Tài liệu Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam: ... Ebook Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam
112 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1507 | Lượt tải: 2
Tóm tắt tài liệu Phát triển dịch vụ ngân hàng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
--------------------------
NGUYỄN THỊ THU HIỀN
PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 60 34 05
LUẬN VĂN THẠC SỸ QUẢN TRỊ KINH DOANH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THỊ THƯ
Hà Nội - Năm 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là: Nguyễn Thị Thu Hiền
Sinh ngày: 30/12/1983
Là học viên cao học của Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
Đến nay tôi đã hoàn thành các môn học và luận văn thạc sĩ với đề tài: “Phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam”.
Thuộc ngành: Quản trị kinh doanh.
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh.
Mã số 60 34 05.
Tôi xin cam đoan danh dự, công trình khoa học với đề tài “Phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam” là của tôi. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước Ban giám hiệu nhà trường.
Xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan
Nguyễn Thị Thu Hiền
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
APEC
Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ATM
Máy rút tiền tự động
AFTA
Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á
CIC
Trung tâm thông tin tín dụng
CP
Chính phủ
CNH-HĐH
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá
DN
DNNVV
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp nhỏ và vừa
GDV
Giao dịch viên
KH
Khách hàng
NHTM
Ngân hàng thương mại
NHTMCPCT
Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
WTO
Tổ chức thương mại thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Trang
1. Bảng 2.1: Phân loại lao động tại thời điểm 31/12/2008
31
2. Bảng 2.2: Mạng lưới hoạt động của NHTMCPCT giai đoạn 2003 - 2008
31
3. Bảng 2.3: Thu nhập và chi phí của NHTMCPCT trong giai đoạn 2003 - 2008
35
4. Bảng 2.4.: Nguồn vốn huy động của NHTMCPCT
37
5. Bảng 2.5: Cơ cấu tiền giử có kỳ hạn và không kỳ hạn
37
6. Bảng 2.6: Cơ cấu cho vay tại NHTMCPCT
40
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
1. Biểu đồ 2.1: Cơ cấu tổ chức của NHTMCPCT
32
2. Biểu đồ 2.2: Mô hình tổ chức của Trụ sở chính
33
3. Biểu đồ 2.3: Cơ cấu nguồn vốn huy động của NHTMCPCT
36
4. Biểu đồ 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay của NHTMCPCT
40
5. Biểu số 2.5: Doanh số mua bán ngoại tệ với khách hàng của toàn hệ thống
44
6. Biểu số 2.6: Hệ số mua bán ngoại tệ với các tổ chức tín dụng khác
44
7. Biểu số 2.7: Tình hình thanh toán xuất nhập khẩu từ 2003 - 2008
46
8. Biểu số 2.8: Mức tăng trưởng GDP của Việt nam trong những năm qua
59
9. Biểu số 2.9: So sánh quá trình phát triển các sản phẩm dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại của các ngân hàng hàng đầu thế giới so với NHTMCPCT
68
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây với nhiều chủ trương, đường lối, chính sách Việt Nam đã tạo điều kiện và môi trường thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của người sử dụng. Trong bối cảnh đó, ngân hàng Nhà nướcViệt Nam và các tổ chức tín dụng không ngừng nỗ lực hướng tới đổi mới cơ chế, chính sách và tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ ngân hàng. Dịch vụ ngân hàng đã có những chuyển biến tích cực về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, hội nhập kinh tế toàn cầu.
Đó cũng là lý do cho việc ra đời của chỉ thị số 49/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 05 năm giai đoạn 2006 - 2010. Theo đó, vị trí và vai trò của khu vực dịch vụ được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn để phát triển kinh tế đất nước, dịch vụ cũng được xem là lĩnh vực có tiềm năng phát triển, tạo ra sức cạnh tranh cao để góp phần tăng tỷ trọng dịch vụ trong GDP lên 45%.
Theo mục tiêu đặt ra, đến năm 2010 Việt Nam phấn đấu phát triển được hệ thống tiền tệ - ngân hàng ổn định, an toàn, hiệu quả bền vững và hội nhập quốc tế. Trong đó, các tổ chức tín dụng Việt Nam được hiện đại hoá, hoạt động đa năng, cung cấp các dịch vụ ngân hàng đa dạng với chất lượng cao, đạt trình độ phát triển trung bình tiên tiến trong khu vực và có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Phát triển dịch vụ ngân hàng đa dạng, đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu của nền kinh tế trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả các dịch vụ ngân hàng truyền thống, cải tiến thủ tục giao dịch, trong đó đặc biệt coi trọng dịch vụ huy động vốn và cấp tín dụng, đồng thời tiếp cận nhanh hoạt động ngân hàng hiện đại và dịch vụ tài chính, ngân hàng mới có hàm lượng công nghệ cao để đáp ứng tốt nhu cầu của nền kinh tế và tối đa hoá giá trị gia tăng cho các tổ chức tín dụng, khách hàng và xã hội.
Trên cơ sở định hướng phát triển dịch vụ nói chung của Việt Nam, định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng nói riêng của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Là một trong những ngân hàng hàng đầu của Việt Nam, ngân hàng Công thương Việt Nam đã và đang cung ứng hầu hết các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống tới tất cả các khách hàng trong phạm vi cả nước, cũng như các ngân hàng đối tác trong và ngoài nước khác nhau. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi ngân hàng Công thương Việt Nam tiếp tục hoàn thiện và nâng cao các sản phẩm dịch vụ truyền thống, đồng thời ứng dụng phát triển các sản phẩm dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu xã hội.
Các ngân hàng Việt Nam hiện nay chủ yếu kinh doanh tín dụng, nguồn thu lợi nhuận chính cũng từ việc huy động vốn và cho vay. Những biến động của thị trường tiền tệ vừa qua cho thấy, việc chỉ đứng trên “một chân” tín dụng sẽ có rất nhiều rủi ro; từ trong khó khăn này, việc các ngân hàng cần chú ý tập trung mạnh hơn cho phát triển dịch vụ là mối quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý NHTM, để có thể đứng vững trên cả "hai chân". Điều này, cũng rất phù hợp với xu thế phát triển của thị trường vốn Việt Nam.
Bởi vậy, đề tài “Phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam” là nghiên cứu mang tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài “phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng Công thương Việt Nam” đã có một số tác giả nghiên cứu trước đây. Các nghiên cứu này tập trung vào giải pháp phát triển các dịch vụ truyền thống như huy động vốn, tín dụng, kinh doanh ngoại tệ,… Tuy nhiên, qua cuộc khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu vừa qua làm cho tình hình tài chính thế giới nói chung và dịch vụ ngân hàng nói riêng biến động không ngừng, vì vậy cần phải có những giải pháp phát triển dịch vụ cho phù hợp với tình hình thực tế. Hơn nữa, ngân hàng Công thương Việt Nam hiện đã chuyển sang mô hình công ty cổ phần nên những nghiên cứu này đã không còn phù hợp với tình hình thực tế của ngân hàng.
Đề tài tôi nghiên cứu sẽ đưa ra các giải pháp, tập trung vào các vấn đề: phát triển hơn nữa các dịch vụ hiện có; áp dụng các dịch vụ mới phù hợp với ngân hàng; dịch vụ nào nên tập trung phát triển, dịch vụ nào chưa cần tập trung. Các giải pháp đưa ra dựa trên việc nghiên cứu nhu cầu của người dân, doanh nghiệp Việt Nam, đảm bảo các giải pháp đưa ra là phù hợp với tình hình thực tiễn tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm các giải pháp để phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng Công thương Việt Nam. Để thực hiện được điều này cần phải: làm sáng tỏ lý luận về sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhân tố ảnh hưởng tới việc phát triển sản phẩm dịch vụ ngân hàng; phản ánh thực trạng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng Công thương Việt Nam, đánh giá kết quả đạt được cũng như hạn chế và nguyên nhân gây ra hạn chế.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: dịch vụ ngân hàng ở ngân hàng Công thương Việt Nam;
Phạm vi nghiên cứu: hoạt động ngân hàng của ngân hàng Công thương Việt Nam trong giai đoạn 2002 - 2008, đồng thời so sánh với định hướng phát triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2015 và các năm tiếp theo của hệ thống các NHTM tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung (lý luận): phương pháp biện chứng lôgic, phương pháp phân tích thống kê, phân tích hoạt động kinh tế,...
Phương pháp cụ thể: điều tra bảng hỏi, phương pháp nghiên cứu tài liệu,...
Phân tích các nguồn tài liệu như là các tạp chí và báo cáo trong ngành ngân hàng, các tài liệu lưu trữ của Tổng cục thống kê. Phân tích số liệu sẵn có về thực trạng phát triển dịch vụ tại ngân hàng Công thương Việt nam trong những năm gần đây. Và các số liệu về nhu cầu được sử dụng ngân hàng của các cá nhân và tổ chức kinh doanh, thông qua đó đánh giá các nhân tố thúc đẩy phát triển, các nhân tố kìm hãm sự pháp triển dịch vụ, từ đó đưa ra các giải pháp để phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng Công thương Việt Nam.
6. Dự kiến những đóng góp mới của luận văn
Hệ thống hoá các vấn đề lý luận về ngân hàng thương mại và dịch vụ ngân hàng thương mại;
Đánh giá được thực trạng các dịch vụ ngân hàng của ngân hàng Công thương Việt Nam;
Đề xuất một số giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng tại ngân hàng Công thương Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu nội dung đề tài bao gồm ba chương:
Chương 1: Dịch vụ của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng các dịch vụ ngân hàng của NHTMCP Công Thương Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng tại NHTM CôngThương Việt Nam
Vì thời gian nghiên cứu, kiến thức có hạn, phạm vi dịch vụ ngân hàng rộng lớn nên tác giả sẽ tập trung nghiên cứu hoàn thiện và phát triển một số dịch vụ phi tín dụng của ngân hàng công thương Việt nam. Xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, các bạn đọc gần xa, đặc biệt là TS. Nguyễn Thị Thư đã hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành đề tài này.
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ CỦA NHTM
1.1. Ngân hàng thương mại và vai trò của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại
NHTM trước hết là một doanh nghiệp thực hiện kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất như các loại hình doanh nghiệp khác, nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh, góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Ở góc độ rộng hơn, Peter .S.Rose định nghĩa ngân hàng nói chung như sau: “ngân hàng là một tổ chức tài chính cung cấp các danh mục dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, đồng thời thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Vai trò ngân hàng thương mại trong nền kinh tế
Ngân hàng ra đời và phát triển một cách tự phát qua một quá trình lâu dài gắn với sự phát triển của nền kinh tế. Kinh tế càng phát triển sẽ càng làm cho ngân hàng và các hoạt động của ngân hàng ngày càng phát triển. Lý thuyết tiền tệ đã chỉ ra rằng: tiền tệ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế được coi như là máu huyết đối với cơ thể, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế - nhận tiền gửi và cho vay - thì trên thực tế ngân hàng đã phải thực hiện nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng các nhu cầu của xã hội. Các ngân hàng ngày nay có những vai trò cơ bản sau:
Vai trò trung gian: chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức kinh tế thành các khoản vay (cấp tín dụng) để đáp ứng nhu cầu về vốn cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần kinh tế khác.
Vai trò thanh toán: thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ, phân phối tiền giấy và tiền đúc.
Vai trò người bảo lãnh: cam kết trả nợ thay cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán.
Vai trò đại lý: thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản, phát hành hoặc chuộc lại chứng khoán.
Vai trò chính sách: thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
Từ 5 vai trò cơ bản trên của NHTM, có thể nhận thấy rằng ngân hàng hoạt động như một “trạm bơm”, vừa bơm tiền để nuôi dưỡng và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, vừa thu hút nguồn tiền nhàn rỗi từ nền kinh tế, giúp cho lưu thông tiền tệ được điều hoà một cách hợp lý và hiệu quả nhất.
“Trung gian tài chính” là một tổ chức hoặc cá nhân đứng giữa hai hay nhiều bên tham gia vào một bối cảnh tài chính. Tại Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, trung gian tài chính thường là một tổ chức trung gian cho kênh luân chuyển vốn giữa người đi vay và người cho vay. NHTM cũng là một trung gian tài chính, thực hiện nhiệm vụ làm trung gian giữa người đi vay (khách hàng vay vốn) và người cho vay (khách hàng gửi tiền), cung cấp những dịch vụ tài chính phù hợp để huy động vốn và cho vay.
Hoạt động trung gian của NHTM sẽ diễn ra: (i) nếu có một mức chênh lệch dương giữa thu nhập dự tính từ việc cho vay đối với nhóm “thâm hụt” và chi phí dự tính mà ngân hàng phải bỏ ra để huy động từ nhóm “thặng dư” và (ii) nếu có một tương quan dương giữa lãi suất cho vay và chi phí huy động. Nếu quan hệ giữa lãi suất cho vay và chi phí huy động là tương quan dương sẽ làm giảm tính bất trắc của lợi nhuận dự tính, khuyến khích các NHTM tiếp tục huy động vốn để cho vay.
