I- Tính cấp thiết của đề tài.
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung ,bao cấp sang nềnkinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩảơ nước ta trong những năm qua đã đem lại những kết quả to lớn. GDP tăng bình quân hơn 7%/năm, cơ cấu kinh tế có nhiều thay đổi tích cực: tỉ trọng giá trị công nghiệp và dịch vụ tăng,tỉ trọng giá trị nông nghiệp giảm. Đặc biệt chúng ta đẩy lùi được chính sách bao vây ,cấm vận của thế lực thù địch,khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do Liên Xô và các nư
15 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc Đông Âu tan rã.Kinh tế trong nước phát triển, quan hệ quốc tế được mở rộng,nâng cao vị thế của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Do đó phát triển kinh tế thị trường là điều kiện của sự phồn thịnh kinh tế xã hội. Đặc biệt, hiện nay khi chúng ta là thành viên của tổ chức kinh tế thế giới (WTO)chúng ta cần phải đẩy mạnh việc xây dựng một nền kinh tế thị trường hoàn thiện. Trước hết là phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự đồng bộ của thị trường trước hết là hệ thống thị trường với đầy đủ các loại hình : thị trường tiền tệ, thị trường công nghệ, thị trường lao động, thị trường đất đai, thị trường hàng hóa dịch vụ... Các thị trường này vừa độc lập với nhau vừa liên hệ với nhau trong hệ thống thị trường. Mỗi loại thị trường đều có cung - cầu, giá cả, người mua - người bán đặc thù ; có quy luật vận hành đặc trưng và khuynh hướng phát triển khác nhau. Sự quan hệ lệ thuộc, tác động biện chứng giữa các thị trường do quá trình trao đổi hoạt động và phối hợp cung ứng hình thành sản phẩm cuối cùng. Sự độc lập tương đối của các thị trường luôn có xu hướng phá vỡ sự cân bằng tổng thể. Sự phụ thuộc và liên hệ giữa các thị trường đòi hỏi sự cân bằng mới và ăn khớp với nhau. Vấn đề ở đây là, để cân bằng tự phát hay chủ động điều tiết để có sự ăn khớp hợp lý. Vai trò tạo điều kiện và chủ động điều tiết của Nhà nước để tạo sự đồng bộ, ăn khớp và hợp lực các hệ thống thị trường là đặc biệt quan trọng.
Vấn đề thứ hai của sự đồng bộ các loại thị trường là vấn đề ăn khớp về cấp độ hay mức độ phát triển thị trường. Về phương diện lịch sử thị trường, có ba cấp độ phát triển như sau :
- Cấp độ thị trường cổ điển : Đây là dạng thức của thị trường mà ở cùng một không gian, thời gian, địa điểm ba yếu tố người mua, người bán và hàng hóa xuất hiện đồng thời với nhau. Với dạng thức thị trường này, người ta có thể nhận biết về quy mô, động thái mua bán trên thị trường.- Cấp độ thị trường phát triển : Ở dạng thức thị trường này, hàng hóa không nhất thiết phải xuất hiện đồng thời với người mua, người bán. Người ta có thể mua bán ngay cả trước khi hàng hóa được sản xuất ra. Đó là mua bán theo hợp đồng ký trước. Với dạng thức thị trường này, tính "hiện hữu" của thị trường không nhìn thấy được. Thị trường trải rộng cả không gian và thời gian.
- Cấp độ thị trường hiện đại : Trên thị trường lúc này chỉ xuất hiện hoặc người mua, hoặc người bán. Khi đó, người trung gian xuất hiện làm các công việc giao dịch và dịch vụ thương mại. Việc ra đời của các sở giao dịch chứng khoán, sở giao dịch thương mại... đáp ứng yêu cầu dịch vụ mua bán trên thị trường. Đặc trưng của thị trường hiện đại là các hình thức dịch vụ phong phú và phát triển rất cao
Về lịch sử, thị trường lần lượt trải qua ba cấp độ phát triển. Song mỗi quốc gia, khu vực không phải tuần tự diễn ra như vậy. Khi một cấp độ thị trường mới xuất hiện thì ở các nước thực hiện kinh tế thị trường đều có thể xuất hiện dạng thức thị trường đó bất luận trình độ phát triển kinh tế như thế nào. Tuy nhiên, mức độ phát triển, phạm vi và ảnh hưởng của mỗi dạng thức không giống nhau. Hiện nay, với các nước phát triển thì cấp độ thị trường hiện đại chiếm ưu thế phổ biến, thị trường phát triển còn chi phối ở phạm vi rất rộng, thị trường cổ điển là tàn dư. Ở Việt Nam, có thể nói cấp độ thị trường cổ điển là phổ biến, chừng mực nào đó cấp độ thị trường phát triển đã có sức chi phối lớn trên thị trường, còn cấp độ thị trường hiện đại đang ở giai đoạn khởi phát.
