Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa & nhỏ trên địa bàn TP. Thái Nguyên - Thực trạng & Một số giải pháp

Lời cảm ơn ! Tôi xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn - Tiến sĩ Trần Việt Lâm, chú Nguyễn Như Khanh - Trưởng phòng Công nghiệp Thành phố Thái Nguyên, các cô chú, anh chị trong phòng Công nghiệp Thành phố Thái Nguyên cùng bạn bè đã nhiệt tình hướng dẫn, động viên và giúp đỡ tôi hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này. Tôi rất mong nhận được sự góp ý chân thành để được hoàn thiện hơn! Mục lục Trang Lời cảm ơn 1 Mục lục 2 Lời nói đầu 5 Chương I: Lý luận cơ bản về DNV&N 7 I. Khái

doc79 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1285 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa & nhỏ trên địa bàn TP. Thái Nguyên - Thực trạng & Một số giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quát về DNV&N 7 1. Khái niệm doanh nghiệp 7 2. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của DNV&N 7 3. Tiêu thức xác định DNV&N 9 3.1. Tiêu thức xác định 9 3.2. Các yếu tố tác động đến phân loại DNV&N 10 3.3. Tiêu thức xác định DNV&N theo quan điểm của một số nước trên thế giới 13 3.4. Khái niệm DNV&N ở Việt Nam 15 II. Vai trò của DNV&N trong phát triển kinh tế - xã hội 16 III. Các lợi thế và bất lợi của DNV&N 19 1. Một số lợi thế 19 2. Một số bất lợi 21 IV. Những nhân tố tác động đến sự phát triển DNV&N 21 1. Nhóm nhân tố vi mô 22 1.1. Thị trường 22 1.2. Vốn 23 1.3. Trình độ trang thiết bị – công nghệ của doanh nghiệp 23 1.4. Nhân tố nhà xưởng, mặt bằng sản xuất kinh doanh và kết cấu hạ tầng kỹ thuật khác của DNV&N 24 1.5. Kiến thức, trình độ quản lý kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, tri thức và trình độ tay nghề của lực lượng lao động 24 1.6. Khả năng tiếp cận hệ thống thông tin 25 2. Nhóm nhân tố vĩ mô 25 2.1. Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước 25 2.2. Hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của nhà nước và các thiết chế cộng đồng xã hội nông thôn 26 2.3. Hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ của nhà nước 27 Chương II: Thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 29 I. Khái quát chung về đặc điểm kinh tế – xã hội của thành phố Thái Nguyên 29 1. Điều kiện tự nhiên 29 2. Điều kiện kinh tế – xã hội 30 II. Quá trình hình thành và phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 33 1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (ngày 21/12/1990) 33 2. Giai đoạn sau khi có Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty (1990) 34 III. Giới thiệu những nét cơ bản về tình hình phát triển công nghiệp trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 36 1. Phát triển các doanh nghiệp 36 2. Tình hình phát triển một số nhóm ngành công nghiệp chủ yếu 40 2.1. Nhóm ngành nghề luyện kim, cơ khí 40 2.2. Nhóm ngành nghề sản xuất vật liệu xây dựng 41 2.3. Nhóm ngành chế biến nông lâm sản 43 IV. Thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên 44 1. Sự phân bố theo ngành nghề và địa bàn lãnh thổ 44 2. Thực trạng về vốn 46 3. Quy mô lao động và trình độ lao động 48 4. Tình hình công nghệ 49 5. Thực trạng về mặt bằng sản xuất kinh doanh 50 6. Quy mô sản xuất 50 7. Chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh 51 8. Hiệu quả sản xuất kinh doanh 52 V. Đánh giá chung về thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên 54 1. Những thành tích đạt được 54 2. Một số tồn tại cần khắc phục 56 Chương III: Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên 59 I. Một số quan điểm định hướng 59 II. Một số giải pháp chính nhằm phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên 65 1. Hệ thống các giải pháp liên quan đến nhóm các nhân tố bên trong tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp 65 1.1. Nâng cao năng lực tài chính 65 1.2. Tích cực đầu tư đổi mới công nghệ 67 1.3. Xúc tiến mở rộng thị trường 68 1.4. Nâng cao trình độ đội ngũ lao động 69 2. Hệ thống các giải pháp liên quan tới các nhân tố bên ngoài tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp 71 2.1. Đẩy mạnh cải cách hành chính 72 2.2. Tiến hành quy hoạch các khu công nghiệp tập trung 72 2..3. Hỗ trợ về vốn 73 2.4. Đổi mới chính sách thuế 74 2.5. Hỗ trợ kinh phí cho việc đào tạo đội ngũ lao động 75 2.6. Thành lập các tổ chức phi Chính phủ để hỗ trợ các DNV&N 76 Kết luận 78 Danh mục tài liệu tham khảo 79 Lời nói đầu Hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến to lớn, sức sản xuất được giải phóng, nhiều tiềm năng được khơi dậy, hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển mạnh với số lượng các doanh nghiệp trong cả nước tăng lên nhanh chóng, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N ). Loại hình doanh nghiệp này đang chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp và có vai trò đặc biệt quan trọng trong phát triển kinh tế- xã hội. Cùng với các DNV&N trong lĩnh vực nông nghiệp và dịch vụ, doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ là một trong những nhân tố đảm bảo sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, tạo việc làm và thu nhập cho người lao động , khai thác và tận dụng có hiệu quả tiền năng về vốn, tay nghề và những nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư, góp phần phân bố công nghiệp trên các địa bàn khác nhau, giữ vai trò bổ sung cho công nghiệp lớn, cân bằng những vấn đề kinh tế- xã hội; bảo tồn các làng nghề truyền thống, thể hiện bản sắc văn hoá dân tộc. Đặc biệt, trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đang trong quá trình tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước thì sự phát triển của các DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy vậy, các doanh nghiệp này hiện dạng gặp rất nhiều khó khăn cả từ bên trong( như năng lực quản lý kinh doanh còn hạn chế, công nghệ lạc hậu, chất lượng sản phẩm thấp ) và từ môi trường kinh doanh bên ngoài. Để có thể tồn tại , phát triển và tiến hành họat động kinh doanh có hiệu quả, đóng góp nhiều hơn nữa vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, các doanh nghiệp này rất cần có sự quan tâm giúp đỡ, hỗ trợ của toàn xã hội. Nhận thức được vấn đề, qua thời gian thực tập tại phòng Công nghiệp Thành phố Thái Nguyên, được tận mắt thấy những khó khăn, vướng mắc trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở địa bàn này. Vận dụng những kiến thức đã được trang bị cộng với sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: "Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên - Thực trạng và một số giải pháp" để viết luận văn tốt nghiệp , với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nhìn nhận thực trạng các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên và đưa ra một số ý kiến nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này phát triển. Kết cấu luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận gồm có ba chương: Chương I: Lý luận cơ bản về DNV&N. Chương II: Thực trạng phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên Chương III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên. Do hầu hết các DNV&N trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên đều thuộc khu vực ngoài quốc doanh, vì vậy đối tượng nghiên cứu trong bài viết này chỉ bao gồm các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh do Thành phố Thái Nguyên quản lý. Đây là một đề tài còn mới mẻ, phong phú và rất phức tạp. Do đó dù đã có rất nhiều nỗ lực, cố gắng nhưng chắc chắn trong luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô và bạn bè. Chương I Lý luận cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ I. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ ( DNV&N ) 1. Khái niệm về doanh nghiệp Để nhận diện DNV&N một cách có cơ sở khoa học chúng ta đi từ việc xác định doanh nghiệp nói chung. Có khá nhiều định nghĩa doanh nghiệp ở hình thức này hay hình thức khác. Theo Viện thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp- INSEE " Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế mà chức năng chính là sản xuất ra các của cải vật chất hoặc dịch vụ để bán " Luật công ty nước ta xác định : " Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh được thành lập nhằm mục đích chủ yếu là thực hiện các hoạt động kinh doanh", bao gồm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, công ty. Theo luật doanh nghiệp mới ban hành: " Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo qui định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh" Doanh nghiệp phân theo cấp quản lý có doanh nghiệp Trung ương, doanh nghiệp địa phương; theo ngành kinh tế kĩ thuật có doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp thương mại- dịch vụ, doanh nghiệp nông nghiệp. Cuối cùng nếu phân theo qui mô sản xuất kinh doanh thì có doanh nghiệp qui mô lớn, doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ. 2. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNV&N) Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Giai đoạn tiền sử ( C. Mác gọi là sản xuất hàng hoá giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ. Người sản xuất hàng hoá là người sở hữu các tư liệu sản xuất, vừa là người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của mình (của gia đình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình ra trao đổi trên thị trường. Đó là loại doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp gia đình, còn gọi là doanh nghiệp cực nhỏ. Trong thời kì hiện đại, thông thường đại đa số những người khi mới trưởng thành để làm việc được, đều muốn thử sức mình trong nghề kinh doanh. Với số vốn ít trong tay, với một trình độ tri thức nhất định lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, bắt đầu khởi nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, tự sản xuất- kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh có một số người gặp vận may và đặc biệt là nhờ tài ba, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kĩ thuật, khéo điều hành và tổ chức xắp xếp công việc, cần cù, chịu khó, tiết kiệm...đã thành đạt, ngày càng giàu lên, tích luỹ được nhiều của cải, tiền vốn thường xuyên mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, đến một giai đoạn nào đó lực lượng lao động của gia đình không đảm đương hết công việc cần phải thuê người làm và trở thành ông chủ. Ngược lại, một bộ phận lớn người sản xuất hàng hoá khác, hoặc do không gặp vận may, hoặc do kém cỏi không biết chớp thời cơ, không biết sáng kiến cải tiến kĩ thuật hoặc thiếu cần cù chịu khó... đã dẫn đến thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu sản xuất đi làm thuê cho người khác. Những giai đoạn đầu các ông chủ và những người thợ cùng trực tiếp lao động với nhau và người thợ làm thuê thường là bà con họ hàng và láng giềng của ông chủ, về sau mở rộng ra đến những người ở xa đến. Các nhà nghiên cứu thường xếp những loại doanh nghiệp này vào phạm trù doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong quá trình sản xuất kinh doanh, một số người thành đạt đã phát triển doanh nghiệp của mình bằng cách mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh, và như vậy nhu cầu về vốn đòi hỏi nhiều hơn. Nhu cầu về vốn sẽ ngày càng tăng, nhằm nâng cao công suất và hiệu quả sản xuất kinh doanh đã thôi thúc các nhà doanh nghiệp hoặc là một số người góp vốn thành lập xí nghiệp liên doanh (xí nghiệp chung vốn), hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần. Bằng hình thức liên kết ngang, dọc hoặc hỗn hợp nhiều tập đoàn kinh tế, nhiều doanh nghiệp lớn hình thành và phát triển. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn, bé tạo thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua liên kết với các doanh nghiệp vừa và nhỏ khác. Qui luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu của sự phát triển bền vững mang tính phổ biến cuả đại đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hóa. Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc phục được tính đơn điệu, sơ cứng tạo nên tính đa dạng, phong phú linh hoạt vừa đáp ứng các xu hướng phát triển đi lên lẫn những biến đổi nhanh chóng cuả thị trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của toàn nền kinh tế. Để phát triển nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa không thể không có các doanh nghiệp qui mô lớn, vốn nhiều, kĩ thuật hiện đại làm nòng cốt trong từng ngành, nhằm tạo ra sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Ngoài việc xây đựng doanh nghiệp qui mô lớn cần thiết, chúng ta còn thực hiện các biện pháp tăng khả năng tích tụ và tập trung của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho chúng nhanh chóng vươn lên trở thành các doanh nghiệp lớn. Sự kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp trong từng ngành cũng như trong toàn nền kinh tế, trong đó nhấn mạnh đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp với xu thế chung và thích hợp với điều kiện phát triển kinh tế xã hội ở nước ta hiện nay. Vì vậy phát triển mạnh các doanh nghiệp vừa và nhỏ với công nghệ hiện đại thích hợp nhằm thu hút nhiều lao động là phương hướng quan trọng của quá trình phát triển kinh tế- xã hội theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá ở Việt Nam. 3. Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ 3.1. Vấn đề xác định tiêu thức Việc đưa ra khái niệm chuẩn xác về DNV&N có ý nghĩa lớn để xác định đúng đối tượng hỗ trợ. Nếu phạm vi đối tượng hỗ trợ quá rộng sẽ không đủ sức bao quát và tác dụng hỗ trợ sẽ giảm đáng kể, vì hỗ trợ tất cả có nghĩa là không hỗ trợ ai. Còn nếu phạm vi đối tượng hỗ trợ quá hẹp thì sẽ không có ý nghĩa và ít tác dụng trong nền kinh tế. Chính vì vậy, ở hầu hết các nước người ta rất chú trọng nghiện cứu tiêu thức phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên không có tiêu thức thống nhất để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ cho tất cả các nước vì điều kiện kinh tế của các nước là khác nhau và ngay trong một nước, sự phân loại cũng khác nhau tuỳ theo từng thời kì, từng ngành nghề, từng vùng lãnh thổ. Trên thực tế có hai tiêu thức phổ biến dùng để phân loại DNV&N là: tiêu thức định tính và tiêu thức định lượng. Nhóm tiêu thức định tính dựa trên những đặc trưng cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ như : Không có vị thế độc quyền, chuyên môn hoá thấp, số đầu mối quản lý ít, mức độ phức tạp của quản lý thấp.... Các ưu thế này có ưu thế là phản ánh đúng bản chất của vấn đề nhưng thường khó xác định trên thực tế . Do đó nó thường làm cơ sở để tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để phân loại trong thực tế. Nhóm tiêu chí định lượng bao gồm các tiêu chí như số lượng lao động, giá trị tài sản hay vốn, doanh thu, lợi nhuận. Trong đó : -Số lượng lao động có thể là lao động trung bình trong danh sách, lao động thường xuyên, lao động thực tế; - Tài sản hoặc vốn có thể dùng tổng giá trị tài sản ( hay vốn ), tài sản ( hay vốn ) cố định, giá trị tài sản còn lại; -Doanh thu có thể là tổng doanh thu/ năm, tổng giá trị gia tăng / năm ( hiện nay có xu hướng sử dụng chỉ số này ). Trong thực tế mỗi nước có những quan niệm khác nhau và lựa chọn tiêu thức không hoàn toàn giống nhau, tuy vậy để tiện cho việc so sánh quốc tế, một khái niệm DNV&N dựa trên tiêu thức số lượng lao động được sử dụng có thể là thích hợp nhất, bởi vì nó không dễ dàng chịu ảnh hưởng của những khác biệt giữa các quốc gia về mức thu nhập cũng như những thay đổi trong gía trị của đồng tiền nội địa hiện hành qua các thời kì các nhau. Ngoài tiêu thức lao động , tiêu thức thứ hai là tổng vốn đầu tư cũng được nhiều người quan tâm sử dụng. Thông thường đơn vị đo lường là đồng tiền nội địa nhưng để khắc phục hạn chế của nó trong việc so sánh quốc tế, người ta qui đổi ra loại tiền thông dụng được sử dụng trong giao dịch quốc tế như đô la Mỹ. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước mà người ta còn quan tâm tới độ lớn của mỗi tiêu thức lao động hoặc vốn đầu tư trong các ngành, các nhóm ngành khác nhau. 3.2. Các yếu tố tác động đến phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ Sự phân loại doanh nghiệp theo qui mô lớn, vừa, nhỏ mang tính chất tương đối cả về không gian và thời gian. Một doanh nghiệp" nhỏ" ở Mỹ, Nhật hay Đài loan chắc chắn sẽ lớn hơn một doanh nghiệp "nhỏ" ở Việt Nam. Và một doanh nghiệp nhỏ ở một nước nào đó trong hiện tại chắc chắn sẽ lớn hơn qui mô của doanh nghiệp nhỏ tại nước đó vào thời kỳ trước đó. Nguyên nhân dẫn đến những đặc tính này là do sự phân loại doanh nghiệp theo qui mô chịu tác động của nhiều yếu tố, các yếu tố chính tác động đến việc phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước có thể kể ra là: - Trình độ phát triển kinh tế của một nước Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng lên. Như vậy, ở một nước có trình độ phát triển kinh tế thấp thì các chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ thấp hơn so với các nước phát triển. Chẳng hạn ở Nhật Bản , doanh nghiệp có 300 lao động và 1 triệu USD tiền vốn là doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn ở Thái Lan với qui mô như vậy thì đó lại là doanh nghiệp lớn. - Tính chất ngành nghề Do đặc điểm của từng ngành nghề, có ngành sử dụng nhiều lao động (như dệt may ) có ngành sử dụng nhiều vốn nhưng ít lao động ( như hoá chất, điện ). Do đó, cần có các tính chất này để có sự so sánh sánh đối chứng trong phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các ngành khác nhau. Trên thực tế ở nhiều nước , người ta thường phân chia thành hai đến ba nhóm ngành với các tiêu thức phân loại khác nhau. Chẳng hạn các nghành sản xuất ( chỉ số các tiêu thức thường cao hơn ), các ngành dịch vụ ( chỉ số các tiêu thức thấp hơn ). Ngoài ra có thể dùng khái niệm hệ số ngành ( Ib ) để so sánh đối chứng giữa các ngành khác nhau. - Vùng lãnh thổ Do trình độ phát triển giữa các vùng khác nhau, nên số lượng và qui mô doanh nghiệp cũng khác nhau. Chẳng hạn một số doanh nghiệp ở thành phố được coi là nhỏ, nhưng nó lại lớn so với vùng miền núi , nông thôn. Do đó cần tính đến hệ số vùng( Ia ) để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh qui mô doanh nghiệp giữa các vùng khác nhau. - Mục đích phân loại Khái niện doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khác nhau khi mục đích phân loại khác nhau. Chẳng hạn khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích phân loại là hỗ trợ các doanh nghiệp yếu mới ra đời sẽ khác khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ với mục đích là để giảm thuế cho các doanh nghiệp có công nghệ sạch, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường. - Tính lịch sử Một doanh nghiệp trước đây được coi là lớn, nhưng với qui mô như vậy hiện tại hoặc tương lai có thể là nhỏ hoặc vừa. Chẳng hạn ở Đài loan năm 1967 trong ngành công nghiệp doanh nghiệp có qui mô dưới 130.000 USD ( 5 triệu đô la Đài loan ) là doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong khi đó năm 1989 tiêu chí này là 1,4 triệu USD ( 40 triệu đô la Đài loan ). Như vậy trong việc xác định qui mô doanh nghiệp, cần tính thêm hệ số tăng trưởng qui mô doanh nghiệp trung bình ( Id ) trong từng giai đoạn. Chỉ số này chỉ xác định qui mô doanh nghiệp cho các thời kỳ khác nhau. Như vậy để xác định qui mô doanh nghiệp vừa và nhỏ của một nước, trước hết cần xác định qui mô trung bình chung, sau đó xác định hệ số Ib, Ia, Id Có thể xác định qui mô doanh nghiệp làm căn cứ để tính số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành nghề trên địa bàn khác nhau theo công thức: Ia x Ib F (Sba) = x Sa Id Trong đó : F ( Sba): Qui mô doanh nghiệp thuộc ngành trên điạ bàn cụ thể Ia ,Ib, Id : Tương ứng là hệ số vùng, ngành và hệ số phát triển qui mô doanh nghiệp; Sa : Qui mô doanh nghiệp chung trong một nước. Vấn đề đặt ra là cần xác định qui mô chung doanh nghiệp vừa và nhỏ (Sa) và các hệ số tương ứng như thế nào để việc phân loại đáp ứng đựơc các mục tiêu đặt ra. 3.3. Tiêu thức xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo quan điểm của một số nước trên thế giới Hiện nay có rất nhiều các cách phân loại khác nhau về DNV&N. Các nước khác nhau với thực trạng kinh tế - xã hội và quan điểm khác nhau nên có cách phân loại khác nhau về DNV&N. Đài loan Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ bắt đầu được sử dụng trên vùng lãnh thổ này từ năm 1967. Ngay từ đầu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài loan được phân theo hai nhóm ngành : Nhóm ngành thứ nhất là công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và nhóm ngành thứ hai là thương mại, vận tải , và các dịch vụ khác. Từ năm 1977 Đài Loan lại tách thêm nhóm ngành thứ ba là ngành khai khoáng. Trong công nghiệp chế biến và khai thác người ta dùng tiêu chí vốn góp vào lao động; trong thương mại và dịch vụ khác dùng tiêu chí doanh thu và lao động. Hiện nay ở Đài Loan quy định: - Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, doanh nghiệp có vốn góp dưới 40 triệu đôla Đài Loan ( khoảng 1,4 triêu đô la Mỹ ) số lao động thường xuyên dưới 300 người được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, - Trong khai khoáng, doanh nghiệp có vốn dưới 40 triệu đô la Đài loan ( khoảng 1,4 triệu đô la Mỹ) lao động thường xuyên dưới 500 người được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ, - Trong thương mại, vận tải và dịch vụ, doanh nghiệp có tổng doanh thu hàng năm dưới 40 triệu đôla Đài Loan, lao động dưới 50 người được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hàn quốc Theo sắc lệnh cơ bản của Hàn Quốc về doanh nghiệp vừa và nhỏ , việc phân loại theo qui mô được thực hiện theo hai nhóm ngành: - Trong ngành chế tạo, khai thác, xây dựng, doanh nghiệp có vốn đầu tư dưới 600000 USD và số lao động thường xuyên từ 20 đến 300 người được coi là doanh nghiệp vừa, doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường xuyên được coi là doanh nghiệp nhỏ, - Trong thương mại, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có doanh thu dưới 250.000 USD/năm. Doanh nghiệp có lao động dưới 5 ngưòi đực coi là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp có từ 6 đến 20 người được coi là doanh nghiệp vừa. Philipin Trong sản suất doanh nghiệp được chia thành bốn loại: - Doanh nghiệp cực nhỏ và hộ gia đình: Có vốn dưới 1,5 triệu pesos (khoảng 72.000 đô la Mỹ ), -Doanh nghiệp nhỏ: có vốn từ 1,5 đến 15 triệu pesos ( khoảng 72.000 đến 720.000 đô la Mỹ ), -Doanh nghiệp vừa : có vốn từ 15 đến 60 triệu pesos ( khoảng 720.000 đến 2,9 triệu đô la Mỹ ), - Doanh nghiệp lớn: Có vốn trên 60 triệu pesos ( trên 2,9 triệu đô la Mỹ ). Nhật Bản Doanh nghiệp vừa và nhỏ được phân loại theo các khu vực: - Trong lĩnh vực sản xuất, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 300 lao động và 1 triệu đô la mỹ vốn đầu tư, -Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ, doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có vốn dưới 100 lao động ( đối với doanh nghiệp bán buôn ) hay 50 lao động (đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ) vốn đầu tư dưới 300.000 đô la Mỹ ( đối với doanh nghiệp bán buôn) hay 100.000 đô la ( doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ). Liên minh Châu Âu (EU) Theo qui định của liên minh Châu Âu doanh nghiệp vừa và nhỏ là doanh nghiệp có dưới 250 lao động, doanh số không quá 40.000 ECU hoặc tổng số vốn hàng năm không quá 27 triệu ECU , có cổ phần không quá 25% ở một xí nghiệp lớn. Việt nam Ngày 20/6/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định DNV&N là những doanh nghiệp có số vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và só lao động bình quân năm dưới 200 người.Tuy vậy, tiêu chí này chỉ có tính chất quy ước hành chính để xây dựng và thực thi cơ chế chính sách hỗ trợ. Bên cạnh tiêu chí trên, ở nước ta hiện nay còn tồn tại khá nhiều các tiêu chí khác do một số địa phương, ngành, tổ chức đưa ra nhằm phục vụ cho mục tiêu và yêu cầu quản lý nội bộ của mình. Chẳng hạn, Ngân hàng Công thương quy định trong hoạt động tín dụng các doanh nghiệp có vốn từ 5 đến 10 tỷ đồng và sử dụng 500 đến 1000 lao động la DNV&N. Còn Hội đồng liên minh các hợp tác xã thì quy định doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có mức vốn từ 100 đến 300 triệu đồng và sử dụng 5 đến 50 lao động.Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất: doanh nghiệp có vốn sản xuất kinh doanh trên 1 tỷ đồng, có doanh thu hàng năm trên 10 tỷ đồng và sử dụng tới 1000 lao động là doanh nghiệp vừa; mọi doanh nghiệp dưới ba tiêu chuẩn trên là doanh nghiệp nhỏ. Một số nhà kinh tế nước ta đề nghị doanh nghiệp nhỏ là có mức vốn đầu tư từ 100 đến 300 triệu đồng và sử dụng từ 5 đến 50 lao động, trên mức đó là doanh nghiệp vừa. Từ cách phân loại qui mô doanh nghiệp của một số nước ở trên có thể rút ra nhận xét: Việc phân chia doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ ở các nước là theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kì. Các tiêu chí được sử dụng một cách phổ biến là số lao động thường xuyên, vốn đầu tư và doanh số. Trị số các tiêu chí thì rất khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước. Từ cách phân loại qui mô doanh nghiệp của một số nước ở trên có thể rút ra nhận xét: Việc phân chia doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ ở các nước là theo ngành nghề và khác nhau trong từng thời kì. Các tiêu chí được sử dụng một cách phổ biến là số lao động thường xuyên, vốn đầu tư và doanh số. Trị số các tiêu chí thì rất khác nhau và phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi nước. 3.4. Khái niệm DNV&N ở Việt Nam Cho đến nay, nước ta vẫn chưa có được một khái niệm thống nhất và hoàn chỉnh về DNV&N. Các khái niệm được sử dụng trên thực tế hiện nay chỉ là khái niệm của các ngành, địa phương, tổ chức tự đưa ra nhằm phục vụ cho mục đích riêng của mình. Trong số các khái niệm về DNV&N hiện nay ở nước ta thì khái niệm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư được áp dụng rộng rãi nhất. Khái niệm này phát biểu như sau: " DNV&N ở Việt Nam là các chủ thể sản xuất kinh doanh được thành lập theo các qui định của pháp luật có qui mô về vốn và / hoặc số lao động phù hợp với qui định của Chính phủ". Theo khái niệm này thì DNV&N ở Việt Nam không phân biệt thành phần kinh tế, bao gồm: - Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ thành lập và đăng kí theo Luật doanh nghiệp nhà nước. - Các doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng kí theo Luật doanh nghiệp. - Các hợp tác xã có qui mô vừa và nhỏ được thành lập và đăng kí hoạt động theo luật hợp tác xã. - Cá nhân, nhóm sản xuất kinh doanh được thành lập và hoạt động theo Nghị định số 66- HĐBT ( nay là Chính phủ). II. Vai trò kinh tế- xã hội của doanh nghiệp vừa và nhỏ Kinh nghiệm quốc tế cho thấy doanh nghiệp vừa và nhỏ có vị trí rất quan trọng và ngày càng tăng đối với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. ở nhiều nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đến 95% tổng số các doanh nghiệp và tạo ra hơn 50% thu nhập quốc dân. Bảng 1: Tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số nước Châu á (năm 1997) Nước Thu hút lao động(%) Giá trị gia tăng( %) Singapo 32,5 26,6 Malaixia 47,8 36,4 Hàn quốc 37,2 21,1 Nhật Bản 55,2 38,8 Hồng Kông 59,3 (Nguồn: chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia.) Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ được chính phủ các nước đánh giá rất cao. Theo bộ công nghiệp Italia thì: " các doanh nghiệp siêu nhỏ và doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo xương sống đối với hệ thống kinh tế xã hội ở Italia". Còn Bộ kinh tế Hà Lan cũng xác định :"doanh nghiệp vừa và nhỏ là xương sống đối với một hệ thống ổn định về chính trị và xã hội. Xét về mặt kinh tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra 80- 90 % việc làm mới, đội ngũ này chính là động cơ thu hút lực lượng lao động có việc làm"( Theo tạp chí Công nghiệp số 16/1999). Quan điểm về vị trí ,vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ của hai quốc gia có nền kinh tế rất phát triển là Hà Lan và Italia cũng phần nào cho thấy tầm quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với hệ thống kinh tế xã hội của hai nước này. ở nước ta, quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước được tiến hành với xuất phát điểm chủ yếu là sản xuất nhỏ thì việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ được coi là chủ trương có tính chiến lược và có vị trí hết sức quan trọng. Trong báo cáo tại hội nghị lần thứ bẩy ban chấp hành Trung ương khoá 7, đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã nhấn mạnh: " Phát triển các loại hình doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến, vốn đầu tư ít , suất sinh lời cao, thời gian thu hồi vốn nhanh theo phương châm lấy ngắn nuôi dài. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ được thể hiện trên các mặt sau: -Thứ nhất, các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày càng tăng mạnh. ở hầu hết các nước, số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng trên dưới 90 % tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn số lượng các doanh nghiệp lớn. -Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền khinh tế. Chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia tăng của tổng sản phẩm quốc nôị, bình quân chiếm khoảng trên dưới 50% GDP của mỗi nước. ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì hiện nay khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước đóng góp khoảng 24% GDP và 31% giá trị sản xuất công nghiệp, chiếm 78% mức bán lẻ của ngành thương nghiệp, 64% khối lượng vận chuyển hành khách và hàng hoá (theo giáo trình doanh nghiệp vừa và nhỏ, trường ĐHKTQD). -Thứ ba, tác động kinh tế xã hội lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải quyết một số lượng lớn chỗ làm việc cho dân cư, tăng thu nhập cho người lao động góp phần xoá đói, giảm nghèo. ở hầu hết các nước doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảg 50-80% lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ, các doanh nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thu hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn các doanh nghiệp lớn. ở Việt Nam, theo đánh giá của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã giải quyết việc làm cho 26% lực lượng lao động. Riêng trong lĩnh vực phi nông nghiệp hiện có khoảng 7,8 triệu người làm việc trong khu vực DNV&N, chiếm tới khoảng 79,2% tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động trong cả nước. Có thể nói đây là một sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nó không chỉ góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống, tạo nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước mà từ đó còn góp phần hạn chế tệ nạn xã hội (do không có việc làm ), khai thác được nguồn nhân lực dồi dào của đất nước -Thứ tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm cho nền kinh tế năng động , hiệu quả hơn . Do số lượng các doanh nghiệp tăng nhanh đã làm tăng tính cạnh tranh, giảm bớt mức độ rủi ro trong nền kinh tế, đồng thời làm tăng số lượng chủng loại hàng hoá dịch vụ trong nền kinh tế. Ngoài ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng thay đổi mặt hàng, công nghệ và chuyển hướng kinh doanh nhanh làm cho nền kinh tế năng động hơn. Sự có mặt của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế có ._.tác dụng hỗ trợ các doanh nghiệp lớn kinh doanh có hiệu quả hơn : Làm đại lý, vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, giúp tiêu thụ hàng hoá , cung cấp các đầu vào như nguyên liệu, thâm nhập vào mọi ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn không với tới được . -Thứ năm, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được khá nhiều vốn ở trong dân do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán đi sâu vào các ngõ, ngách, bản, làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không lớn cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. - Thứ sáu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn . Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế , làm cho công nghiệp và các ngành thương mại - dịch vụ phát triển. Còn ở thành thị, các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển cũng làm tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Ngoài ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn đóng vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi và đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp. - Thứ bẩy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hoá phi tập trung và thực hiện được phương châm" ly nông bất ly hương" . Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sẽ thu hút những người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, rút dần lực lượng lao động làm nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ, nhưng vẫn sống ngay tại quê hương bản quán, không phải di chuyển đi xa. Đồng hành với nó là quá trình hình thành những khu vực khá tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay ở nông thôn , tiến dần lên hình thành những thị tứ, thị trấn, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa những làng quê, là quá trình đô thị hoá phi tập trung. -Thứ tám, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi ươm mầm những tài năng kinh doanh, là nơi đào tạo rèn luyện các nhà doanh nghiệp . Kinh doanh qui mô nhỏ sẽ rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường kinh doanh . Bắt đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh qui mô nhỏ và vừa, một số doanh nhân sẽ vươn lên trở thànhnhững doanh nhân lớn, tài ba, biết đưa doanh nghiệp mình nhanh chóng phát triển. Thực tế cho thấy không ít các công ty khổng lồ trên thế giới như Sony, Mistsubishi...đều xuất phát từ những doanh nghiệp vừa và nhỏ, thậm chí rất nhỏ. III. Những lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Một số lợi thế - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hết sức năng động, linh hoạt trước những biến động của thị trường. Nguyên nhân là do vốn ít , cơ cấu bộ máy gọn nhẹ nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ hoạt động cũng như dễ rút lui khỏi lĩnh vực kinh doanh. Nghĩa là " đánh nhanh, thắng nhanh,và chuyển hướng nhanh". Ngoài ra, với đặc tính chu kỳ sản phẩm ngắn nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể mạnh dạn sử dụng vốn tự có, vay mượn bạn bè, các tổ chức tín dụng để thực hiện các hoạt động kinh doanh. Đây là một lợi thế rất lớn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ thành lập vì đòi hỏi vốn ít diện tích mặt bằng không nhiều , các điều kiện sản xuất đơn giản. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có cơ cấu tổ chức quản lý gọn nhẹ số lượng lao động không nhiều, do đó công tác tổ chức, điều hành không quá phức tạp như những doanh nghiệp lớn. Nhờ đó nâng cao hiệu quả quản lý và sản xuất kinh doanh, tiết kiệm được chi phí. Mặt khác cũng do cơ cấu gọn nhẹ, số lượng lao động ít nên chủ doanh nghiệp có điều kiện đi sâu, đi sát tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của từng lao động. Nhờ đó giữa chủ và người làm công có quan hệ gắn bó , ít có khoảng cách lớn như ở doanh nghiệp có qui mô lớn, nếu có xung đột xảy ra thì cũng dễ giải quyết. - Lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ không đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, do đó loại hình doanh nghiệp này dễ dàng thu hút lao động với chi phí thấp, nhờ đó tăng hiệu quả sử dụng vốn. Đồng thời do tính chất dễ dàng thu hút lao động nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần đáng kể tạo công ăn việc làm giảm bớt thất nghiệp cho xã hội. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ phát huy bản chất hợp tác sản xuất. Mỗi doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chỉ sản xuất một vài chi tiết hay một vài công đoạn của quá trình sản xuất một sản phẩm hoàn chỉnh. Mặt khác nguy cơ nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm ẩn luôn đe doạ, vì vậy các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tiến hành hợp tác sản xuất để tránh bị đào thải. Chính sự hợp tác sản xuất góp phần tạo nên tính chuyên môn hoá cho các doanh nghiệp, qua đó góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ. - Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường sử dụng nguyên liệu sẵn có ở địa phương, nhờ đó tiết kiệm được chi phí sản xuất, giảm giá thành sản phẩm. - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn nằm trong môi trường cạnh tranh gay gắt do tính chất dễ khởi sự. Đó chính là môi trường tốt để các doanh nghiệp vươn lên phát huy mọi tiềm lực của mình. 2. Một số bất lợi Qui mô vừa và nhỏ tạo ra khá nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp , nhưng mặt khác nó cũng khiến cho các doanh nghiệp gặp không ít khó khăn. - Nguồn vốn tài chính hạn chế dẫn tới khả năng đổi mới công nghệ, mua sắm trang thiết bị đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất khó khăn, đặc biệt là đối với công nghệ đòi hỏi vốn đầu tư lớn. Từ đó ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất , chất lượng sản phẩm , hạn chế sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. - Có nhiều hạn chế trong việc đào tạo công nhân và chủ doanh nghiệp, dẫn đến trình độ thành thạo của công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp ở mức độ thấp, do đó khó nâng cao sản xuất và hiệu quả kinh doanh . - Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường bị động trong các quan hệ thương trường , khả năng tiếp thị. - Thường gặp khó khăn trong việc thiết lập và mở rộng hợp tác với bên ngoài... Ngoài ra ở những nước có nền kinh tế kém phát triển trình độ quả lý nhà nước còn hạn chế thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn bộc lộ những khiếm khuyết của nó trong hoạt động sản xuất - kinh doanh, như: -Trốn lậu thuế; - Một số doanh nghiệp còn trốn đăng ký kinh doanh hoặc kinh doanh không đúng như đăng kí; - Làm hàng giả, hàng hoá kém chất lượng; - Hoạt động phân tán khó quản lý. IV. Những nhân tố tác động đến sự phát triển của DNV&N Dù có những đặc trưng cơ bản, nhưng các doanh nghiệp nói chung và DNV&N nói riêng cũng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau trong quá trình phát triển.Thứ nhất là nhóm nhân tố vi mô như: Khả năng tìm kiếm thị trường, vốn kinh doanh, trình độ thiết bị công nghệ, nhà xưởng , mặt bằng sản xuất- kinh doanh và kết cấu hạ tầng khác; kiến thức và năng lực quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp, trình độ lực lượng lao động... Một nhóm nhân tố nữa có ảnh hưởng rất lớn, chi phối sự hoạt động của các DNV&N là nhóm nhân tố vĩ mô: hệ thống chính sách và môi trường luật pháp, hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nước và các thiết chế cộng đồng xã hội nông thôn, hệ thống các biện pháp và các tổ chức hỗ trợ phát triển... Tạo lập và kết hợp hài hoà các nhân tố trên sẽ tạo được điều kiện kinh tế -xã hội đảm bảo sự phát triển nhanh mạnh và có hiệu quả đối với các DNV&N. 1. Nhóm môi trường vi mô 1.1. Thị trường Đối với hoạt động sản xuất - kinh doanh của mỗi doanh nghiệp điều kiện để tồn tại và phát triển là nhân tó thị trường. Thị trường là nhân tố quan trọng mang tính tổng hợp nhất, là nhân tố hàng đầu tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Trong đó, điều kiện về thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường đầu ra là quan trọng nhất quyết định sự tồn tại, sự thành bại, phát triển thịnh vượng hay thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Khó khăn lớn nhất của các DNV&N nước ta hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm, có thể là thị trường tiêu thụ trong nước hoặc cũng cũng có thể là thị trường nước ngoài. Với đặc điểm và ưu thế của mình, định hướng chiến lược ngắn hạn, trước mắt của các DNV&N là tập trung và các thị trường " ngách" nhỏ, lẻ, địa phương và đặt trọng tâm vào những sản phẩm hàng hoá có giá bán thấp. Những định hướng chiến lược dài hạn cần phải chú ý tới thị trường của địa phương khác và tới thị trường quốc tế, hướng vào những sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao và có giá trị kinh tế cao. Theo nghĩa đầy đủ, thị trường bao hàm cả thị trường các yếu tố đầu vào. Đó là thị trường cung ứng nguyên vật liệu, thiết bị, công nghệ, thị trường vốn, thị trường sức lao động và thậm chí còn bao hàm cả thị trường bất động sản. Hiện nay, tuy không phải là khó khăn quan trọng nhất, nhưng các DNV&N nước ta đang gặp khó khăn đối với các yếu tố đầu vào, cản trở không ít đối với quá trình phát triển của các DNV&N. Khắc phục những khó khăn này cũng là đòi hỏi cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển nhanh, mạnh của các DNV&N ở nước ta. 1.2. Vốn Mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh đều cần có vốn, qua sự vận động luân chuyển của vốn có thể "bắt mạch" được trạng thái hoạt động của các doanh nghiệp. Qui mô vốn tự có của các DNV&N không đủ sức để tài trợ cho các hoạt động sản xuất- kinh doanh có chất lượng cao và hiệu quả, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển qui mô và đổi mới nâng cấp chất lượng thiết bị công nghệ, sản phẩm. Chính vì vậy, DNV&N cần có nguồn vốn vay và tiếp cận được các nguồn vốn trên thị trường tín dụng. Tuy nhiên ở một số nước trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, vấn đề này còn nhiều hạn chế và khó khăn như: Không đủ tài sản thế chấp; mức lãi suất cho vay còn qúa cao so với lợi nhuận thu được; hình thức và thể chế tín dụng, nhất là khu vực nông thôn còn nghèo nàn, đơn điệu và hiệu lực pháp lý không cao. Những khó khăn đó cần được tháo gỡ để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh và phát triển các DNV&N. 1.3. Trình độ trang thiết bị- công nghệ của doanh nghiệp Bộ ba thị trường- vốn- công nghệ luôn là vấn đề cốt lõi của mọi doanh nghiệp, trong đó có các DNV&N. Điều kiện thiết bị công nghệ sẽ quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm, giúp cho các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Các DNV&N dù có thị trường các yếu tố nguyên vật liệu, lao động tốt, đã tìm được thị trường đầu ra đảm bảo tiêu thụ sản phẩm của mình nhưng nếu trình độ trang thiết bị lạc hậu thì khó lòng có thể đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch sản xuất kinh doanh. Trong những năm đổi mới vừa qua, do sức ép của thị trường và những tác động của cơ chế quản lý kinh tế, các DNV&N ở nước ta đã có sự đổi mới công nghệ ở mức độ nhất định. Đó là việc dùng điện vào sản xuất và gắn liền nó là thực hiện nửa cơ khí, cơ khí từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản xuất. Song nhìn chung, thiết bị công nghệ của các DNV&N hiện vẫn còn lạc hậu và ở trình độ thấp, hiệu quả chưa cao, đang gặp nhiều khó khăn đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Hơn nữa điều kiện vốn tài chính và các diều kiện khác không cho phép các DNV&N tự tài trợ để đổi mới, áp dụng một cách mạnh mẽ các loại thiết bị tiên tiến, hiện đại. Vì vậy bên cạnh sự nỗ lực phấn đấu của bản thân các DNV&N còn cần tới sự hỗ trợ tích cực từ phía chính quyền nhà nước các cấp để nhanh chóng và thường xuyên cải thiện thiết bị công nghệ cho các DNV&N. 1.4. Nhân tố nhà xưởng, mặt bằng sản xuất kinh doanh và các kết cấu hạ tầng kỹ thuật khác của DNV&N Nhà xưởng, mặt bằng sản xuất kinh doanh và các kết cấu hạ tầng kỹ thuật khác cũng là một yếu tố quan trọng để có thể tiến hành sản xuất kinh doanh. Nếu điều kiện cho mặt bằng sản xuất kinh doanh của các DNV&N chật hẹp sẽ khiến cho các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc sản xuất và mở rộng sản xuất kinh doanh. Hệ thống điện nước cung cấp cho các DNV&N phải được đảm bảo. Bên cạnh đó cũng cần phải trang bị hệ thống xử lí nước thải và rác thải của các DNV&N nếu không hoạt động của các doanh nghiệp sẽ có thể gây tác hại rất lớn đến môi trường. Ngoài ra các điều kiện về kho bãi, đường xá trong và ngoài doanh nghiệp, hệ thống giao thông công cộng phục vụ cho sản xuất kinh doanh, giao lưu hàng hoá của các doanh nghiệp cũng cần phải thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung, DNV&N nói riêng. 1.5. Kiến thức, trình độ quản lí kinh doanh của các chủ doanh nghiệp, tri thức và trình độ tay nghề của lực lượng lao động Hoạt động sản xuất kinh doanh trên thương trường với sự cạnh tranh khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi, mới có thể thành đạt trong kinh doanh đưa doanh nghiệp của mình ngày một phát triển. Mỗi một chủ doanh nghiệp phải biết thu thập, tổng hợp, phân tích đánh giá các loại thông tin kinh tế kĩ thuật, biết đề ra những chiến lược đúng đắn và đưa ra những quyết định sáng suốt kịp thời. Đồng thời chủ doanh nghiệp phải biết quản lý, giám sát, điều khiển công việc của những người lao động làm việc cho mình một cách hợp lý, có hiệu quả. Ngoài ra chủ doanh nghiệp còn phải biết đánh giá, động viên, khuyến khích, thưởng phạt và trả công xác đáng tương xứng với những đóng góp của người lao động và kết quả chung của doanh nghiệp. Trình độ tri thức và tay nghề của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp cũng rất quan trọng đối vơí sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Những người có tri thức, tay nghề cao, kĩ năng thành thạo, lao động lành nghề sẽ sử dụng tốt các loại thiết bị công nghệ phức tạp, tiếp thu áp dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến hiện đại, làm ra những sản phẩm đẹp, có chất lượng với năng suất và hiệu quả cao. 1.6. Khả năng tiếp cận thông tin và hệ thống thông tin Hệ thống thông tin và khả năng tiếp cận thông tin, nhất là những thông tin về thị trường, giá cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống thông tin ở nước ta hiện nay mặc dù so với trước đã được phổ biến khá rộng rãi, các phương tiện thông tin tương đối phong phú, hiện đại, phương pháp thu thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ... song nhìn chung tính chất nhanh nhạy, kịp thời, chính xác và đầy đủ, hoàn thiện của hệ thống thông tin chưa đáp ứng những yêu cầu của sản xuất kinh doanh trong điều kiện của thị trường và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Một trong những nhân tố tác động dẫn tới sự kém hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNV&N là: ở các doanh nghiệp này không có bộ phận chuyên trách thu thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn, không đủ kinh phí để mua sắm thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh chóng kịp thời nói riêng và chi phí cho các hoạt động tiếp cận, thu thập xử lý thông tin nói chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập xử lý thông tin của các chủ DNV&N còn rất hạn chế. Chính vì vậy các DNV&N rất cần sự hỗ trợ đắc lực của Chính phủ và các tổ chức trong và ngoài nước để cải thiện tình hình. 2. Các nhân tố vĩ mô 2.1. Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước Sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của nhiều môi trường khác nhau: môi trường kinh tế, chính trị, chính sách và luật pháp... Chúng hoặc là tạo điều kiện thuận lợi hoặc là gây khó khăn cản trở đối với sự ra đời hoạt động và phát triển của DNV&N. Hệ thống chính sách và luật pháp đồng bộ, hợp lý sẽ tạo môi trường hoạt động hiệu quả cho các DNV&N, hỗ trợ khuyến khích các doanh nghiệp này phát triển đi lên. ở nước ta trong những năm đổi mới hệ thống chính sách và pháp luật liên quan đến khu vực kinh tế ngoài quốc doanh( trong đó các DNV&N là chủ yếu) đã được hình thành và đổi mới từng bước với những kết quả tích cực. Các chính sách này đã tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy sự hình thành và phát triển khá mạnh mẽ đối với các DNV&N, đặc biệt là đối với khu vực kinh tế tư nhân. Ngược lại một hệ thống chính sách và pháp luật thiếu đồng bộ nhất quán, kém hiệu quả và xa rời thực tế sẽ không tạo được môi trường hoạt động thông thoáng và bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiệp, không khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, nghiêm chỉnh tuân theo pháp luật; giảm và tiến tới xoá bỏ hiện tượng đối phó, lẩn trốn, tiêu cực, xa lạ đối với hoạt động sản xuất kinh doanh văn minh. Vì vậy để tạo điều kiện thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của DNV&N cần phải có sự đôỉ mới hoàn thiện hơn nữa chính sách và pháp luật của Nhà nước. 2.2. Hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nước và các thiết chế cộng đồng xã hội nông thôn Đây là nhân tố có ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả hoạt động của các DNV&N ở những nước có đặc điểm như nước ta.Hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của nhà nước từ trung ương đến các tỉnh, huỵên, xã với nhiều ban ngành nếu có sự phối hợp chặt chẽ phân công trách nhiệm rõ ràng sẽ làm tăng hiêụ lực quản lý của bộ máy. Các hoạt động của các đội kiểm tra liên ngành, quản lý thị trường, công an, thuế vụ...nếu không có sự thống nhất sẽ chồng chéo, dẫm đạp lên nhau, nhiều khi còn đổ lỗi và có những hành động triệt tiêu hiệu quả công tác quản lý lẫn nhau. Như vậy sẽ gây khó khăn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy cần thiết phải có sự kiện toàn, sắp xếp, đổi mới hệ thống và phương pháp quản lí, kiểm soát trên tinh thần hỗ trợ cho DNVC&N phát triển là chính. Sự hình thành và phát triển các DNV&N ở khu vực nông thôn còn chịu tác động của những quan hệ, thiết chế xã hội nông thôn với những thông số cơ bản là gia đình, dòng họ và làng, thôn. ở Việt Nam, gia đình thực sự là đơn vị sản xuất kinh doanh rất cơ bản trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Kết cấu dòng họ đã và đang góp phần ổn định trật tự xã hội, thực hiện tín chấp, tương trợ giúp nhau để làm ăn kinh tế, mở doanh nghiệp và xoá đói giảm nghèo. Làng Việt truyền thống là tổ chức cộng đồng tự quản, tự điều chỉnh bằng hương ước, bằng luật tục, bằng dư luận, bằng quản lí và đạo đức, có tác dụng tới sự hình thành và phát triển các DNV&N ở nông thôn cũng là kênh thông tin, chuyển giao công nghệ, không gian tìm việc làm và tạo dựng doanh nghiệp. Tuy nhiên bản chất truyền thống của những thiết chế xã hội nông thôn đó cũng có những nhược điểm làm cản trở rất lớn đối với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và công cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Đó là tính chất hẹp hòi, đố kỵ, bản vị khép kín ngay trong từng gia đình, dòng họ và làng, thôn. Chính nó là những tác nhân chủ yếu làm giam hãm xã hội nông thôn Việt Nam trong lịch sử và cho đến nay chưa vượt qua được vòng cương toả của sự đói nghèo và lạc hậu. Mặc dù hiện nay mức độ và phạm vi của những tính chất tiêu cực đó không còn sâu nặng như trước và đã được giải toả rất nhiều, song sự hình thành và phát triển của các DNV&N trong điều kiện hiện đại đòi hỏi phải khắc phục và giải toả hoàn toàn những tính chất tiêu cực nói trên. 2.3. Hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ của Nhà nước Hệ thống các biện pháp và tổ chức hỗ trợ của Nhà nước cũng như của các tổ chức phi Chính phủ và các tổ chức quốc tế nhằm khắc phục những khó khăn và thế bất lợi của các DNV&N để chúng nhanh chóng có đủ khả năng cạnh tranh một cách bình đẳng được với các doanh nghiệp khác trên thị trường. ở hầu hết các nước trên thế giới, việc tiến hành các biện pháp hỗ trợ cho các DNV&N được thông qua các chính sách ưu đãi về miễn giảm các loại thuế, các khoản vay với lãi suất ưu đãi từ các nguồn vốn tín dụng của nhà nước, thiết lập các tổ chức tư vấn và cung cấp thông tin, các trung tâm đào tạo kiến thức quản lí và kỹ năng lao động miễn giảm phí và thành lập các quỹ tín dụng hoặc bảo lãnh tín dụng riêng cho các DNV&N. ở Việt nam các chương trình tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo , một số dự án với sự tài trợ của các tổ chức quốc tế cho các cơ quan của chính phủ và các tổ chức phi Chính phủ hỗ trợ các DNV&N triển khai trong vòng một số năm gần đây đã có tác dụng nhất định tới sự hình thành và phát triển các DNV&N. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một chủ chương chính sách hoặc các chương trình của Nhà nước thống nhất hỗ trợ dành riêng cho các DNV&N. Đồng thời Nhà nước chưa hướng dẫn và khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và quản lí giám sát hoạt động của chúng. Cho nên các chương trình, dự án hoạt động rời rạc, các tổ chức hỗ trợ DNV&N còn ít, hoạt động kém hiệu quả và tác dụng của chúng đối với việc hỗ trợ thúc đẩy sự hình thànhvà phát triển các DNV&N còn rất hạn chế, cần có sự chấn chỉnh và hoàn thiện. Tuỳ từng đặc điểm kinh tế chính trị xã hội của mỗi nước mà có những quan điểm khác nhau. Song vai trò của DNV&N trong phát triển kinh tế, chính trị, xã hội là không thể phủ nhận được. Trong phần trên chúng ta đã xem xét những vấn đề chung nhất về loại hình DNV&N như : các quan điểm khác nhau về DNV&N, tiêu thức xác định…..và đặc biệt là các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của các DNV & N. Đây là cơ sở cho sự phân tích thực trạng và đưa ra giải pháp thúc đẩy sự phát triển của các DNV&N của nước ta. Chương II thực trạng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên I. Khái quát chung về đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của thành phố Thái Nguyên Thành phố Thái Nguyên là một thành phố công nghiệp vùng trung du, được thành lập ngày 19/10/1962 , tiền thân là thị xã tỉnh lỵ tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay thành phố Thái Nguyên là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Thái Nguyên. Nó bao gồm 25 phường, xã (17 phường, 8 xã, trong đó có 5 xã miền núi) với tổng diện tích đất tự nhiên là 177,14 Km2. 1. Điều kiện tự nhiên . Thành phố Thái Nguyên có vị trí địa lý khá thuận lợi, là một trong các đầu mối giao thông giữa các huyện, thành thị trong tỉnh và các tỉnh trung du miền núi phía Bắc, gần tam giác kinh tế Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh và các tỉnh đồng bằng sông Hồng (cách Hà Nội 80 Km về phía Bắc), gần biên giới Việt Trung, cách sân bay quốc tế Nội Bài 50 Km, cách cảng Đa Phúc 30 Km. Địa hình của thành phố dốc dần theo hướng Tây Bắc - Đông Nam với những đồi thấp xen kẽ ruộng bậc thang và những cánh đồng hẹp, có 2 con sông là sông Cầu và sông Công chảy dài xung quanh hai bên Thành phố . Tổng diện tích đất tự nhiên của Thành phố là 177,14 Km2 trong đó diện tích đất nông nghiệp chiếm 31,2 %, đất lâm nghiệp 16,5%, đất dân cư chiếm 26%, còn lại đất chuyên dùng và chưa sử dụng. Thành phố Thái Nguyên chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới và á nhiệt đới, có hai mùa rõ rệt. Mùa nóng kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Nam. Mùa khô hanh với gió mùa Đông Bắc kéo dài từ tháng 1 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình là 230C , thấp nhất là 20C và cao nhất là 39,80C. Lượng mưa hàng năm khá cao, từ 1700 - 2000mm. Nguồn tài nguyên khoáng sản trên địa bàn Thành phố khá đa dạng và phong phú trong đó đáng kể đến như: Quặng sắt 56,9 triệu tấn, chì kẽm 5,4 triệu tấn, Vonfram 28 ngàn tấn, thiếc 13600 tấn, vàng sa khoảng trên 1000kg, đá xây dựng gần 100 tỷ m3 …và đặc biệt có trữ lượng than đá lớn thứ hai trong cả nước sau Quảng Ninh ( khoảng 100 triệu tấn ) Nhìn chung điều kiện tự nhiên của Thành phố Thái Nguyên khá thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp của thành phố nói riêng, đặc biệt là công nghiệp khai thác, chế biến lâm sản và sản xuất vật liệu xây dựng. 2. Đặc điểm kinh tế - Xã hội Về dân số- lao động Trên địa bàn Thành phố có tám dân tộc anh em cùng chung sống với tổng qui mô dân số tính đến năm 1999 là 218.547 người, chiếm 21,8% dân số toàn tỉnh, trong đó 80% dân số phi nông nghiệp. Tỷ lệ tăng tự nhiên của dân số hàng năm là 1,3%. Dân số của Thành phố tập trung chủ yếu ở 17 phường nội thành với 157.288 người ( chiếm 71,97% ) còn ở 8 xã ngoại thành là 61259 người ( chiếm 28,03% ). Mật độ dân số trung bình là 1234 người / km2, trong đó mật độ dân số nội thành là 2657 người/ km2 và mật độ dân số ngoại thành là 519 người /km. Số người trong độ tuổi lao động của Thành phố chiếm tỷ lệ 50,2%- ở mức trung bình so với cả nước và thấp hơn hai thành phố lớn là Hà Nội ( 58% ) và Thành phố Hồ Chí Minh ( 54%). Mặc dù đã thực hiện nhiều biện pháp thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nhưng hiện nay trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên vẫn còn khoảng 12000 người chưa có việc làm, chiếm 5,5% dân số và mỗi năm có thêm khoảng 2000 người có nhu cầu việc làm. Thành phố Thái Nguyên là một trong những trung tâm đào tạo lớn nhất cả nước. Trên địa bàn Thành phố có 5 trường đại học, 27 trường cao đẳng - trung học, dậy nghề. Hàng năm đào tạo ra hàng ngàn kỹ sư trung cấp công nhân kỹ thuật có trình độ trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này tạo cho Thành phố Thái Nguyên một lợi thế rất lớn về trình độ công nhân lao động so với các địa phương khác trong cả nứơc. Về kinh tế Trong 5 năm trở lại đây ( 1996- 2000 ) kinh tế Thành phố Thái Nguyên có bước phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt 4,75%, giá trị sản xuất công nghiệp - xây dựng trên địa bàn tăng bình quân 3,45%, thương mại dịch vụ tăng 5,95% năm, nông lâm nghiệp tăng bình quân 6,85% năm. Cơ cấu kinh tế theo ngành là: Công nghiệp xây dựng chiếm 45,9%, thương mại dịch vụ chiếm 44,2% và nông lâm nghiệp là 9,9%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 5,8 triệu đồng, tương đương 413 USD/năm. Biểu 2: Cơ cấu kinh tế theo ngành của Thành phố Thái Nguyên qua một số năm gần đây (Đơn vị: % ) Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 Nông lâm nghiệp 9,1 9,2 10,1 9,7 Công nghiệp-xây dựng 51,0 49,4 47,1 46,3 Dịch vụ 39,9 41,4 42,8 44,0 ( Nguồn : Niên giám thống kê Thành phố Thái Nguyên ) Theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Thành phố Thái Nguyên lần thứ 14 thì trong giai đoạn tới - giai đoạn 2000 -2010, cơ cấu trên vẫn tiếp tục được duy trì theo hướng : " Tập trung số một vào phát triển công nghiệp và dịch vụ, coi trọng phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá với thế mạnh là chè và cây ăn quả". Hiện nay trên địa bàn lãnh thổ của Thành phố có 13 doanh nghiệp nhà nước do Trung ương quản lý, lớn nhất là Công ty gang thép Thái Nguyên với sản lượng 