Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

MỤC LỤC Lời mở đầu Trong sự nghiệp đổi mới để đẩy mạnh CNH-HĐH thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế quốc dân . Phát triển tốt các DNVVN không những góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế, mà còn tạo sự ổn định chính trị, xã hội trong nước. Hơn nữa các DN VVN có lợi thế là chi phí đầu tư không lớn dễ thích ứng vối sự thay đổi của thị trường, phù hợp với sự quản lí của phần

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1501 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lớn các chủ doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Ở nước ta, các DNVVN tuy cũng đã có môi trường để đầu tư phát triển khá thuận lợi và đạt được những kết quả nhất định, song những kết quả ấy chưa tương xứng với vị trí và vai trò của DNVVN, do phần lớn các doanh nghiệp đó vừa hình thành, còn yếu kém, sự phát triển của chúng cho đến nay vẫn mang tính tự nhiên, chưa theo một chiến lược với những bước đi phù hợp với chiến lược phát triển chung của đất nước . Trước tình hình đó và để thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX nhằm phát huy những thế mạnh , tiềm năng của các DNVVN , thực hiện CNH ,HĐH đất nước ,việc cụ thể hoá những chính sách hỗ trợ nhằm khuyến khích đầu tư phát triển những DNVVN ngày càng trở thành nhu cầu cấp thiết .Để đóng góp phần nào nhỏ bé của mình vào việc tìm kiếm những giải pháp tích cực hỗ trợ phát triển các DNVVN nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển , góp phần thực hiện sự CNH,HĐH đất nước . Do vậy em đã chọn đề tài : "Phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ". I.Lý luận chung 1. Khái niệm doanh vừa và nhỏ Ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì sự thành đạt của một quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường thì doanh nhiệp quy mô vừa và nhỏ có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một định nghĩa chung, hoàn chỉnh về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để xác định chính xác loại hình doanh nghiệp này người ta thường căn cứ vào hai tiêu chí. Nhóm các tiêu chí định tính bao gồm: chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, không phức tạp. Nhóm yếu tố này phản ánh đúng bản chất vấn đề nhưng thường khó xác định bởi vậy mà nó mang tính tham khảo, kiểm chứng, ít được sử dụng trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng: Có thể bao gồm số lao đông định biên, giá trị tài sản, vốn kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận, nhóm tiêu chí này mỗi nước sử dụng hoàn toàn không giống nhau, có thể căn cứ vào cả lao động, vốn, doanh thu cũng có thể chỉ căn cứ vào số lao động hoặc vốn kinh doanh. Khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước trên thế giới : Hàn Quốc: Là một nước công nghiệp trẻ, đạt được nhiều thành công chính là nhờ sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hàn Quốc đã có những đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó xác định rõ những tiêu chuẩn để được công nhận là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những tiêu chuẩn đó còn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động cụ thể như sau. Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác, xây dựng: doanh nghiệp có dưới 300 lao động thường xuyên và tổng vốn đầu tư dưới 600.000 USD được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ. Trong lĩnh vực thương mại: doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên và doanh thu dưới 500.000 USD/năm (nếu là bán lẻ) và dưới 250.000 USD/ năm (nếu là bán buôn) được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 5 lao động thưòng xuyên được coi là doanh nghiệp nhỏ. các tiêu thức này được xác định từ những năm 70, đến nay tiêu thức về lao động đã thay đổi từ 2 đến 3 lần và vốn đã tăng hàng chục lần). Nhật Bản: là một nước đã tạo nên huyền thoại “thần kỳ” trong phát triển kinh tế vào những năm của thập kỷ 50 đến thập kỷ 70. Từ những năm 60, Nhật Bản có đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau: Đối với doanh nghiệp sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động và một khoản tư bản hoá (vốn đầu tư) dưới 100 triệu Yên (tương đương với 1. 