Vấn đề thứ ba của phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp, nhịp nhàng, cân đối và tạo hợp lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Tương quan giữa các thị trường trong tổng thể nền kinh tế quốc dân hợp lý thì hoạt động mới có hiệu quả. Từng loại thị trường cũng như hệ thống thị trường trong nền kinh tế quốc dân là một chỉnh thể thống nhất, không bị chia cắt bởi địa giới hành chính. Sự ăn khớp nhịp nhàng, cân đối giữa các loại thị trường theo yêu cầu của sản xuất và đời sống. Tính nhịp nhàng, cân đối về mặt lượng là tương quan tỷ lệ hợp lý giữa hàng và tiền, cung và cầu ở tầm vĩ mô. Sự nhịp nhàng cân đối còn thể hiện ở sự khớp nhau về tiến độ, thời gian, phạm vi trong tiến trình hình thành và phát triển thị trường "đầu vào", "đầu ra" của quá trình sản xuất.
Nhà nước Việt Nam chủ trương thực thi chính sách mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế. Để phù hợp với môi trường quốc tế mới, chúng ta phải phát triển các thị trường để đáp ứng yêu cầu giao lưu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong môi trường quốc tế hóa, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường không chỉ đáp ứng yêu cầu trong nước mà còn nhằm vươn tới thị trường ngoài nước, tranh thủ cơ hội quốc tế để phát triển.
Như vậy, cả điều kiện chủ quan và khách quan, điều kiện trong nước và ngoài nước, trước mắt và lâu dài đòi hỏi phải phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng bộ là có sự ăn khớp giữa tất cả các bộ phận hoặc các khâu, tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của chỉnh thể. Để có thể ăn khớp với nhau, các khâu, các bộ phận của một chỉnh thể phải được sắp xếp và hoạt động theo một tương quan tỷ lệ nhất định gọi là tỷ lệ đồng bộ. Vậy, sự phát triển đồng bộ các loại thị trường là sự ăn khớp giữa các thị trường về loại hình, trình độ phát triển và quy mô tạo nên một sự hoạt động nhịp nhàng của hệ thống thị trường và nền kinh tế quốc dân.
II- Thực trạng phát triển đồng bộ các loại thị trường
Vào những năm 80 nền kinh tế Việt nam vận hành theo cơ chế tập trung bao cấp đã bộc lộ những khủng hoảng, trì trệ. Từ năm 1989 nền kinh tế thị trường đã được xác lập, nền tảng của cơ chế thị trường là cơ chế giá thị trường, mở ra sự tự do hoá lưu thông bảo đảm quyền tự do kinh doanh của các Doanh nghiệp, kích thích sản xuất và tiêu dùng, góp phần điều hoà quan hệ cung cầu. Sự chuyển dịch này tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển đồng bộ các thị trường
1- Thị trường hàng hoá và dịch vụ phát triển khá tốt.
Thị trường này hoạt động rất sôi động,khối lượng hàng hóa lưu thông tăng liên tục trong các năm với tốc độ tăng trưởng tương đối cao; mặt hàng ngày càng đa dạng đáp ứng được yêu cầu cơ bản của sản xuất và đời sống dân cư. Đã hình thành được thị trường thống nhất và thông suốt trong cả nước, mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, từng bước đưa thị trường trong nước hội nhập khu vực và quốc tế. Đối với nhiều mặt hàng, ở một số trung tâm lớn, thị trường hàng hóa dịch vụ đã phát triển ở trình độ khá cao, tốc độ gia tăng mạnh mẽ. Thị trường này đã có đủ các thành phần kinh tế góp mặt và sự vận hành của nó, về cơ bản, được tuân thủ theo các quy luật khách quan ; sự quản lý và điều tiết của Nhà nước với thị trường hàng hóa dịch vụ đã có nhiều thay đổi theo hướng tôn trọng tính khách quan, phù hợp với tập quán, thông lệ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, quy mô thị trường hàng hóa dịch vụ vẫn còn nhỏ bé, khả năng cạnh tranh trên thị trường của hàng hóa Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn hạn chế. Định hướng và các chính sách về thị trường của Nhà nước còn nhiều bất cập.