20 vạn tấn năm, 9 vạn công nhân lao động. Có 67 doanh nghiệp thuộc tỉnh, trên 100 doanh nghiệp ngoài quốc doanh và 6000 hộ kinh doanh trên địa bàn. Thành phố Thái Nguyên còn là trung tâm luyện kim đen, luyện kim màu lớn nhất cả nước, công nghiệp điển hình là gang, thép, than. Nông nghiệp với sản phẩm nổi tiếng là chè với diện tích 344,52ha, ngoài ra còn có các sản phẩm lâm sản tương đối phong phú. Biểu 3: Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội của Thành phố Thái Nguyên trong thời gian gần đây. Stt Chỉ tiêu ĐVT 1996 1997 1998 1999 2000 1 Dân số thường trú Người 190479 193939 196651 218547 221300 2 Giá trị sản xuất nông nghiệp Tr. đồng Giá cố định ( 1994) Tr. đồng 79075 84610 89687 96054 102294 Giá hiện hành Tr. đồng 94336 102039 121525 119739 127360 3 Tổng SL lương thực qui thóc Tấn 20997 23751 23835 25293 26500 Lương thực bq đầu người Kg/người 3569,3 415,2 421,6 426,8 430,2 4 Tổng đàn gia súc Con 52601 52330 54876 52922 53290 Đàn trâu Con 9812 10016 10154 10569 10600 Đàn bò Con 1012 1199 1667 1686 1690 Đàn lợn Con 41777 41155 43555 40667 11000 5 Giá trị SXCN- TTCN Tr. đồng Giá trị cố định ( 1994 ) Tr. đồng 59215 64663 68280 71730 90000 Giá hiện hành Tr. đồng 77636 86990 89492 93324 117000 6 Tổng thu ngân sách Tr. đồng 37401 42283 41678 35664 34382 7 Tổng chi ngân sách Tr. đồng 16907 19596 22582 23118 23863 8 Tổng số giáo viên Người 1821 1733 1735 1735 1739 9 Tổng số bác sĩ Người 56 56 58 58 58 10 Tổng giá trị gia tăng GDP Tr. đồng 873090 924978 944970 98032 1026300 GDP bq đầu người (VNĐ ) 1000đ 5420 5740 6060 5640 5820 Tính đổi ra USD USD/người 440 446 432 401 413 ( Nguồn : Niên giám thống kê Thái Nguyên 1996- 2000 ) II. Quá trình hình thành và phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố Thái Nguyên Cùng với tình hình chung của cả nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh của thành phố Thái Nguyên phát triển qua 2 giai đoạn: 1. Giai đoạn trước khi ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty (21/12/1990) Trước năm 1988, Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung bao cấp, kinh tế Nhà nước chiếm lĩnh, chủ đạo và điều tiết hoàn toàn sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Trong giai đoạn này, ngoài các doanh nghiệp Nhà nước chỉ có loại hình HTX được Nhà nước công nhận có đủ tư cách pháp nhân được tham gia các quan hệ kinh tế theo kế hoạch Nhà nước . Các thành phần tiểu thương, tiểu chủ chỉ được sản xuất kinh doanh nhỏ, hạn chế ở qui mô nhỏ và bị giới hạn ở những lĩnh vực nhất định. Giai đoạn này, thành phố Thái Nguyên chỉ có 30 HTX tiểu, thủ công nghiệp sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, cơ khí nhỏ, vận tải, mộc dân dụng… và hơn 20 HTX mua bán. Đa số các sản phẩm sản xuất ra được tiêu thụ theo kế hoạch của Nhà nước. Thực trạng hoạt động của các HTX này chỉ nhằm giải quyết việc làm cho một số lao động và thực hiện một phần kế hoạch bao cấp của Nhà nước. Vì vậy các HTX này không có điều kiện để tích luỹ và mở rộng sản xuất . Đối với thành phần tiểu thương, tiểu chủ, chỉ có trên 1.000 hộ lao động ở một số phường trung tâm hoạt động trong lĩnh vực ăn uống, buôn bán lẻ hàng hoá tiêu dùng, số vốn kinh doanh nhỏ, vốn luân chuyển chậm. Chỉ từ khi HĐBT (nay là Chính phủ) ban hành Nghị định 28/HĐBT tháng 3/1988 cho phép những cá nhân có đủ năng lực pháp lý cần thiết được thành lập các tổ hợp sản xuất kinh doanh các lĩnh vực, mặt hàng theo qui định thì hoạt động của các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mới có điều kiện phát triển . Trong vòng gần 3 năm từ tháng 3/1988 đến tháng 12/1990 trên địa bàn thành phố đã có trên 50 tổ hợp được thành lập và đăng ký hoạt động với nhiều ngành nghề sản phẩm đa dạng; thu hút sử dụng được hàng ngàn lao động, huy động được số vốn lớn nhàn rỗi trong nhân dân đưa vào sản xuất kinh doanh. Biểu 4: Số lượng các cơ sở SXKD tr._.hí nhiều cơ hội kinh doanh bị tuột mất. Vốn ít, nhiều doanh nghiệp không chịu đựng được những cú sốc của thị trường, nhất là với một thị trường đang trong quá trình hình thành ở nước ta. Tình trạng nợ nần dây dưa, chiếm dụng vốn lẫn nhau cũng đẩy không ít các doanh nghiệp vào thế sập tiệm ngoài ý muốn. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên thường bị kẹp giữa hai gọng kìm: khi mua phải ứng tiền trước, phải trả đủ tiền khi nhận hàng; còn khi bán, muốn bán được phải bán chịu. Đã thế, loại hình doanh nghiệp này lại rất khó có thể huy động vốn từ các nguồn tín dụng. Khi có nhu cầu huy động vốn họ buộc phải vay trong dân, dưới hình thức nặng lãi. Rốt cuộc là, kết thúc mỗi chu kì kinh doanh, sau khi trả lãi suất tiền vay, lợi nhuận còn lại hầu như không đáng kể. Hiệu quả kinh doanh thấp lại không đủ cơ sở cho việc lập luận chứng khả thi để các ngân hàng làm thủ tục giải ngân. Thật là một vòng luẩn quẩn, một khó khăn được bình phương đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. Để tháo gỡ vòng luẩn quẩn trên, về phía doanh nghiệp có thể sử dụng một số biện pháp sau: -Một là, thực hiện sự hợp tác dưới nhiều hình thức như liên doanh, liên kết… để tăng cường khả năng tài chính. Dưới hình thức này, một số doanh nghiệp ít vốn tại địa bàn có thể tìm thấy những người bạn liên minh có nhiều vốn ở địa phương khác muốn làm ăn trên địa bàn mình, hoặc thuần tuý chỉ muốn mở rộng địa bàn hoạt động. Bằng cách này, nhiều doanh nghiệp ít vốn nhưng có quan hệ công nghệ với nhau có thể liên minh lại để đối phó với sự ép giá, ép thể thức thanh toán của cả người bán nguyên liệu với người mua sản phẩm hoặc đẩy nhanh vòng quay của vốn do có sự tin cậy lẫn nhau, giảm bớt thủ tục thanh toán, thậm chí có thể tránh được thuế đánh trùng lắp nhiều lần. Quan hệ liên minh với các doanh nghiệp lớn có thể là chỗ dựa để các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ vay được vốn trên cơ sở uy tín của các doanh nghiệp này với các ngân hàng. Thực tế ở Thành phố Thái Nguyên hiện nay, xu hướng liên doanh, liên kết phát triển rất chậm chạp. Có rất ít doanh nghiệp liên kết được với các công ty kinh doanh có uy tín ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và số doanh nghiệp liên kết được với công ty nước ngoài chỉ đếm trên đầu ngón tay mà phần lớn laị là các doanh nghiệp lớn. Tình hình này có ảnh hưởng từ tư tưởng cục bộ địa phương và tư duy sản xuất nhỏ, cần được khắc phục kịp thời. -Hai là, đẩy nhanh quá trình tích lũy, tái đầu tư mở rộng kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao hơn, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Bằng cách đó, có thể huy động được vốn dưới hình thức tín chấp. -Ba là, sử dung có hiệu quả nguồn vốn tự có và vốn đi vay. Trong nhiều trường hợp các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ xảy ra mâu thuẫn là vừa thiếu vốn lại vừa sử dụng vốn rất lãng phí. Để sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, các doanh nghiệp phải tránh tình trạng để vốn nằm đọng ở các khâu ( như dự trữ vật tư quá lớn, vốn nằm ở sản phẩm dở dang hoặc tồn kho quá nhiều). Biện pháp để khắc phục tình trạng này là thực hiện phương thức thanh toán qua ngân hàng, thông qua đó những khoản tiền nhàn rỗi vẫn có thể sinh lời. Các doanh nghiệp cần nhanh chóng tiếp cận với các tri thức và kinh nghiệm quản trị vốn hiện đại. Hiện tại, hiệu quả sử dụng vốn vẫn được xem xét một cách giản đơn. 1.2. Tích cực đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng công nghệ nhiều trình độ, công nghệ trung gian, tranh thủ công nghệ hiện đại Bên cạnh khó khăn về vốn, tình trạng thiết bị kĩ thuật và công nghệ cũng đang là một vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên. Kĩ thuật công nghệ lạc hậu, kéo theo năng suất lao động thấp, năng lực cạnh tranh và doanh thu hạn chế… đang là áp lực nặng nề đối với các doanh nghiệp này. Để khắc phục tình trạng trên, yêu cầu bức thiết hiện nay đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở địa phương là phải nỗ lực đầu tư để đổi mới trang thiết bị. Tuy nhiên, việc quyết định áp dụng công nghệ ở trình độ nào phải dựa trên cơ sở phân tích kĩ thực trạng về vốn, trình độ đội ngũ lao đông, đặc điểm ngành nghề mà doanh nghiệp hoạt hoạt động,... Phương hướng chung đối với các doanh nghiệp hiện nay là: Với các doanh nghiệp tư nhân, công ty liên doanh, hợp tác xã và các hộ cá thể có khả năng, hoạt động trong các ngành công nghiệp mũi nhọn và truyền thống của địa phương như: đúc gang, thép, chế biến chè, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản thì cần thiết phải áp dụng ngay công nghệ tiên tiến hiện đại. Có như vậy mới nâng cao được chất lượng và mẫu mã sản phẩm, phát huy được lợi thế so sánh của địa phương, cải thiện vị trí của doanh nghiệp trên thị trường, trước hết là thị trường nội hạt của thành phố. Còn đối với các doanh nghiệp không đủ điều kiện huy động vốn, các doanh nghiệp hoạt động trong những ngành không phải là thế mạnh của thành phố, sản phẩm làm ra được xác định tiêu thụ ở thị trường tỉnh và không có sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại nhập như: Các cơ sở sản xuất bia hơi, đồ may mặc... thì có thể tận dụng công nghệ trung gian, công nghệ thu hút nhiều lao động để giảm thiểu chi phí và tận dụng nguồn nhân lực dồi dào với giá thuê nhân công thấp tại địa phương. Các doanh nghiệp thiếu vốn có thể thực hiện các giải pháp sau: - Thứ nhất, tiến hành liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp lớn trong và ngoài nước để tạo ra những cơ sở kỹ thuật và tài chính đủ mạnh, đẩy nhanh quá trình chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm quản trị hiện đại. - Thứ hai, các doanh nghiệp có thể áp dụng hình thức tín dụng thuê mua để bổ xung máy móc thiết bị. Với hình thức này, doanh nghiệp được sử dụng máy móc thiết bị cần thiết mà không phải đầu tư một lần với số lượng vốn lớn. Nhờ đó giải quyết được vấn đề khó khăn về vốn của doanh nghiệp. Hình thức này hiện đang có xu hướng phổ biến ở nước ta. 1.3. Đào tạo và nâng cao trình độ của đội ngũ lao động, kể cả đội ngũ lao động trực tiếp và đội ngũ cán bộ quản lý để có khả năng nắm bắt và sử dụng nhanh chóng kỹ thuật sản xuất mới cũng như sử dụng kiến thức và kinh nghiệm quản trị hiện đại. Trình độ kỹ thuật của đội ngũ lao động có ảnh hưởng tới năng suất lao động, trực tiếp tác động đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Như đã trình bày ở chương II, hiện nay hầu hết đội ngũ lao động ở các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ thành phố Thái Nguyên có trình độ rất thấp, phần đông là chưa qua đào tạo cơ bản, các chủ doanh nghiệp thiếu kiến thức quản trị hiện đại và quản trị bằng kinh nghiệm chủ yếu. Vì vậy vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp này là cần phải hoạch định và triển khai chiến lược đào tạo thích hợp để khắc phục tình trạng trên. Để thực hiện mục tiêu này, các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ thành phố Thái Nguyên cần áp dụng một số giải pháp sau: - Thứ nhất, bản thân các chủ doanh nghiệp cần thường xuyên trau dồi, nâng cao kiến thức quản trị bằng cách tham gia vào các lớp tại chức, các khoá học quản trị ngắn ngày do Nhà nước tổ chức, thông qua đó để tiếp cận với kiến thức quản trị hiện đại và nắm bắt được những thông tin mới về pháp luật, chính sách doanh nghiệp cũng cần tham gia vào câu lạc bộ doanh nghiệp của thành phố để học hỏi thêm kinh nghiệm từ các doanh nghiệp bạn. - Thứ hai, xắp xếp và bố trí nhân lực trong doanh nghiệp một cách hợp lý dựa trên cơ sở năng lực và sở trường của từng người. Qua việc nắm rõ năng lực của từng nhân viên, doanh nghiệp có thể phân loại và đối tượng nào có khả năng học nâng cao, đối tượng nào cần đào tạo cơ bản và đào tạo