NHTM cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của khách hàng. Các công cụ tài chính được coi là thanh khoản nếu chúng có thể được bán nhanh chóng với rủi ro thấp nhất.
1.2. Dịch vụ ngân hàng của NHTM
Để hiểu rõ dịch vụ ngân hàng là gì, cần nắm rõ nguồn gốc của dịch vụ, các đặc trưng cơ bản của dịch vụ là gì?
Dịch vụ và các đặc trưng cơ bản của dịch vụ
1.2.1.1 Dịch vụ
Sự phát triển mạnh mẽ và phân công lao động trong xã hội ngày càng sâu và rõ nét, các ngành sản xuất vật chất và phục vụ đời sống con người ngày càng phát triển nhằm đáp ứng và thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của con người. Ngành dịch vụ ra đời cùng với sự xuất hiện của kinh tế hàng hoá, tuy nhiên trong giai đoạn đầu thì dịch vụ được quan niệm chỉ là ngành thương nghiệp với nhiệm vụ chủ yếu ở khâu lưu thông, phân phối và người ta quan niệm dịch vụ như là một sự mua bán hàng hoá,... Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, vai trò của ngành dịch vụ ngày càng quan trọng, quan niệm về dịch vụ cũng ngày càng thay đổi theo. Theo đó, lĩnh vực dịch vụ không chỉ đơn thuần làm chức năng lưu thông, phân phối mà còn được phát triển rất đa dạng với nhiều ngành khác nhau: bưu chính viễn thông, y tế, giáo dịch, vận tải, du lịch, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ tư vấn,...
Vậy, dịch vụ là gì? quan niệm chung nhất về dịch vụ là như thế nào? Dịch vụ là những hoạt động lao động mang tính xã hội, tạo ra các sản phẩm hàng hoá không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển quyền sở hữu nhằm thoả mãn kịp thời, thuận lợi và hiệu quả các nhu cầu của sản xuất và đời sống của con người.
1.2.1.2 Đặc trưng cơ bản của dịch vụ
Cũng giống như lĩnh vực sản xuất vật chất khác, hoạt động dịch vụ cũng sử dụng lao động sống và lao động vật hoá dưới cả hình thức gián tiếp và trực tiếp để tạo ra sản phẩm cho xã hội. Tuy nhiên, dịch vụ có những đặc trưng riêng có, cụ thể:
Chất lượng dịch vụ không ổn định: chất lượng dịch vụ thường dao động trong một khoảng rất rộng do phụ thuộc vào nguồn cung ứng, thời gian và địa điểm cung ứng dịch vụ. Khác với các ngành sản xuất vật chất, chất lượng sản phẩm được quy định theo một tiêu chuẩn nhất định, nhưng đối với ngành dịch vụ rất khó có thể xác định tiêu chuẩn cố định cho một loại dịch vụ, và thông thường người ta cũng chỉ có thể tiêu chuẩn hoá dịch vụ ở một góc độ nhất định nào đó, vì dịch vụ phụ thuộc nhiều vào hoàn cảnh tiếp xúc, sự tác động qua lại giữa bên cung ứng và người tiêu dùng dịch vụ.
Sản phẩm của ngành dịch vụ có độ co giãn cung cầu không ổn định.
Dịch vụ có thể được sử dụng nhiều lần do các yếu tố cấu thành dịch vụ thường không mất đi sau khi cung ứng: thông thường hoạt động dịch vụ sau khi đã được thực hiện thì các yếu tố cấu thành dịch vụ không mất đi sau khi cung ứng. Bởi vì nhiều hoạt động dịch vụ mang tính kỹ năng, được lặp đi lặp lại nhiều lần và thậm chí sau nhiều lần phục vụ, những kỹ năng này còn hướng tới sự hoàn thiện hơn.
Dịch vụ mang tính vô hình: tính vô hình của dịch vụ thể hiện ở chỗ dịch vụ “là những thứ mà khi đem bán không thể rơi vào chân bạn” Liberalizing international Transactions in Services, tr.1
. Quá trình sản xuất hàng hóa tạo ra những sản phẩm hữu hình có tính chất cơ, lý, hoá học,... nhất định, có tiêu chuẩn về kỹ thuật cụ thể và do đó có thể sản xuất theo tiêu chuẩn hóa. Khác với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất bằng những vật phẩm cụ thể, không nhìn thấy được và do đó không thể xác định chất lượng dịch vụ trực tiếp bằng những chỉ tiêu kỹ thuật được lượng hóa.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời: trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất hàng hoá tách khỏi lưu thông và tiêu dùng. Do đó hàng hoá có thể lưu kho để dự trữ, có thể vận chuyển đi nơi khác theo yêu cầu của thị trường. Khác với hàng hoá, quá trình cung ứng dịch vụ gắn liền với tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ: dịch vụ tư vấn đầu tư, khi chuyên gia về đầu tư tư vấn khách hàng cũng là lúc khách hàng tiếp nhận và xong dịch vụ tư vấn do chuyên gia đó cung ứng.
Không thể lưu trữ được dịch vụ: sự khác biệt này là do sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và lưu giữ trong kho sau đó mới tiêu dùng.
1.2.1.3 Phân loại dịch vụ
Trên cơ sở các tiêu thức khác nhau, người ta phân chia dịch vụ thành hai loại: dịch vụ có tính chất sản xuất và dịch vụ không có tính chất sản xuất; nếu theo đối tượng phục vụ: dịch vụ có tính chất xã hội và dịch vụ có tính chất cá nhân; trên giác độ tài chính dịch vụ được phân chia thành: dịch vụ trả tiền và dịch vụ không phải trả tiền,…
Dịch vụ ngân hàng
1.2.2.1 Khái niệm
Cho đến nay, trên thế giới chưa có một khái niệm chuẩn hoá nào về dịch vụ ngân hàng. Theo WTO thì định nghĩa về dịch vụ ngân hàng vẫn chưa tách bạch khỏi dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam từ trước đến nay cũng chưa có một quy định thống nhất nào liên quan đến định nghĩa về dịch vụ ngân hàng. Có quan điểm cho rằng, dịch vụ ngân hàng không thuộc phạm vi kinh doanh tiền tệ và các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng theo chức năng của một trung gian tài chính (cho vay, nhận tiền gửi,...), các hoạt động khác như (chuyển tiền, thu uỷ thác, mua bán hộ, môi giới kinh doanh chứng khoán,...). Tuy nhiên, có rất nhiều quan điểm cho đến thời điểm hiện tại đều quan niệm rằng tất cả các hoạt động tín dụng, nhận tiền gửi, chuyển tiền,...được cung ứng bởi ngân hàng đều được coi là dịch vụ ngân hàng, theo đó người ta định nghĩa như sau:
Dịch vụ ngân hàng được hiểu theo thông lệ quốc tế đó là các công việc trung gian về tiền tệ của các tổ chức nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo đảm an toàn, đem lại nguồn thu phí cho các tổ chức cung ứng dịch vụ.
1.2.2.2 Các dịch vụ ngân hàng
Theo Peter. S Rose thì dịch vụ ngân hàng được phân loại thành 2 loại khác nhau tuỳ thuộc vào thời gian và trình độ phát triển của nền kinh tế cũng như khả năng cung ứng của ngân hàng.
a) Dịch vụ truyền thống của ngân hàng
Thực hiện trao đổi ngoại tệ: một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại tiền này để lấy một loại tiền khác. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại: thời kỳ đầu ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho các công ty vay - những người bán các khoản phải thu của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp nhằm giúp khách hàng có vốn để mua hàng dự trữ, xây dựng và mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất.
Nhận tiền gửi: cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do vậy các NHTM đã tìm kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm của khách hàng với các thời hạn khác nhau, lãi suất khác nhau.
Bảo quản vật có giá: các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện bảo quản vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản từ thời Trung cổ. Một điều khá lý thú là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát hành cho khách hàng (ghi nhận về các tài sản đang được lưu giữ) có thể lưu hành như tiền - đó là hình thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: thời kỳ Trung cổ, các NHTM được cấp giấy phép hoạt động với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà họ huy động được. Các ngân hàng cam kết cho Chính phủ vay để tài trợ các hoạt động trong thời kỳ chiến tranh.
Cung cấp các tài khoản giao dịch: cuộc cách mạng công nghiệp ở châu Âu và châu Mỹ đã đánh dấu sự ra đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một trong những dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch - một tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
Cung cấp dịch vụ uỷ thác: đã từ lâu, các NHTM thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại, thông qua đó để thu phí. Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ uỷ thác (trust services). Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình; và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp.
b) Dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây
Cho vay tiêu dùng: lịch sử đã cho thấy, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình do họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Tuy nhiên, từ việc cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã buộc các NHTM phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng trung thành tiềm năng. Cho dù, tín dụng tiêu dùng có những bước thăng trầm nhưng vẫn phải thừa nhận rằng cho vay tiêu dùng đã tạo ra nguồn thu quan trọng trong thu nhập của NHTM.
Tư vấn tài chính: đã từ lâu, khách hàng đã yêu cầu các NHTM cung cấp các dịch vụ tư vấn tài chính, đặc biệt là tiết kiệm và đầu tư. Ngày nay, NHTM cung cấp đa dạng các loại dịch vụ tư vấn tài chính khác nhau từ thuế, kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng của họ.
Quản lý tiền mặt: thực tế đã chỉ ra rằng, một số dịch vụ mà NHTM làm cho bản thân ngân hàng cũng mang lại lợi ích cho khách hàng. Một trong những dịch vụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó NHTM đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh, đồng thời tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Dịch vụ thuê mua thiết bị: rất nhiều NHTM tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó NHTM mua thiết bị và cho khách hàng thuê.
Cho vay tài trợ dự án: các NHTM ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ vốn cho việc xây dựng nhà máy mới, đặc biệt là trong ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao nên chúng thường được thực hiện qua một công ty đầu tư - một công ty thành viên của ngân hàng, cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
Bán các dịch vụ bảo hiểm: trong nhiều năm nay, các NHTM đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc chi trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị chết hay bị tàn phế. Hiện nay, NHTM thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền, theo đó một công ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn phòng đại lý tại ngân hàng, ngân hàng sẽ nhận được một phần thu nhập từ các dịch vụ đó.
Cung cấp các kế hoạch hưu trí: NHTM quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc bị tàn phế. NHTM cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: các NHTM đang phấn đấu để trở thành “tập đoàn tài chính thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính nhằm thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm”. Đây là một trong những lý do chính khiến các NHTM bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
Cung cấp dịch vụ tương hỗ và hỗ trợ: do NHTM cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng sản phẩm đầu tư (investment products) đặc biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung cấp với kỳ vọng thu nhập khả quan hơn tài khoản tiền gửi tiết kiệm, tuy nhiên rủi ro cao hơn.
Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn: NHTM cung cấp dịch vụ bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài trợ mua lại công ty, mua bán chứng khoán cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh phát hành), cung cấp công cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Bên cạnh đó, NHTM cũng tham gia sâu vào thị trường bảo đảm, hỗ trợ cho các khoản nợ được phát hành bởi Chính phủ và công ty phát hành nhằm giúp khách hàng có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do hay từ các tổ chức cho vay khác.
c) Dịch vụ ngân hàng của các ngân hàng thương mại hàng đầu thế giới
Ngân hàng HSBC: với trụ sở chính tại London, HSBC có trên 9.500 văn phòng tại 85 quốc gia và vùng lãnh thổ, phục vụ trên 100 triệu khách hàng trong đó có trên 45 triệu khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử. Tổng tài sản đến ngày 30 tháng 6 năm 2008 là 2.547 tỷ đô la Mỹ. HSBC cung cấp đầy đủ các dịch vụ tài chính, sau đây là một số dịch vụ tiêu biểu:
Dịch vụ dành cho khách hàng cá nhân:
+ Dịch vụ ngân hàng trực tuyến: chỉ cần một cú nhấp chuột là khách hàng có thể sử dụng ngay dịch vụ ngân hàng tực tuyến của HSBC, giao dịch có thể thực hiện ở bất cứ nơi nào, vào bất cứ lúc nào khách hàng muốn.
+ Dịch vụ tài khoản và tiền gửi: lợi ích nổi bật của dịch vụ này là: (i) được phát hành thẻ ATM toàn cầu; (ii) được cung cấp dịch vụ ngân hàng tự động qua điện thoại và dịch vụ ngân hàng trực tuyến miễn phí; (iii) được tư vấn đường dây nóng dịch vụ khách hàng miễn phí 24/24h.