2- Thị trường tài chính
Chuyển sang nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế, đa dạng hoá sở hữu, tự do hoá kinh doanh đòi hỏi phải có thị trường tài chính đủ mạnh để nền kinh tế hoạt động bình thường . Thị trường vốn, tiền tệ,chứng khoán … ra đời vừa đảm bảo sự ăn khớp giữa lưu thông hàng hoá, lưu thông tiền tệ, vừa tạo vốn cho các hoạt động của nền kinh tế quốc dân.
Về thị trường tiền tệ nhìn chung chưa phát triển , ngân hàng nhà nước trung ương(NHTW) chưa thự sự đóng vai trò can thiệp có hiệu quả vào thị trường này. Các lãi suất của NHTW: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu , lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất đấu thầu tín phiêuú kho bạc nhà nước có tác động rõ nét đến thị trường. Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ, đặc biệt là công cụ dự trữ bắt buộc thiếu linh hoạt. Các ngân hàng thương mạivà các tổ chức tín dụng cạnh tranh với nhhau tăng lãi suất huy độngvốn một cách một chiều,tạo nguy cơ tiềm ẩn rủi ro cho chính các ngân hàng thương mại.
Về thị trường chứng khoán tuy mới ra đời ở nước ta không lăunhng phát triển rất nhanh , nhiều sàn giao dịch của các ngân hàng trong nước được thàn lập, hiện nay có cả ngân hàng nước ngoài. Điều này cho thấy thi trường chứng khoán tuy mới phát triển nhưng đã có nhiều sức hút với các nhà đầu tư nước ngoài. Để tạo thêm sức hút với các nhà đầu tư, chúng ta cần xây dựng các sàn giao dịch hiện đại đáp ứng nhu cầu tham gia của nggười đân ngày càng đông và cập nhật thông tin liên tục , chính xác
3- Thị trường lao động
Thị trường lao động Việt Nam được chính thức thừa nhằnt khi Bộ luật lao động được thông qua ngày 23/6/1994 và có hiệu lực tư ngày 01/01/1995. Thị trường lao động ở nước ta có các hình thức biểu hiện rất phong phú thông qua các hình thức giao dịch và các kênh giao dịch.
Các hình thức giao dịch: biên chế, hợp đồng lao động, chợ lao động và xuất khẩu lao động
Cáckênh giao dịch: các trung tâm dịch vụ việc làm, giao dịch thông qua tuyển dụng, chợ lao động và các cơ quan xuất khẩu lao động.
Về nguồn nhân lực: dân số nước ta đông, cơ cấu dân số trẻ nên nguồn nhân lực nước ta rất dồi dào. Đây là một lợi thế cần được tận dụng triệt để trong quá trình phát triển kinh tế. Song nguồn nhân lực ở nướcchưa đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế do:
-Nguồn nhân lực phân bố không đồng đều giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng kinh tế. Năm 2005 trong số hơn 83 triệu người dân thì có 73,56% sống ở nông thôn, trong đó có 72,8% số người trong độ tuổi lao động và 74,67% sô người trong độ tuổi hoạt động kinh tế ở nông thôn. Như vậy gần 3/4 nguồn nhân lực nước ta sống ở nông thôn
-trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của nguồn nhân lực còn thấp, thay đổi chậm theo hướng tăng lên.Cơ cấu trình độ văn hoá của lực lượng lao động nước ta năm 2005như sau: mù chữ,chưa tốt nghiệp tiểu họclà 17,1% ; tốt nghiệp tiểu học là 20.09% ; tốt nghiệp trung học cơ sở là 32,5% ; tốt nghiệp phổ thông trung học là 21,22% .Về trình độ chhuyên môn năm 2005 tỷ lệ số lao động đã qua dào tạo xấp xỉ 1/4 (24,7%) tương đương với 11 triệu người, trong đó 15,22% có chứng chỉ và bằng công nhân kỹ thuật ; 4,3%tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp; 5,27% tốt nghiệp cao đẳng , đại học và trên đại học.
4- Thị trường bất động sản
Đất đai ở Việt Nam thuộc sở hữu của nhà nước. Các cá nhân , doanh nghiệp , tổ chức theo qui định của pháp luật không được tự do mua bán đất.Trong thực tế người ta vẫn mua bán đất nhưng dưới hình thức khác . Như vậy thị trường ngầm mua bán đất đang tồn tại. Do đó giá trị thật và giá trị danh nghĩa của đất đai có khoảng cách rất lớn.Gía trị của đất chuyển vào sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ không phản ánh đúng giá trị thực tế và mang tính áp đặt hành chính. Nó không đảm bảo tương đồng với các yếu tố, chi phí khác của hàng hoá tiêu dùng trên thị trường .
