Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

Lời mở đầu Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực chất là xây dựng nền kinh tế thị trừơng hiện đại phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một nội dung rất quan trọng đã được Đảng quán triệt từ Đại hội VI (1986). Đảng đã đề ra những mục tiêu để xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Để nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hội tụ đầy đủ được những yếu tố của nền kinh tế thị trường hiện đại, t

doc21 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rong đó hệ thống thị trường chính là cốt lõi, là “phần mềm” để vận hành nền kinh tế thị trường thì một trong những giải pháp đó là phát triển đồng bộ các loại thị trường như là: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường vốn, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ…Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường cũng như các yếu tố trong từng loại thị trường ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cấp thiết.Đây là một trong nhưng nội dung và là điều kiện cơ bản để xây dựng và hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất và tạo động lực mới cho phát triển, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước. Vì vậy qua việc nghiên cứu đề tài “Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” đã giúp em hiểu rõ về về một trong những giải pháp để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do sự hiểu biết còn hạn chế nên bài viết của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong sự đóng góp của thầy cô và các bạn để em có thể hoàn thiện hơn bài viết này. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS.Trần Việt Tiến, cảm ơn trung tâm thông tin thư viện ĐH Kinh tế quốc dân đã cung cấp tài liệu giúp em hoàn thành tốt đề án này. I. Những vấn đề lí luận về phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 1. Các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 1.1 Thị trường và phân loại các loại thị trường: Trước hết ta cần có nhận thức đúng về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Trong điều kiện nước ta hiện nay và những năm tới, tính định hướng XHCN trước hết là nhanh chóng giải phóng lực lượng sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN sẽ không là hiện thực nếu không có đầy đủ một hệ thống thị trường phát triển đồng bộ và hiện đại. Tính định hướng XHCN của hệ thống thị trường ở nước ta là phát triển thị trường theo hướng hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường ở nước ta phải được phát triển để đáp ứng yêu cầu giải phóng lực lượng sản xuất của Việt Nam, đồng thời hội nhập đầy đủ với thị trường thế giới. Sự vận hành của từng loại thị trường cũng như toàn bộ hệ thống thị trường ở nước ta phải tuân theo quy luật của nền kinh tế thị trường hiện đại trong điều kiện của Việt Nam và hội nhập với nền kinh tế thị trường hiện đại của thế giới. Thị trường là một bộ phận của nền kinh tế thị trường, trong quá trình phát triển, thị trường xuất hiện từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Cùng với thời gian thị trường đã phát triển thành một hệ thống trong từng quốc gia và vượt ra khỏi biên giới. Trước Chủ nghĩa tư bản, cùng với nền kinh tế giản đơn thị trường còn rất sơ khai và lạc hậu, chủ yếu là thị trường hàng hoá tiêu dùng. Khi sự phân công lao động ngày càng lớn cùng với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời đã xuất hiện hệ thống thị trường gắn liền với nền kinh tế hiện đại. Theo thuộc tính hàng hoá nhiều thị truờng mới phát triển như: Thị truờng hàng hoá, dịch vụ, lao động, bất động sản,…Các loại thị trường này có những đặc trưng khác nhau và ở mỗi quốc gia các thuộc tính hay các đặc trưng của các thị trường này cũng khác nhau về trình độ, qui mô. Dựa theo thuộc tính hay những đặc trưng riêng của hàng hoá được lưu thông