà nước giao đất
cho các tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức
chính trị, xã hội (gọi chung là tổ chức), hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định
lâu dài. Nhà nước còn cho tổ chức, hộ gia đình và cá nhân thuê đất; Nhà nước
28
cho tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất”. Bên cạnh đó luật đất đai năm 1993
còn ghi nhận: “Nhà nước bảo hộ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người sử dụng
đất; hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển
nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất”. Đây thực sự là một
bước tiến quan trọng, theo đó Nhà nước thừa nhận quyển sử dụng đất là một loại
hàng hóa. Những thay đổi quan trọng mang tính chất đột phá trong các chính
sách pháp luật của Nhà nước là cơ sở để hình thành và phát triển thị trường bất
động sản. Và với những thừa nhận trên làm cho hàng hóa của thị trường bất động
sản đa dạng hơn, được mở rộng hơn, và giao dịch ngày càng sôi động và giá cả
bất động sản ngày càng tăng.
Tuy nhiên, ở giai đoạn này, thị trường đất đai Việt nam vận hành theo
theo cơ chế tài chính hai giá đất, giá đất do Nhà nước quy định và giá đất do thị
trường quyết định. Trong đó giá đất do Nhà nước quy định thường chỉ bằng 20%
đến 40% giá thị trường, giá đất phi nông nghiệp tăng gần 100 lần trong giai đoạn
này. Trong khi đó, nhu cầu về bất động sản trong các khu vực tư nhân tăng
trưởng mạnh mẽ, hoạt động đầu tư và giao dịch bất động sản bùng nổ theo kênh
phi chính thức không theo các quy định hiện hành của pháp luật. Cơ chế “xin –
cho” vẫn còn tồn tại, một hình thức biến tướng của cơ chế này là việc phân chia
đất đai hoặc cấp đất cho các quan chức cũng như các công chức của các cơ quan
Nhà nước diễn ra rất phổ biến. Trong giai đoạn này, hiện tượng tham nhũng quản
lý, đầu cơ trong sử dụng tiết kiệm dân cư được tích trữ chủ yếu váo bất động sản
là hiện tượng phổ biến và rộng khắp.
Kh._.oài. Hiện nay chúng ta chỉ mới có thị trường
thế chấp - cầm cố sơ cấp (là thị trường trực tiếp giữa người nhận thế chấp và
người thế chấp) đã có hành lang pháp lý, nhưng vẫn chưa thực sự uyển chuyển, ít
năng động, tính thanh khoản không cao, chưa tạo được nguồn vốn mạnh hơn cho
thị trường bất động sản. Tại thị trường này có thể xảy ra rủi ro về tính thanh
khoản cho các tổ chức tín dụng cho vay khi người vay trả lãi - gốc không đúng
hạn hoặc đơn giản là tổ chức tài chính cần tiền cho mục đích kinh doanh khác
nhưng các khoản cho vay thì chưa đến hạn trả, tổ chức tín dụng sẽ bị lâm vào
“thế kẹt” tiền mặt. Thị trường thế chấp - cầm cố thứ cấp khắc phục được nhược
điểm này bằng cách các tổ chức tín dụng có thể mua bán những khoản cầm cố sơ
cấp để tạo tính thanh khoản cho các khoản tín dụng này. Vì vậy việc hình thành
thị trường thế chấp – cầm cố thứ cấp là cần thiết, tạo thêm nguồn vốn đầu tư,
hoạt động sẽ uyển chuyển hơn, tạo cơ chế tốt để phát triển thị trường vốn cũng
như thị trường bất động sản. Dựa trên nguyên tắc hoạt động của thị trường nên
làm cho nguồn vốn đa dạng hơn, nhiều hơn, năng động và tích cực hơn.
Nguyên tắc hoạt động của thị trường thế chấp – cầm cố thứ cấp: tại thị
68
trường cho thế chấp cầm cố sơ cấp, người có nhu cầu về tín dụng sẽ ký một hợp
đồng vay với tổ chức tín dụng và được đảm bảo bởi tài sản đã hình thành hoặc sẽ
hình thành trong tương lai. Do vậy, bất động sản thế chấp là tài sản của tổ chức
tín dụng cho vay chừng nào người đi vay chưa trả hết tiền đã vay. Người cho vay
thế chấp, các ngân hàng thương mại, các công ty chuyên cho vay, các tổ chức tín
dụng cho vay thế chấp sẽ tập hợp những khoản cho vay này lại thành danh mục
và bán chúng cho các tổ chức chuyên mua bán nợ và tài sản thế chấp theo hình
thức chiết khấu và tái chiết khấu dựa trên các khoản lãi do cầm cố và thời gian
đáo hạn nợ cầm cố của người chủ tài sản. Nguồn vốn của công ty này sẽ được
huy động bằng phát hành trái phiếu, vay các chính phủ và tổ chức quốc tế do
Chính phủ bảo lãnh … Thông qua nghiệp vụ mua bán này các khoản vốn cho vay
ở thị trường sơ cấp đã được giải phóng, nhà cho vay sơ cấp đã có vốn để duy trì
tiếp hoạt động của mình. Thông qua cơ chế này, các nhà cho vay ở thị trường sơ
cấp cho vay thế chấp cầm cố và bán chúng cho nhà đầu tư ở thị trường thứ cấp để
duy trì ổn định quỹ cho vay của mình, lúc này vốn trên thị trường tính dụng thực
sự đã được khai thông, các tổ chức tín dụng cho vay trực tiếp sẽ không rơi vào
tình trạng thiếu cung tiền.
