Chương I
Những ly luận chung về TTKDTM
I. Sự cần thiết và y nghĩa của TTKDTM
1. Sự cần thiết của TTKDTM
Trong nền kinh tế của bất kỳ xã hội nào thì sản xuất luôn tồn tại và phát triển. Quá trình mua bán giữa các chủ thể kinh tế, cá nhân được thanh toán với nhau bằng cách trực tiếp hoặc gián tiếp, đó là tổng thể thanh toán chung của toàn xã hội trong sản xuất và lưu thông hàng hoá dẫn đến sự ra đời của tiền tệ và lưu thông tiền tệ. Trong quá trình trao đổi hàng hoá, tiền tệ giữ vai trò trun
23 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển công tác thanh toán không dùng tiền mặt tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (AgriBank) huyện Xuân Trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g gian đã tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá thực hiện trôi chảy, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Quá trình sản xuất xã hội được diễn ra một cách liên tục và không ngừng mở rộng do đó có nhiều mối quan hệ phức tạp đa dạng như: Giữa các chủ thể kinh tế với nhau, giữa Nhà nước với nhân dân, giữa các sản xuất với người tiêu dùng… Do đặc điểm yêu cầu sản xuất của ngành khác nhau cho nên để giải quyết tốt các mối quan hệ nêu trên để không ảnh hưởng đến quá trình sản xuất đòi hỏi phải tổ chức tốt khâu thanh toán, đó cũng yêu cầu của nền kinh tế sản xuất hàng hoá.
Thanh toán bằng tiền mặt là tổng thể các chu chuyển tiền mặt trong nền kinh tế quốc dân thông qua các chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán. Hình thức thanh toán bằng tiền mặt thường được sử dụng trong quan hệ chi trả thông thường giữa nhân dân với nhau. Khi trình độ của sản xuất và lưu thông hàng hoá còn ở mức độ thấp, tiền mặt được sử dụng phổ biển và đã thể hiện tính linh hoạt của nó, giúp cho quan hệ mua bán được diễn ra nhanh chóng ở mọi lúc mọi nơi. Tiền mặtv và hàng hoá vận động đồng thời từ người này sang người khác và ngược chiều nhau, những khó khăn trở ngại trong việc thanh toán cũng ít xảy ra. Nhưng khi sản xuất phát triển ở trình độ cao, thanh toán bằng tiền mặt trong nhiều trường hợp đã bộc lộ những nhược điểm nhất là khi quan hệ mua bán phát sinh giữa người mua và người bán cách xa nhau hoặc với những giá trị hàng hoá lớn thì việc thanh toán bằng tiền mặt sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc vận chuyển, bảo quản và tốn kém nhiều chi phí để in ấn, kiểm điểm… Điều đó đòi hỏi phải có 1 hình thức thanh toán phù hợp với những yêu cầu của quá trình mua bán đó là công tác thanh toán không dùng tiền mặt.
TTKDTM là hình thức thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà được thực hiện bằng cách tính từ tài khoản của người phải trả chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau thông qua vai trò trung gian của các Ngân hàng, các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì việc phát triển các công cụ thanh toán KDTM là đòi hỏi tất yếu đối với ngành Ngân hàng. Các Ngân hàng cần phải có những hình thức thanh toán ngày càng đơn giản, chính xác và an toàn phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế TTKDTM ra đời đã khắc phục được những nhược điểm của thanh toán bằng tiền mặt đồng thời thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
Tiền tệ được sử dụng trong TTKDTM là tiền ghi sổ thông qua các thủ tục chuyển tiền của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Phạm vi thanh toán không chỉ giới hạn trong một quốc gia mà còn có thể mở rộng thanh toán với các nc khác trong khu vực va trên thế giới.
Hình thức TTKDTM có những ưu điểm hơn hẳn với hình thức thanh toán bằng tiền mặt đồng thời do nhu cầu đa dạng của các quan hệ mua bán đã đòi hỏi, nên hình thức TTKDTM ra đời là một đáp ứng đòi hỏi của khách quan.
2. Đặc điểm và y nghĩa của TTKDTM
2.1. Đặc điểm của TTKDTM
Thực chất của thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ ở đây được thực hiện bằng đồng tiền ghi số chứ không phải bằng tiền mặt.
- Có sự cách biệt về mặt không gian cũng như thời gian giữa trao đổi hàng hoá với thanh toán tiền tệ, nghĩa là việc giao hàng và nhận tiền không diễn ra trong cùng một thời điểm.
- Thanh toán thông qua vai trò trung gian của các ngân hàng của các tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức cung ứng, dịch vụ thanh toán.
2.2. Y nghĩa của TTKDTM
TTKDTM có vai trò quan trọng trong nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế nhiều thành phần như nước ta hiện nay và được thể hiện qua y nghĩa sau đây:
- TTKDTM làm giảm khối lượng tiền mặt trong lưu thông từ đó giảm chi phí lưu thông tiền mặt như in ấn, vận chuyển, bảo quản… tăng sự an toàn và độ tin cậy cao.
- TTKDTM góp phần thúc đẩy luân chuyển vốn nhanh, chính xác, an toàn từ đó thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Thanh toán vừa là khâu mở đầu vừa là khâu kết thúc của 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh nếu tổ chức tốt khâu thanh toán thì sẽ rút ngắn được thời gian thanh toán, tăng nhanh tốc độ vòng quay của đồng vốn, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- TTKDTM (góp phần) tạo nguồn vốn tín dụng cho ngân hàng để đầu tư sản xuất kinh doanh. Thực tế để tham gia vào hình thức thanh toán không dùng tiền mặt các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp các cá nhân… Đều phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng phục vụ mình. Trên tài khoản này phải có 1 (khoản tiền nhất định để tiến hành việc chi trả.) Song không phải lúc nào họ cũng chi trả mà có thể đồng thời cùng 1 lúc trên tài khoản khách hàng này chi trả thì trên tài khoản của khách hàng khác lại có tiền chuyển về. Do vậy trên đây tài khoản thanh toán luôn tồn tại một số dư nhất định. Số dư này chính là nguồn vốn ngắn hạn mà Ngân hàng được phép sử dụng để đầu tư cho sản xuất và kinh doanh. Đây là nguồn vốn lớn nếu Ngân hàng có chiến lược để thu hút khách hàng, sẽ đem lại hiệu quả lớn cho Ngân hàng bởi nguồn vốn này có chi phí thấp nhất và thấp hơn nhiều so với các nguồn vốn huy động khác.
- TTKDTM giúp hệ thống Ngân hàng thương mại thực hiện chức năng tạo tiền
- TTKDTM tạo điều kiện cho Ngân hàng có thể thu nhập và nắm thông tin về khách hàng một cách đầy đủ toàn diện, thẩm định khả năng tài chính của khách hàng tốt hơn khi xét duyệt tín dụng, theo dõi việc sử dụng vốn vay của khách hàng tốt hơn sau khi cấp tín dụng.
- TTKDTM có vai trò quản ly vĩ mô của NHNN trong quá trình điều hành thực hiện các chính sách tiền tệ vai trò quản ly vĩ mô của NHNN chịu thực sự phát huy có hiệu quả khi phần lớn khối lượng thanh toán tập trung qua Ngân hàng. Mở rộng TTKDTM tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước quản ly tổng thể quá trình luân chuyển vốn, kiểm soát được mức tạo tiền và tăng trưởng tín dụng thực hiện tốt mục tiêu của chính sách tiền tệ.
II. Các nhân tố tác động đến TTKDTM
1. Môi trường pháp luật.
Ngân hàng là 1 tổ chức kinh doanh đặc biệt đó là kinh doanh tiền tệ.