Nhu cầu nhà ở của xã hội ngày càng tăng cho tháy rằng thị trường bất động sản là một nguồn thu lớn của quốc gia.Nhưng hiện nay cồn tồn tại thực trạng trao đổi ngầm và thỉnh thoảng lại gây ra những cơn sốt ảo vì người đầu cơ và các “cò” đẩy giá nhà đất lên cao. Tình trạng chuyển quyền sử dụng đất , lưọi dụng kẽ hở để kiếm chác nổi lên ở nhiều địa phương làm cho nhà nước thất thoát hàng chục tỉ đồng. Nhiều cơ quan điịa chính, địa phương, xã, huyệncũng “chấm mút” qua chuyển nhượng sang tên, câpsoor đỏ để dân bức xúc khiếu kiện nhiều.
Nhu cầu về thuê văn phòng làm việcngày càng gia tăng, đặc biệt là khi ta đã gia nhập WTO thì nhu cầu về thuê văn phòng càng nhiều.Song nước ta chỉ đáp ứng được một phần rất nhỏ nhu cầu này, giá thuê vă phòng còn cao. Hiện nay các dụ án xây văn phòng cho thuê đang được triển khai nhưng vẫn còn nhiều bất cập về thủ tục hàng chính, và chưa được qui hoạch cụ thể.
5- Thị trường khoa học và công nghệ
Khoa học và công nghệ có vai trò rất lớn trong phát triển kinh tế. Việc ứng dụng có hiệu quả khoa học và công nghệ vào trong sản xuất và kinh doanh mang lại những hiệu quả kinh tế - xã hội cho nước ta. Vì vậy Đảng và Nhà nước đã chi 2%( từ năm 2000) ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Chúng ta đã xây dựng được mạng lưới các tổ chức nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ thuộc đủ mọi thành phần kinh tế. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các viện, các trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm,các trung tâm thông tin khoa học và công nghệ, thư viện đã được tăng cường và nâng cấp.Có các công trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ sinh học, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy. Đã tiếp thu, làm chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài nhờ đó trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ được nâng lên đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Cơ chế quản lý khoa học công nghệ được đổi mới. Thực hiện luật khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ đẫ bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ được mở rộng từ nghiên cứu – phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học công nghệ. Quyền tự chủ của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học và công nghệ; về hợp tác quốc tế được tăng cường và mở rộng. Đa dạng hoá nguồn vốn huy động cho phát triển khoa học và công nghệ.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nhìn chung khoa học và công nghệ nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu cán bộ đấu đàn giỏi, cán bộ trẻ kế cận có trình độ cao. Đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ còn thấp, đặc biệt là đầu tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang tiết bị, cơ sở hạ tầng của các viện nghiên cứu, các trrường học còn thiếu thốn,lạc hậu và không đồng bộ. Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ bao gồm thông tin khoa học công nghệ, chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường - chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp ứng nhu cầu hội nhập và phát triển của đất nước. Ngoài một số ngành được đầu tư công nghệ tiến như công nghệ thônh tin, bưu chinh - viễn thông, dầu khí,hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi măng, nhìn chung trình độ công nghệ của nước ta còn lạc hậu khoảng 2-3 thế hệ so với các nước trong khu vực. Cơ chế quản ký khoa học và công nghệcồn mang nặng tính hành chính chưa phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó thi trường khoa học và công nghệ cònchậm phát triển. Hoạt động mua, bán công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ còn hạn chế do thiếu tổ chức trung gian, môi giới, các qui định pháp lý, đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
Qua việc phân tích thực trạng của các loại thị trường ở trên ta thấy: các loại thị trường ở nước đã hình thành tương đối đầy đủ nhưng vẫn chưa phát triển đồng bộ.
III - Giải pháp phát triển đồng bộ các loại thi trường.
Để phát triển đồng bộ các loại thị trường ở nước ta, cần thực hiện các biện pháp cơ bản sau
1- Tạo điều kiện và môi trường cho tự do hoá sản xuất kinh doanh, đa dạng hoá sở hữu, đa dạng hoá thành phần kinh tế.