trên thị trường, có thể phân chia thị trường thành các loại như sau: Thị trường hàng hoá - dịch vụ Thị trường lao động Thị trường vốn Thị trường bất động sản Thị trường khoa học và công nghệ Việc phân chia thị trường theo thuộc tính hàng hoá phản ánh các mối quan hệ trao đổi hàng hoá trong một hệ thống hoàn chỉnh. Việc phân chia này cũng giúp chúng ta nghiên cứu tính đồng bộ của hệ thống thị trường dễ dàng hơn. Một thị trường phát triển đồng bộ không thể thiếu các loại thị trường theo thuộc tính hàng hoá. Muốn có hệ thống thị trường hoàn chỉnhphải tạo ra một nền sản xuất hàng hoá mà tất cả các yếu tố dầu vào và đầu ra của sản xuất là hàng hoá. Nghiên cứu hệ thống thị trường đồng bộ chính là nghiên cứu từng loại thị trường cụ thể theo thuộc tính của hàng hoá lưu thông trên thị trường và tính phối hợp giữa các thị trường trong toàn bộ hệ thống. 1.2 Vai trò, chức năng của các loại thị trường Phát triển đồng bộ các loại thị trường bao gồm cả thị trường hàng hoá dịch vụ và các thị trường yếu tố sản xuất, là yêu cầu tất yếu của quá trình xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. Để có biện pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường ta phải hiểu rõ vai trò, chức năng của mỗi loại thị trường. 1.2.1 Thị trường vốn * Khái niệm thị trường vốn: Thị trường vốn là thị trường phát hành và mua bán lại các công cụ tài chính (các công cụ nợ và các công cụ vốn) có thời hạn trên 1 năm. Thị trường vốn bao gồm thị trường vay dài hạn (thị trường tín dụng) và thị trường chứng khoán (thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu). Các chủ thể chính tham gia thị trường vốn là ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính phi ngân hàng, Chính phủ, các doanh nghiệp, cá nhân, các nhà môi giới chứng khoán. Hàng hoá được giao dịch trên thị trường vốn bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Công ty, khế ước thế chấp và tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng. * Vai trò của thị trường vốn: Thị trường vốn đóng góp phần rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển của nền kinh tế. Khi có vốn trên thị trường thì mới có điều kiện đầu tư, xây dựng mở rộng sản xuất nhằm nâng cao về cả chất lượng và sản lượng của hàng hoá dịch vụ. Vai trò của thị trường vốn thể hiện ở các điểm sau: Thứ nhất, thị trường vốn thúc đẩy sự tích luỹ và tập trung tiền vốn để đáp dứng nhu cầu vốn xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế. Thứ hai, thị trường vốn giúp sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Thứ ba, hoạt động thị trường vốn tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế đối với chính phủ. Thứ tư, thị trường vốn (Thị trường tài chính) cho phép sử dụng các chứng từ có giá, đổi tiền mặt, cho phép bán cổ phiếu, trái phiếu. 1.2.2 Thị trường lao động * Khái niệm thị trường lao động: Thị trường lao động là thị trường tập hợp những người có sức khoẻ, trí tuệ, tay nghề nhất định muốn đem bán sức lao động của mình và những người mua sức lao động đó để phục vụ cho quá trình sản xuất. * Vai trò của thị trường lao động: Thị trường lao động cung cấp nguồn nhân lực cho quá trình sản xuất đồng thời giúp cho người lao động có công ăn việc làm phục vụ cho đời sống của họ. Trong quá trình sản xuất, con người là nhân tố rất quan trọng quyết định sự thắng lợi của doanh nghiệp vì sức lao động là nhân tố quyết định mang lại tính sáng tạo, là nguồn nhân lực không cạn kiệt. Có thể nói nguồn lực con người là nguồn lực của mọi nguồn lực. 1.2.3 Thị trường bất động sản * Khái niệm về thị trường bất động sản: Đặc điểm chung nhất của các bất động sản là gắn liền với đất. Tuy nhiên không phải tất cả các bất động sản đều là bất động sản hàng hoá và tham gia vào thị trường bất động sản. Muốn trở thành hàng hoá, bất động sản phải có chủ sở hữu hay chủ sử dụng cụ thể phải được pháp luật cho phép và phải đủ điều