lại... tránh tình trạng đào tạo một cách đại trà, đào tạo theo phom một cách thiếu hiệu quả. - Thứ ba, tổ chức các phong trào thi tay nghề trong doanh nghiệp, có chính sách khuyến khích vật chất đối với những người có thay nghề cao, có sáng kiến mới trong lao động ... - Thứ tư, tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp lơn, các công ty nước ngoài để nhận được sự hỗ trợ trong đào tạo lao động. Nhờ đó cácc doanh nghiệp có thể giảm được chi phí đào tạo mà vẫn thực hiện được mục tiêu chiến lược về lao động. - Thứ năm, bên cạnh việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động sẵn có, các doanh nghiệp cần hết sức chú ý tới khâu tuyển dụng lao động. Thành phố Thái Nguyên là một trung tâm đào tạo lớn của cả nước, hàng năm đào tạo ra hàng ngàn kỹ sư, công nhân kỹ thuật lành nghề trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Như vậy vấn đề đặt ra hiện nay đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ của thành phố là làm thế nào để thu hút được đội ngũ nhân công này. Giải pháp tốt nhất có lẽ là dùng chính sách khuyến khích vật chất thông qua tiền lương, tiền thưởng và các trợ cấp khác. 1.4. Xúc tiến mở rộng thị trường, kể cả thị trường tại chỗ, thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Hiện nay, thị trường chủ yếu của các cơ sở sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh ttrên địa bàn Thành phố Thái Nguyên vẫn là thị trường tại chỗ, còn thị trường ngoài tỉnh và nhất là thị trường nước ngoài chỉ chiếm một tỷ trọng không đáng kể. Ngay trên thị trường địa phương, sản phẩm hàng hoá của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ cũng đang phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của hàng ngoại theo nhiều đường nhập khác nhau và từ các tỉnh khác, nhất là từ Thành phố Hà Nội tràn về. Để xúc tiến mở rộng thị trường, các doanh nghiệp này cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau: - Thứ nhất, cần xác định và thị trường mục tiêu phù hợp với khả năng của doanh nghiệp. Với chất lượng và mẫu mã như hiện nay, ngoài một số sản phẩm truyền thống như: chè, gang đúc, mành cọ, còn lại các sản phẩm khác của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam thành phố Thái Nguyên khó có thể cạnh tranh được với những sản phẩm chất lượng cao của các doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố lớn phía Nam. Trong khi đó, thành phố Thái Nguyên là trung tâm vùng của các tỉnh miền núi phía Bắc, có sự gần gũi với các tỉnh này về vị trí địa lý cũng như phong tục tập quán, thị hiếu tiêu dùng của khách hàng,... Hơn nữa sức cạnh tranh của các doanh nghiệp tại các tỉnh này không cao. Do đó, trước mắt cần tập trung thâm nhập và khai thác triệt để thị trường này, coi đó là thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. - Thứ hai, không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo lập uy tín lâu dài của doanh nghiệp đối vơi khách hàng, thực hiện định vị sản phẩm phù hợp với khả năng, thị hiếu của người tiêu dùng. Khả năng cạnh tranh của các hàng hoá dịch vụ thường liên quan đến 3 yếu tố: Chất lượng, giá cả và thời gian. Đảm bảo thoả mãn khách hàng cả về chất lượng và giá cả thì sẽ có lợi cho việc nâng cao thị phần của doanh nghiệp. Hiện nay, ở nước ta, do công nghiệp chậm phát triển, công nghệ sản xuất còn lạc hậu, trình độ văn hoá, văn minh công nghiệp chưa cao nên chưa có truyền thống quản lý chất lượng thực sự. Các doanh nghiệp chủ yếu dựa vào phản ứng thị trường để thực hiện công tác quản lý chất lượng. Chính vì thế, việc tăng cường công tác quản lý chất lượng sản phẩm được coi là một biện pháp cần thiết để mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên. - Thứ ba, các doanh nghiệp phải hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình vào việc đáp ứng nhu cầu của thị trường trên cơ sở đó nâng cao lợi nhuận cho mình. Liên quan đến nhu cầu thị trường có một số nhân tố như: tốc độ gia tăng của dân số, thu nhập của các hộ gia đình, phong tục và tập quán tiêu dùng, mức độ đô thị hoá của địa bàn cư trú, các yếu tố địa lý. - Thứ tư, tổ chức tốt hoạt động Marketing của doanh nghiệp nhằm nghiên cứu và dự báo nhu cầu thị trường. Cần phải xây dựng các phối thức tiếp thị hợp lý nhằm xác định các chiến lược về sản phẩm, giá cả, phân phối, và cổ động. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ phải đặc biệt quan tâm đến việc duy trì, mở rộng thị trường hiện tại và tương lai, kết hợp thị trường địa phương với thị trường trong nước và quốc tế. Trong điều kiện nguồn vốn còn hạn chế, không có khả năng chi phí lớn cho quảng cáo, cần tranh thủ các loại hình cổ động tốn ít chi phí đồng thời nâng cao khả năng tiếp thị của nhân viên tiếp thị. Điểm yếu của các DNV&N về vấn đề thị trường là ít có điều kiện tiếp cận với những thông tin về thị trường. Hầu như các doanh nghiệp chỉ quan tâm giải quyết các vấn đề tiêu thụ sản phẩm qua hệ thống trực tiếp bán hàng. Để khắc phục tình trạng trên, các doanh nghiệp cần xúc tiến các hoạt động nghiên cứu thị trường, nắm bắt kịp thời, chính xác các thông tin thị trường, tổ chức công tác tiếp thị, quảng cáo, tham gia các hội chợ triển lãm….để tạo lập và định vị hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt người tiêu dùng. - Thứ năm, phát triển quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp lớn nhằm dựa vào các doanh nghiệp lớn để thúc đẩy hoạt động tiêu thụ. Dựa vào mối quan hệ này để vươn ra thị trường quốc tế. - Thứ sáu, cần chú trọng không chỉ thị trường trong nước mà phải tìm cách xâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. Các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở đây thưòng ít chú ý tới thông tin thị trường thế giới. Họ thường cho rằng đây là thị trường dành cho các doanh nghiệp lớn mà không thấy rằng rất nhiều mặt hàng của các DNV&N ở địa phương có khả năng suất khẩu như mành cọ, chè xanh, gang đúc….Để vươn ra thị trường khu vực và quốc tế,các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên trước hết phải chú ý đến thị trường các nước ASEAN, đặc biệt là thị trường ở các nước có trình độ tương đương với nước ta như: Lào, Malayxia, Inđônêxia,…. Các giải pháp về vốn, thị trường, công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ cần phải được thực hiện một cách đồng bộ, hỗ trợ cho nhau để tăng cường sinh lực cho các doanh nghiệp. Điều này đặt ra yêu cầu đối với các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ hiện nay là cần phải xây dựng được chiến lược thích hợp về vốn, thị trường , công nghệ và lao động để nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh và đảm bảo sự phát triển vững chắc, lâu dài của mỗi doanh nghiệp. 2. Hệ thống các giải pháp liên quan đến các nhân tố bên ngoài tác động đến sự phát triển của các doanh nghiệp Sự phát triển của các doanh nghiệp không chỉ phụ thuộc vào các nhân tố bên trong mà còn chịu tác động của các yếu tố bên ngoài liên quan đến môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Trong đó tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất là hệ thống chính sách kinh tế của Nhà nước. Cụ thể ở đây, sự phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên chịu tác động rất lớn của hệ thống chính sách kinh tế cũng như mức độ hỗ trợ của UBND tỉnh, thành phố Thái Nguyên và của Trung ương. Cơ chế chính sách của các cấp này có tác động quan trọng tới việc xác định mục tiêu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Vì vậy, để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, các cấp nói trên cần phối hợp để hoạch định một chính sách hỗ trợ cụ thể và phù hợp. Với thực trạng phát triển của các doanh nghiệp này hiện nay, chính sách hỗ trợ cần tập trung vào các vấn đề sau: 2.1. Đẩy mạnh cải cách hành chính Nhà nước cần cải tiến hơn nữa thủ tục hành chính về việc kiểm tra kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở vẫn đảm bảo đầy đủ những nguyên tác pháp lý cần thiết. Các thủ tục hành chính ở nước ta nói chung và ở thành phố Thái Nguyên nói riêng còn rất phức tạp, có quá nhiều đầu mối tham gia vào việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó dẫn tới tình trạng can thiệp quá sâu và có phần chồng chéo của các cơ quan quản lý Nhà nước và quá trình hoạt động của các doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước đồng thời vi phạm vào quyền tự chủ kinh doanh của các doanh nghiệp. Vấn đề trên không thể giải quyết một sớm một chiều, song để tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trên địa bàn phát triển, thành phố Thái Nguyên không thể không quán triệt vấn đề này. 2.2. Thành phố Thái Nguyên cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng Cơ sở hạ tầng kinh tế là điều kiện cơ bản, là tiền đề rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, thu hút vốn đầu tư. ở thành phố Thái Nguyên hiện nay, cơ sở hạ tầng như giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống xử lý rác thải và chất thải,... còn kém phát triển, đặc biệt là ở năm xã miền núi ngoại thành. Vì vậy vấn đề đặt ra hiện nay là cần đầu tư xây mới và nâng cao các cơ sở hạ tầng đã có. Tuy nhiên, việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng rất tốn kém, trong khi đó ngân sách của thành phố Thái Nguyên còn hạn chế, do đó trước mắt cần đầu tư theo trọng điểm tập trung vào những công trình có tính cấp thiết và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Cụ thể là: - Tiến hành nâng cấp, mở rộng các tuyến đường giao thông trong thành phố, đặc biệt là các tuyến đường nối giữa nội thành với 5 xã miền núi ngoại thành. - Tiến hành xây dựng các khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tập trung, đưa hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vào nề nếp, từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định, lâu dài của các doanh nghiệp đồng thời thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đối với các cơ sở có quy mô sản xuất nhỏ không có khả năng tham gia vào các khu công nghiệp tập trung thì thành phố Thái Nguyên cần có chính sách khuyến khích, hỗ trợ có trọng điểm, tiến tới hình thành các làng nghề sản xuất công nghiệp. Trên địa bàn thành phố Thái Nguyên hiện nay có thể hình thành được một số làng nghề như: làng nghề đúc gang, thép ở Lương Sơn; làng nghề chế biến chè ở Tân Cương; làng nghề sản xuất sản phẩm mộc, tấm lợp... Các làng nghề được hình thành và phát triển sẽ là cơ sở để nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của các cơ sở sản xuất công nghiệp ở địa phương so với các địa phương khác. 2.3. Tích cực hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ Tình trạng thiếu vốn để đổi mới công nghệ và kĩ thuật là khó khăn chủ yếu của phần lớn các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên hiện nay. Do nhiều nguyên nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh có ít điều kiện vay vốn ngân hàng. Cái thiếu nhất đối với các doanh nghiệp loại vừa và đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ là vốn cơ bản, nhưng việc vay trung hạn và dài hạn của ngân hàng đối với họ bị hạn chế. Để tháo gỡ vấn đề trên đồng thời hỗ trợ vốn có hiệu quả cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành phố cần kiến nghị với Nhà nước đổi mới chính sách vốn đối với loại hình doanh nghiệp này theo hướng: Ưu đãi lãi suất và khuyến khích thành lập các trung tâm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể là: - Ưu đãi lãi suất: Lãi suất vay hiện nay là khá cao đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, do số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế khá lớn mà nguồn tài chính để hỗ trợ thì có hạn, nên khó có thể ưu đãi được tất cả các doanh nghiệp này. Do vậy, trong