Trong đó đảm bảo xây dựng kinh tế nhà nước vững mạnh đủ sức nắm giữ vai trò chủ đạo,cùng với nền kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Bảo đảm tự do hoá ngành nghề theo qui định của luật pháp, tự do hoá lưu thông hàng hoá, tự do hoá lãi suất. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển cả ở thành thị và nông thôn. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước; tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoàihướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh, gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại. Tạo điều kiên cho doanh nghiệp được tự quyết định và chủ động trong kinh doanh. Đây là điều kiện cần thiết để phát triển sản xuất hàng hoá, tạo lập cơ sở quan trọng để hình thành và phát triển đồng bộ các loại thi trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2- Xây dựng đồng bộ các chính sách về thị trường, mặt hàng, các chính sách về tài chính, tiền tệ, đất đai, lao động, khoa học và công nghệ, đầu tư…
Trong nền kinh tế thị trường, các loại thi trường tuy tồn tại độc lập với nhau nhưng chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau;sự biến động của mỗi loại thị trường sẽ có ảnh hưởng đến các thị trường khác. Do đó sự đồng bộ nhất quán của các chính sách sẽ tạo hợp lực thúc đẩy sự phát triển của hệ thống thị trường.
3- Tăng nguồn cung ứng hàng hoá cho thị trường.
Hàng hóa cho thị trường giống như lương thực cho cuộc sống của con người. Ở tầm vĩ mô, Nhà nước phải cân đối tổng cung và tổng cầu hàng hóa (cả hàng hóa vô hình và hàng hóa hữu hình) theo các thời hạn khác nhau. Trên cơ sở đó, kích thích tăng hoặc kìm hãm giảm lượng hàng hóa lưu thông. Đổi mới cơ cấu nền kinh tế phải xuất phát từ yêu cầu tiêu dùng xã hội, dân cư và thông qua thị trường chứ không phải là sự áp đặt chủ quan duy ý chí. Đồng thời, Nhà nước phải có quy hoạch, kế hoạch cụ thể, phù hợp để định hướng phát triển, phân bố và sử dụng hợp lý các nguồn lực. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp phải tăng đầu tư tích lũy, nhất là đổi mới công nghệ, thường xuyên thay đổi mới mẫu mã sản phẩm phù hợp với yêu cầu thị trường. Để phát triển thị trường, phải có cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải điều chỉnh, hoàn thiện để thích ứng với môi trường cạnh tranh trong nước và quốc tế, từng bước xóa bỏ độc quyền hành chính.
4 - Đầu tư tạo tiền đề cho sự ra đời và kích thích sự phát triển của các loại thị trường.
Đối với những vùng kinh tế chậm phát triển, kinh tế tự cấp tự túc còn phổ biến như vùng núi, vùng sâu, vùng xa phải đầu tư xây dựng hệ thống giao thông thuận lợi cho giao lưu hàng hóa giữa các vùng, xây dựng chợ hoặc trung tâm thương mại để có nơi trao đổi, mua bán hàng hóa. Ở những nơi kinh tế và thị trường phát triển chủ yếu đầu tư theo chiều sâu (đầu tư chất xám, phương tiện kỹ thuật hiện đại), phải phát triển dịch vụ, hình thành các trung tâm phát luồng và định hướng thị trường (thị trường bán buôn, trung tâm giao lưu kinh tế với nước ngoài, sở giao dịch hàng hóa, sở giao dịch chứng khoán, trung tâm đào tạo và cung cấp nguồn nhân lực...).
5- Thể chế hoá các chủ trương chính, đường lối của Đảng thành pháp luật, chính sách.
Bảo đảm mọi hoạt động của người mua, người bán, người tiêu dùng thực hiện trong khuôn khổ của luật pháp và được điều chỉnh bằng luật pháp. Đó là cách để các tư tưởng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả trong thực tiễn bảo đảm cơ sở ổn định và lâu dài, tạo dựng niềm tin cho người sản xuất kinh doanh.
6-Nâng cao hiệu lực quản lý của nhà nước.
Đây là yếu tố quan trọng đảm bảo định hướng xã hội chủ nhĩa của nền kinh tế. Để nâng cao hiệu lực quản ký của mình nhà nước cần:
-Đào tạo, nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý.
-Định hướng sự phát triển bằng các qui hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc thị trường.
-Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực xã hội cho phát triển.
-Hỗ tợ phát triển, chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hệ thống an sinh xã hội.
-Bảo đảm tính tích cực và bền vữngcủa các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và tiêu cực củakinh tế thị trường.
IV - Kết luận
Để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.Trong đó việc phát triển dông bộ các loại thi trường là đặc biệt quan trọng. Bài tiểu luận “Phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chỉ nêu ra một vài giải pháp cơ bản để phát triển đồng bộ các loại thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin
2. các trang web:
Us
www.mpi.gov.vn
www.tapchicongsan. org.vn
MỤC LỤC
Trang
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35879.doc