kiện để giao dịch. ở nước ta, đất thuộc quyền sở hữu toàn dân và pháp luật không cho phép mua bán đất, do đó đất không phải là hàng hoá, chỉ quyền sử dụng đất mới được công nhận là hàng hoá. Như vậy, không giống như những nước khác, ở nước ta không có thị trường đất mà chỉ có thị trường quyền sử dụng đất. * Vai trò của thị trường bất động sản: Cung cấp các nhu cầu về đất được áp dụng với chất lượng cao hơn. Việc mua bán, chuyển đổi, cho thuê lại quyền sử dụng đất đã mở ra nhiều cơ hội để người sử dụng đất đầu tư và sử dụng đất có hiệu quả hơn. Cung cấp mặt bằng cho cá nhân cũng như các doanh nghiệp để xây dựng nhà ở, xưởng sản xuất tạo điều kiện cho quá trình phát triển sau này. 1.2.4 Thị trường khoa học và công nghệ * Khái niệm thị trường khoa học và công nghệ: Thị trường khoa học và công nghệ là loại thị trường trình độ cao, gắn liền với kinh tế thị trường hiện đại có công nghiệp phát triển. ở đây, hàng hoá chất xám, thiết bị, công nghệ hiện đại được thị trường chấp nhận, giao dịch theo quan hệ cung - cầu. * Vai trò của thị trường khoa học và công nghệ: Thị trường khoa học công nghệ phá vỡ những hạn chế giữa các bộ, ngành, địa phương và sự cản trở giữa thành thị và nông thôn. Thị trường khoa học công nghệ thúc đẩy liên kết nghiên cứu khoa học với sản xuất, thúc đẩy công tác khoa học với xã hội và kinh tế. Phát triển thị trường khoa học công nghệ tạo điều kiện để cải cách phương thức, cấp kinh phí cho các viện nghiên cứu để các viện nghiên cứu có thể dần dần tự lo kinh phí của mình. Thị trường khoa học công nghệ thúc đẩy chuyển giao công nghệ. Thị trường khoa học và công nghệ tạo điều kiện thuyên chuyển hợp lý và lưu động lao động khoa học và công nghệ. 1.2.5. Thị trường hàng hoá và dịch vụ * Khái niệm thị trường hàng hoá và dịch vụ: Thị trường hàng hoá và dịch vụ là thị trường mà ở đó diễn ra quá trình mua và bán một số lượng rất lớn hàng hoá được sản xuất và cung cấp dịch vụ cho người tiêu dùng. Hàng hoá chỉ có thể đến được tay người tiêu dùng qua lưu thông và phân phối trên thị trường. Thị trường hàng hoá và dịch vụ được hình thành sơ khai ngay trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, nhất là thị trường nông sản. * Vai trò của thị trường hàng hoá và dịch vụ: Mục đích của quá trình sản xuất là thu được lợi và chính ở thị trường hàng hoá và dịch vụ bảo đảm cho lợi nhuận đó được thực hiện. Quá trình mua và bán đóng góp phần lớn vào thu nhập quốc dân. 2. Sự cần thiết phải phát triển đồng bộ các loại thị trường Mặc dù thị trường ở nước ta ra đời và phát triển chậm so với nhiều nước, nhưng từ khi đổi mới chuyển sang phát triển theo hướng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đã thu được nhiều kết quả, nhưng các mặt trái của thị trường phát sinh cũng không nhỏ. Những mặt được thấy rõ là các nguồn lực được giải phóng và phát triển theo yêu cầu tăng trưởng kinh tế, phục vụ sản xuất và đời sống. Bởi vậy, tiếp tục đổi mới và phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta là một yêu cầu cấp thiết. Vậy thế nào là phát triển đồng bộ? Việc hình thành và phát triển đồng bộ hệ thống thị trường nước ta bao gồm 2 nội dung sau đây: Một là, hình thành đồng bộ các loại thị trường phù hợp với thể chế kinh tế thị trường hiện đại, bao gồm các loại thị trường cơ bản như: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vốn và thị trường khoa học công nghệ. Nhiều loại thị trường ở nước ta còn sơ khai, mới bắt đầu được hình thành. Vì vậy việc tạo lập một hệ thống thị trường đồng bộ bao gồm các loại thị trường là yêu cầu cấp thiết. Tính đồng bộ của các loại thị trường trong nền kinh tế nước ta bao gồm 3 nội dung chủ yếu: - Đồng bộ về các loại thị trường: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường khoa học và công nghệ… - Đồng bộ về các điều kiện để xây dựng và phát triển hệ thống thị trường hoàn chỉnh. - Đồng bộ về trình