000. 000 USD) được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này, doanh nghiệp nào có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ. Đối với doanh nghiệp bán buôn: doanh nghiệp có dưới 100 lao động hoặc có một khoản tư bản hoá dưới 30 triệu Yên (tương đương 100.000 USD) được coi là doanh nghiệp nhỏ. Đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 50 lao động hoặc một khoản tư bản hoá dưới 10 triệu yên (tương đương 100. 000 USD) được coi là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong số này, doanh nghiệp nào có dưới 5 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ (những tiêu thức này nay được xác định từ những năm 60, hiên nay vốn đã tăng lên hàng chục lần) Trong khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhật Bản chỉ quan tâm đến hai tiêu thức là vốn và lao động. Đối với tiêu thức lao động của loại hình doanh nghiệp nhỏ, Nhật Bản quan niệm gần giống với Hàn Quốc, rất thấp so với khu vực châu á. Phải chăng các nước có tiềm lực kinh tế mạnh, nguồn nhân lực có hạn, họ quan tâm đến tiêu thức vốn đầu tư nhiều hơn. Thái Lan: là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, họ quan niệm doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 200 lao động, doanh nghiệp nhỏ có dưới 50 lao động. Như vậy Thái Lan chỉ quan tâm đến tiêu thức lao động và cũng không tính đến tính chất đặc thù của nghành kinh tế (tiêu thức này gần giống với Việt Nam). Các nước khác như Phi-lip-pin lại lấy tiêu thức chủ yếu là lao động và giá trị tài sản cố định; In-đô-nê-xi-a lấy tiêu thức vốn bình quân cho một lao động; Trung quốc lại lấy tiêu thức sản lượng đầu tư. Mỹ lấy tiêu thức lao động, trị số hàng hoá bán ra (doanh thu tiêu thụ) đối với doanh nghiệp bán buôn, dịch vụ, đối với doanh nghiệp sản xuất thì có tính đến yếu tố ngành sản xuất. Ở nước ta, trước đây do chưa có tiêu chí chung thống nhất xác định DNVVN nên một số cơ quan nhà nước, tổ chức hổ trợ DNVVN đã đưa ra tiêu thức riêng để xác định DNVVN phục vụ công tác của mình. Theo Công văn số 681/CP-KNT nêu trên, các doanh nghiệp có vốn điều lệ DNV&Nưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 ngưòi là các DNV&N. Tuy nhiên, các tiêu chí xác định trong cộng văn 681/CP-KTN chỉ là quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hổ trợ DNVVN , là cơ sở để các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính thức của nhà nước thực thi chính sách đối với khu vực DNV&N. Việc các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính không có chức năng thực thi các các chính sách Nhà nước đối với DNVVN áp dụng các tiêu chí khác nhau là được, vì các cơ quan đó có mục tiêu, đối tượng hổ trợ khác nhau. Việc đưa ra các tiêu thức xác định DNVVN mới chỉ có tính ước lệ, bản thân các tiêu chí đó chưa đủ xác định thế nào là khu vưc DNVVN ở Việt Nam, bởi vì có rất nhiếu các quan điểm khác nhau về việc các đối tượng, các chủ thể kinh doanh được coi là thuộc về hoặc không thuộc về khu vực DNV&N. Vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng cần quy định rõ DNVVN ở Việt Nam là cơ sở sản xuất có đăng ký, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn và/ hoặc lao động thoả mãn qui định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế. Một số tiêu chí xác định DN vừa và nhỏ đã được áp dụng ở Việt Nam Cơ quan, tổ chức đưa ra tiêu chí Vốn Doanh thu Lao động Ngân Hàng công Thương Việt Nam Vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng dưới 20 tỷ đồng/tháng Dưới 500 ngưòi Liên Bộ Lao Động & Tài chính Vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng dưới 1 tỷ đồng/năm dưới 100 người Dự án VIE/US/95 (Hỗ trợ DNVVN ở Viêt Nam của UNIDU) + Doanh nghiệp nhỏ + Doanh nghiệp vừa Vốn đăng ký dưới 0,1 triệu USD Vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD dưới 30 người Từ 30 dến 500 người Quỹ hỗ trợ DNVVN (Chương trình Việt Nam- EU) Vốn điều lệ từ 50.000 đến 300.000 Từ 10 đến 500 người Nguồn: Bộ kế hoạch & Đầu Tư 2.Vai trò và tác động kinh tế xẫ hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ Mặc dù có những thế bất lợi nhất định nhưng doang nghiệp vừa và nhỏ với những tính chất, đặc điểm và lợi thế của nó, nên các doanh nghiệp này có vị trí và vai trò tác động kinh tế-xã hội rất lớn. Thứ nhất, các DNVVN có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng gia tăng mạnh. ở hầu hết các nước doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng trên dưới 90 % tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, chưa có số liệu thống kê về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách chính thức, nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam cũng chiếm khoảng 80-90% tổng số các doanh nghiệp. Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền kinh tế. chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước, Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý TW, thì hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếp khoảng 24% GDP. Thứ ba, tác động lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải quyết một số lượng lớn chổ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc làm cho người lao động, thì khu vực này vượt trội hẳn so với khu vực khác, góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc, ở hầu hết các nước doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng từ 50- 80% lao động trong các nghành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu vực doanh nghiệp lớn. ở Việt Nam cũng theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế TW, thì số lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người, chiếm tới 72,9% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước. Thứ tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường, do lợi thế quy mô vừa và nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp được với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Thứ năm, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được khá nhiều vốn ở trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào dân cư và yêu cầu về số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ cố tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành các khu vực để thực hiện có kết quả vấn đề huy động vốn của dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Thứ sáu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn đã thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại- dịch vụ phát triển. Sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng góp phần làm tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp phần đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp. Thứ bảy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần vào đô thị hoá phi tập trung và thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương”. Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sẻ thu hút những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất-kinh doanh, rút dần lao động làm nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, nhưng vẫn sống tại quê hương bản quán,không phải di chuyển đi xa, thực hiên phương châm “ly nông bất ly hương”. Đồng hành với nó là hình thành những khu vực khá tập trung các cơ sở công nghiêp và dịch vụ ngay tại nông thôn, tiến dần lên hình thành nhứng thị tứ, thị trấn, là hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, là quá trình đô thị hoá phi tập trung. Thứ tám, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi ươm mầm các tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trưởng thành nên những nhà doanh nghiệp lớn tài ba, biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh sẻ được ươm mầm từ đây. 3. Lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.1 Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ: - Chúng gắn liền với công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ truyền thống và công nghệ hiên đại. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do, sánh tạo trong kinh doanh. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dể dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất đầu tư trên lao động thấp nhiều so với doanh nghiệp lớn, vì vậy nó có hiệu suất tạo việc làm cao. - Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp. - Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ- thợ) trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá chặt chẻ. - Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh hưởng rất ít hoặc không gây khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng dây chuyền. 3.2 Những bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ: Bên cạnh những lợi thế kể trên doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những bất lợi so với doanh nghiệp có quy mô lớn. - Thông thường các doanh nghiêp vừa và nhỏ thường có nguồn tài chính hạn chế. Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ yếu kém, lạc hậu. Khả năng đổi mới công nghệ hay áp dụng những tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất là hạn chế. - Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các doanh nghiệp vừa và nhỏ bị hạn chế rất nhiều. - Trình độ quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn bị hạn chế. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng suất lao động và sức cạnh tranh kinh tế thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn. 4. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của các DNV&N. 4.1.Đầu tư phát triển DNVVN chính là để huy động mọi nguồn vốn, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần thực hiện chiến lược CNH-HĐH đất nước. Nước ta là nước đang phát triển, chúng ta đang cần nhiều vốn để đầu tư,nhà nước chỉ có khả năng dùng ngân sách để đầu tư vào cơ sở hạ tầng là chính.Các ngành sản xuất cần được đầu tư từ các nguồn khác ,phát triển DNVVN chính là cách huy động thêm các nguồn vốn đầu tư của nhân dân để phát triển kinh tế.Nước ta lại đang rất thừa lao động mà DNVVN lại rất có ưu thế trong việc tạo việc làm vì :vốn đầu tư cho mỗi chỗ làm thấp hơn ,tạo ra việc làm mới nhanh chóng hơn so với doanh nghiệp lớn,tổng vốn đầu tư không quá lớn nên tính khả thi cao,có thể phát triển ở mọi nơi để thu hút lao động,yêu cầu về tay nghề trình độ lao động không cao.Do đó, phát triển DNVVN là rất thích hợp với hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay. Đầu tư phát triển DNVVN chính là cách để thực hiện CNH-HĐH nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ được phát triển ở vùng nông thôn, chuyển dần lao động sản xuất nông nghiệp sang các ngành công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ được phát triển ở vùng nông thôn tránh gây sứ ép về lao động , việc làm và các vấn đề xã hội do tình trạng di cư vào các thành phố và trung tâm tạo nên. 4.2.