Ở mức độ tổ chức thị trường cao hơn, hệ thống tín dụng còn có thể chứng
khoán hoá các khoản tín dụng tại thị trường tài chính tạo tính thanh khoản cho tín
dụng cầm cố nhà ở.
Tham gia vào thị trường cầm cố thứ cấp này là rất nhiều tổ chức tài chính,
các quỹ nhà ở, quỹ đầu tư, ngân hàng, quỹ bảo hiểm, tiêt kiệm, hưu trí, công ty
tài chính...
Thành lập được thị trường thế chấp - cầm cố thứ cấp trong thời điểm này
là việc nên làm và cần thiết, càng sớm càng tốt vì nó giải quyết được vấn đề vốn
cho thị trường đầu tư cũng như thị trường bất động sản. Tuy nhiên, cũng cần phải
có một lộ trình phù hợp, cần có quá trình kiểm tra, để thấy rõ tính khả thi và sự
tác động đến xã hội. Để thực hiện được giải pháp này, trước hết cần có các văn
bản pháp quy về mua bán nợ bất động sản; các quy định về việc thành lập và hoạt
động của các tổ chức mua bán nợ. Và cần phải xây dựng được một hành lang
69
pháp lý tốt để có thể đảm bảo được quyền và quyền lợi cũng như nghĩa vụ của
các bên tham gia vào thị trường, nhất là tính thanh khoản khi chuyển nhượng các
giá trị đã cho cầm cố thế chấp cho các tổ chức tín dụng khác. Theo pháp luật hiện
hành thì hiện nay chúng ra mới chỉ có hành lang pháp lý cho thị trường thế chấp -
cầm cố sơ cấp, mà cũng chưa thực sự hiệu quả. Vì vậy, chúng ta cần phải thống
nhất việc hoàn chỉnh thị trường sơ cấp này, đồng thời hỗ trợ để thị trường thứ cấp
mang lại hiệu quả cao ngay khi đi vào hoạt động. Đó là những điều mà các nhà
đầu tư, các tổ chức tín dụng rất quan tâm khi tham gia giao dịch bảo đảm trong
thị trường thế chấp - cầm cố vì đó là hành lang pháp lý bảo vệ quyền lợi trực tiếp
của họ.
Thị trường cầm cố thứ cấp càng phát triển thì nguồn tài chính dành cho
vay đầu tư, kinh doanh và tiếp thị sản phẩm nhà ở càng dồi dào, dài hạn với lãi
suất chấp nhận được. Sức mua của thị trường từ đó sẽ tăng lên, tạo tiền đề cho
sản xuất và phát triển nhà ở.
3.3.3 Chứng khoán hóa bất động sản
Trong điều kiện các kênh tín dụng đều nghẽn mạch như hiện nay, thì
chứng khoán hóa bất động sản là một giải pháp tốt có thể giúp các doanh nghiệp
kinh doanh bất động sản có thêm nguồn vốn mới một cách linh động nhất. Việc
chuyển chứng khoán hóa tín dụng bất động sản là một hình thức chuyển các thể
thức tín dụng thành thể thức chứng khoán, phát hành ra công chúng và tạo điều
kiện thuận lợi cho người nhà đầu tư. Khi đã được chứng khoán hóa thì nguồn vốn
đầu tư này rất linh động, có tính thanh khoản cao và có thể thu hút được thêm
vốn của các nhà đầu tư nhỏ lẽ mà các hình thức tín dụng khác bị hạn chế.
Chứng khoán hóa bất động sản có nhiều hình thức, trong giới hạn luận văn
này tôi xin đề cấp đến 3 hình thức sau:
+ Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp cầm cố;
+ Phát hành trái phiếu công trình;
+ Chứng chỉ bất động sản.
70
3.3.3.1 Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp cầm cố.
Ở mức độ tổ chức thị trường cao hơn, các khoản cho vay thế chấp cầm cố
được chứng khoán hoá tại thị trường tài chính tạo tính thanh khoản cho tín dụng
thế chấp cầm cố.
Chứng khoán hóa (chuyển thành chứng khoán) là quá trình tập hợp và tái
cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng lại có thu nhập cao bằng tiền
trong tương lai như các khoản phải thu, các khoản nợ chuyển đổi thành trái
phiếu, hay gọi chung là chứng khoán và đưa ra giao dịch trên thị trường. Nói
cách khác, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng
các tài sản tài chính sẳn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho
việc phát hành các chứng khoán nợ. Theo đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán
nợ chấp nhận rủi ro liên quan đến danh mục tài sản được đem ra làm tài sản đảm
bảo.