độ phát triển. Giữa các loại thị trường có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong một hệ thống thị trường thống nhất, hoàn chỉnh. Vì vậy các loại thị trường cần phải có sự tương thích về trình độ phát triển. Tuy nhiên cần lưu ý rằng, sự đồng bộ của các loại thị trường và sự đồng bộ về trình độ phát triển của các loại thị trường cần được xét trong trạng thái động. Điều đó có nghĩa là, không phải tất cả các loại thị trường đều cùng nhất loạt hình thành và phát triển với trình độ, quy mô và phạm vi như nhau. Một thị trường nào đó có thể hình thành và phát triển trước, tạo điều kiện cho các thị trường khác phát triển. Hai là, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường trong từng loại thị trường. Một số loại thị trường ở nước ta mới bắt đầu hình thành, còn rất sơ khai và còn thiếu nhiều yếu tố thị trường.Mức độ phát triển của từng loại thị trường là tuỳ thuộc vào tính đồng bộ của các yếu tố trong thị trường đó. Để hình thành một thị trường mới, cần tạo điều kiện cho các yếu tố của thị trường đó được hình thành và phát triển. Dựa vào thuộc tính hàng hoá để phân chia, nước ta có các thị trường cơ bản sau: -Thị trường hàng hoá và dịch vụ -Thị trường lao động -Thị trường bất động sản -Thị trường vốn -Thị trường khoa học và công nghệ Các loại thị trường cơ bản ở nước ta cũng như trong nền kinh tế hiện đại nói chung có quan hệ tương tác và thúc đẩy lẫn nhau, tạo thành một hệ thống thị trường thống nhất. Nếu như một loại thị trường nào đó không phát triển, hoặc trong trạng thái trì trệ thì sẽ tác động đến sự phát triển và phát huy chức năng của các loại thị trường khác, từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả tổng thể của hệ thống thị trường. Thị trường hàng hóa và dịch vụ có vai trò khởi đầu, thức tỉnh và thúc đẩy các loại thị trường khác phát triển . Sự phát triển của thị trường hàng hoá và dịch vụ phản ánh trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, là tiền đề thúc đẩy sự hình thành và phát triển toàn bộ hệ thống các loại thị trường. Thị trường hàng hoá và dịch vụ phát triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát triển sôi động của thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ. Mặt khác, để phát triển thị trường hàng hoá dịch vụ đến trình độ cao, cần phát triển và hoàn thiện đồng bộ hệ thống các loại thị trường. Nếu không có thị trường hàng hoá và dịch vụ đáp ứng đủ nhu cầu hàng hoá và dịch vụ, không có thị trường lao động cung ứng lao động đáp ứng yêu cầu thị trường lao động thì thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ cũng không thể phát triển được. Rõ ràng trong hệ thống thị trường, các loại thị trường có mối liên hệ hữu cơ và tương tác lẫn nhau. Trong mối quan hệ đó, mỗi loại thị trường có một vai trò nhất định. Trong điều kiện nước ta hiện nay và những năm tới, việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ là nội dung cơ bản nhất của trao đổi trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại mà chúng ta đang hướng tới, việc phân bổ nguồn lực, trước hết biểu hiện ở sự phân bổ nguồn vốn và được thực hiện thông qua thị trường vốn. Do vậy thị trường vốn là huyết mạch của hệ thống thị trường của nước ta. Thị trường lao động điều tiết một trong những điều kiện quyết định nhất của sự phát triển kinh tế xã hội, là nơi giao dịch và phân bổ nguồn nhân lực. Đặc biệt là trong điều kiện của nước ta hiện nay, việc đáp ứng đầy đủ nhu cầu lao động có trình độ cao, cơ cấu lao động hợp lý đang là vấn đề hết sức bức xúc. Vì vậy thị trường lao động là một trong những nhân tố quan trọng nhất tạo động lực thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước ta tăng trưởng có chất lượng cao và bền vững. + Trong nền kinh tế thị trường, hầu hết các nguồn lực kinh tế đều thông qua thị trường mà được phân bổ vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế một cách tối ưu. Vì vậy, để xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta cần phải hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. II. Thực trạng và giải pháp để phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 1. Thực trạng về các loại thị trường ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay Nền kinh tế của Việt Nam thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực, gặt hái được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Trong năm 2005, nền kinh tế được duy trì ở mức tăng trưởng khá, GDP quý sau cao hơn quý trước, đặc biệt tốc độ tăng GDP của hai quý cuối năm ở mức cao đã góp phần đưa GDP cả năm đạt 8,4% là mức cao nhất trong 9 năm gần đây, trong đó quý I tăng 7,4%, quý II tăng 7,8%, quý III tăng 9,1%, quý IV tăng 9,2%. Nhiều ngành, lĩnh vực tiếp tục phát triển khá, góp phần vào tăng trưởng chung. Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 17,2%, cao hơn mức kế hoạch (mức kế hoạch là 16%). Giá trị ngành công nghiệp gia tăng 10,6%. Giá trị gia tăng của ngành dịch vụ đạt 8,5%, cao hơn mức tăng trưởng GDP. Ngành nông lâm ngư nghiệp tăng 4,9% và giá trị gia tăng đạt 4% (kế hoạch là 3,8%) là một cố gắng rất lớn. Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá đạt 32,2 tỷ USD, tăng 21,6% so với năm 2004. Nhập siêu giảm cả về kim ngạch và tỷ lệ so với năm 2004. Thu hút đầu tư toàn xã hội đạt khá, tăng 18,5% so với năm 2004 và chiếm gần 38,9%. Vốn đầu tư nước ngoài tăng đạt hơn 5,8 tỷ USD, tăng 45,2% so với năm 2004 là một nhân tố quan trọng góp vào tăng trưởng. Tuy vậy nền kinh tế còn nhiều khó khăn, tồn tại, tốc độ tăng giá trị gia tăng đạt 10,6% không tương xứng với tốc độ tăng giá trị sản xuất và thấp hơn mức kế hoạch (kế hoạch là 11%). Chi phí sản xuất còn cao, giá trị tăng của nông nghiệp trong quý IV còn thấp, trong đó trồng trọt tăng 1,3% so với năm 2004. Kim ngạch dầu thô chiếm tỷ lệ cao trong xuất khẩu tới 2,1 tỷ USD, tương đương với 7,9% tốc độ tăng trưởng, nếu loại trừ dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu của cả năm 2005 chỉ tăng 13,6% so với năm 2004. Chỉ số giá tiêu dùng tăng bằng mức độ tăng trưởng GDP và cao hơn mục tiêu kiềm chế lạm phát đã được Quốc hội thông qua. Cụ thể, thực trạng phát triển của các thị trường như sau: 1.1. Thị trường vốn Thị trường vốn là một lĩnh vực rộng và phức tạp, gắn với hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng. Nhà nước cũng đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến tài chính, tín dụng, ngân hàng. Thị trường tín dụng trung và dài hạn đã có những bước chuyển biến tích cực. Tỷ trọng cho vay trung và dài hạn tăng đáng kể. Các thành viên tham gia hoạt động trên thị trường ngày càng tăng. Theo báo cáo tháng 2 năm 2006 của chi nhánh Ngân hàng Nhà nước Thành phố Hà Nội, lần đầu tiên trong hơn một năm trở lại đây, tốc độ tăng dư nợ của các tổ chức tín dụng thấp hơn tốc độ tăng vốn huy động. Năm nay lượng tiền gửi quay trở lại ngân hàng sớm hơn, không chỉ từ dân cư mà còn tăng mạnh từ khối doanh nghiệp. Riêng địa bàn Hà Nội, lượng tiền gửi từ các tổ chức kinh tế chiếm tới 61% trong tổng nguồn vốn huy động với 124.935 tỷ đồng. Trong năm qua thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh giá là có bước phát triển rõ nét nhất, tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch theo mệnh giá tại hai trung tâm Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đạt 41.839 tỷ đồng, tăng 64% so với năm trước. Cũng trong năm qua, song song với hoạt động đấu giá cổ phiếu, việc phát hành trái phiếu Việt Nam ra thị trường quốc tế đã gây được tiếng vang lớn. Cụ thể, qua việc phát hành trái phiếu Chính phủ Việt Nam trên thị trường chứng khoán New York vào đầu tháng 11 đã thu được thành công ngoài mong đợi. Các nhà đầu tư đã đặt mua với số tiền cao gấp 6 lần trị giá chào bán (750 triệu USD). 