Do đó nó chịu sự tác động trực tiếp của pháp luật. Hiện nay ngành Ngân hàng đã có luật riêng cho mình như luật NHNN, Luật các tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp là những hành lang pháp ly tạo đãc cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
TTKDTM là 1 loại hình cung cấp dịch vụ, cung cấp các tiện ích cho khách hàng do vậy nó chịu ảnh hưởng rất lớn của pháp luật - chỉ một thay đổi nhỏ của pháp luật sẽ tạo cơ hội và thách thức lớn cho Ngân hàng. Nếu như Ngân hàng không nắm bắt kịp thời thì sự ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng và dễ gây mất uy tín với khách hàng.
Khách hàng sử dụng hình thức TTKDTM là nhờ vào tính hiệu quả của nó nhưng đôi khi chính những thủ tục, chế độ cứng nhắc sẽ gây trở ngại và phiền hà cho khách hàng. Do vậy Ngân hàng phải không ngừng đổi mới và hoàn thiện các hình thức thanh toán cho phù hợp với nhu cầu thanh toán của khách hàng.
Công tác TTKDTM sẽ giúp cho Nhà nước thực hiện vai trò quản ly vĩ mô của mình đó là ổn định tiền tệ. Vì vậy khi một qui định nào đó được đưa ra kịp thời với sự biến động của nền kinh tế trong nước và thế giới thì sẽ thúc đẩy công tác TTKDTM phát triển tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển và hoà nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
2. Môi trường khoa học và công nghệ.
Công nghệ Ngân hàng là 1 yêu tố vô cùng quan trọng không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Việc áp dụng khoa học và công nghệ vào Ngân hàng sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quy trình chu chuyển vốn giảm thiếu thời gian thanh toán, độ an toàn và chính xác cao.
Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học công nghệ hiện đại vào công tác thanh toán đã dần cải tiến và hoàn thiện với mục đích là thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Như vậy yếu tố công nghệ là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công tác TTKDTM. Khoa học công nghệ có tiên tiến, có hiện đại thì thanh toán KDTM mới có thể phát huy hết được vai trò của nó trong nền kinh tế.
3. Yếu tố tâm lí.
Yếu tố tâm lí có ảnh hưởng rất lớn đến công tác TTKDTM. Nếu trình độ dân trí thấp, lạc hậu người dân không nắm bắt được các tiện ích của Ngân hàng đó là TTKDTM mà họ chỉ có thói quen thanh toán bằng tiền mặt. Để các hình thức thanh toán được tuyên truyền phổ biến trong dân cư thì Ngân hàng phải chú y tới công tác đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên Ngân hàng để nâng cao trình độ về chuyên môn nghiệp vụ cũng như công tác tiếp thị quảng cáo cho mọi người hiểu và sử dụng các hình thức TTKDTM trong thanh toán xoá bỏ dần tâm ly sử dụng tiền mặt và thúc đẩy TTKDTM ngày một phát triển.
4. Môi trường kinh tế - xã hội.
Yếu tố môi trường kinh tế - xã hội cũng có ảnh hưởng rất lớn đến công tác TTKDTM. Nó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của đất nc, mức thu nhập của mỗi người dân, trình độ dân trí, thói quen sử dụng các phương tiện thanh toán và đặc biệt là mạng lưới thương nghiệp dv. Nếu nền kinh tế phát triển, trình độ học vấn và tiếp thu những tiến bộ khoa học kỹ thuật của người dân được nâng cao… thì việc sử dụng các công cụ TTKDTM sẽ được phát huy và có hiệu quả.
III. Các hình thức TTKDTM được áp dụng ở nước ta hiện nay.
Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của mỗi quan hệ kinh tế xã hội, trong quá trính hoạt động kinh tế, ngày nay hầu hết các Ngân hàng đã và đang từng bước đưa công nghệ tiên tiến, tin học hoá vào khâu thanh toán song song với việc thực hiện áp dụng khoa học kỹ thuật, ngành Ngân hàng cũng ra sức hoàn thiện các hình thức TTKDTM sao cho mang lại hiệu quả cao nhất.