Thông thường kỹ thuật chứng khoán hóa các khoản tín dụng được thực
hiện trên hai nhóm tài sản chủ yếu: các khoản vay được thế chấp bằng bất động
sản và các tài sản tài chính không được thế chấp bằng bất động sản; và từ đó hình
thành tương ứng hai loại chứng khoán tương ứng: các chứng khoán dựa trên thế
chấp bất động sản (Mortgage backed securites) và các chứng khoán tài sản tài
chính (Asset backed secuirities), gọi tắt là ABS.
Chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sản (Mortgage backed securities)
được hình thành từ chuyển đổi các khoản vay có tài sản thế chấp, khi đó công ty
phát hành, chủ nợ thứ nhất, sẽ chuyển giao toàn bộ giấy tờ thế chấp cho nhà đầu
tư mua trái phiếu này. Loại trái phiếu này tuy có độ an toàn cao hơn, vì có vật
đảm bảo khoản vay, nhưng lãi suất lại thấp hơn so với chứng khoán tài sản tài
chính. Thực chất với những trái phiếu gắn liền với tài sản thế chấp này thì
có đủ điều kiện để xem đó là một thương vụ bán tài sản. Người bán không còn
chịu rủi ro thua lỗ từ số tài sản sau khi đã chuyển đổi và không phải chịu trách
nhiệm với người mua vì người vay bị vỡ nợ hay có sự thay đổi giá thị trường về
tài sản đó.
Sau khi cho vay thế chấp cầm cố ở thị trường cho vay thế chấp cầm cố sơ
71
cấp, các tổ chức tín dụng trực tiếp tập hợp các khoản cho vay này thành một danh
mục và bán chúng cho một công ty có chức năng đặc biệt, chức năng mua bán
nợ. Quá trình chứng khoán hóa bắt đầu được thực hiện ở giai đoạn này. Các công
ty mua bán nợ này đặc biệt không có vốn chủ sở hữu, mà nguồn vốn của công ty
này sẽ được huy động bằng phát hành trái phiếu, đây là điểm mấu chốt của quá
trình chứng khoán hóa. Các trái phiếu này được bảo đảm bằng danh mục các tài
sản thế chấp cầm cố của các khoản cho vay ở thị trường cho vay thế chấp cầm cố
thứ cấp.
Thông thường, các trái phiếu này sẽ được phân thành nhiều gói, được định
mức tính nhiệm với hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và lãi suất cũng
khác nhau. Ví dụ: gói 1, gói 2 và gói 3. Gói 1 có hệ số tín dụng cao nhất được
thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên, và dĩ nhiên lãi suất cũng thấp nhất, Sau khi
thanh toán hết gói 1 sẽ đến gói 2 và sau cùng là gói 3. Gói 3 là gói đặc biệt không
định được mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro cao nhất. Và khi toàn bộ danh mục
tín dụng hoạt động tốt thì gói 3 là gói hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngược lại.
Qua cách phân gói như trên các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn
các gói trái phiếu phù hợp với sở thích rủi ro của mình. Điều này kích thích các
nhà đầu tư vào các trái phiếu dựa trên thế chấp bất động sản.
Thông qua cơ chế này, các khoản cho vay thế chấp cầm cố đã trở thành
các chứng khoản nợ phát hành rộng rải ra công chúng, làm tăng tính thanh khoản
của các khoản cho vay. Cũng thông qua cơ chế này, các khoản rủi ro về tín dụng
đã được chuyển một cách hiệu từ các tổ chức cho vay tín dụng trực tiếp sang các
nhà đầu tư trái phiếu. Các tổ chức tín dụng giờ không còn bị hạn chế cho vay bởi
nguồn huy động trực tiếp nữa, bởi khi cần họ có thể bán các khoản cho vay thế
chấp cấm cố và thu tiền về phục vụ nhu cầu hoạt động của các tổ chức này.
Khi tiến hành chứng khoán hóa thì số lượng các nguồn vốn cho vay không
chỉ bó hẹp ở khuôn khổ các tổ chức tín dụng nửa, mà qua quá trình này sẽ có rất
nhiều đối tượng khác tham gia cung cấp vốn như: các nhà đầu tư nhỏ lẽ, các tổ
chức bảo hiềm, các quỹ của xã hội
Tuy nhiên để mô hình này có thể hoạt động thì các cơ quan có thẩm quyền
72
của Nhà Nước phải ban hành các quy định để tạo hành lang pháp lý cho các công
ty mua bán nợ này hoạt động, cũng như cần có luật pháp để bảo vệ các nhà đầu
tư tham gia vào quá trình này. Và để có thể thực sự triển khai hiệu quả kỹ thuật
chứng khoán hóa ở Việt Nam thì chúng ta còn khá nhiều việc phải chuẩn bị như
tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thị trường tài chính, phát triển các thị
trường phụ trợ như thị trường mua lại (Repo), thị trường các sản phẩm phái sinh
(derivaties), hình thành các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có uy tín và năng lực
3.3.3.2 Trái phiếu công trình
Khi hai kênh tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín dụng và kênh khách
hàng đang bị thu hẹp lại, thì với hành lang pháp lý hiện có thì phát hành trái
phiếu công trình là một giải pháp về vốn cho các công ty bất động sản có thể thực
hiện ngay.