chính sách ưu đãi vốn cần chọn đúng đối tượng với nguồn lực ít thì mới có thể hỗ trợ hiệu quả. Chỉ nên ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp có triển vọng kinh doanh hiệu quả, các doanh nghiệp gắn với nhiệm vụ chiến lược và hộ trợ cho các hoạt động đầu tư vào công nghệ mới, sản xuất thử, nghiên cứu ứng dụng khoa học, công nghệ mới, đào tạo nghề, các hoạt động dịch vụ tư vấn... tuy nhiên để hỗ trợ được nhiều doanh nghiệp trong điều kiện tài chính có hạn cần có những giải pháp đặc biệt, một trong những giải pháp đó là trợ cấp lãi suất cho đối tượng được hỗ trợ, tức là bù chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay. - Thành lập các quỹ hỗ trợ: Cần huy động các nguồn vốn để thành lập quỹ hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đối với các địa phương như T.P Thái Nguyên thì các nguồn vốn có thể là: Từ ngân sách thành phố, từ các doanh nghiệp lớn, từ các tổ chức trong và ngoài nước. Quỹ này có thể do nhà nước quản lý và cũng có thể thuê một trung tâm chuyên trách quản lý. Quỹ này hỗ trợ cho các hoạt động như đào tạo chủ doanh nghiệp, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, hỗ trợ cho các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hoạt động về cung cấp thông tin kinh tế, khoa học công nghệ... cần thiết cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. - Thành lập trung tâm bảo lãnh: Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ một trong những khó khăn nhất là không có tài sản thế chấp để vay vốn ngân hàng. Do đó rất cần các tổ chức trung gian làm cầu nối giữa doanh nghiệp và ngân hàng để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn. Một trong các hình thức đó là quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn, vừa là hình thức ràng buộc chặt chẽ giữa người vay vốn (doanh nghiệp), người cho vay (ngân hàng), tổ chức trung gian (các công ty bảo lãnh) là Nhà nước, nhờ đó mà giảm bớt được mức độ rủi ro khi vay vốn. 2.4. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại Như đã trình bày chương II, hiện nay gần như 100% máy móc thiết bị của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đều do các doanh nghiệp Nhà nước thải ra hoặc là máy móc tự tạo. Giá trị máy móc thiết bị chỉ chiếm khoảng từ 10 - 20% giá trị tài sản của doanh nghiệp. Chính vì vậy, chất lượng sản phẩm thấp, giá thành sản phẩm cao đã dẫn đến sản phẩm khó có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thông qua việc áp dụng kỹ thuật tiên tiến, thành phố Thái Nguyên cần thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ sau: Thứ nhất, cần có chính sách hỗ trợ vật chất cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện việc đầu tư đổi mới công nghệ như: - Thực hiện chính sách ưu đãi về thuế và tín dụng đối với những tư nhân vay vốn cho mục đích đầu tư đổi mới thiết bị và công nghệ, - Thực hiện ưu tiên miễn giảm thuế cho các sản phẩm có hàm lượng khoa học - kỹ thuật cao, các sản phẩm mới do các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ sản xuất ra, - Miễn thuế trong 3 năm đầu và giảm 50% cho hai năm tiếp theo như đề nghị của Bộ khoa học công nghệ và môi trường đã đề xuất. Thứ hai, cần xây dựng quỹ hỗ trợ phát triển công nghệ, tổ chức bảo lãnh tín dụng cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn, áp dụng lãi suất thấp cho các doanh nghiệp vay vốn để đổi mới kỹ thuật - công nghệ hoặc áp dụng các phương pháp quản trị sản xuất, quản trị chất lượng sản phẩm tiên tiến. Thứ ba, xây dựng các trung tâm hỗ trợ kỹ thuật tại thành phố để trực tiếp giúp đỡ các doanh nghiệp về các mặt: chế thử sản phẩm, đảm bảo các hoạt động đo lường, thử nghiệm chất lượng sản phẩm,... Thứ tư, thường xuyên cung cấp cho các doanh nghiệp những thông tin về công nghệ tiên tiến, tình hình thị trường và các quá trình chuyển giao thông qua các hình thức như: hội thảo, tham quan, triển lãm,... giúp các doanh nghiệp tự xác định được những công nghệ hiện đại, phù hợp. 2.5. Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý và lao động có tay nghề cao Như đã trình bày, hiện nay trình độ đội ngũ lao động làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên khá thấp. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh của các doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng trên, thành phố Thái Nguyên cần phải có những giải pháp mang tính hệ thống và đồng bộ nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp. - Ngoài các tổ chức, các trung tâm dạy nghề cácc cơ sở đào tạo hiện có, cần sớm đào tạo dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đồng thời đầy mạnh hoạt động của các trung tâm hiện có. Thông qua các tổ chức đào tạo dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thành phố có thể thực hiện sự tài trợ về tài chính cho việc đào tạo, tài trợ đội ngũ cán bộ giảng dạy và các chương trình giảng dạy. - Thường xuyên bồi dưỡng các kiến thức quản trị, kiến thức kinh tế thị trường cho đội ngũ các chủ doanh nghiệp. Tiến hành đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản trị đã có, cung cấp cho họ những thông tin, những kiến thức mới, những phương thức quản trị tiên tiến, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị trường. - Kết hợp với các trường đại học trên địa bàn để tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng chủ doanh nghiệp, tiến đến chỉ cấp giấy phép hoạt động cho các cơ sở có chủ doanh nghiệp đã được đào tạo. - Đối với các nghệ nhân, lao động có kỹ thuật cao trong các nghề truyền thống như: Đúc gang, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản cần có chính sách để họ đóng góp phát triển các ngành nghề, mặt khác dạy nghề và truyền nghề cho lớp công nhân trẻ. - Thành lập các trung tâm tư vấn về quản trị kinh doanh với đối tượng chủ yếu và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ. - Xem xét lại các chương trình đào tạo hiện có, đồng thời tăng cường các mối liên hệ, hợp tác trao đổi giữa các cơ sở đào tạo và các doanh nghiệp trong việc xây dựng chương trình, mục tiêu đào tạo để nâng cao chất lượng của công tác đào tạo và phục vụ có hiệu quả hơn, trực tiếp hơn cho các doanh nghiệp. 2.6. Nhà nước cần khuyến khích và hỗ trợ việc thành lập các tổ chức phi chính phủ nhằm mục đích hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hiện nay ở thành phố Thái Nguyên cần thiết phải hình thành một trung tâm tư vấn hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng với chức năng sau: - Hỗ trợ đào tạo các nhà quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ phấn đấu để các chủ doanh nghiệp khởi sự kinh doanh trên địa bàn thành phố Thái Nguyên đều có những kiến thức cần thiết về kinh doanh. Trung tâm có thể đặt quan hệ với các trường đại học ở địa phương, với các tổ chức, doanh nghiệp nước ngoài trong việc đào tạo nhân sự cho các doanh nghiệp. - Chức năng thứ hai của trung tâm là tư vấn cho các chủ doanh nghiệp về các vấn đề như: lập dự án đầu tư, quảng cáo, kế toán, thực hiện dịch vụ cung cấp thông tin thị trường, nghiên cứu, xuất bản các sách báo nhằm nâng cao kiến thức về kinh doanh. - Làm trung gian giữa các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh kể cả đối tác nước ngoài. Trung tâm có thể thực hiện việc đàm phán, giao dịch với các bạn hàng nước ngoài, các tổ chức phi Chính phủ, tổ chức triển lãm, giới thiệu sản phẩm, thông qua đó các chủ doanh nghiệp có thể tìm kiếm các đối tác đầu tư, tìm kiếm thị trường và các nguồn tài trợ từ bên ngoài để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Cùng với quá trình phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, trong một tương lai không xa hiệp hội các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn thành phố Thái Nguyên cũng cần được thành lập. Hiệp hội sẽ cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp giải quyết các thủ tục hành chính, là chiếc cầu nối giữa các doanh nghiệp và các cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết các vấn đề thủ tục. Hiệp hội cũng là nơi đứng ra bênh vực quyền lợi của các chủ doanh nghiệp. Trong hiệp hội này các doanh nghiệp có thể tìm thấy sự bảo trợ chính của hiệp hội. Trên đây là một số giải pháp chủ yếu để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Thái Nguyên hiện nay. Những giải pháp trên có liên quan chặt chẽ với nhau, do vậy trong quá trình thực hiện cần chú ý đến tính đồng bộ của nó. Tách rời các biện pháp hoặc chỉ thực hiện một cách cục bộ khó có thể đem lại những hiệu quả thiết thực, lâu dài. Kết luận Phát triển DNV&N nói chung và các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ nói riêng luôn là mối quan tâm của nhiều quốc gia. Đối với nước ta, một nước đang phát triển, lại đang trong quá trình đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì phát triển loại hình doanh nghiệp này càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, trên thực tế việc nghiên cứu, hình thành hệ thống xúc tiến hỗ trợ phù hợp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển là công việc hết sức phức tạp , đòi hỏi nhiều thời gian, công sức của nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức và nhiều người. Trong khung khổ bài viết này tôi đã phân tích thực trạng và đưa ra một số giải pháp chủ yếu để phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trên phạm vi một địa bàn lãnh thổ cụ thể- Thành phố Thái Nguyên. Bài viết này đã hoàn thành được những nội dung khoa học cơ bản sau: - Thứ nhất, đã hệ thống hóa được một số những vấn đề lý luận cơ bản về DNV&N, đặc biệt là đã đưa ra và lý giải những tiêu thức xác định DNV&N ở nước ta hiện nay. Khẳng định vai trò to lớn và lâu dài của các DNV&N trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hoá đưa nước ta thành một nước giàu mạnh, văn minh và hiện đại. - Thứ hai, đã phân tích, đánh giá một cách toàn diên, cụ thể tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh trên địa bàn Thành phố Thái Nguyên. Trong đó bài viết đã đi sâu phân tích những hạn chế, khó khăn mà các doanh nghiệp này gặp phải trong quá trình hoạt động, đồng thời chỉ rõ nguyên nhân của những hạn chế đó. - Thứ ba, trên cơ sở đánh giá những ưu nhược điểm chủ yếu, bài viết đã đưa ra năm quan điểm định hướng phát triển chung cho các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời đề xuất một hệ thống các giải pháp, phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Thành phố Thái Nguyên trong thời gian tới. Tuy những giải pháp này chỉ mang tính định hướng, chưa đi vào cụ thể nhưng có thể xem đó là tài liệu tham khảo cần thiết cho các nhà hoạch định chính sách và các chủ doanh nghiệp. Hy vọng rằng nó có thể góp một phần nhỏ vào sự phát triển công nghiệp của địa phương. Tài liệu tham khảo 1. Niên giám thống kê TPTN 1996-1999 2, Niên giám thống kê tỉnh Thái Nguyên 1996-1999 3. Các báo cáo tổng kết của Phòng CNTPTN 1996-2000 4. Văn kiện đại hội Đảng bộ TPTN lần thứ 14 5. Giáo trình những nội dụng cơ bản về quản trị doanh nghiệp vừa và nhỏ – Tác giả TS Đồng Xuân Ninh 6. Phát triển các doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội – Tác giả PGS. PTS Lê Văn Tâm – NXB Chính trị quốc gia . 7. Chính sách hộ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.- NXB Chính trị quốc gia. 8. Vấn đề phát triển công nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta- NXB Chính trị quốc gia. 9. Tạp chí Công nghiệp nhẹ các số: 6; 9; 10/1995. 10. Tạp chí Phát triển kinh tế số 10/1996; 64/1996; 96/1998. 11. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 1/1999, số 4/1996, số 10/2000. 12. Tạp chí Tài chính số 7/1995, số 5/1997, số 12/1998, số 1/2000. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0168.doc
Tài liệu liên quan