TTKDTM là phương thức thanh toán có nhiều ưu điểm. Nó được áp dụng rộng rãi khắp trên thế giới. ở Việt nam TTKDTM được áp dụng trong Ngân hàng kể từ khi Ngân hàng mới thành lập và đang áp dụng các thể thức sau:
1. Thanh toán bằng séc thanh toán.
Séc được thực hiện thanh toán qua Ngân hàng từ năm 1951 (khi Ngân hàng Việt nam thành lập) theo quyết định 101/QĐNH ra đời rồi thay thế bằng quyết định 22/QĐ của Thông đối Ngân HNN ngày 21/2/1994 và gần đây nhất là nghị định 30/CP ngày 09/05/1996 của Chính phủ đã quy định thống nhất việc thanh toán bằng séc qua NH.
Séc là lệnh trả tiền của chủ tài khoản, là loại giấy tờ thanh toán do chủ tài khoản lập trên mẫu in sẵn đặc biệt của Ngân hàng, được giao trực tiếp cho người hưởng sau khi đã nhận hàng hoá và được cung ứng dịch vụ sau đó Ngân hàng trích tài khoản của người phát hành séc và ghi có cho người được hưởng có tên trên tờ séc.
Trong quan hệ thanh toán gồm có 3 chủ thể:
- Người phát hành: là chủ tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc người được uỷ quyền kỷ tên để phát hành tờ séc theo đúng quy định của pháp luật về uỷ quyền. Người phát hành séc phải chịu mọi trách nhiệm pháp ly về việc phát hành séc của mình theo đúng thủ tục của Ngân hàng quy định và phải chịu phạt khi phát hành quá số dư.
- Người thụ hưởng séc: là người có quyền sở hữu số tiền ghi trên séc. Khi nhận séc người thụ hưởng phải kiểm tra đầy đủ tính hợp lệ, hợp pháp của tờ séc và phải nộp vào Ngân hàng tờ séc đó trong thời hạn quy định.
- Ngân hàng: Séc của Ngân hàng hay khách hàng phát hành trước hết được thanh toán tại Ngân hàng đó, tuỳ từng loại có thể được thanh toán ở Ngân hàng khác cùng hệ thống hoặc khác hệ thống trên địa bàn. Ngân hàng phải kiểm tra tính hợp lệ và hợp pháp của tờ séc trước khi chấp nhận thanh toán và Ngân hàng có quyền từ chối thanh toán nếu phát hiện séc xin thanh toán là giả, không hợp lệ, séc quá thời hạn và séc thông báo mất…
Về nguyên tắc séc được nộp vào Ngân hàng và ghi nợ trước, ghi có sau, tuỳ từng hệ thống Ngân hàng, tuỳ từng thể thức thanh toán mà trên thực tế séc có thể được ghi Có trước Nợ sau.
Thời hạn hiệu lực thanh toán có séc là 15 ngày từ ngày phát hành séc, kể cả ngày lễ và chủ nhật. Nếu ngày đến hạn là ngày lễ hoặc chủ nhật thì thời hạn của séc được lùi vào ngày làm việc tiếp theo.
ở nước ta hiện nay có các loại séc sau đây được sử dụng rộng rãi: séc chuyển khoản, séc bảo chi.
1.1. Séc chuyển khoản.
Séc chuyển khoản là lệnh trả tiền của người phát hành séc đối với Ngân hàng phục vụ mình về việc trích trả tiền từ tài khoản của mình trả cho người có tên trên tờ séc.
Phạm vi áp dụng: Dùng để thanh toán giữa 2 khách hàng có tài khoản trong cùng một Ngân hàng hay 2 Ngân hàng cùgn hoặc khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ trực tiếp trên địa bàn địa phương, tỉnh, thành phố.