Tuy nhiên, dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển đến một
trình độ nhất định nhưng thị trường trái phiếu lại không khởi sắc, chưa thật sự
hấp dẫn nhà đầu tư. Để phát hành trái phiếu bất động sản thành công thì các chủ
đầu tư phải đưa ra các điều kiện hâp dẫn các nhà đầu tư như:
- Các dự án huy động vốn phải là các dự án tốt, thì sản phẩm nhà đất phải
thực sự hấp dẫn và nguồn cung sản phẩm phải đảm bảo, nghĩa là dự án khả thi và
được triển khai đúng tiến độ;
- Có cam kết chặt chẽ khi mua trái phiếu để bảo hộ quyền lợi cho các trái
chủ khi có tranh chấp xảy ra, để các trái chủ sẽ bị thiệt thòi quyền lợi;
- Cần kết hợp với các tổ chức bảo lãnh phát hành chuyên nghiệp, có uy tín
và có đủ năng lực tài chính;
- Đưa ra các sản phẩm phụ trợ hấp dẫn như: phát hành trái phiếu chuyển đổi
kèm với quyền mua căn hộ với một tỷ lệ chiết khấu tương đối. Nhưng khi phát
hành trái phiếu chuyển đổi chủ đầu tư phải tính đến việc cổ phiếu bị pha loảng
sau khi chuyển đổi; cũng như khả năng kiểm soát công ty của các cổ đông hiện
hữu; cơ cấu vốn công ty sẽ bị thay đồi nên tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sẽ thay
đổi….
73
3.3.3.3 Chứng chỉ bất động sản
Chứng khoán hóa theo mô hình phát hành chứng chứng chỉ đầu tư bất
động sản, là mô hình theo đó chứng khoán được đảm bảo trị giá bằng bất động
sản, cho phép nhà đầu tư kiếm lời trên biến động giá trị của bất động sản sau này
mà không nhất thiết phải sở hữu trực tiếp một phần hay toàn bộ bất động sản đó
trong suốt quá trình sở hữu chứng khoán.
Chứng chỉ bất động sản là một loại chứng khoán đặc biệt, kết hợp giữa
hình thức đầu tư chứng khoán và đầu tư bất động sản. Giá trị được đảm bảo bằng
bất động sản mà nó đại diện, đồng thời cho phép nhà đầu tư kiếm lời trên biến
động giá trị của bất động sản này, nhưng không nhất thiết nắm giữ quyền sở hữu
trực tiếp một phần hay toàn bộ bất động sản đó trong suốt quá trình sở hữu chứng
khoán.
Cơ chế chuyển hóa thành chứng khoán của hình thức này: là toàn bộ bất
động sản tham gia sẽ được chia nhỏ thành những chứng chỉ có giá trị như nhau
sau phát hành ra công chúng. Quá trình phát hành này không cần thông qua các
định chế tài chính trung gian. Hay nói một cách khác, một doanh nghiệp có
nguồn thu trong tương lai có thể chuyển giao quyền sở hữu nguồn thu này cho
các nhà đầu tư để đổi lấy một khoản tiền mặt ngay tại thời điểm thông qua việc
phát hành chứng khoán.
Các chủ thể tham gia kinh doanh chứng chỉ bất động sản này bao gồm:
đơn vị phát hành (chủ đầu tư dự án), đơn vị phân phối, ngân hàng giám sát và các
nhà đầu tư. Tại thời điểm phát hành chứng khoán sẽ được phát hành rộng rãi cho
mọi đối tượng quan tâm không giới hạn số lượng hay khối lượng tham gia. Trong
quá trình thực hiện dự án, chứng khoán bất động sản sẽ được tự do chuyển
nhượng. Theo đó tính thanh khoản của sản phẩm này là rất cao cho người năm
giữ chứng nó.
Tại thời điểm phát hành thì tất cả các thông tin liên quan đến dự án phải
được công bố một cách công khai, minh bạch và được đặt dưới sự giám sát của
một tổ chức trung gian làm ngân hàng giám sát. Chủ đầu tư dự án sẽ đưa ra một
bản cáo bạch, trong đó có thông tin đầy đủ, rõ ràng, chính xác về tình hình tài
74
chính của chủ đầu tư dự án, chi tiết dự án, các điều khoản về quyền lợi và trách
nhiệm của hai bên, cảnh báo những rủi ro có thể xảy ra, cam kết về tiến độ thực
hiện dự án và việc bồi thường cho nhà đầu tư vào chứng chỉ bất động sản khi dự
án gặp phải những sự cố do lỗi của nhà đầu tư dự án đó. Điều này đảm bảo cho
dự án đầu tư được hoàn thành đúng tiến độ và chất lượng đã cam kết, hạn chế
hiện tượng tiêu cực trong giao dịch bất động sản cũng như hạn chế được rủi ro
cho tổ chức phát hành. Ngoài ra, việc công khai thông tin này sẽ phần nào hạn
chế hiện tượng đầu tư bất động sản.