1.2.Thị trường lao động Tăng cầu về số lượng và chất lượng Tính đến 1/7/2005, cả nước có 11.106.583 người từ đủ 15 tuổi trở lên đang làm công ăn lương.So với thời điểm 1/7/2000, số lao động làm công ăn lương tăng 3.630,5 nghìn người Lao động có trình độ chuyên môn kĩ thuật cũng ngày càng chuuyển dịch nhanh theo hướng tăng tỷ trong lao đông làm việc trong khu vực công nghiệp-xây dựng và dịch vụ Trong số lao động đã tốt nghiệp các cơ sở đào tạo cũng không còn ít người đang trong tình trạng thất nghiệp mà nguyên nhân là: + Đào tạo không đúng ngành nghề mà địa phương đang cần + Đúng ngành nghề nhưng không đáp ứng được yêu cầu về kĩ năng tay nghề + Một số doanh nghiệp cường độ làm việc quá cao, điều kiện lao động không đảm bảo, tiền lương không thoả đáng …làm cho ngươi lao động phải bỏ việc 1.3.Thị trường bất động sản Thị trường bất động sản hoạt động sôi nổi vào những năm 90 và 2001 nhưng đến nay lại bị đóng băng do những nguyên nhân sau: - Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế nhỏ lượng vốn còn nhiều hạn chế - Thị trường Bất động sản là thị trường phản ứng chậm so với các thay đổi về môi trường cũng như chính sách chế độ của nhà nước. Vì vậy, độ trễ trong tác động của các chính sách là tất yếu nhất là chính sách về phía cung - Do những bất cập trong chính sách quản lý và điều hành của chính quyền địa phương khi triển khai thực hiện các dự án Bất động sản cũng như những tồn tại về chất lượng của các công trình đã làm cho việc tiêu thụ sản phẩm và triển khai các dự án trở nên khó khăn… 1.4. Thị trường khoa học công nghệ Thị trường khoa học công nghệ ở nước ta tuy còn rất non trẻ nhưng đã có những thành tựu đáng ghi nhận đặc biệt là trong lĩnh vực gia công phần mềm của Việt Nam đã có thứ hạng trên thị trường quốc tế. Tốc độ tăng trưởng thị trường công nghệ thông tin năm 2003 là 28,8% đạt con số 515 triệu USD (trong đó có 410 triệu USD phần cứng, 105 triệu USD phần mềm và dịch vụ) và với tốc độ tăng trưởng đó đến năm 2005 theo đánh giá của IDG Việt Nam đã lọt vào top 10 nước có tốc độ tăng trưởng công nghệ thông tin và viễn thông cao nhất. Không chỉ trong năm 2005, nhìn dài hạn từ năm 2005 đến năm 2010 Việt Nam dự đoán tiếp tục nằm trong top 10 nước có tỷ lệ tăng trưởng cao về công nghệ thông tin. Tuy vây, vị trí của Việt Nam so với các nước có thị trường công nghệ thông tin phát triển còn có một khoảng cách khá xa. Trong việc ứng dụng khoa học công nghệ thông tin vào quản lý và hành chính chưa được triển khai rộng rãi, chưa có sự đầu tư đúng mức cho công nghệ thông tin đối với công ty vừa và nhỏ. 1.5. Thị trường hàng hoá dịch vụ Cùng với quá trình đổi mới nền kinh tế, thị trường hàng hoá dịch vụ trong nước những năm qua đã có những chuyển biến theo hướng tích cực.Thương mại hàng hoá dịch vụ trong nước liên tục tăng với tốc độ cao. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm trên, thị trường hàng hoá và dịch vụ còn bộc lộ những hạn chế: Tuy đã có sự liên kết giữa các nhà phân phối, giữa nhà phân phối với nhà sản xuất trên thị trường trong nước nhưng sự liên kết này còn lỏng lẻo, rời rạc. Mặc dù có quy mô thị trường lớn nhưng các hình thức thương mại truyền thống nhỏ lẻ, tự phát vẫn là chủ yếu, các phương thức kinh doanh hiện đại đã xuất hiện xong chiếm tỷ trọng nhỏ. Cơ sở hạ tầng vật chất cho thương mại của nước ta còn yếu kém, phân tán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển thương mại theo hướng văn minh, hiện đại. Công tác quản lý thị trường còn yếu kém. Tình trạng buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường còn phổ biến gây ảnh hưởng xấu đến tình hình cạnh tranh trên thị trường và làm nản lòng các doanh nhân chân chính… 2. Giải pháp phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam 2.1. Giải pháp để phát triển các loại thị trường * Hoàn thiện môi trường thể chế để phát triển các loại thị trường Hoàn