Đầu tư phát triển DNVVN tạo ra sự năng động ,linh hoạt cho toàn bộ nền kinh tế, trong việc thích nghi với những thay đổi của thị trường trong nước và quốc tế. Các DNVVN có ưu thế là năng động, dễ thay đổi cơ cấu sản xuất , thích ứng nhanh với tình hình, đó là những yếu tố rất quan trọng trong kinh tế thị trường để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tính hiệu quả của sản xuất kinh doanh.Đầu tư phát triển DNVVN còn đẩy nhanh quá trình hoà nhập của nước ta với các nước trong khu vực và trên thế giới. 4.3.Đầu tư phát triển DNVVN là nhằm đảm bảo sự cạnh tranh trong nền kinh tế. Cạnh tranh là sức sống là động lực và là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường so với cơ chế kế hoạch hoá tập trung.Để cạnh tranh thì trên thị trường phải có nhiều chủ thể tham gia ,trong nền kinh tế thị trường tự do , các doanh nghiệp, tập đoàn lớn luôn có xu hướng bành trướng, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ.Để tránh bị thôn tính trong điều kiện như vậy, các DNVVN cũng có xu thế liên kết lại để trở thành các doanh nghiệp lớn hơn nhằm cạnh tranh trên thị trường. Kết quả là nền kinh tế chiếm đa số những chủ thể độc quyền do đó hoạt động kém hiệu quả và người tiêu dùng bị thiệt hại.Phát triển DNVVN chính là để duy trì sự cạnh tranh cần thiết trong nền kinh tế thị trường, tránh những méo mó do độc quyền gây ra, duy trì được tính năng động và linh hoạt của các chủ thể trong một môi trường kinh doanh mà tính năng động và linh hoạt có vai trò quyết định cho sự sống còn của một doanh nghiệp. DNVVN thường yếu kém về nhiều mặt nên nếu không có sự đầu tư hỗ trợ thì chúng khó có thể tồn tại và phát triển được ,gây khó khăn cho phát triển kinh tế.Sự hỗ trợ của nhà nước đối với DNVVN chính là để đảm bảo sự bình đẳng trong hoạt động kinh tế chống lại sự bành trướng ,độc quyền trong kinh doanh của các công ty, nhằm đẩy các DNVVN vào tình trạng phá sản do mất thị trường. Như vậy, đầu tư và phát triển DNVVN chính là để duy trì sự cạnh tranh trong nền kinh tế, tức là duy trì động lực cho kinh tế thị trường phát triển. Những lý do chủ yếu trên đã chứng tỏ sự cần thiết phải đầu tư phát triển DNVVN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. II. Thực trạng và giải pháp phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. 1. Thực trạng của các DNVVN ở nước ta 1.1 Đánh giá khái quát Mức độ quốc tế hóa của nền kinh tế Việt Nam đã tăng mạnh từ khi thực hiện cải cách kinh tế vào cuối thập niên 80. Quá trình này đã tăng tốc kể từ giữa thập niên 90 với việc bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ (từ đó dẫn đến việc ký kết hiệp định thương mại song phương vào năm 2001), gia nhập ASEAN, tiếp nhận vốn FDI với lượng lớn, gia tăng nhanh chóng thương mại quốc tế và đàm phán gia nhập WTO. Các đối tượng chính trong quá trình quốc tế hóa này là các doanh nghiệp lớn: vào đầu thập niên 90, các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) chiếm tỷ trọng rất lớn trong nền kinh tế, nhưng tỷ trọng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (DNĐTNN) và doanh nghiệp tư nhân (DNTN) cũng dần dần tăng lên. Ví dụ, tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các DNĐTNN gần đây đã vượt trên 50%. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) cũng nắm giữ vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của đất nước. a. Về số lượng Theo thống kê của Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư hiện nay ở nước ta , DNVVN chiếm trên 95% trong tổng số 349.309 DN trong cả nước vốn đăng kí 1.339.000 tỷ đồng tương đương 84 tỷ USD. Đến cuối năm 2006 cả nước có khoảng 160.000 DNVVN, đóng góp 40% GDP, tạo trên 12 triệu việc làm cho xã hội. Riêng địa bàn khu vực thành phố Hà Nội có tới trên 61.400 DN đang hoạt động , trong đó có khoảng trên 58.000 DNVVN. Việc thành lập mới các DN đang diễn ra với tốc độ rất nhanh. Sản phẩm của khu vực kinh tế tư nhân (hầu hết là DNVVN ) khoảng 25-28% GDP .Nộp ngân sách , chỉ tính riêng khoản thu thuế công,thương nghiệp ngoài quốc doanh hàng năm bằng 30% thu thuế từ kinh tế quốc doanh (khoảng 8000 tỷ đồng năm 2001). DNVVN chiếm khoảng 31% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp hằng năm .Chiếm 78% tổng mức bán lẻ của ngành thương nghiệp và 64% tổng lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá.Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế , tăng hiệu quả kinh tế ,tăng tốc độ ápdụng công nghệ mới trong sản xuất. Bảng 4: Số DN đang hoạt động tại thời điểm 31/12 hàng năm phân theo loại hình DN Năm 02 03 04 05 06 Tổng số 62908 72012 91756 112950 131319 DN Nhà nước 5363 4845 4597 4086 3706 Ngoài Nhà nước 55237 64526 84003 105167 123392 DN có vốn đầu tư nước ngoài 1525 2308 2641 3156 4220 Qua bảng số liệu ta thấy khu vực DN ngoài Nhà Nước chiếm trên 90% trong tổng số DN đang hoạt động, mà trong đó chủ yếu là DNVVN. Số DN ngoài Nhà Nước tăng nhanh trong thời gian từ năm 2002 dến 2006 , tăng từ 55237 lên tới 123392 DN, tăng gấp 2,23 lần. Đặc biệt từ năm 2005 đến 2006 số DN tăng từ 105167 Dn lên 123392 DN tức là tăng 1,7 lần so với năm 2005. b.Về quy mô - Thứ nhất chúng ta đi xem xét qui mô vốn của các DN Việt Nam, tính đến thời điểm năm 2006, số DN có vốn dưới 1 tỷ chiếm 29%, dưới 5 tỷ chiếm 49%,và chỉ có 13% DN có vốn trên 10 tỷ, vì vậy có thể nhận thấy qui mô vốn của các DN Việt Nam là rất nhỏ. Mặc dù DNVVN có đặc điểm là chỉ cần ít vốn, chi phí quản lý và đào tạo là không nhiều. Đặc biệt DN có quy mô nhỏ rất nhạy cảm với những biến động trên thị trường. Tuy nhiên , DNVVN cũng có nhiều hạn chế đó là vốn tự có ít , uy tín chưa cao vì vậy đây là nguyên nhân chính khiến ngân hàng e ngại khi cho vay vốn. Thời gian gần đây nhiều ngân hàng đã có động thái quan tâm, dành ưu đãi về vốn vay, mặc dù vậy khó khăn vãn còn nhiều đối với các DN do nếu ngân hàng có cho vay thì cũng đòi hỏi thế chấp chặt chẽ mà hầu hết các DN này khó mà có thể đáp ứng được. Theo kết quả của một cuộc nghiên cứu thì có tới 56,8% DN rất khó tiếp cận nguồn vốn, 27,78% DN khó tiếp cận nguồn vốn và chỉ có 15,28% DN dễ tiếp cận khi vay vốn tại các ngân hàng. Như vậy có tới 84,72% DN cho biết họ gặp khó khăn khi vay vốn thậm chí là không thể vay được. Bức tranh đó cho thấy rằng các DN VN không những có qu mô nhỏ bé về nguồn vốn mà họ còn gặp khó khăn , bất cập trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng. - Thêm một yếu tố dánh giá qui mô của DN là về số lượng lao động trong DN. . Hiện nay ở nước ta các DNVVN tuyển dụng gần 1 triệu lao động, chiếm gần một nửa (49%) lực lượng lao động trong tất cả các loại hình doanh nghiệp .Các DNVVN chiếm 65,9% so với tổng số doanh nghiệp nhà nước, chiếm 33,6% so với doanh nghiệp có vốn đầu tư ở nước ngoài .Theo quốc tế thì một DN được coi là DNVVN là có dưới 50 lao động. Cũng theo điều tra năm 2006 thì số DN có dưới 5 lao động chiếm 13%, số DN có dưới 10 lao động chiếm tới 44%, và chỉ có 13% Dn có từ 50 lao động trở nên. Có thể nhận xét 1 điều rằng qui mô của các Dn không phải là vừa hay nhỏ mà là rất nhỏ, chỉ tương đương với một hộ cá thể kinh doanh mà thôi. Từ bảng 3 các chỉ tiêu phản ánh qui mô và hiệu quả của DN ta nhận thấy qui mô vốn, lao động, tổng tài sản bình quân phân theo khu vực trong cả nước là rất nhỏ. Nguồn vốn bình quân hầu hết là rất thấp dưới 20, chỉ có 2 khu vực là DB sông Hồng (21) và khu vực Đông Nam Bộ (25). Bên cạnh đó chúng ta xét tới tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu để thấy được sự đóng góp của các DN vào ngân sách nhà nước và phản ánh phần nào hiệu quả hoạt đông kinh doanh của các DN. Dễ thấy tỷ lệ này nói chung là không cao trong cả nước trừ khu vực Đông Nam Bộ là có tỷ lệ đóng góp cao