Tại thời điểm kết thúc dự án đầu tư bất động sản, toàn bộ dự án được bán
đấu giá, người mua sản phẩm bất động sản sẽ là người có nhu cầu thực sự, do đó
sẽ tránh được hiện tượng đầu cơ bất động sản. Còn các nhà đầu tư sẽ được chia
lãi dựa trên lợi nhuận thu được từ việc đấu giá dự án đã hoàn thành
Việc chia nhỏ sản phẩm bất động sản cũng là một ưu điểm của chứng chỉ
đầu tư bất động sản, sẽ tăng tính thanh khoản cho bất động sản và mở rộng cho
các nhà đầu tư ít vốn mặc dù không có khả năng sở hữu hoàn toàn một bất động
sản, vẫn có thể tham gia đầu tư vào thị trường này, thị trường mà từ trước tới nay
chỉ dành riêng cho những nhà đầu tư nhiều vốn. Bên cạnh đó việc tách quyền sở
hữu và quyền sử dụng bất động sản ra sẽ có thêm nhiều đối tượng tham gia vào
thị trường như các công ty tài chính, bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các nhà đầu tư
nước ngoài, kiều bào … Đến đây, chứng chỉ bất động sản đã thực hiện được việc
gắn kết ở mức cao giữa thị trường tài chính và thị trường bất động sản.
So với hình thức trái phiếu công trình thì chứng chỉ bất động sản an toàn
hơn vì nhà đầu tư có thể kiểm soát được việc sử dụng vốn đúng mục đích thông
qua sự kiểm soát và giải ngân theo tiến độ triển khai dự án của ngân hàng. Nếu
mua trái phiếu công trình, nhà đầu tư không kiểm soát được việc sử dụng vốn của
đơn vị phát hành trái phiếu
Phát hành chứng chỉ bất động sản tạo điều kiện giảm chi phí huy động
vốn so với huy động vốn qua các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, khi huy động vốn
dưới hình thức chứng chỉ bất động cũng có một số bất cập về chi phí gián tiếp
cho việc thực hiện các giao dịch cũng như những trở ngại trong việc công bố
thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
75
Để cho mô hình chứng chỉ bất động sản có thể đưa vào áp dụng tại Việt
Nam thì thị trường chứng khoán phát triển đủ mạnh để tạo ra môi trường thuận
lợi cho việc phát hành, niêm yết và giao dịch chứng chỉ bất động sản. Để thị
trường chứng khoán Việt Nam phát triển, cần hội đủ 4 yếu tố: cung, cầu, tổ chức
tài chính trung gian và hệ thống văn bản pháp lý. Ngoài ra, còn yêu cầu thị
trường bất động sản phải phát triển đến trình độ nhất định, phải minh bạch, lành
mạnh và ổn định thì lúc đấy chứng chỉ bất động sản mới thực sự trở thành công
cụ huy động vốn có sức hút với các nhà đầu tư chứng khoán.
3.3.4 Phát hành quyền chọn mua đối với kênh huy động truyền
thống từ người mua và nhà đầu tư.
Để bảo vể quyền lợi của người mua, Nhà Nước đã đưa ra một số tiêu
chuẩn mà các chủ đầu tư phải tuân theo trước khi huy động vốn từ khách hàng.
Như đối với các dự án chung cư và căn hộ cao cấp thi chủ đầu tư phải hoàn thiện
phần móng trước khi huy động vốn từ khách hàng. Tuy nhiên điều khoản này là
ngặt nghèo đối với các công ty có vốn nhỏ, chỉ đủ để thực hiện giai đoạn đền bù
giải tỏa, còn đến giai đoạn thi công họ phải huy động vốn vay.
Để có thể vừa bảo vệ người mua cũng như tạo điều kiện cho chủ đầu tư
huy động vốn thì Nhà Nước có thể nghiên cứu và áp dụng mô hình của
Singapore cho phép chủ đầu tư huy động trước khi xây dựng xong móng. Để bảo
vệ người mua, luật pháp Singapore có quy định về quyền chọn mua, đây là quyền
mà người bán (thường là chủ đầu tư) phải cung cấp cho người mua. Quyền chọn
mua có hiệu lực trong vòng 3 tuần tính từ ngày trao giấy chứng nhận quyền sở
hữu và bản thảo hợp đồng mua bán. Như vậy, theo quyền này, ngoài việc được
chủ đầu tư cung cấp thông tin và văn bản liên quan đến dự án, người mua còn
được quyền cân nhắc trong vòng 3 tuần xem có nên mua hay không và tất nhiên
không phải bồi thường trong thời gian quyền này chưa có hiệu lực. Hiện nay, ở
VN chưa có quyền này.