+ Dịch vụ thẻ tín dụng: lợi ích nổi bật của dịch vụ này là: (i) được hưởng chương trình ưu đãi home&away của HSBC cho phép chủ thẻ được hưởng nhiều ưu đãi giảm giá lớn tại 19.000 tổ chức ở trên 40 quốc gia. Ở Việt Nam, chủ thẻ được hưởng ưu đãi khi mua sắm, đi du lịch, giải trí, chăm sóc sức khỏe (giảm từ 10 - 40%) tại các công ty, cửa hàng liên kết với HSBC. Các công ty, cửa hàng liên kết này đều là những công ty, cửa hàng có thương hiệu như: Aigner Starlight Perfume; Eyewear Hut; Eden Spa; Salon and Spa; thời trang Ivy, Nem; nội thất Nhà Xinh;…
+ Dịch vụ bảo hiểm:
(i) Bảo hiểm sức khỏe Medical Care: giúp giảm nhẹ gắng nặng tài chính trong việc chăm sóc sức khỏe, gia đình người mua bảo hiểm có thể an tâm tận hưởng cuộc sống một cách vui khỏe và trọn vẹn. Người mua bảo hiểm có thể được khám chữa bệnh tại các nước phát triển ở châu Á.
(ii) Bảo hiểm an toàn cá nhân: chỉ với chưa đến 4.000 VNĐ/ngày, bảo hiểm an toàn cá nhân sẽ trả số tiền có thể tới 840.000.000 VNĐ nếu như tai nạn xảy ra gây tử vong, thương tật toàn bộ vĩnh viễn, hoặc thương tật bộ phận vĩnh viễn.
+ Dịch vụ thu hộ tiền: chỉ cần khách hàng nhấc điện thoại báo cho HSBC, ngay lập tức sẽ có một bộ phận của HSBC đến phục vụ thu hộ tiền ngay tại nhà, cơ quan của khách hàng.
Dịch vụ dành cho khách hàng doanh nghiệp:
+ Dịch vụ chiết khấu hóa đơn: là giải pháp tài trợ chuyên biệt cho những khoản phải thu hoặc hóa đơn thanh toán có kỳ hạn cho các doanh nghiệp bán hàng trả chậm. HSBC sẽ ứng trước một phần hay toàn bộ giá trị các khoản phải thu từ các người mua đã được HSBC chấp thuận.
+ Dịch vụ giao tiền tại địa điểm chỉ định: HSBC có thể giao tiền cho khách hàng tại địa điểm do khách hàng chỉ định thông qua một bộ phận chuyên trách mảng này của HSBC hoặc thông qua hệ thống các các ngân hàng liên kết (Sacombank, Đông Á, Techcombank,…).
+ Dịch vụ bảo lãnh phát hành trái phiếu: HSBC có thể hỗ trợ doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm đáp ứng nhu cầu huy động vốn lớn với thời hạn dài của doanh nghiệp.
CitiBank: Citibank là ngân hàng có hơn 1 nửa vốn thuộc về Citicorp được thành lập năm 1812 tại Mỹ, có trên 3.400 chi nhánh và trụ sở tại 100 nước. Ngoài các sản phẩm dịch vụ truyền thống, Citibank cung cấp các sản phẩm và dịch vụ nổi bật sau:
Các dịch vụ khách hàng cá nhân toàn diện: gồm có thế chấp tài chính cá nhân, khoản vay cá nhân, thẻ tín dụng, tài khoản tiền gửi và đầu tư, Visa Tralver Monney, đầu tư ngân hàng quốc tế, bảo hiểm nhân thọ và quản lý quỹ.
Các sản phẩm đơn lẻ của Citibank được thiết kế rất sáng tạo, linh hoạt và hoàn toàn phù hợp với các nhu cầu cá nhân của khách hàng. Một ví dụ điển hình là Citibank’s Mortgage Power, hình thức vay tín dụng tuần hoàn đầu tiên của Citibank giúp cho khách hàng có thể tăng lợi nhuận.
Citibank cũng liên kết với các hãng hàng không hàng đầu thế giới để ra mắt các sản phẩm “thẻ đồng thương hiệu”. Chủ thẻ sẽ được hưởng những ưu đãi đặc biệt của Citibank và của các hãng hàng không như giảm giá vé, tặng điểm thưởng, ưu tiên khi mua vé,…
Ngoài ra, Citibank Website còn cung cấp tỉ giá chung, các thông tin sản phẩm, tin tức và thể thao. Các khách hàng có thể thoải mái và tiện lợi khi thực hiện các cuộc giao dịch ngân hàng trực tuyến, là một trong những trang web phong phú và thân thiện với người sử dụng nhất.
Dịch vụ giao dịch ngân hàng, quản lý đầu tư, vay vốn đầu tư, các sản phẩm xây dựng và tổ chức cho vay.
Đặc trưng dịch vụ ngân hàng của NHTM
Hoạt động sản xuất cung ứng dịch vụ của NHTM không như các loại hình sản xuất kinh doanh khác. Thay vào đó nó thực hiện các chức năng trung gia._.n tín dụng, trung gian thanh toán, cung cấp các dịch vụ tiền tệ, tư vấn tài chính cho khách hàng. Bằng việc thực hiện các chức năng trung gian, NHTM nắm giữ trong tay một bộ phận lớn của cải xã hội tồn tại dưới dạng giá trị. NHTM không có quyền sở hữu, chỉ có quyền sử dụng với những điều kiện ràng buộc mà theo đó đòi hỏi NHTM phải chịu trách nhiệm vật chất đối với chủ sở hữu đích thực của nó. “quyền sử dụng các khoản tiền tệ” - là loại nguyên liệu có tính xã hội hoá và tính nhạy cảm cao được ngân hàng sử dụng làm nguyên liệu đối với hoạt động kinh doanh của chính bản thân nó, và xuất phát từ nguyên do này cho thấy tại sao, dịch vụ ngân hàng có những đặc trưng riêng có:
Dịch vụ ngân hàng luôn đề cao tính an toàn trong quá trình hoạt động: điều này được thể hiện rõ nét thông qua hoạt động tín dụng. Ngân hàng huy động vốn từ cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước kèm theo điều kiện hoàn trả cả gốc, lãi khi đáo hạn và đem cho vay đối với cá nhân, tổ chức thiếu vốn khác. Tuy nhiên, nếu việc thực hiện lựa chọn các khách hàng không hiệu quả, lựa chọn dịch vụ cung cấp không hợp lý, không dự trù các biện pháp chống rủi ro,... có thể sẽ dẫn đến việc các ngân hàng mất khả năng thanh toán, dẫn đến phá sản và gây ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Dịch vụ ngân hàng được thực hiện phụ thuộc vào khách hàng. Điều đó được thể hiện qua những yếu tố sau: dịch vụ của ngân hàng không giống như các sản phẩm của ngành khác, sản phẩm này mang hình thái vi vật chất, không thể dự trữ để khi thị trường có nhu cầu là cung cấp được ngay. Thay vào đó, dịch vụ ngân hàng chỉ chính thức được ngân hàng cung cấp khi khách hàng chuyển đến ngân hàng các lệnh, uỷ nhiệm phát sinh từ các quan hệ giao dịch thương mại, tín dụng hoặc phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính nào đó. Đó cũng chính là lý do tại sao, nếu muốn phát triển dịch vụ ngân hàng trước tiên phải quan tâm đến người sử dụng các dịch vụ đó là ai, nhu cầu ra sao,...
Tính cạnh tranh giữa các dịch vụ ngân hàng rất cao: các NHTM sử dụng nguyên liệu chính trong hoạt động kinh doanh là “tiền” - loại nguyên liệu có tính xã hội có tính xã hội hoá và tính nhạy cảm cao do vậy chỉ cần sự thay đổi nhỏ về lãi suất (đầu vào và đầu ra) cũng sẽ tác động đến việc dịch chuyển của khách hàng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác. Điều này càng được thể hiện rõ nét hơn khi một trong số các NHTM phát triển được dịch vụ thu hút được sự ưa chuộng của xã hội thì ngay lập tức sau đó, các NHTM khác cũng sẽ tạo ra dịch vụ tương tự để cạnh tranh trong khi đó để tạo được một sản phẩm, các doanh nghiệp cần phải tốn rất nhiều thời gian dài nghiên cứu ứng dụng và triển khai đối với sản phẩm. Như vậy, tính cạnh tranh cao giữa các NHTM xuất phát từ sự dễ thay đổi của khách hàng trong quan hệ giao dịch với ngân hàng nhằm mục đích các dịch vụ ngân hàng với chi phí thấp nhất và bán nguyên liệu tiền với giá cao nhất.
Quá trình thực hiện dịch vụ ngân hàng phụ thuộc rất nhiều vào môi trường kinh doanh: hoạt động của ngân hàng luôn được giám sát chặt chẽ nhất bởi vì sự đổ vỡ của ngân hàng sẽ kéo theo sự đổ vỡ và làm tê liệt toàn bộ các hoạt động của nền kinh tế trong khi đó việc khôi phục lại các hoạt động này không dễ dàng, đồng thời lại rất tốn kém về mặt thời gian và tiền bạc, ngoài ra mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng dựa chủ yếu vào mức độ tín nhiệm lẫn nhau. Trình độ phát triển kinh tế, tính ổn định của môi trường vĩ mô của các quốc gia khác nhau sẽ là điều kiện tiên quyết cho việc phát triển các dịch vụ ngân hàng.
Sự phụ thuộc rất lớn vào công nghệ ngân hàng khi thực hiện các dịch vụ ngân hàng: cùng với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ nói chung, kéo theo đó là sự phát triển mạnh mẽ trong việc ứng dụng các sản phẩm công nghệ hiện đại vào lĩnh vực ngân hàng. Đây là một trong những nhân tố quan trọng và là nguồn nội lực của ngân hàng trong việc nghiên cứu phát triển và hoàn thiện các dịch vụ sẵn có đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người sử dụng dịch vụ nói riêng và của nền kinh tế nói chung.
1.3. Phát triển dịch vụ ngân hàng thương mại
Khái niệm phát triển dịch vụ ngân hàng
Phát triển dịch vụ ngân hàng là hình thức đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng cung cấp bao gồm phát triển chủng loại dịch vụ cung cấp, mở rộng phạm vi và dung lượng thị trường cung cấp nhằm mục đích phân tán rủi ro, nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh của ngân hàng.
Các hình thức phát triển dịch vụ ngân hàng thường được áp dụng kể từ trước đến nay:
Cung cấp các dịch mới trên thị trường hiện có hoặc trên thị trường mới
Cung cấp các dịch hiện có trên thị trường mới
Kết hợp nhiều dịch vụ hiện có với nhau nhằm tận dụng tối đa nguồn lực sẵn có của ngân hàng để cung cấp cho khách hàng.
Dịch vụ có nhiều tính chất đặc thù khác với sản phẩm cụ thể, tuy nhiên xét một cách tổng quát nhất, dịch vụ cũng có thể coi là sản phẩm. Ngân hàng thường cung cấp một số sản phẩm nhất định. Chủng loại và số lượng của các dịch vụ này tạo nên danh mục dịch vụ của các ngân hàng. Các dịch vụ trong danh mục dịch vụ này có thể có quan hệ với nhau theo nhiều kiểu khác nhau: các dịch vụ hỗ trợ, các dịch vụ thay thế, bổ sung,... Các chủng loại của dịch vụ nhiều hay ít tuỳ thuộc vào chính sách dịch vụ mà ngân hàng theo đuổi (chính sách chuyên môn hoá hay chính sách đa dạng hoá dịch vụ). Trong quá trình phát triển của ngân hàng, các danh mục các dịch vụ thường không cố định mà có sự thay đổi thích ứng với sự thay đổi của môi trường, nhu cầu của thị trường và điều kiện kinh doanh. Điều này thể hiện sự năng động và nhạy bén của ngân hàng với sự thay đổi của môi trường kinh doanh và nhu cầu của khách hàng, tạo cho ngân hàng khả năng cạnh tranh cao trong việc thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Sự biến đổi danh mục dịch vụ của ngân hàng gắn liền với sự phát triển dịch vụ theo một trong hai hướng phát triển sau:
Nâng cao và hoàn thiện dịch vụ ngân hàng hiện có, theo đó các dịch vụ của ngân hàng sẽ được phát triển theo chiều sâu và ngày càng nâng cao chất lượng hoàn thiện các tính năng sẵn có để giảm thiểu sai sót, tạo sự hài lòng và đáp ứng các kỳ vọng của người sử dụng cũng như giảm thiểu rủi ro của ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng.