Trường hợp sécd chuyển khoản thanh toán giữa 2 Ngân hàng có tham gia giao nhận chứng từ trực tiếp thì người thụ hưởng lập bảng kê nộp séc theo từng Ngân hàng phục vụ người chi trả để nộp vào Ngân hàng phục vụ mình hoặc nộp trực tiếp vào Ngân hàng phục vụ bên bán. Nếu nộp séc kèm bảng kê nộp séc vào Ngân hàng phục vụ bên bán thì Ngân hàng bên bán sẽ chuyển séc và bảng kê sang Ngân hàng phục vụ bên mua để Ngân hàng bên mua căn cứ vào tờ séc cùng các chứng từ khác để hạch toán.
1.2. Séc bảo chi.
Séc bảo chi là tờ séc được Ngân hàng phục vụ người mua đảm bảo thanh toán trước khi trao tờ séc cho người bán.
Phạm vi thanh toán: Séc bảo chi được thanh toán trong phạm vi giữa 2 đơn vị mua và bán mở tài khoản cùng một Ngân hàng (giữa 2 đơn vị mua và bán) hoặc ở 2 Ngân hàng khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ và giao nhận chứng từ trực tiếp và được áp dụng giữa 2 đơn vị mua và bán ở khác Ngân hàng nhưng cùng hệ thống.
Thời hạn của séc bảo chi là 15 ngày làm việc.
Thủ tục phát hành séc bảo chi: Đơn vị mua hàng muốn thanh toán bằng séc bảo chi sẽ lập 3 bên uỷ nhiệm chi và tờ séc chuyển khoản đã ghi đầy đủ các yếu tố gửi vào Ngân hàng phục vụ mình. Tại Ngân hàng phục vụ đơn vị mua sẽ kiểm soát tính hợp pháp, hợp kệ của tờ séc và uỷ nhiệm chi. Nếu tất cả đều hợp lệ thì đóng dấu bảo chi lên tờ séc và trao cho khách hàng. Trường hợp khách hàng xin bảo chi từ tài khoản chuyển tiền phải trả thì chỉ cần lập uỷ nhiệm chi hay giấy xin bảo chi séc. Khi đó Ngân hàng sẽ viết vào séc và làm thủ tục chi cho khách hàng.
1.3. Thanh toán bằng séc cá nhân.
Theo quyết định 22/QĐ NH ban hành ngày 21/02/94 của Thống đốc NHNN về thể lệ thanh toán của Ngân hàng, có thêm hình thức TTKDTM đó là: Ngân phiếu thanh toán, séc cá nhân, thẻ thanh toán.
Séc cá nhân được áp dụng đối với khách hàng có tài khoản tiền gửi đứng tên cá nhân tại Ngân hàng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ và các khoản thanh toán khác. Séc cá nhân được thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản ở cùng một Ngân hàng hoặc giữa các Ngân hàng trong cùng hệ thống hay khác hệ thống nhưng phải tham gia thanh toán bù trừ trên địa bàn mỗi tỉnh, thành phố.
Trường hợp séc cá nhân có số tiền trên 5 triệu đồng, người phát hành séc phải đến Ngân hàng nơi mở tài khoản để làm thủ tục bảo chi tờ séc. Thời hạn hiệu lực tối đa của tờ séc cá nhân là 10 ngày, kể từ ngày ky phát hành tờ séc đó.
Sơ đồ luân chuyển chứng từ thanh toán bằng hình thức séc cá nhân được tiến hành như hình thức séc chuyển khoản.
2. Thanh toán bằng UNC - chuyển tiền.
UNC là lệnh chi tiền của chủ tài koản được lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng, yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình (nơi mở tài khoản tiền gửi) thanh toán để chi trả cho người thụ hưởng UNC dùng để thanh toán các khoản trả tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc chuyển tiền trong cùng hệ thống và khác hệ thống Ngân hàng.
Trong một ngày làm việc, Ngân hàng hoặc kho bạc Nhà nước phải hoàn tất lệnh chi đó hoặc từ chối nếu tài khoản của khách không đủ tiền hoặc lệnh chi không hợp lệ. Ngân hàng bên thụ hưởng khi nhận được chứng từ hợp lệ phải ghi có ngay vào tài khoản của khách hàng và báo cho khách biết.