Một biện pháp khác có thể các doanh nghiệp cần nghiên cứu: để tuân thủ
quy định của Nhà Nước và cũng để đảm bảo cho người mua không gặp rủi ro mà
76
doanh nghiệp vẫn huy động được vốn khi chưa xây dựng xong phần móng thì các
doanh nghiệp nhà đất mở tài khoản phong tỏa tại ngân hàng. Người mua nhà gửi
tiền đặt cọc vào tài khoản đó, sau khi trừ những khoản đảm bảo theo quy định và
phí dịch vụ, sẽ cho doanh nghiệp nhà đất vay vốn tương ứng để đầu tư dự án với
lãi suất thấp, với hình thức này, người mua không sợ mất tiền mà nhà đầu tư vẫn
có vốn thực hiện dự án.
Mặt khác, đối với các dự án đã đáp ứng được các tiêu chí của luật pháp
nhưng đặt trong bối cảnh Chính Phủ thực thi các biện pháp chóng lạm phát, lãi
suất cho vay ngân hàng tăng cao, van tín dụng ngân hàng bị khóa thì kênh tín
dụng này cũng gặp vấn đề lớn: khách hàng không có khả năng đóng tiếp các lần
huy động tiếp theo của chủ đầu tư. Qua một số báo cáo khảo sát của một số tổ
chức, khi thị trường bất động sản đóng băng thì phân khúc sản phẩm căn hộ cao
cấp bị ảnh hưởng nhiều nhất. Vì hiện nay, các chủ đầu tư đầu tư ồ ạt vào các dự
án được coi là "cao cấp" đã gây ra những khó khăn trong việc tiêu thụ, hàng hóa
thừa khá nhiều, trong khi những người thực sự có nhu cầu lại vẫn thiếu nhà. Các
chủ đầu tư cần phân khúc lại sản phẩm, những sản phẩm có mức giá vừa phải
đang có nhu cầu rất cao sẽ dễ huy động, nhất là với những công ty còn nhỏ hoặc
chưa nhiều kinh nghiệm mà sức mạnh kinh doanh chủ yếu dựa vào việc sở hữu
một quỹ đất dồi dào.
3.3.5 Các giải pháp về phía nhà nước
Hiện các kênh tín dụng qua ngân hàng và tư khách hàng đang bị tắc
nghẽn, do vậy Nhà Nước cần có những nghiên cứu đề xuất hành lang pháp lý tạo
điều kiện cho sự hình thành các định chế tài chính, tín dụng phí ngân hàng như:
quỹ đầu tư bất động sản, Tổ chức tái cho vay thế chấp nhà ở, trái phiếu dự án,
quỹ tiết kiệm nhà ở, hệ thống tiêu chí thẩm định các khoản cho vay nhà ở... Các
hành lang pháp lý này cần cải tiến, dỡ bỏ những rào cản đang hạn chế hoạt động
của các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản và ngân hàng thương mại. Bên
cạnh đó, cần phải nghiên cứu và ban hành các hành lang pháp lý để một số thị
trường hổ trợ thị trường truyền thống ra đời và hoạt động như thị trường thế chấp
77
cầm cố thứ cấp, hay như các công ty ủy thác đầu tư bất động sản …
Mặt khác, Nhà Nước cần rà soát, chỉnh sửa và bổ sung để có một hành
làng pháp lý về bất động sản và tín dụng bất động sản đồng nhất hơn, tránh sự đá
nhau giữa các luật với nhau. Như: Luật Đất đai 2003 và Bộ Luật dân sự quy định,
đối với hộ gia đình và cá nhân ở trong nước sử dụng đất không phải là đất thuê,
được Nhà nước giao đất không thu tiền, còn đất được Nhà nước giao có thu tiền
thì được sử dụng để thế chấp tại các tổ chức tín dụng, tổ chức kinh tế hoặc cá
nhân để vay vốn kinh doanh. Nhưng Luật Đất đai 2003 cũng quy định, các ngân
hàng không được giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì thế, có trường hợp,
một ngân hàng cho một chủ thể thế chấp bất động sản nhưng lại không hề biết
rằng bất động sản đó đã bị thế chấp tại một tổ chức khác. Đến lúc đáo hạn, chủ
thể không trả được nợ nhưng ngân hàng lại không thể phát mãi vì không giữ cơ
sở pháp lý quan trọng là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Hoàn thiện và phát triển thị trường thế chấp - cầm cố, trong đó có việc
xem xét cho phép hình thành thị trường thứ cấp. Ngoài ra, Chính Phủ cũng nên
xem xét việc cho phép thế chấp - cầm cố bằng bất động sản tại các ngân hàng
nước ngoài là hướng mở rộng cũng rất hiệu quả. Lực vốn của các ngân hàng
trong nước rất hạn chế, việc mở rộng thị trường thế chấp - cầm cố với sự tham
gia của các tổ chức tín dụng nước ngoài là một cách khơi được nguồn vốn rất
mạnh cho đầu tư. Việc mở rộng thị trường thế chấp - cầm cố là một giải pháp
đúng đắn cho việc tăng vốn đầu tư đối với thị trường bất động sản hiện nay.