Phát triển các dịch vụ mới (phát triển theo chiều rộng), theo đó dịch vụ mới được ngân hàng cung cấp bao gồm các dịch vụ tuy đã đang được sử dụng trên thị trường nhưng đó là dịch vụ ngân hàng mới phát triển. Dịch vụ mới hoàn toàn là dịch vụ mới đối với cả ngân hàng và cả thị trường. Đây là một quá trình tương đối phức tạp và khó khăn, chi phí dành cho việc nghiên cứu, thiết kế, thử nghiệm trên thị trường rất cao. Một dịch vụ có được coi là mới hay không còn bị phụ thuộc vào cách mà thị trường mục tiêu nhìn nhận về nó. Nếu khách hàng cho rằng, dịch vụ này khác đáng kể so với dịch vụ của ngân hàng cạnh tranh, thì nó sẽ được coi là dịch vụ mới.
Phát triển theo chiều rộng và theo chiều sâu là những hướng phát triển được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Việc tăng trưởng, mở rộng quy mô cũng như khai thác triệt để những ưu điểm, tiện ích tuy đã tồn tại nhưng chưa phát triển được của một sản phẩm, nhóm sản phẩm sẽ góp phần đa dạng hóa các dịch vụ ngân hàng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của khách hàng, đồng thời nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Hiện nay, hầu hết các ngân hàng đều tập trung theo cả hai hướng là hoàn thiện các dịch vụ hiện có và phát triển các dịch mới.
Các tiêu thức phản ánh mức độ phát triển dịch vụ NHTM
1.3.2.1 Tiêu thức phản ánh chất lượng dịch vụ
Chất lượng dịch vụ phản ánh trình độ phát triển của ngân hàng, phản ánh mức độ chuyên nghiệp và khả năng cung cấp dịch vụ của NHTM trong phạm vi kinh doanh của ngân hàng đó. Chất lượng dịch vụ sẽ tạo uy tín, danh tiếng và khả năng thu hút khách hàng mới và duy trì phát triển khách hàng sẵn có của ngân hàng đó, đồng thời chất lượng dịch vụ còn tạo và mở rộng thương hiệu cho ngân hàng không chỉ thị trường trong nước mà còn cả thị trường quốc tế. Các tiêu thức phản ánh chất lượng dịch vụ ngân hàng được thể hiện ở các tiêu chí sau:
Đáp ứng kỳ vọng và hài lòng của khách hàng: các nhà cung cấp dịch vụ nói chung cung cấp dịch vụ nhằm đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của khách hàng, ngân hàng cung cấp dịch vụ cũng đáp ứng các nhu cầu đó. Chất lượng dịch vụ càng cao và hoàn hảo thì không những đáp ứng tốt mong muốn và kỳ vọng của khách hàng hiện tại mà còn thu hút thêm nhiều khách hàng tiềm năng khác, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh các dịch vụ của ngân hàng đó. Bằng những lời ca ngợi, sự đánh giá cao sẽ tạo uy tín đối với người sử dụng dịch vụ và khả năng mở rộng thị trường cung ứng dịch vụ đối với ngân hàng. Đây cũng là tiêu chí đầu tiên và quan trọng nhất khi khách hàng lựa chọn nhà cung cấp dịch vụ.
Giá cả dịch vụ: nói chung khi mua bán hay có ý định sử dụng bất kỳ dịch vụ nào, yếu tố thứ hai mà người sử dụng quan tâm nhất đó là giá cả của dịch vụ. Giá cả dịch vụ hay còn gọi là phí dịch vụ nếu được ngân hàng thu với mức phí hợp lý, cạnh tranh thì đó là một trong những yếu tố thu hút ngày càng đông khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng. Phí dịch vụ chính là giá cả của một loại dịch vụ đồng thời cũng là một trong những phương pháp cạnh tranh truyền thống mà các NHTM thường sử dụng nhưng phải đảm bảo chất lượng dịch vụ tương xứng.
Sự hoàn hảo của dịch vụ: được hiểu là việc tối thiểu hóa các lỗi khi giao dịch với khách hàng, tối thiểu hóa những lời phàn nàn, khiếu kiện từ phía người sử dụng đối với ngân hàng, đồng thời những rủi ro kinh doanh dịch vụ của ngân hàng ngày càng phải giảm đi.
Sự tăng lên không ngừng về quy mô và tỷ trọng thu nhập từ các dịch vụ ngân hàng: một trong các tiêu chí khẳng định sự phát triển của dịch vụ hay không là sự phát triển không ngừng về quy mô và tỷ trọng thu nhập của dịch vụ, không chỉ đơn thuần phản ánh sự đa dạng của các dịch vụ khác nhau của ngân hàng mà còn phản ánh chất lượng dịch vụ, chất lượng và tính chuyên nghiệp trong cung cấp dịch vụ ngân hàng. Đây là kết quả tổng hợp của sự đa dạng dịch vụ, sự phát triển dịch vụ và đương nhiên là cả chất lượng dịch vụ của ngân hàng tăng lên. Song, chất lượng dịch vụ có tính nổi trội hơn cả. Bởi vì nếu như chất lượng dịch vụ không đảm bảo, không được nâng cao, thì sự đa dạng các dịch vụ và phát triển các dịch vụ sẽ không có ý nghĩa vì không được khách hàng chấp nhận.
Các điểm khác phản ánh chất lượng dịch vụ: được chứng minh bằng khả năng cạnh tranh của ngân hàng này với dịch vụ của ngân hàng khác cùng loại, ngân hàng không chỉ giữ vững được thị phần mà ngày càng mở rộng thị phần trên mọi phương diện khác nhau. Ví dụ như: kinh doanh ngoại tệ, thanh toán quốc tế, thanh toán thẻ,… Để đạt được mục tiêu đó, tất nhiên là còn tuỳ thuộc vào sự đa dạng dịch vụ, nghiệp vụ Marketing, uy tín và danh tiếng của ngân hàng, quy mô và mạng lưới của ngân hàng. Song đương nhiên là chất lượng dịch vụ sẽ tạo lên danh tiếng, uy tín lâu dài cho ngân hàng, thu hút khách hàng.
1.3.2.2 Tiêu thức phản ánh số lượng dịch vụ
Số lượng dịch vụ, danh mục dịch vụ và dịch vụ trọn gói được ngân hàng cung cấp phản ánh được quy mô và sự đa dạng trong danh mục các dịch vụ trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Tuy nhiên, việc phát triển số lượng dịch vụ, đa dạng hóa cung cấp dịch vụ đòi hỏi các ngân hàng không đơn thuần chỉ duy trì được chất lượng dịch vụ vốn có, các tiện ích sẵn có mà còn phải ngày càng nâng cao chất lượng dịch vụ đảm bảo đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng và khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
Nhân tố ảnh hưởng tới phát triển dịch vụ NHTM
Qua các cuộc điều tra về dịch vụ ngân hàng của NHTM đã cho thấy sự thay đổi ngân hàng kể cả về chức năng và hình thức. Đó không chỉ là những tác động ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động ngân hàng mà còn cho thấy sự ảnh hưởng rất lớn tới việc phát triển dịch vụ ngân hàng của NHTM được mô tả thông qua các nhân tố sau.
1.3.3.1 Nhân tố khách quan
Môi trường kinh doanh ngân hàng là nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động và phát triển kinh doanh ngân hàng. Do vậy, vấn đề phân tích và nhận định đúng môi trường kinh doanh sẽ góp phần vào sự thành công của ngân hàng.
Môi trường pháp lý: yếu tố pháp lý bao gồm tính đồng bộ, khoa học của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ thống nhất của các văn bản dưới luật gắn với việc chấp hành và thực thi pháp luật. Do vậy, việc xác lập khuôn khổ pháp luật đúng đắn cho các hoạt động kinh tế được xem là hoạt động tiên quyết bảo đảm cho thị trường hoạt động có hiệu quả.
Nhân tố kinh tế: các nhân tố kinh tế cấu thành và tạo môi trường kinh tế cho mọi thành phần kinh tế hoạt động dưới sự điều chỉnh và quản lý vĩ mô của Nhà nước gồm:
Thứ nhất, chu kỳ kinh tế tác động đến hoạt động kinh doanh ngân hàng: khi kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định thì tất cả mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều vận hành trơn tru, hiệu quả và ngược lại.
Hoạt động SXKD của mọi thành phần kinh tế đều có nhu cầu duy trì và mở rộng phạm vi phát triển, kéo theo đó là nhu cầu vốn tài trợ nhằm đáp ứng được các nhu cầu đó. Vì vậy, sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng tăng khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ tín dụng (hoạt động mang lại nguồn thu chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng), nâng cao chất lượng các khoản vay, đảm bảo khả năng thu hồi tốt nhất. Ngoài ra, các dịch vụ phụ trợ sẽ tạo đà phát triển mạnh mẽ hơn.
Thứ hai, chính sách kinh tế của Chính phủ về ưu đãi hay hạn chế sự phát triển của một ngành, một lĩnh vực cũng có ảnh hưỏng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng nhất là những ngân hàng có đầu tư vốn lớn vào lĩnh vực đó. Khi Chính phủ có chính sách ưu đãi như: hạ thuế, bảo hộ sản xuất trong nước của một ngành nào đó bằng cách đưa ra hạn ngạch nhập khẩu hoặc cấm nhập khẩu hay nâng cao thuế nhập khẩu và ngược lại. Chính phủ đưa ra chính sách giữ tỉ giá hay phá giá đồng nội tệ đều ảnh hưởng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế trên thế giới. Sự biến động tình hình kinh tế - chính trị - xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới đời sống kinh tế - chính trị - xã hội trong nước từ đó ảnh hưởng tới hoạt động của nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói riêng. Đây là yếu tố mà các nhà hoạch định chính sách luôn luôn nắm bắt kịp thời để đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu bất lợi và khai thác lợi thế cho nước mình. Trong thời kỳ nền kinh tế khu vực bị suy thoái và khủng hoảng, tình hình chính trị không ổn định tác động đến tâm lý tiêu cực của nhà đầu tư làm cho họ không mặn mà đầu tư vào sản xuất kinh doanh từ đó ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng.
Nhân tố cạnh tranh
Cạnh tranh ở lĩnh vực dịch vụ tài chính ngày càng gay gắt và trở lên khốc liệt hơn bao giờ hết khi NHTM và các đối thủ canh tranh mở rộng danh mục dịch vụ. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai.
Đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường là cạnh tranh, vì vậy để đứng vững trong cạnh tranh đòi hỏi phải đổi mới và phát triển nhằm đáp ứng được các yêu cầu và đòi hỏi của thị trường. Đối với các NHTM sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng với nhau trong một nước, giữa các loại sản phẩm và dịch vụ giống nhau đối với các ngân hàng ở các nước khác nhau. Giữa các ngân hàng thương mại với các tổ chức phi ngân hàng và các tổ chức khác có hoạt động dịch vụ thay thế ngân hàng. Sự cạnh tranh thể hiện trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng ngày một phong phú hơn với chất lượng phục vụ tốt hơn, chi phí rẻ hơn (cả về tiền bạc và thời gian),... và để chiến thắng trong cạnh tranh bắt buộc các ngân hàng thương mại phải không ngừng đổi mới và phát triển. Đổi mới phong cách phục vụ, đổi mới trong quản lý, phát triển mạng lưới sản phẩm, đưa ra các dịch vụ ngân hàng mới, phát triển và để thu hút thêm nhiều khách hàng sử dụng dịch vụ của mình, nâng cao uy tín, thu được nhiều lợi nhuận hơn. Quản lý ngân hàng chặt chẽ và hợp lý hơn, giảm thiểu chi phí quản lý và do đó tạo ra động lực cạnh tranh tốt hơn.
Nhân tố khách hàng
Khách hàng của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động kinh doanh ngân hàng. Sự thành đạt của khách hàng, sự phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, lưu thông hàng hoá là điều kiện để phát triển kinh doanh. Môi trường tốt cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng kinh doanh thuận lợi phải tập trung được nhiều khách hàng cung cấp “nguyên liệu” cho ngân hàng chính là “đầu vào” tạo nên nguồn để hoạt động kinh doanh cũng như sử dụng các sản phẩm “đầu ra” tạo cho ngân hàng đầu tư. Ngoài ra, khi xã hội càng phát triển, khoa học càng hiện đại hơn, yêu cầu của khách hàng đối với ngân hàng cao hơn “khách hàng là thượng đế”, khách hàng yêu cầu dịch vụ tại nhà, yêu cầu các dịch vụ ngân hàng điện tử, yêu cầu tư vấn về tài chính. Nếu ngân hàng không đổi mới, không phát triển thì khó đáp ứng được yêu cầu của khách hàng. Đây là một hình thức “phát triển theo”, tức là phát triển do sự dẫn dắt của nhu cầu, nhưng bản thân ngân hàng cũng phải biết trào lưu, xu hướng nhu cầu để tạo ra các “sản phẩm đón đầu” để phục vụ nhu cầu sẽ phát sinh.