UNC còn được xin cấp séc chuyển tiền, nếu khách hàng có nhu cầu xin cấp séc chuyển tiền phải lập 3 liên UNC kèm theo chứng minh thu của người cầm séc mang đến Ngân hàng thanh toán xin ky gửi khoản tiền trên tờ séc vào tài khoản của Ngân hàng đảm bảo cho thanh toán séc. Sau khi kiểm soát đầy đủ các yếu tố, Ngân hàng sẽ cấp séc UNC (chỉ được áp dụng trong cùng hệ thống Ngân hàng). Thời hạn hiệu lực tờ séc chuyển tiền là 30 ngày kể từ ngày phát hành ghi trên tờ séc.
UNC là một hình thức thanh toán đơn giản thuận tiện và được áp dụng nhiều năm nay. UNC được sử dụng khá phổ biến trong thanh toán phi hàng hoá như cấp kinh phí, trả nợ, thực hiện nghĩa vụ ngân sách.
Hướng đổi mới công nghệ thanh toán là phát huuy ưu thế của công cụ UNC trong việc hình thành và phát triển các quan hệ thương mại, tín nhiệm giữa các doanh nghiệp trong cả nước.
3. Thanh toán bằng UNT.
UNT do người thụ hưởng lập theo mẫu in sẵn của Ngân hàng và gửi vào Ngân hàng phục vụ mình để nhờ thu họ tiền hàng đã giao hoặc dịch vụ đã cung ứng.
UNT được áp dụng thanh toán giữa các khách hàng mở tài khoản cùng một chi nhánh Ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống có tham gia thanh toán bù trừ.
Để được thanh toán bằng UNT, khách hàng mua và bán phải thống nhất ky hợp đồng thoả thuận dùng hình thức thanh toán UNT với điều kiện thanh toán đã ghi rõ trong hợp đồng kinh tế và phải thông báo bằng văn bản cho Ngân hàng phục vụ người mua biết để làm căn cứ thanh toán các UNT.
Sau khi đã hoàn tất dịch cung ứng, bên thụ hưởng lập UNT kèm theo hoá đơn, vận đơn gửi đến Ngân hàng phục vụ mình hoặc gửi trực tiếp tới Ngân hàng phục vụ bên trả tiền để yêu cầu thu hộ. Khi nhận được giấy UNT trong 1 ngày làm việc, Ngân hàng bên trả tiền trích ngay tài khoản của người trả tiền trả cho bên thụ hưởng để hoàn tất việc thanh toán. Nếu tài khoản bên trả tiền không đủ tiền thì bên trả bị phạt chậm trả cho bên thụ hưởng. Thời gian phạt tính từ ngày nhận UNT mà tài khoản tiền gửi không đủ tiền thanh toán đến ngày có đủ tiền. Mức phạt tính như sau:
Số tiền x số ngày chậm trả x 150% mức lãi suất vay hiện hành UNT được áp dụng cho 2 bên thanh toán mua và bán có tín nhiệm với nhau, hình thức thanh toán thích hợp đối với các dịch vụ cung ứng, với khối lượng định kỳ như điện, nước, điện thoại…
Đối với hình thức này, hiện nay ít được khách hàng sử dụng vì có nhiều nhược điểm như sự sai lệch tiền và hàng, mọi tranh chấp về chứng từ khống. Mặt khác UNT và chứng từ giao hàng lại xuất phát từ bên bán nhưng đòi hỏi ghi Nợ trước Có sau cho nên thanh toán chậm trễ, không thu hút khách hàng.
4. Thanh toán bằng thư tín dụng.
Thư tín dụng là sự cam kết của Ngân hàng "A" theo yêu cầu của đơn vị mua sẽ thanh toán một số tiền theo các điều kiện đã quy định trong thu tín dụng cho đơn vị bán.