3.3.6 Các giải pháp khác
Ngoài các biện pháp đề khai thông nguồn vốn ở trên thì chúng ta có thể
nghiên cứu và đưa vào áp dụng một số mô hình cũng như một số sản phẩm:
Cần xây dựng hệ thống chính sách và định chế tốt cần xử lý hai việc kỹ
thuật quan trọng:
+ Một là, cung cấp công cụ tài chính có lãi suất cố định cho người sử
dụng mua bất động sản để phòng rủi ro lãi suất tăng;
+ Hai là, cung cấp cơ hội/khả năng cho người vay tái cấp tài chính để
78
mua tài sản khi lãi suất giảm..
Nghiên cứu áp dụng mô hình Công ty tín thác đầu tư bất động sản (Real
Estate Investment Trust – REIT). REIT là tên gọi của Quỹ tín thác đầu tư bất
động sản là một loại hình công ty đầu tư chuyên mua, phát triển, quản lý và bán
bất động sản dựa trên việc quản lý chuyên nghiệp danh mục đầu tư bất động sản.
Đây là một hình thức đầu tư kinh doanh trên thị trường bất động sản thông qua
các loại tài sản sở hữu hoặc tài sản đảm bảo nợ mà các tổ chức và cá nhân có thể
tham gia bằng cách mua hoặc bán cổ phần. Khi phát triển REIT mang đến một số
lợi ít sau:
- Lợi ích đối với nhà đầu tư: REIT có lợi thế tránh bị đánh thuế chồng trong
đầu tư và không giới hạn mức đầu tư tối thiểu, REIT mang lại cho nhà đầu tư thu
nhập trong hiện tại ổn định và hấp dẫn. Một nhân tố khác hấp dẫn nhà đầu tư là
sự vận hành của REIT được giám sát dựa trên khuôn khổ pháp lý, bởi ban giám
đốc độc lập, các chuyên gia phân tích, kiểm toán, các phương tiện truyền thông
chuyên về kinh doanh và tài chính.
- Lợi ích đối với nền kinh tế:
+ Mở ra nhiều cơ hội đầu tư: REIT cung cấp nguồn vốn dài hạn từ việc
huy động vốn rộng rãi để hình thành một loại hình đầu tư có khả năng đáp ứng
nhu cầu vốn rất lớn cho các dự án bất động sản và cũng đồng thời hỗ trợ các ngân
hàng và những công ty phát triển bất động sản sơ cấp trong việc thu hồi vốn đã
bỏ ra để đầu tư cho dự án khác. Chứng chỉ đầu tư của REIT với mệnh giá nhỏ có
thể mang lại nhiều cơ hội đầu tư cho bất kỳ ai có thể tham gia vào thị trường bất
động sản.
+ Tạo ra các điều kiện an toàn và chuyên nghiệp hơn cho hoạt động đầu
tư kinh doanh bất động sản: Các chính sách đầu tư và cấu trúc của REIT được
giám sát theo quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đầu tư và thu nhập ổn
định. Phần lớn REIT sử dụng tiền vốn của REIT để mua các tài sản đã hoàn thiện
sau đó đem cho thuê lại. Tiền thuê là nguồn thu nhập chính của các REIT. REIT
thường không được phép cho vay hoặc vay tiền. Những hạn chế này được cởi bỏ
79
một phần hoặc toàn bộ đối với các công ty trực thuộc REIT.
+ Hỗ trợ cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng cho thị trường bất động sản,
đặc biệt là đối với thị trường tài sản cho thuê mua: hoạt động chủ yếu của REIT
là nắm giữ tài sản để cho thuê và thu nhập chủ yếu của REIT là từ cho thuê tài
sản. REIT có thể mua lại nhiều loại tài sản như khách sạn, trường học, bệnh
viện, kho hàng, khu mua sắm,… từ bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào không có đủ
kinh nghiệm quản lý, bị thua lỗ, gặp khó khăn trong việc xử lý …, sau đó REIT
có thể thuê một công ty quản lý tài sản chuyên nghiệp để thu lợi từ các tài sản
mua được.
+ Giúp phát triển các lĩnh vực chuyên môn và các chương trình
phát triển kinh tế xã hội
Kết luận phần 3
Trong phần này, người viết đưa ra các giải pháp nhằm tăng thêm các hiệu
quả hoạt động của thị trường tín dụng bất động sản nhằm đáp ứng được nhu cầu
về vốn của thị trường bất động sản. Các giải pháp được đưa ra đối với ngân hàng,
các tổ chức tín dụng, với khách hàng, các chủ đầu tư, Chính phủ nhằm tập trung
vào việc khắc phục những hạn chế và đồng thời khơi thông các nguồn tín dụng
như: các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng từ ngân hàng; cho phép
hình thành thị trường thế chấp cầm cố thế chấp để nâng cao tính thanh khoản các
khoản cho vay của các tổ chức tín dụng. Ở mức cao hơn nửa là tiến hành các biện
chứng khoán hóa bất động sản như: chứng khoán hóa các khoản cho vay cầm cố
thế chấp, phát hành trái phiếu công trình và phát hành chứng chỉ bất động sản
một mặt để giải quyết nhu cầu vốn mặt khác nâng cao tính thanh khoản của các
khoản tín dụng, đồng thời mỡ rộng nguồn tài trợ cho vay từ rất nhiều đối tượng
khác trong nên kinh tế.