Đó là lý do tại sao khách hàng là người bạn gần gũi với ngân hàng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của ngân hàng. Vì vậy, phải tăng cường thiết lập mối quan hệ bền vững, lâu dài với khách hàng, tăng cường thu hút khách hàng, tư vấn cho khách hàng, từ đó không ngừng mở rộng khối lượng đầu tư và nâng cao chất lượng hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi để đáp ứng nhu cầu khách hàng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời mang lại lợi ích cho cả đôi bên.
Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghệ
Khi nền sản xuất còn thủ công, người ta tính toán bằng tay, khi nền sản xuất cơ khí, người ta tính toán bằng máy tính quay tay cho đến khi thời kỳ khoa học kỹ thuật phát triển như ngày nay người ta sử dụng máy P.C (máy tính), nối mạng. Khoa học phát triển đã làm biến đổi thế giới và cũng chính vì vậy đã thúc đẩy ngân hàng phát triển. Công nghệ quản lý của các ngân hàng đã phát triển từ thủ công trước đây chuyển thành sử dụng hệ thống vi tính nối mạng toàn quốc đến kết nối trên toàn cầu. Sự xuất hiện của các máy rút tiền tự động ATM, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng, cuộc cách mạng về công nghệ ngân hàng đã tạo ra năng lực mới cho ngân hàng, nó tạo ra chi phí nghiệp vụ ngân hàng thấp và nâng cao khả năng phục vụ khách hàng, tạo ra ưu thế chiến thắng trong cạnh tranh.
Do đó, có thể khẳng định chắc chắn rằng, công nghệ hiện đại là nền tảng, là cơ sở quyết định các hoạt động dịch vụ ngân hàng trong giai đoạn hiện nay. Tuy rằng, đây không phải là vấn đề mới song để triển khai thực hiện và áp dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, trong quá trình phát triển các hoạt động dịch vụ, nhất là các hoạt động dịch vụ điện tử thì không phải ngân hàng nào cũng thực hiện được. Sự khác biệt về số lượng dịch vụ, sự đa dạng hóa dịch vụ và “thương hiệu sản phẩm ngân hàng” đã thể hiện trình độ phát triển công nghệ của mỗi NHTM trong thời đại ngày nay.
Nhân tố xã hội
Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin tưởng và vấn đề đạo đức xã hội của khách hàng. Thông qua lợi dụng lòng tin của ngân hàng, khách hàng có thể lừa đảo chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Hoặc do trình độ dân trí chưa cao, kém hiểu biết, tập quán lạc hậu những khách hàng không hiểu biết đúng bản chất hoạt động ngân hàngnhất là trong quan hệ tín dụng dẫn đến tình trạng không trả nợ vay. Tất cả các nhân tố trên đều ảnh hưởng đến phát triển kinh doanh ngân hàng.
1.3.3.2 Nhân tố chủ quan
Chiến lược kinh doanh
Để phát triển ổn định và lâu dài, NHTM phải có chiến lược đúng đắn và lâu dài, cụ thể mục tiêu của từng giai đoạn. Trong chiến lược kinh doanh cần đặc biệt chú trọng đến vấn đề con người và công nghệ nhằm sử dụng tốt nhất tài sản, các tài nguyên đầu vào, để tạo đầu ra có hiệu quả và ít rủi ro nhất. Chính sách khách hàng cần phải được xem xét cẩn trọng và nhất quán, bởi vì nó góp phần làm tăng uy tín, tăng thị phần và chiến thắng trong cạnh tranh, tác động tới việc tăng lợi nhuận của ngân hàng. Hệ thống các giải pháp thực hiện mục tiêu của bộ máy quản lý ngân hàng.
Chất lượng thông tin
Sự ảnh hưởng và tác động của thông tin trong nền kinh tế thị trường có thể quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp, ở đâu có thông tin ở đó có thành công. Vì vậy, để tồn tại và phát triển ngân hàng phải thu thập và tổng hợp nhiều luồng thông tin khác nhau, tiếp đó sàng lọc và phân tích thông tin dựa trên sự phân tích hai loại thông tin sau:
Thông tin tài chính: gồm năng lực tự chủ tài chính, kết quả kinh doanh, công nợ, hàng tồn kho, giá trị tài sản bảo đảm,... Yêu cầu của thông tin là chính xác, đầy đủ và kịp thời. Để đạt được yêu cầu đó phải cần rất nhiều kênh thông tin khách nhau: thông tin qua hồ sơ khách hàng, thông tin lấy từ cơ quan quản lý: trung tâm thông tin tín dụng, tổng cục thống kê, thuế, cơ quan chủ quản, chính quyền địa phương, thông tin qua điều tra, phỏng vấn và các nguồn khác.
Thông tin phi tài chính: là những thông tin không phải được thu thập từ sổ sách, số liệu kinh tế, nhưng chúng có rất nhiều loại và phong phú bao gồm cả thông tin trực tiếp và thông tin gián tiếp.
Thông tin trực tiếp: gồm tư cách, uy tín, năng lực tổ chức quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh, quan hệ xã hội của khách hàng, cung cầu, giá cả, thị trường.
Thông tin giáp tiếp: gồm tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, xu hướng phát triển cạnh tranh của ngành nghề, những yếu tố có thể thay đổi hay ảnh hưởng đến quyết định cho vay trong tương lai.
Khả năng tài chính và công nghệ ngân hàng
Để hoạt động và vận hành bộ máy của ngân hàng diễn ra trôi chảy và có khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác đỏi hỏi ngân hàng phải có vốn và cơ sở vật chất, trang thiết bị phù hợp với loại hình kinh doanh.
Cơ cấu vốn của ngân hàng bao gồm: vốn tự có, vốn huy động và vốn đi vay. Đây là nhân tố cơ bản quyết định đến năng lực kinh doanh của ngân hàng. Vốn tự có lớn tạo điều kiện cho ngân hàng tăng cường cơ sở vật chất như: mở rộng mạng lưới hoạt động, mua sắm phương tiện máy móc thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình kinh doanh.
Kinh tế càng phát triển đòi hỏi ngân hàng ngày càng phải áp dụng nhiều các công nghệ quản lý tự động trong hoạt động thông qua phương tiện máy tính điện tử công suất cao và các máy tính cá nhân nối mạng, áp dụng công nghệ thông tin hiện đại. Tuy nhiên việc ứng dụng công nghệ điều đặc biệt cần lưu ý là hệ thống bảo vệ, bảo mật phải an toàn.
Để áp dụng công nghệ mới cần phải có trang thiết bị phục vụ cho dịch vụ ngân hàng hiện đại, môi trường làm việc văn minh, lịch sự là yếu tố không thể thiếu và phải không ngừng đổi mới thì mới tạo điều kiện để phát triển kinh doanh.
Nguồn nhân lực
Nhân tố con người là một trong những yếu tố quyết định sự thành bại của một NHTM. Nguồn nhân lực của ngân hàng đỏi hỏi tính trung thực cao và tâm huyết với nghề. Vì vậy, trước hết phải quan tâm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và có chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao. Bởi vì, theo nguyên lý con người là yếu tố quyết định. Để nâng cao chất lượng dịch vụ trước yêu cầu hội nhập thì phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong ngân hàng, trong toàn bộ các chi nhánh. Có chính sách thu hút người giỏi, người có tài, người có năng lực về hoạt động dịch vụ ngân hàng từ các ngân hàng khác, các ngành khác và các trường đại học trong và ngoài nước về. Chính sách thu hút chủ yếu là chính sách đãi ngộ, bố trí và sử dụng, việc tạo điều kiện phát huy tốt chuyên môn và môi trường làm việc trong chi nhánh. Mạnh dạn áp dụng mô hình thuê chuyên gia nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng làm việc tại ngân hàng.
Hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao để có thể sử dụng có hiệu quả các phương tiện công nghệ ngân hàng hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời kỳ đổi mới. Đánh giá nhân tố con người gồm các khía cạnh: số lượng, cơ cấu nhân sự, trình độ cán bộ, năng lực điều hành kinh doanh, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp.
Một ngân hàng muốn hoạt động kinh doanh tốt trước hết phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý là những người giàu “chất xám” năng động sáng tạo trong kinh doanh với phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp và luôn vì lợi ích của tập thể, lợi ích chung. Sau nữa là phải có cán bộ tinh thông nghiệp vụ, hiểu biết và có kiến thức về kinh tế, pháp luật, thị trường, có tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, có thái độ phục vụ khách hàng tốt, tạo được niềm tin của khách hàng vào ngân hàng, thường xuyên nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao ở mức cao nhất. Cán bộ ngân hàng phải thực sự là người bạn đồng hành của khách hàng qua thái độ phục vụ khách hàng tận tình và khả năng tư vấn về hoạt động kinh doanh trên thị trường.
Cơ cấu tổ chức - quản lý của ngân hàng
Việc bố trí một cơ cấu tổ chức gọn nhẹ, hợp lý từ hội sở chính tới các chi nhánh, phòng ban là điều cần thiết cho hoạt động của NHTM. Bố trí các bộ phận, các phòng ban một cách khoa học đảm bảo giải quyết công việc nhanh chóng thông suốt, đảm bảo các mối liên hệ thông tin trên - dưới, ngang – dọc sẽ phát huy tối đa hiệu quả quản lý. Chỉ thành lập các phòng ban, bố trí con người khi nhu cầu kinh doanh thực tế đòi hỏi, mọi nghiệp vụ phải có quy trình và thực hiện đúng quy trình - điều đó chính là nề nếp, là khoa học trong quản lý kinh doanh.
Cơ cấu tổ chức của ngân hàng cần được bố trí một cách khoa học trên cơ sở nghiên cứu thị trường, tránh phô trương hình thức không cần thiết, phải kết hợp phong phú các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu chính trị – xã hội, bảo đảm duy trì và phát triển trong mối quan hệ tổng thể và hệ thống.
Tổ chức mở rộng mạng lưới chi nhánh xuất phát từ nhu cầu phát triển kinh doanh nhưng phải có chọn lọc những nơi thực sự có môi trường, có hiệu quả kinh doanh và đòi hỏi phải có sự kiểm tra giám sát, bảo đảm an toàn, hiệu quả.
Nâng cao năng lực quản trị ngân hàng và kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác này phải thường xuyên được nâng lên ngang tầm với trình độ hiện đại của công nghệ. Đồng thời cần thường xuyên rà soát lại các quy trình, quy định nội bộ trong chi nhánh để hoàn thiện, bổ sung, nâng cấp và tránh sơ hở dễ bị lợi dụng.
Chương 2: THỰC TRẠNG CÁC DỊCH VỤ CỦA NHTMCP CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM
2.1. Khái quát về ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank)
Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam được thành lập dựa trên cở sở của Nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) cho phép hệ thống ngân hàng của Việt Nam được hoạt động theo mô hình ngân hàng hai cấp, tách biệt hoạt động quản lý và điều tiết vĩ mô tiền tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ. Theo đó, phân thành NHNN (NHTW) vừa thực hiện chức năng quản lý Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý tiền tệ, tín dụng ngân hàng, tỷ giá đảm bảo tính ổn định giá trị của đồng bản tệ, một cấp khác là các NHTM trực tiếp hoạt động kinh doanh và chịu sư chi phối và quản lý của NHNN.
Được thành lập từ 01/07/1988 trên cơ sở Vụ tín dụng công nghiệp và Vụ tín dụng thương nghiệp tại NHNN trung ương và các phòng tín dụng công thương nghiệp tại các tỉnh, thành phố, thị xã, quận huyện. Tháng 10/1990, Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính có hiệu lực thi hành, đánh dấu bước phân định rõ chức năng của NHNN và ngân hàng kinh doanh. Đến 14/11/1990, chủ tịch HĐBT đã ký quyết định số 402 thành lập NHCT ( nay là ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam), khẳng định NHCT là một NHTM có các thành viên là các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, một pháp nhân hạch toán độc lập. Công tác quản trị và điều hành được đổi mới, thực hiện vai trò quản lý, điều hành tập trung về Trụ sở chính, đồng thời phát huy lợi thế và vai trò chủ động của chi nhánh trong khuôn khổ phân cấp, uỷ quyền của Ban lãnh đạo. Tiếp theo đó NHTMCPCT được thành lập lại theo quyết định số 402/QĐ-NH5 ngày 27/03/1993 và số 285/QĐ-NH5 ngày 21/09/1996 của Thống đốc NHNN Việt nam. Ngày 21/09/1996, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số QĐ 90/TTg ngày 07/03/1994 quy định chức năng nhiệm vụ, ngành nghề kinh doanh của NHTMCPCT theo mô hình Tổng công ty 90.