nhất chiếm 9.736 doanh thu của DN. Bảng 3: Một số chỉ tiêu phán ánh qui mô và hiệu quả hoạt động của DN năm 2006 Khu vực Số LĐ BQ 1 DN Nguồn vốn bq 1 DN TSCĐ và đầu t ư dài hạn bq 1 LĐ Doanh thu thuần bq1 LĐ Tỷ lệ nộp ngân sách so với doanh thu DB Sông Hồng 48 21 149 403 5.92 Đông Bắc 55 11 93 290 4.57 Tây Bắc 40 7 86 143 3.46 Duyên hải miền trung 45 9 93 273 4.97 Bắc trung Bộ 34 9 132 237 4.97 Tây Nguyên 43 13 139 357 3.12 Đông Nam Bộ 56 25 187 447 9.736 ĐBSCL 30 7 79 490 4.1 Không phân vùng 2585 6116 1178 540 4.59 Tổng số 51 26 216 409 7 c. Trình độ quản lý và công nghệ - Về chất lượng nhân lực trong các DN, theo kết quả diều tra của bộ LĐXH thì tỷ lệ lao động đã qua đào tạo hiện nay là 30% ,trong đó những người thực sự có tay nghề (lao động kỹ thuật ) chiếm 15%, do vậy hầu hết các DN đều phải tiến hành hoạt động đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho DN mình. -Về trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ QTDN, theo kết quả điều tra 6000 DN năm 2005 có 43% chủ DN có trình độ từ sơ cấp trở xuống;12% chủ DN có trình độ trung cấp. Bộ máy quản trị phân tán ,không đồng bộ ,mất cân đối trong DN. Hoạt động của bộ máy quản trị gần như theo nguyên tắc của cơ quan hành chính , có bộ phân nhỏ nằm giữ quyền lực lớn. Cũng theo kết quả điều tra các DN được khảo sát tự đánh giá bình quân ở mức 3.8/5 tức là tương đương 76% so với điểm tối đa về năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý DN.Đôi với nguồn nhân lực khác như (nhân viên, công nhân) thì độ còn thấp hơn , chỉ đạt 3.33/5 tương đương 66.6% mức điểm tối đa. Mặc dù những con số đó không hẳn là quá thấp, nhưng nhiều giám đốc DN cho DN: thách thức về nguồn nhân lực thực sự là một vấn đề lớn, xét cả hiện tại và trong tương lai gần. Nhiều DNVVN không được đội ngũ cán bộ quản lý có năng lực bà được đào tạo bài bản, thiếu công nhân lành nghề cả về số lượng và chất lượng. - Về công nghệ, máy móc, thiết bị, cũng qua cuộc điều tra cho thấy rõ sự hạn chế về công nghệ của các DNVVN với mức điểm bình quân là 3.29/5 tương đương 65,8% so với mức điểm tối đa, tức là còn thấp hơn chỉ số về nguồn nhân lực của DN. Do hạn chế về nguồn vốn đầu tư và năng lực quản lý công nghệ nên nhiều DNVVN vẫn duy trì hệ thống công nghệ, máy móc thiết bị khá lạc hậu. Chỉ có 40,58% DN được khảo sát tự tin năng lực công nghệ, thiết bị của họ ,trong đó chỉ có 14.49% cho rằng họ có khả năng cạnh tranh rất tốt về công nghệ, thiết bị. Sự hạn chế về công nghệ của các DNVVN không những biểu hiện qua mức độ lạc hậu của máy móc ,thiết bị mà còn ở sự yếu về tư duy ,năng lực quản lý công nghệ và khả năng của con người trong việc làm chủ công nghệ hiện đại do thiếu đại do thiếu nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao. 1.2 Đánh giá các mặt quản trị - Ta xem xét đánh giá một số nội dung quản trị trong các DN , trước tiên là về quản trị chiến lược và chiến lược kinh doanh trong doanh nghiệp. Cũng như tất cả các DN khác, DNVVN đều không có chiến lược kinh doanh , hơn thế nữa một phần do qui mô của các DN này khá nhỏ, một phần do các DN chưa nhận thức được tầm quan trọng và việc hoạch định của chiến lược kinh doanh. - Về quản trị Marketing: hầu hết các DN đều không có chiến lược Marketing, không tiến hành định vị sản phẩm. Mặc dù trong thời gian vừa qua các DNVVN đã có sự vươn lên đáng kể về một số mặt như xây dựng thương hiệu và uy tín của doanh nghiệp nhũng đay vẫn là mộ trong những mảng yếu của các DNVVN ở Việt Nam. Chỉ có 18,31 % DN được khảo sát trả lời có thể tự tin về khả năng cạnh tranh của DN trong việc nắm giữ thị trường, có 35,21% DN có khả năng cạnh tranh trên thị trường, có 9,86% thực sự không có khả năng chiếm lĩnh thị trường . Theo kết quả điều tra có 16% số DN là tiến hành nghiên cứu