Thư tín dụng được dùng để thanh toán tiền hàng trong điều kiện bên bán đòi hỏi phải có đủ số tiền để chi trả ngay và phù hợp với tổng số tiền hàng đã giao theo hợp đồng hoặc đơn đặt hàng đã ky.
Khi có nhu cầu, bên mua lập giấy tờ thư tín dụng yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản tiền gửi (hoặc tiền vay Ngân hàng) 1 số tiền bằng tổng giá trị hàng đặt mua để lưu ky vào một tài khoản riêng. Ngân hàng bên trả tiền phải gửi ngay thư tín dụng cho Ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng để báo cho khách hàng biết.
Mức tối thiểu của một thư tín dụng là 10 triệu đồng, tiền gửi thư tín dụng không được hưởng lãi, mỗi thư tín dụng chỉ dùng để trả cho 1 người thụ hưởng.
Thời hạn hiệu lực thanh toán của 1 thư tín dụng là 03 tháng kể từ ngày Ngân hàng bên mua nhận mở thư tín dụng. Bên bán có trách nhiệm giao hàng cho bên mua sau khi nhận được giấy báo thư tín dụng đã mở.
Thư tín dụng được áp dụng thanh toán giữa 2 đơn vị mở và sử dụng tài khoản ở 2 Ngân hàng khác nhau trong cùng hệ thống.
Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng trả tiền cho bên thụ hưởng căn cứ vào hoá đơn, vận đơn, các chứng từ giao nhận hàng đã có chữ ky của người đại diện trả tiền, kèm theo giấy uỷ nhiệm của người đã trả tiền do người thụ hưởng xuất trình, phù hợp với các điều khoản quy định thống nhất giữa 2 bên mua và bán được ghi trên thư tín dụng. Sau khi trả tiền Ngân hàng phục vụ người thụ hưởng phải báo nợ ngay cho bên Ngân hàng phục vụ người trả tiền để tất toán thư tín dụng.
Mọi trường hợp tranh chấp về hàng hoá đã giao và tiền hàng đã trả do 2 bên mua bán giải quyết.
Thư tín dụng chủ yếu được áp dụng trong thanh toán ngoại thương mua bán ở phạm vi quốc gia ít được sử dụng và thủ tục phiền hà, hơn nữa phải lưu ky một số tiền lớn tài khoản mà không được hưởng lãi nên gây ra đọng vốn.
5. Thẻ thanh toán.
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán gắn với kỹ thuật tin học ứng dụng trong Ngân hàng.
Thẻ thanh toán do Ngân hàng phát hành và bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác và rút tiền tại các Ngân hàng đại ly thanh táon hay các quầy trả tiền tự động. Thẻ thanh toán có nhiều loại, căn cứ vào nội dung kinh tế của thẻ được chia ra làm 03 loại:
6.1. Thẻ ghi Nợ (thẻ không cần phải ky quỹ) _ thẻ loại A.
Khách hàng sử dụng loại thẻ này không phải lưu ky trước số tiền vào 1 tài khoản nhằm đảm bảo thanh toán cho thẻ mà căn cứ để thanh toán là dựa trên số dư tài khoản tiền gửi của khách hàng và hạn mức thanh toán theo quy định đã được Ngân hàng ghi vào bộ nhớ của thẻ.
Thẻ được dùng đối với khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán thường xuyên, có tín nhiệm với Ngân hàng, do giám đốc Ngân hàng phát hành thẻ xem xét và quyết định.
6.2. Thẻ ky quỹ thanh toán (thẻ loại B).
Muốn sử dụng thẻ này khách hàng phải lưu ky tiền vào 1 tài khoản riêng tại Ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán bằng số tiền ky quỹ ghi trong thẻ đã lưu ky. Loại thẻ này được áp dụng rộng rãi cho mọi khách hàng.