Khi mới được thành lập và do phạm vi, đối tượng hoạt động của từng NHTM nên NHTMCPCT hoạt động gần như một ngân hàng chuyên doanh với các nghiệp vụ chủ yếu là huy động tiền gửi của khách hàng và cho vay (chủ yếu cho vay các đơn vị quốc doanh). Đối tượng khách hàng của NHTMCPCT là những doanh nghiệp, cá nhân hoạt động trên các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, bưu điện, du lịch và dịch vụ trong phạm vi Việt Nam.
Trải qua hơn hai mươi năm xây dựng và trưởng thành, NHTMCPCT đã vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, đi tiên phong trong cơ chế thị trường, phục vụ và góp phần tích cực thực hiện đường lối chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước đồng thời không ngừng nỗ lực phấn đấu vươn lên, khẳng định được vị trí là một trong những ngân hàng thương mại hàng đầu ở Việt Nam. Để có được những thành công với các bước phát triển, tăng trưởng nhanh, đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt hoạt động kinh doanh cung ứng dịch vụ ngân hàng, phát triển đồng đều cả kinh doanh đối nội và kinh doanh đối ngoại, hệ thống công nghệ ngân hàng tiên tiến, có uy tín với khách hàng trong nước và quốc tế, NHTMCPCT cũng trải qua ít nhiều thăng trầm phát triển cùng kinh tế đất nước. NHTMCPCT đã góp phần đắc lực trong việc thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng trong thời kỳ đổi mới, thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt nam trước sức ép của Hội nhập kinh tế khu vực, đặc biệt là Hội nhập kinh tế toàn cầu.
Trước đây, NHTMCPCT là ngân hàng 100% vốn sở hữu của Nhà nước, vốn điều lệ ban đầu là 2.100 tỷ VND - theo điều lệ về tổ chức và hoạt động của NHTMCPCT Ban hành kèm theo quyết định số 135/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 18/11/2002 của HĐQT NHTMCPCT. Năm 2006, căn cứ vào mức độ hoàn thành tiến độ Đề án cơ cấu lại NHTMCPCT, Chính phủ đã duyệt cấp bổ sung vốn điều lệ cho NHTMCPCT, đưa tổng mức vốn cấp của Chính phủ lên 4.050 tỷ VND, tăng cường năng lực tài chính cho ngân hàng.
Ngày 23/09/2008, Thủ tướng Chí._.g.
Dịch vụ kiều hối và séc du lịch
Đa dạng hóa các hình thức nhận tiền và thanh toán tiền của khách hàng: giao tiền tận nhà, tạo lập và chuyển tiền vào tài khoản thanh toán cho khách hàng,...;
Cho phép khách hàng tiền bằng nhiều loại tiền khác nhau, đặc biệt là đối với một số ngoại tệ thông dụng như: đôla Singapore, đôla Úc, bảng Anh, EUR,...;
Nghiên cứu áp dụng phí dịch vụ phù hợp cho khách hàng;
Mô hình tổ chức: tại TSC thành lập phòng chức năng hoặc tổ chuyên trách về chuyển tiền kiều hối để làm đầu mối xây dựng các chiến lược cụ thể và chỉ đạo các chi nhánh thực hiện thống nhất các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ này.
Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, mở rộng điểm chi trả, đa dạng các hình thức chuyển tiền nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng;
Tạo ra sự gắn kết dịch vụ kiều hối với các dịch vụ khác của ngân hàng hoặc thiết kế một dịch vụ trọn gói cho người đi xuất khẩu lao động bao gồm các dịch vụ: cho vay hỗ trợ người lao động xuất khẩu- chuyển tiền kiều hối- tài khoản tiết kiệm, tư vấn đầu tư, v.v.
Thực hiện chiến lược Marketing ra nước ngoài. Trước mắt, Phối hợp với các ngân hàng đại lý ở nước ngoài, các cơ quan, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài để tuyên truyền, quảng cáo về dịch vụ kiều hối và chuyển tiền quốc tế của NHTMCPCT.
Thiết lập kênh chuyển tiền kiều hối trực tiếp với các ngân hàng đại lý, các công ty chuyển tiền ở các nước có nhiều người Vịêt Nam sinh sống, làm việc hoặc tham gia vào các hệ thống chuyển tiền nhanh toàn cầu như Western Union để đảm bảo chuyển tiền nhanh và giảm chi phí chuyển tiền.
Xây dựng đội ngũ cộng tác viên ở nước ngoài để tiếp cận trực tiếp với khách hàng.
Hợp tác với Bộ LĐTB-XH (Cục Quản lý lao động nước ngoài), các công ty xuất khẩu lao động, các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương nơi có nhiều người đi lao động xuất khẩu (Hải dương, Quảng Ninh...) để có thể tiếp thị tới những người chuẩn bị đi lao động nước ngoài về dịch vụ chuyển tiền của NHTMCPCT.
Dịch vụ kinh doanh ngoại tệ
Mục tiêu: (i) khai thác được nguồn ngoại tệ từ các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước để chủ động cân đối ngoại tệ đáp ứng đầy đủ nhu cầu về số lượng cho toàn hệ thống; (ii) tham gia thị trường quốc tế để đáp ứng nhu cầu đa dạng các loại ngoại tệ của khách hàng; (iii) từng bước mở rộng hoạt động đầu cơ và kinh doanh thu lãi.
Quán triệt trong chỉ đạo điều hành: xem xét kinh doanh ngoại tệ trong tổng thể mối quan hệ với các sản phẩm dịch vụ khác như: tài trợ XNK, tín dụng ngoại tệ, chuyển tiền ngoại tệ...để có biện pháp chỉ đạo thực hiện đồng bộ.
Sản phẩm chiến lược: mua bán trao ngay; mua bán có kỳ hạn; hoán đổi ngoại tệ; hợp đồng quyền chọn (thực hiện một cách thận trọng, đảm bảo phù hợp thông lệ quốc tế).
Khách hàng chiến lược: các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, XNK, sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cá nhân.
Để thực hiện tốt các mục tiêu nêu trên đòi hỏi NHTMCPCT phải thực hiện tốt các giải pháp thúc đẩy sau:
Chủ động xác định khách hàng chiến lược cần giữ và thu hút thêm, đồng thời xử lý linh hoạt trong phạm vi cho phép giữa tỷ giá ngoại tệ với các loại phí, lãi suất đối với từng nhóm khách hàng sử dụng các loại sản phẩm – dịch vụ của NHTMCPCT.
Kinh doanh chủ yếu các ngoại tệ mạnh (USD, JPY, Euro, GBP) và một số đồng tiền của đối tác kinh tế quan trọng của Việt Nam nhằm tạo ra cơ cấu đầu tư và dự trữ ngoại tệ hiệu quả, linh hoạt và có tính thanh khoản cao.
Tập trung toàn bộ các hoạt động kinh doanh ngoại hối về trụ sở chính trên cơ sở đầu tư mạnh vào các yếu tố công nghệ kỹ thuật và yếu tố con người nhằm tăng cường hiệu quả kinh doanh và đảm bảo tránh rủi ro về về lãi suất và tỷ giá, bảo đảm an toàn tính thanh khoản...
Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh ngoại tệ trên thị trên thị trường quốc tế, đồng thời chú trọng đến việc đảm bảo đáp ứng nhu cầu ngoại tệ phục vụ cho hoạt động thanh toán quốc tế của khách hàng.
Đưa hoat động thu đổi ngoại tệ đến tất cả các điểm giao dịch trong đó ưu tiên triển khai trước hết đến các điểm giao dịch tại các trung tâm kinh tế - thương mại – du lịch, khu đô thị và đầu mối giao thông quốc tế thông qua. Mở rộng mạng lưới đại lý thu đổi ngoại tệ cho NHTMCPCT tại những nơi ngân hàng không có điểm giao dịch.
Ban hành và thực hiện nghiêm túc cơ chế quản lý rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ, cơ chế động lực thúc đẩy phù hợp với lao động đặc thù trong lĩnh vực này để thu hút nhân lực chất lượng cao.
Dịch vụ thẻ
Thị trường
Địa bàn tiềm năng: tập trung khai thác mạnh thị trường các thành phố lớn, tiến tới mở rộng thị trường sang các nước Đông Dương và Trung quốc.
Địa điểm tiềm năng: Khai thác triệt để thị trường các khu công nghiệp, khu kinh tế, khu du lịch, các trường đại học, khu dân cư và các trung tâm thương mại
Khách hàng
Khách hàng chủ thẻ tiềm năng
Về thu nhập
Tập trung mạnh vào người có thu nhập cao: phù hợp với các sản phẩm và dịch vụ thẻ đẳng cấp, vượt trội.
Tận dụng triệt để nhóm người có thu nhập trung bình, khá: phù hợp với các sản phẩm và dịch vụ thẻ mang tính đại chúng.
Về nhóm tuổi
Chú trọng đến giới trẻ. Đây là nhóm khách hàng năng động, nhanh nhạy với cái mới và được xác định là nhóm khách hàng mục tiêu.
Tranh thủ giới trung niên. Đây là nhóm khách hàng muốn khẳng định vị thế, luôn tìm tòi các sản phẩm & dịch vụ hiện đại, đẳng cấp.
Về ngành nghề
Tập trung mạnh vào giới quan chức và giới kinh doanh (doanh nhân và thương gia).
Khai thác giới sinh viên và học sinh .
Tận dụng triệt để tầng lớp cán bộ công nhân viên và người lao động có thu nhập trung bình.
Khách hàng là các cơ sở chấp nhận thẻ tiềm năng
Khai thác triệt để các đơn vị kinh doanh hàng hoá và dịch vụ thiết yếu: như siêu thị, nhà hàng, xăng dầu, điện nước, và các đơn vị khác.
Tập trung mạnh vào các đơn vị kinh doanh hàng hoá và dịch vụ cao cấp: như shop cao cấp, khách sạn, giải trí cao cấp, và các đơn vị khác.
Dịch vụ
Phát triển các nhóm sản phẩm và dịch vụ thẻ có vị trí quan trọng hàng đầu trong chiến lược phát triển dịch vụ chung của NHTMCPCT, tạo ra tỷ trọng lớn trong tổng nguồn thu dịch vụ của ngân hàng (Dự kiến đạt từ 5%-10%).
Phấn đấu đưa một số sản phẩm thẻ của NHTMCPCT là một trong những sản phẩm hàng đầu trên thị trường, với thương hiệu và đặc trưng riêng có của NHTMCPCT (Dự kiến thẻ tín dụng quốc tế).
Đa dạng hoá và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm và dịch vụ thẻ trên cơ sở tạo ra sự khác biệt về dịch vụ và các giá trị gia tăng:
Đảm bảo việc củng cố và phát triển các sản phẩm & dịch vụ thẻ với các tính năng và tiện ích đạt “chất lượng chuẩn mực”, thoả mãn định hướng chiến lược khách hàng và thị trường.
Liên tục đổi mới sản phẩm, tạo các sản phẩm và dịch vụ thẻ phái sinh thông qua việc phát triển các giá trị gia tăng tạo “chất lượng vượt trội” cho các sản phẩm và dịch vụ thẻ cơ bản.
Nâng cao “chất lượng dịch vụ” cho các sản phẩm & dịch vụ thẻ thông qua hệ thống quy trình và văn hoá phục vụ.
Nghiên cứu và phát triển các sản phẩm và dịch vụ thẻ theo hướng “all in 1” và “1 for all” đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng.
Dịch vụ quản lý vốn
Tiếp tục hoàn thiện và bổ sung các loại hình dịch vụ phụ trợ cho dịch vụ quản lý vốn đã ký kết với Tổng công ty Xăng dầu Việt Nam. Thông qua đó, tiếp tục tìm kiếm ký kết với các TCT và các công ty khác để triển khai mạnh mẽ loại hình dịch vụ này.
Giảm thiểu các quy trình dịch vụ, yêu cầu cán bộ tuân thủ nghiêm túc quy trình dịch vụ. Nghiên cứu, xây dựng các chương trình phần mềm tiến tới đưa dịch vụ theo hướng hoàn toàn tự động. Cải tiến quy trình nghiệp vụ đảm bảo đáp ứng nhu cầu khách hàng (khách hàng có thể xem số dư vào sáng ngày kế tiếp).
Dịch vụ ngân hàng bảo hiểm
NHTMCPCT cần phối hợp với một số công ty bảo hiểm như AIA, Bảo Việt,... nghiên cứu triển khai một số sản phẩm bảo hiểm - ngân hàng mới. Đây phải là các sản phẩm hoàn toàn khác với các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Các sản phẩm này phải kết hợp, hỗ trợ các sản phẩm ngân hàng, tạo sự động bộ, gắn kết giữa các nhóm sản phẩm như: sản phẩm bảo hiểm tín dụng, bảo hiểm tiết kiệm,...
NHTMCPCT cần có những chính sách, cơ chế, động lực bằng tinh thần và vật chất thích hợp khuyến khích các cán bộ làm nghiệp vụ mới.