thiện môi trường thể chế, trước hết là môi trường pháp lý cho thị trường hoạt động trong một hành lang minh bạch là nhiệm vụ cấp bách để thúc đẩy sự phát triển các loại thị trường ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hoá. Hiện nay, môi trường pháp lý và năng lực của các cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát triển của hệ thống thị trường hiện đại. Để tạo môi trường thể chế phát triển các loại thị trường: - Trước hết cần rà soát lại hệ thống văn bản phát luật, nhằm khắc phục ngay những quy định không thống nhất giữa các văn bản, xoá bỏ những bất cập trong hệ thống chính sách và luật pháp hiện hành. Các văn bản pháp luật phải có tính thực thi cao, phù hợp với thực tiễn và có tính tương đối ổn định. Phải tiếp tục tăng cường năng lực của các cơ quan soạn thảo và ban hành các văn bản pháp luật, đồng thời nâng cao dân trí và trình độ nhận thức pháp luật. - Phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân: Đây là điều kiện tiên quyết và động lực phát triển các loại thị trường. Theo quy luật chung của kinh tế thị trường hiện đại, sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân sẽ quyết định quy mô, dung lượng, tốc độ và mức độ sôi động của thị trường, bởi vì doanh nghiệp là những chủ thể chính cấu thành thị trường. - Tăng cường cạnh tranh lành mạnh, kiểm soát độc quyền, xoá bỏ bao cấp: Nhanh chóng ban hành các văn bản thực thi có hiệu quả Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền, xoá bỏ tình trạng bao cấp, đặc quyền đặc lợi, độc quyền của các doanh nghiệp Nhà nước. Cần sớm ban hành các văn bản hướng dẫn thực thi Luật doanh nghiệp, Luật Đầu tư… * Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho các loại thị trường theo hướng hội nhập: - Một là, tăng cường xây dựng và phát triển hệ thống thông tin thị trường: Đây là một yêu cầu rất bức xúc. Nhà nước cần tập trung đầu tư và chỉ đạo xây dựng hệ thống thông tin thị trường phù hợp với các chuẩn mực quốc tế. Trước hết phải xây dựng một cơ chế cung cấp, thu thập và xử lý thông tin với những nội dung: + Nội dung của thông tin cần cung cấp + Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước và doanh nghiệp trong việc tiến hành điều tra khảo sát về thị trường. + Trách nhiệm của đơn vị trực tiếp quản lý và cung cấp hệ thống thông tin. + Quyền lợi của các doanh nghiệp và tổ chức trong sử dụng thông tin. - Hai là, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tạo điều kiện hình thành và phát triển các loại thị trường. Nó có tác động trực tiếp và gián tiếp đến sự hình thành và phát triển các loại thị trường, nhất là trong điều kiện nướcta hiện nay, nhiều loại thị trường đang bị chia cắt, chi phí giao dịch cao, sức cạnh tranh và chất lượng dịch vụ thấp. - Ba là, hình thành và phát triển các dịch vụ hỗ trợ thị trường. Tuỳ thuộc vào từng loại thị trường để có các hình thức và tổ chức dịch vụ hỗ trợ thị trường thích hợp. Chẳng hạn, với thị trường khoa học và công nghệ, cần hình thành các trung tâm giao dịch công nghệ. Đối với thị trường bất động sản cần thúc đẩy nhanh và đưa vào hoạt động các trung tâm đăng ký nhà đất ở các địa phương… Tóm lại, để có một hệ thống thị trường phát triển đồng bộ các thị trường cơ bản cần phải phát triển. 2.2. Giải pháp cụ thể để các loại thị trường cùng phát triển: * Thị trường vốn: Thúc đẩy quá trình cải cách Ngân hàng Nhà nước, nâng cao năng lực giám sát hệ thống tài chính tiền tệ, các ngân hàng thương mại Nhà nước, đặc biệt chú ý đến các biện pháp như: Tăng tính minh bạch để đánh giá chính xác khối lượng nợ quá hạn thông qua hoạt động kiểm toán và phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế, tăng dần vốn cho từng ngân hàng thương mại quốc doanh sau khi những ngân hàng này đã thực hiện những biện pháp cải cách chủ yếu và đã đạt được những mục tiêu tài chính cụ thể, xử lí nợ quá hạn thông qua việc hình