thị trường một cách thường xuyên. Các DN hiện nay chỉ dành 1% doanh thu cho hoạt động quảng cáo, 20% số DNVN không chi khoản gì cho quảng cáo. 1.3 Đánh giá hỗ trợ từ nhà nước Nghị định 90/2001/NĐ-CP về hỗ trợ phát triển DNVVN ra đời, khẳng định vai trò và vị tri quan trọng của các DNVVN trong nền kinh tế quốc dân. Theo Nghị định này, các đơn vị kinh doanh trong nước có ĐKKD, không tính dến sở hữu Nhà nước hay tư nhân có vốn đăng kí dưới 10 tỷ đồng và số lao động thường xuyên không quá 300 người sẽ được hưởng những chính sách hỗ trợ vê chi phisddaof tạo, tư vấn , tài chính, tín dụng, đất đai… Khi ta xem xét các chính sách về gia nhập thi trường, trong đó đặc biệt là khâu thành lập DN và ĐKKD của Chính phủ đã tạo ra bước đột phá cho sự phát triển của DNVVN. Chính sách này đã tạo ra một sân chơi bình đẳng , không phân biệt đối xử với mọi loại hình doanh nghiệp. Do vậy rất nhiều DN có qui mô nhỏ và vừa đã ra đời.Công cuộc cải cách hành chính và nâng cao năng lực của bộ máy hành chính nhà nước được cải thiện một bước khá rõ rệt. Việc xóa bỏ các thủ tục không cần thiết và một loạt giấy phép con đó đã mở rộng của thị trường cho các DNVVN. Cùng với việc cải cách hành chính, Chính phủ còn thực hiện cải cách về đất đai trên nhiều địa phương. Xây dựng nhiều khu công nghiệp nhỏ và vừa tại nhiều địa phương cũng góp phần tạo điều kiện cho các DN mọc lên. Song song với đó là việc miễn giảm tiền thuê đất,tiền sử dụng cho các nhà đầu tư. Mặc dù việc các doanh nghiệp lớn nhận được sự hỗ trợ của nhà nước là rất rõ ràng nhưng sự quan tâm ấy đang được dành rất lớn cho các doanh nghiệp nhỏ . Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nhấn mạnh phải tập trng tìm mọi biện pháp tháo gỡ những khó khăn , vướng mắc về vốn cho sản xuất , kinh doanh, trong đó chú trọng hỗ trợ cho các DN vừa và nhỏ thông qua cơ chế thuế, lãi suất cho vay. Nhà nước đã đẩy nhanh tiến độ việc thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Đây là một việc làm hết sức cần thiết cho các DNVVN trong việc giải quyết vấn đề về vốn. Một quan điểm chung là các doanh nghiệp nhỏ cần phải hỗ trợ lẫn nhau nhưng trên thực tế lại không như vậy trong khi số lượng các doanh nghiệp lại rất lớn. Vậy vấn đề cần đặt ra là Chính Phủ phải tổ chức các hoạt động chung. Tuy nhiên vấn đề quan trọng hơn là lợi ích thực sự cho các doanh nghiệp. Nhưng bên cạnh đó tình trạng độc quyền trong nền kinh tế đã mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp lớn và các quan chức chính phủ. Đây là lý do kìm hãm sự phát triển của khu vực DNVVN. Vấn đề là có quá nhiều các quy định và việc đánh thuế quá nặng, quyền lực quá tập trung vào các cán bộ nhà nước trong khi người dân được hưởng quá ít quyền lợi. Tự do cạnh tranh sẽ khiến giá cả hàng hoá và việc thuê đất độc quyền giảm. Thêm nữa nạn tham nhũng cũng giảm do các doanh nghiệp không còn phải chịu mức thuế cao. Thúc đẩy khu vực doanh nghiệp nhỏ là biện pháp hữu hiệu kiểm soát nạn tham nhũng. Trên thực tế mặc dù Luật DN đã thông thoáng và được thực hiện một cách tích cực ở nhiều địa phương , nhưng sự mâu thuẫn giữa luật với các quyết định thông tư vẫn xảy ra rất nhiêu. Chính điều này làm cho các DN gặp khó khăn khi không biết phải làm theo thế nào. Mặc dù đã được cai cách nhưng thủ tực ĐKKD ở Việt Nam so vói các nước vãn chậm hơn rất nhiều. Để hoàn thành các thủ tục từ ĐKKD, bố cáo thành lập Dn, xin cấp mã số thuế, hóa đơn thuế, xin cấp mã số hải quan, xin con dấu…đến khi mở xong tài khoản ngân hàng trung bình phải mất 11 ngày. Do đó đây cũng là một điểm yếu của chính sách Nhà nước, do vậy trong thời gian tới Chính phủ và quốc hội nhanh chóng xem xét và cải tiến một cách hợp lý để sao ch._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22385.doc
Tài liệu liên quan