Dịch vụ Internet Banking
Mở rộng, tăng tiện ích của dịch vụ. Ngoài chức năng vấn tin và chuyển tiền, cần nghiên cứu triển khai các tính năng khác của dịch vụ như: mở thẻ ATM qua mạng, thanh toán hàng hoá dịch vụ,...
Cải tiến quy trình nghiệp vụ, nâng cấp đường truyền mạng nhằm cung cấp thông tin kịp thời và chính xác cho khách hàng.
3.2.2.2 Mở rộng phát triển các dịch vụ ngân hàng mới
Dịch vụ uỷ thác và tư vấn: do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, NHTMCPCT có nhiều chuyên gia về quản lí tài chính. Vì vậy, nhu cầu ủy thác quyền quản lí tài sản và quản lí hoạt động tài chính cho ngân hàng đã và đang phát triển ngày cành mạnh mẽ ở Việt Nam, đặc biệt là ở các thành phố lớn của các cá nhân và doanh nghiệp. Dịch vụ ủy thác này còn gồm cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư. Ngoài ra, NHTMCPCT cũng sẵn sàng tư vấn về đầu tư, quản lí tài chính, thành lập, mua bán, sáp nhập doanh nghiệp.. . cho mọi đối tượng khách hàng.
Dịch vụ bảo quản và ký gửi: dịch vụ này gồm bảo quản và nhận ký gửi các cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư, các hợp đồng bảo hiểm, các chứng thư tài sản hoặc các đồ quý giá như tiền, vàng bạc, đá quý. Việc bảo quản có thể dựa theo hình thức là mọi tài sản ký gửi được ghi chi tiết vào biên lai hoặc theo hình thức “kín” mà ngân hàng bảo quản không biết gì bên trong. Đây cũng là việc được khách hàng thực hiện thông qua thuê một khoang trong kho của NHTMCPCT để gửi tài sản, theo đó NHTMCPCT giữ một chìa khoá, khách hàng giữ một chìa khoá.
Để thực hiện tốt việc cung cấp loại hình dịch vụ này đòi hỏi NHTMCPCT phải tiếp tục đầu tư, nâng cấp kho tàng và các trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy, báo cháy tự động, phòng chống mối mọt nhằm đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Dịch vụ phát hành giấy nợ ra nước ngoài: việc bảo lãnh phát hành giấy nợ đối với các tập đoàn lớn của Việt Nam ra thị trường quốc tế là một bước tiến quan trọng đối với các NHTM ở Việt Nam, đặc biệt là NHTMCPCT. Theo đó, NHTMCPCT ký kết hợp đồng với khách hàng và cam kết mua toàn bộ các giấy nợ không được nhà đầu tư mua hoặc cấp tín dụng bổ sung dựa trên lãi suất tham chiếu của thị trường quốc tế.
Dịch vụ Home Banking: Phát triển dịch vụ Home Banking đang là vấn đề đòi hỏi mang tính cấp bách cho NHTMCPCT trong việc đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Home Banking là một kênh phân phối của dịch vụ ngân hàng điện tử của NHTMCPCT, cho phép khách hàng thực hiện hầu hết các giao dịch trên tài khoản tiền gửi với NHTMCPCT tại Văn phòng công ty. Dịch vụ này đặc biệt thích hợp với những khách hàng là tổ chức có số lượng món thanh toán lớn.
Dịch vụ ngân hàng đầu tư: thị trường chứng khoán phát triển đã tạo động lực lớn cho các NHTM Việt Nam tập trung phát triển một loại hình cung cấp dịch vụ mới đó là dịch vụ Ngân hàng đầu tư. Phát triển dịch vụ này sẽ giúp các NHTM nói chung và NHTMCPCT nói chung đa dạng hoá các danh mục đầu tư, phân tán rủi ro và tạo thu nhập từ kênh mới.
Dịch vụ cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán: cùng với sự phát triển của kinh tế Việt Nam, Thị trường chứng khoán ra đời kể từ năm 2000 đến nay đã có những bước phát triển vượt bậc, tính sơ bộ đến hết Quý I/2007, tổng giá trị vốn hoá thông qua thị trường chứng khoán đạt khoảng gần 25 tỷ USD chiếm khoảng 38% tổng giá trị GDP. Đây là con số vượt quá mục tiệu của những nhà hoạch định và xây dựng chính sách đối với việc phát triển thị trường chứng khoán của Việt Nam.
Và đó cũng là cơ hội và thách thức cho NHTM nói chung, NHTMCPCT nói riêng xây dựng các quy định, quy trình nhằm cung ứng một loại hình mới là cho vay ứng trước tiền bán chứng khoán.
Dịch vụ quản lý ngân quỹ: (Dịch vụ quản lý thu - chi tiền mặt): hiện tại một số NHTM cổ phần đã thực hiện dịch vụ quản lý thu –chi tiền mặt cho khách hàng bằng các tài khoản chuyên thu chuyên chi. NHTMCPCT cũng đã thực hiện dịch vụ Quản lý vốn cho Tổng công ty xăng dầu Việt Nam. NHTMCPCT cần nghiên cứu mở rộng dịch vụ này cho các cá nhân. Với lợi thế của mình, các chi nhánh của NHTMCPCT sẽ thực hiện việc thu tiền và quy định hạn mức số dư cuối ngày của tài khoản phụ chuyên thu, cuối ngày cập nhật số dư tiền gửi cho khách hàng, thực hiện các dịch vụ tài chính cho khách hàng như: trả lương vào tài khoản, thanh toán tiền điện nước, điện thoại.
3.3. Kiến nghị
Kiến nghị với Chính phủ
Nhà nước với vai trò lãnh đạo và định hướng phát triển kinh tế chính trị, xã hội chung của đất nước do vậy vấn đề quản lý vĩ mô của Nhà nước có ảnh hưởng lớn đền nền kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng, đặc biệt trong lĩnh vực ứng dụng công nghệ hiện đại phát triển dịch vụ ngân hàng trong xu hướng hội nhập. Do đó, Nhà nước cần phải tạo những diện mạo chung và riêng cho các NHTM Việt Nam phát triển dịch vụ thông qua các đề xuất sau:
Tạo môi trường kinh tế ổn định và hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ để hệ thông ngân hàng tài chính phát triển lành mạnh và hiệu quả. Các quy định về hoạt động của ngành ngân hàng phải hướng theo xu thế quốc tế hoá, phù hợp với các điều kiện và tiêu thức mà các ngân hàng thương mại khác ở các nước phát triển đang áp dụng và triển khai. Ngoài ra các quy định của pháp luật Việt Nam cần mang tính mở để các bên cung cấp, sử dụng dịch vụ ngân hàng có thể cập nhật các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào hoạt động.
Pháp luật cần có quy định cụ thể về việc lưu giữ, tiếp cận thông tin liên quan đến các dịch vụ ngân hàng và có những quy định cụ thể về phòng chống rửa tiền thông qua các dịch vụ ngân hàng.
Cần có quy định mang tính tổng thể để giải quyết các vấn đề có liên quan đến giao dịch điện tử, các vấn đề liên quan đến thương phiếu, séc. Đối với các vấn đề có liên quan đến việc sử dụng trên thực tế của các giao dịch có liên quan đến thương phiếu, séc như đã trình bày ở trên, chúng tôi nhận thấy, việc sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan cần được thực hiện để giải quyết các vướng mắc cụ thể. Điều đó có nghĩa là, trong văn bản có liên quan đến hối phiếu, lệnh phiếu, séc, cần có quy định cụ thể như: không bắt buộc sự tham gia của các ngân hàng vào các quan hệ liên quan đến hối phiếu, lệnh phiếu, cũng như cần quy định cụ thể về thẩm quyền, thời hạn giải quyết các tranh chấp có liên quan đến hối phiếu, lệnh phiếu, séc nhằm đảm bảo thời gian giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia quan hệ một cách nhanh chóng, chính xác.
Cho phép các NHTM được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư trong nước như các doanh nghiệp khác, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư hiện đại kỹ thuật công nghệ để phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại và thiết yếu. Tập trung ngân sách ưu tiên cho phát triển ngành ngân hàng. Nhà nước hỗ trợ vốn cho các NHTM đổi mới nâng cao công nghệ thông qua việc cho vay với lãi suất thấp, hoặc hỗ trợ một phần.
Tiếp tục đẩy mạnh quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước để ứng dụng công nghệ hiện đại vào hoạt động sản xuất kinh tế xã hội nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Thông qua đó tạo điều kiện về cơ sở vật chất cho việc phát triển các dịch vụ ngân hàng mới của các NHTM Việt Nam.
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển thị trường ngoại hối ở Việt Nam: thị trường ngoại hối là cơ chế hữu hiệu nhằm bôi trơn cho các hoạt động XNK và các hoạt động dịch vụ có liên quan đến ngoại tệ. Quan trọng hơn, thị trường ngoại hối là công cụ để NHNN có thể thực hiện chính sách tiền tệ nhằm điều khiển nền kinh tế theo mục tiêu của Chính phủ. Điều cần thiết trong hoạt động ngoại hối là phải nắm được các sự kiện, các nguồn thông tin đa dạng một cách nhanh chóng. Phát triển và hoàn thiện thị trường ngoại hối sẽ giúp cho các NHTM và các tổ chức kinh tế có thể tiếp cận nhanh chóng với các nguồn vốn bằng bất cứ đồng tiền nào và với quy mô như thế nào, đảm bảo tính linh hoạt trong thanh toán giữa các quốc gia.
Tiếp tục tăng vốn điều lệ cho các NHTM Nhà nước, đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá các NHTM Nhà nước đảm bảo có đủ khả năng cạnh tranh với các NHTM khác khi Việt Nam mở rộng phát triển thị trường tài chính ngân hàng.
Sớm ban hành những chính sách đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển dịch vụ bưu chính viễn thông, Internet,…tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM phát triển các dịch vụ ngân hàng.
Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá kinh tế đang phát triển mạnh mẽ tác động mạnh mẽ đến tình hình phát triển kinh tế xã hỗi ở mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh đó, việc Việt Nam mới trở thành một thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đòi hỏi tạo điều kiện phát triển công bằng trong các lĩnh vực kinh tế khác nhau, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng. Theo đó, thị trường tài chính ngân hàng của Việt Nam sẽ phải chịu sự tác động và cạnh tranh mạnh mẽ của tự do hoá dịch vụ tài chính. Trong những năm qua, khung pháp lý cho ngành ngân hàng đã tưng bước được cải thiện. Mốc quan trọng đầu tiên là năm 1990, hai Pháp lệnh ngân hàng đã được ban hành tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi ngân hàng sang hệ thống hai cấp. Vào năm 1997, hai Pháp lệnh ngân hàng được cải tiến để trở thành Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD có hiệu lực vào năm 1998. Hai Luật này đã tạo ra một sân chơi bình đẳng hơn cho các TCTD, góp phần duy trì ổn định và phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên hai bộ luật này tiếp tục được sửa đổi , bổ sung vào năm 2003 và 2004.
Khả năng lớn hơn của các ngân hàng Hoa kỳ và tiếp sau các ngân hàng của nhiều nước phát triển khác (cùng với tiến trình ra nhập các tổ chức kinh tế trên thế giới như WTO…) sẽ có sức ép nhất định đối với hoạt động quản lý của NHNN, nhất là khi các thị trường này hoạt động mạnh mẽ hơn và khi các ngân hàng nước ngoài được phép tiếp cận rộng rãi hơn vào nhiều nghiệp vụ. Việc điều chỉnh chính sách tiền tệ quốc gia cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn của các biến động về kinh tế xã hội quốc tế, đặc biệt là trên thị trường tài chính, đòi hỏi sự linh hoạt của các công cụ tài chính - tiền tệ điều chỉnh. NHNN phải khẩn trương nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những nghiệp vụ kinh doanh mới. Khó khăn đối với NHNN và các cơ quan chức năng cũng tăng lên khi các ngân hàng nước ngoài được phép tham gia kinh doanh tất cả các dịch vụ ngân hàng vì họ có ưu thế rõ rệt so với các NHTM Việt Nam trong việc cung cấp các dịch vụ và đa dạng hóa hoạt động.