thành một công ty quản lý tài sản và chỉ xoá nợ cho những doanh nghiệp Nhà nước trong kế hoạch cơ cấu lại đã được Chính phủ thông qua. Thành lập và sớm đưa vào hoạt động các công ty mua bán nợ và tài sản doanh nghiệp. Tăng cường công tác thanh tra tại chỗ, sử dụng phương pháp đánh giá ngân hàng trên cơ sở đánh giá rủi ro các khoản tín dụng, mở thị trường chứng khoán tại Hà Nội, mở rộng đối tượng tham giá, từng bước cải thiện vai trò của thị trường chứng khoán đối với nền kinh tế.Mở rộng dần sự tham gia các ngân hàng nước ngoài, tổ chức tài chính quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam , đi đôi với ban hành các biện pháp kiểm soát có hiệu quả. *Thị trường lao động: Để phát triển thị trường lao động, trước hết phải chú trọng đổi mới chinh sách dân số, kế hoạch hoá gia đình, chính sách dân cư, di chuyển lao động và giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao số lượng và chất lượng cung về lao động. Để thúc đẩy cầu về lao động, cần thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, khuyến khích đầu tư, xuất khẩu lao động,… Trong quá trình hoàn thiện pháp luật về lao động và thị trường lao động cần quan tâm tạo thuận lợi cho việc hình thành và hoạt động của các tổ chức thông tin, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề,… Để giải quyết vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn, Nhà nước phải kế hoạch hoá các dòng di chuyển lao động từ nông thôn ra thành thị, các khu công nghiệp và di chuyển giữa các vùng để không những tạo thuận lợi mà phải hỗ trợ nông dân đăng kí tạm trú, thường trú, tìm và có được chỗ ở nơi mới đến làm việc. Ngoài ra, pháp luật về lao động, cơ chế tiền lương, tuyển dụng, thôi việc, buộc thôi việc,…cũng cần được đổi mới theo hướng thị trường hơn, tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm, tự thoả thuận, tự quyết định của các bên. *Thị trường bất động sản: Để phát triển thị trường bất động sản, trước hết phải tổ chức thực thi tốt Luật đất đai và Luật xây dựng mới được ban hành năm 2003, đồng thời khẩn trương xây dựng, ban hành luật về bất động sản. Luật pháp, chính sách phát triển thị trường bất động sản phải tạo điều kiện tăng cung bất động sản hàng hoá ở cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, tăng tính cạnh tranh và công khai trong giao dịch trên thị trường bất động sản, phát triển hệ thống thông tin, các tổ chức môi giới, tư vấn dịch vụ mua bán bất động sản, đồng thời đổi mới nhận thức, nâng cao năng lực của hệ thống quản lý Nhà nước về bất động sản và thị trường bất động sản cũng như các tổ chức phát triển và kinh doanh bất động sản của Nhà nước. Đi đôi với việc xoá bỏ cơ chế xin cho, chuyển sang chế độ cho thuê đất và bán bất động sản theo giá thị trường. Nhà nước và các tổ chức phát triển kinh doanh bất động sản cần phải tác động vào cung cầu, giá cả bất động sản để không ngừng thoả mãn nhu cầu của xã hội nhất là cầu cho sản xuất kinh doanh mà còn góp phần ổn định, phát triển kinh tế, công bằng xã hội, đấu tranh chống tham nhũng. * Thị trường khoa học công nghệ: Để phát triển thị trường khoa học công nghệ, trước hết phải tập trung xây dựng, hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, sớm ban hành luật về sở hữu trí tuệ, trong đó không chỉ có qui định về quyền sở hữu trí tuệ mà còn phải qui định về các quyền đối với hàng hoá khoa học công nghệ, mua, bán, chuyển giao công nghệ, trí thức về quản lí Nhà nước và giải quyết tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ,…phù hợp với thực tiễn trong nước, thông lệ và cam kết quốc tế. Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, cầu về sản phẩm khoa học công nghệ có ý nghĩa quyết định đối với phát triển của thị trường này. Do vậy, chính sách kích cầu cần được hoàn thiện theo hướng tạo môi trườn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35779.doc
Tài liệu liên quan