Các giải pháp được đưa ra như trên hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện hơn
hoạt động của thị trường tín dụng bất động sản và thị trường BĐS.
80
KẾT LUẬN
Việt Nam đã gia nhập WTO, nền kinh tế nói chung và thị trường bất động
sản nói riêng có rất nhiều cơ hội để phát triển. Để thị trường bất động sản có thế
phát triển bền vững, minh bạch, có tác động tốt đến sự phát triển của nền kinh tế
thì chúng ta cần có các biện pháp hỗ trợ và điều chỉnh, trong đó hổ trợ tín dụng
có vai trò rất quan trọng. Và để duy trì cho thị trường tín dụng luôn được thông
suốt, phát triển bền vững thì trước hết chúng ta cần hoàn thiện hành lang pháp lý
làm cơ sở để cho thị trường này hoạt động. Bên cạnh đó, chúng ta cần có các giải
pháp để hổ trợ và phát triển hơn nữa thị trường tín dụng bất động sản hiện giờ
như cho phép hình thành thị trường cầm cố thế chấp thứ cấp, thông qua nguyên
tắc hoạt động của thị trường này tạo tính thanh khoản cho các khoản cho vay thế
chấp cầm cố, và có thể duy trì một lượng vốn nhất định cho các tổ chức tín dụng
cho vay trực tiếp. Và phát triển hơn nữa là chứng khoán hóa các khoản cho vay
thế chấp cầm cố này, lúc này thị trường tín dụng bất động sản đã được mở rộng
với nhiều nhà đầu tư tham gia cho vay vốn thông qua nghiệp vụ mua trái phiếu
của các công ty mua bán nợ. Lúc này khả năng tiếp cận các khoản tín dụng sẽ dễ
hơn đối với các đối tượng có nhu cầu vế vốn. Một số mô hình chứng khoán hóa
bất động sản khác cũng nên nghiên cứu và ứng dụng trong thời điểm này như
phát hành trái phiếu công trình, hay phát hành chứng chỉ bất động sản. Các mô
hình này nếu hoạt động tốt cũng cung cấp cho thị trường bất động sản một lượng
vốn không nhỏ và mang tính thanh khoản cao….
Ngoài những giải pháp mang tính vĩ mô, thì nội tại mỗi tổ chức tín dụng
phải có những biện pháp để quản lý chặt hơn, tốt hơn các khoản tín dụng của
mình. Các chủ đầu tư thì phải có những biện pháp để có thể huy động và sử dụng
tốt nhất nguồn vốn đi vay của mình. …
Với mục tiêu tăng trưởng tín dụng một cách ổn định, bền vững, và cung
ứng đủ vốn cho thị trường bất động sản hoạt động tốt thì những giải pháp được
đề nghị trong đề tài này sẽ góp một phần nhỏ để hoàn thiện mục tiêu chung ấy.
81
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Công ty chứng khoán BảoViệt (2008), báo cáo ngành bất động sản.
2. Trần Thanh Bình,“Khi thị trường địa ốc “đóng băng””, báo Thanh niên
3. Công ty TNHH CB Richard Ellis (Việt Nam), Các xu hướng phát triển
bất động sản Việt Nam năm 2008; Hội thảo thị trường nhà ở - Thích nghi
để phát triển; Tổng quan thị trường văn phòng – Cao ốc văn phòng hạng
B tại TP. Hồ Chí Minh; Tổng quan thị trường bất động sản Hà Nội năm
2007-triển vọng 2008 & tiêu điểm tỉnh Hà Tâ; Thị trường bất động sản
Hà Nội cấp nhật quý II năm 2008.
4. PGS.PTS Vũ Văn Hóa chủ biên (1998), Lý thuyết tiền tệ,- Trường Đại học
Tài chính – Kế toán Hà Nội.
5. Luật dân sự 2005 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
6. Luật Đất đai 2003 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
7. Luật kinh doanh bất động sản 2006 của Chính phủ nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
8. Nghị định Chính Phủ số 52/2006/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2006
9. Nghị định Chính Phủ số 153/2007/NĐ-CP ngày 15 tháng 10 năm 2007
Các trang web
1. Bộ kế hoạch và đầu tư
2. Tổng Cục Thống kê
3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM
4. Tin nhanh Việt Nam
5. Thời báo kinh tế Việt Nam
6. Saga Việt Nam
7. Báo Tuổi trẻ
8. Báo Vietnamnet
9. Báo thanh niên
10. Báo Sài Gòn tiếp thị
Tiếng Anh
1. Rik Mekkelholt, Market Trends &Local Opportunities For Retailers And
Developers, 2008
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LA0029.PDF