Mặt khác, trong thời gian tới các NH nước ngoài được phép thành lập các NH liên doanh với NHTM Việt Nam §èi víi c¸c ng©n hµng Mü tû lÖ gãp vèn theo quy ®Þnh tèi thiÓu lµ 30% vµ tèi ®a kh«ng qu¸ 49% vèn ph¸p ®Þnh cña liªn doanh
, ngân hàng 100% vốn nước ngoài cũng làm tăng áp lực cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Điều này bắt buộc phía Việt Nam cần nhanh chóng cổ phần hóa các NHTM Nhà nước nhằm nâng cao chất lượng quản lý, tăng lợi nhuận mà không cần phải trông cậy vào ngân sách, qua đó tăng sức cạnh tranh và đảm bảo an toàn cho hệ thống NHTM Việt Nam. Theo hiệp định thương mại Việt - Mỹ, các ngân hàng Hoa Kỳ không bị hạn chế về hình thức hiện diện (bao gồm cả việc mua cổ phần của các NHTM Nhà nước và mở rộng lắp đặt hệ thống ATM như NHTM Việt Nam, về địa giới hành chính, về số lượng cho từng loại hình nên các ngân hàng Hoa kỳ có điều kiện tốt nhất cho việc tăng cường sự có mặt tại Việt Nam trên rất nhiều lĩnh vực hoạt động. Vì vậy, việc mở rộng đối tượng khách hàng phục vụ cũng là những nội dung cạnh tranh gay gắt khi triển khai cung cấp dịch vụ.
Để khắc phục những hạn chế và nâng cao năng lực cạnh tranh các sản phẩm dịch vụ của các NHTM Nhà nước trong đó có NHTMCPCT, đề nghị ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục và sớm thực hiện những giải pháp sau đây:
Cải cách căn bản cơ chế cấp phép cung cấp các dịch vụ ngân hàng của các TCTD: theo xu hướng cải cách hành chính, hạn chế dần các giấy phép con, Ngân hàng Nhà nước cần thay đổi căn bản cơ chế cấp phép cho việc cung cấp từng dịch vụ cụ thể của các TCTD theo hướng: (i) NHNN không cấp phép cho từng dịch vụ của ngân hàng, mà quy định các điều kiện cần thiết để được cung cấp từng dịch vụ (trên cơ sở đảm bảo an toàn, có chính sách quản lý rủi ro phù hợp, có đủ năng lực cung cấp dịch vụ). Khi có đủ các điều kiện này, tổ chức tín dụng sẽ được cung cấp dịch vụ và NHNN chỉ giám sát, thanh tra việc cung cấp dịch vụ của TCTD trên cơ sở sự tuân thủ các điều kiện do NHNN quy định; (ii) NHNN không quy định cụ thể các loại dịch vụ ngân hàng mà TCTD được phép cung cấp trong giấy phép của từng tổ chức tín dụng, mà quy định nhóm các dịch vụ TCTD sẽ được cung cấp tuỳ thuộc vào loại hình cung cấp dịch vụ.
Thay đổi các phương thức quản lý các loại hình dịch vụ ngân hàng mà TCTD được cung cấp: để đảm bảo khả năng điều chỉnh linh hoạt tuỳ theo sự phát triển của thị trường và năng lực cung cấp dịch vụ của các TCTD, Luật Các TCTD và các văn bản hướng dẫn thi hành nên quy định “danh sách các dịch vụ ngân hàng” được phép cung cấp theo hướng mở và NHNN có thể bổ sung các dịch vụ mới vào danh sách này, tuỳ theo yêu cầu thị trường và năng lực quản lý. Tuy nhiên, cùng với việc cho phép các TCTD mở rộng loại hình dịch vụ ngân hàng, các quy định về điều kiện cung cấp dịch vụ ngân hàng mới, thanh tra, giám sát việc cung cấp các dịch vụ này cũng phải được ban hành một cách đồng bộ.
Hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng, an toàn cho mọi tổ chức dịch vụ hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam trong các lĩnh vực tín dụng, phi tín dụng, gây sức ép đổi mới và tăng hiệu quả lên các NHTM Việt Nam như giảm chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, có khả năng tự bảo vệ trước cạnh tranh quốc tế trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiến hành mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở xóa bỏ dần các hạn chế về số lượng đơn vị, loại hình tổ chức, phạm vi hoạt động, tỷ lệ góp vốn bên nghiệp vụ nước ngoài hoặc tổng giao dịch nghiệp vụ ngân hàng, mức huy động vốn VND, các loại hình dịch vụ, đảm bảo quyền kinh doanh của các ngân hàng và tổ chức tài chính nước ngoài theo các cam kết song phương và đa phương.
Chủ động và tích cực chuẩn bị điều kiện tham gia thị trường tài chính quốc tế thông qua hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu ngân hàng và các loại giấy tờ có giá trị khác.
Từng bước đổi mới cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống NHNN nhằm nâng cao vai trò hiệu quả điều tiết vĩ mô của NHNN, nhất là trong việc thiết lập, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia và trong việc quản lý giám sát hoạt động của các trung gian tài chính.
Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, giảm dần bảo hộ các NHTM trong nước, phân biệt chức năng của NHNN và NHTM Nhà nước, chức năng cho vay của ngân hàng chính sách với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM, tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của NHTM trong kinh doanh nói chung và kinh doanh đối ngoại nói riêng, giảm dần bao cấp đối với các NHTM Nhà nước, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn trong lĩnh vực tài chính ngân hàng.
Hỗ trợ và khuyến khích các NHTM Nhà nước nâng cao trình độ quản lý, cải tiến công nghệ, phát triển các dịch vụ phù hợp với chức năng và xu hướng chung trên thị trường tài chính quốc tế.
Xây dựng chiến lược phát triển công nghệ ngân hàng, hệ thống thông tin quản lý, hệ thống giao dịch điện tử, hệ thống giám sát từ xa. Tăng cường hợp tác quốc tế, tích cực tham gia các chương trình và thể chế hợp tác, giám sát, trao đổi thông tin với các khối liên kết kinh tế khu vực và quốc tế, xây dựng hệ thống thông tin ngân hàng theo tiêu chuẩn quốc tế và xu hướng phát triển hiện nay của ngành ngân hàng.
Kiến nghị với các ban ngành liên quan
Để hoạt động phát triển dịch vụ của các NHTM thông suốt đòi hỏi cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ban ngành liên quan chặt chẽ hơn nữa. Theo đó:
Bộ Tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc phối hợp với NHNN ban hành các cơ chế chính sách liên quan đến phát triển đồng bộ các định chế tài chính - ngân hàng và sự vận hành thông suốt của thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường vốn, thị trường chứng khoán).
NHNN, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp cùng ra soát các văn bản pháp luật hướng dẫn việc thi hành Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các TCTD có tác động đến các dịch vụ ngân hàng nhằm tránh tình trạng phân biệt đối xử, đảm bảo tính cẩn trọng và phù hợ với các quy định của WTO cũng như các cam kết quốc tế của Việt Nam.
NHNN và Bộ Tài chính đưa ra các quy định về công bố và minh bạch tài chính, cụ thể là đưa ra các quy định về công bố tài chính nhằm giảm thiểu sự lệch lạc thông tin và hỗ trợ việc cho vay tới các khách hàng truyền thống của ngân hàng.
NHNN và Bộ Tư pháp cần xây dựng và ban hành các quy định về Bảo vệ khung pháp lý cho chủ nợ, cụ thể là đặt ra những khuôn khổ pháp luật để bảo vệ lợi ích của chủ nợ trong các trường hợp phá sản hoặc trưng thu tài sản thế chấp, hoặc quyền sử dụng đất.
NHNN phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành các quy định về dịch vụ thanh toán gắn với đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài.
KẾT LUẬN
Hoạt động kinh doanh của NHTM đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, NHTMCPCT trong những năm vừa qua đã góp phần rất lớn vào công cuộc đổi mới và hiện đại hoá đất nước. Bằng những nỗ lực và cải tiến phát triển của mình, NHTMCPCT đã cung cấp hàng loạt các dịch vụ đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tiêu dùng và sử dụng dịch vụ của cá nhân, doanh nghiệp Việt Nam...Tuy nhiên, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, vấn đề mở của của ngành ngân hàng tài chính của Việt Nam, và thực tế nhu cầu dịch vụ ngày càng đa dạng và phát triển của Việt Nam đòi hỏi NHTMCPCT không chỉ hoàn thiện các dịch vụ hiện có mà còn từng bước tiếp tục phát triển các dịch vụ ngân hàng mới đáp ứng nhu cầu của người sử dụng và duy trì được khả năng cạnh tranh, phát triển của ngân hàng.
Trên cơ sở vận dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, bám sát mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, luận đã làm sáng tỏ và có một số đóng góp chính yếu sau:
Một là, hệ thống hoá những lý luận chung cơ bản về NHTM và dịch vụ của NHTM, từ đó nên rõ những khái niệm và vai trò của NHTM trong nền kinh tế, đặc trưng của dịch vụ NHTM, phát triển dịch vụ ngân hàng, các tiêu thức phản ánh mức độ phát triển cũng như ảnh hưởng đến phát triển dịch vụ ngân hàng.
Hai là, làm rõ thực trạng dịch vụ NHTMCPCT trong những năm gần đây, đồng thời qua đó đánh giá thực trạng phát triển dịch vụ của NHTMCPCT thông qua việc đánh giá các nhân tố thúc đẩy phát triển, các nhân tố kìm hãm phát triển dịch vụ của NHTMCPCT. Đây là cơ sở cho những nhận định và giải pháp mà tác giả luận văn luận giải trong chương tiếp theo.
Ba là, luận văn đã trình bày một số giải pháp có tính khả thi vừa mang tính hoàn thiện các dịch vụ ngân hàng hiện có của NHTMCPCT, đồng thời vừa phát triển một số dịch vụ mới đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng, duy trì thị phần và nâng cao khả năng cạnh tranh của NHTMCPCT trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, mở của các hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng của Việt Nam sau sự hiện diện của Việt Nam vào Apec, WTO…
Bốn là, tác giả đưa ra một số kiến nghị với Chính phủ, với NHNN và các ban ngành liên quan trong việc hoạch định những chính sách, ban hành những chính sách, phối kết hợp giữa các ban ngành nhằm đưa ra những chính sách hiệu quả thúc đẩy phát triển dịch vụ ngân hàng của NHTM nói chung ở Việt Nam và của NHTMCPCT nói riêng.
Phát triển dịch vụ ngân hàng là mục tiêu chiến lược lớn, có nhiều hướng tiếp cận khác nhau đối với các NHTM. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, trên cơ sở chiến lược phát triển tổng thể dịch vụ và tầm nhìn của các NHTM Việt Nam đến năm 2020, chiến lược phát triển dịch vụ của NHTMCPCT. Tác giả tập trung nghiên cứu thực trạng dịch vụ phi tín dụng của NHTMCPCT, và đưa ra hướng tiếp cận riêng cho NHTMCPCT phát triển dịch vụ trong giai đoạn hiện nay và sắp tới.
Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề mới với hệ thống ngân hàng Việt Nam, cũng như hầu hết người sử dụng dịch vụ ở Việt Nam. Vì vậy, với kiến thức còn hạn chế tác giả mong muốn nhận được nhiều sự đóng góp hơn nữa của các nhà nghiên cứu, bạn đọc để luận văn ngày càng được hoàn thiện hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
David Begg (1995), Kinh tế học, Nhà xuất bản giáo dục Hà Nội, Hà Nội.
Nguyễn Thị Bích Châm, Bùi Hồng Thanh (2008)," Giải pháp phát triển sản phẩm dịch vụ của ngân hàng Công thương Hoàng mai",Tạp chí ngân hàng,số (9) Tr.61 - 64
David Cox (1997), Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
PGS.TS.Phan Thị Cúc (2008), Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Thống Kê, Hà Nội.
Đại học Kinh tế quốc dân (2002), Marketing, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
Học viện Ngân hàng (1999), Marketing dịch vụ tài chính, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội.
Đỗ Xuân Hồng (2003), "Dịch vụ ngân hàng trong thời đại công nghệ thông tin và hội nhập kinh tế ", Tạp chí ngân hàng, số (8), Tr. 15-19.
Hoàng Kim (2001), Tiền tệ ngân hàng, Thị trường tài chính, Nhà xuất bản Tài chính , Hà Nội.
Nguyễn Thị Ngọc Loan (2003), "Về cạnh tranh phát triển dịch vụ ngân hàng theo hướng hội nhập hiện nay ở nước ta", Tạp chí ngân hàng, số chuyên đề, Tr. 21-24.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Hà Nội.
Ngân hàng Công thương Việt Nam (2007), Báo cáo thường niên năm 2003-2008, Hà Nội.
Ngân hàng Công thương Việt Nam (2009), Định hướng hoạt động trong thời gian tới và kế hoạch kinh doanh năm 2009, Hà nội
Ngân hàng công thương Việt Nam (2007), Hội nghị tổng kết hoạt động kinh doanh đối ngoại (1991 - 2008), Hà Nội.
Lê Tiến Phúc (2001), Phát triển dịch vụ tài chính - kế toán ở Việt Nam, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
Frederic S.Mishkin (1995), Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường Tài chính, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.
Peter S.Rose (2004), Quản trị ngân hàng thương mại, Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội.
Trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh (2006), Tiền tệ ngân hàng, Nhà xuất bản Thống kê, Hà nội.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31322.doc