6.3. Thẻ tín dụng (thẻ loại C).
áp dụng đối với các khách hàng có đủ điều kiện được Ngân hàng cho vay tiền. Khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi hạn mức tín dụng đã được Ngân hàng chấp nhận bằng văn bản.
Thẻ thanh toán ở nước ta mới ở giai đoạn thí nghiệm cần phải tiếp tục hoàn thiện. Đây là một dịch vụ hoàn toàn tự động và dựa trên cơ sở công nghệ tiên tiến nên phải có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại. Hiện nay, do vốn đầu từ hạn chế nên chưa trang bị được máy đọc thẻ ở nhiều nơi, vì vậy chưa được sử dụng rộng rãi. Trong tương lai, Việt nam sẽ được xây dựng nhiều siêu thị, trung tâm thương mại thì thẻ thanh toán sẽ được sử dụng rộng rãi và trở thành phương tiện thanh toán được dùng nhiều nhất, tiện lợi nhất.
Việc với mục tiêu ngày càng mở rộng công tác TTKDTM vừa có lợi cho nền kinh tế, vừa có lợi cho khách hàng và cho bản thân Ngân hàng. Qua đó, Ngân hàng kiểm soát chặt chẽ tình hình biến động vốn và sử dụng vốn của các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với mình, làm nền tảng cho việc thực hiện chức năng tạo tiền của Ngân hàng. Góp phần giảm bớt khối lượng tiền mặt trong lưu thông, ổn định giá cả tiền địa bàn, tránh tình trạng nơi thừa vốn, nơi thiếu vốn trong nền kinh tế.
Để đánh giá chi tiết và thấy được mặt ưu điểm, nhược điểm qua đó tìm giải pháp khắc phục ta đi sâu vào phân tích từng thể thức thanh toán.
2.1. Thực trạng thanh toán bằng séc.
Trong tất cả các thể thức thanh toán của Ngân hàng thể thức nào cũng có mặt ưu điểm và cũng không tránh khỏi những hạn chế của nó. Thể thức thanh toán bằng séc cũng vậy. Ưu điểm của thể thức thanh toán này là thanh toán trực tiếp giữa hai đơn vị mua và bán một các linh hoạt, nhanh gọn và chính xác nhưng trong hai loại séc đang sử dụng là séc chuyển khoản và séc bảo chi thì tại NHNo & PTNT huyện Xuân Trường. Khách hàng chỉ sử dụng séc bảo chi do xuất phát từ yêu cầu chủ yếu là đảm bảo an toàn vốn cho các đơn vị, các tc kinh tế và cá nhân. Mặc dù vậy thể thức thanh toán séc bảo chi vẫn còn những hạn chế của nó thể hiện ở tỷ trọng thanh toán rất thấp so với tổng doanh số thanh toán KDTM.
Qua bảng số liệu trên ta thấy năm 2005 doanh số thanh toán bảo chi là 560 triệu đồng chiếm gần 0,1% tổng doanh số TTKDTM. Từ tình hình trên cho ta thấy chế độ thanh toán séc chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và thị trường. Thủ tục thanh toán séc gây không ít phiền hà cho khách hàng, người mua muốn thanh toán phải qua nhiều khâu chứ không được ky phát thẳng cho người bán. Về thủ tục phát hành séc bảo chi khi khách hàng có nhu cầu cần bảo chi. Séc thì phải lập ở liên Uỷ nhiệm chi yêu cầu Ngân hàng bảo chi séc kèm tờ séc đã ghi đầy đủ các yếu tố theo quy định nộp vào Ngân hàng mà mình xin mở tài khoản tiền gửi. Ngân hàng sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ hợp pháp của tờ séc, số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, nếu đảm bảo chi các yếu tố theo quy định.
Nợ tài khoản tiền gửi đơn vị phát hành séc.
Có tài kahỏn tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi.
Sau đó kế toán sẽ làm thủ tục bảo chi tờ séc tức là đóng dấu bảo chi lên tờ séc. Tuỳ theo yêu cầu của khách hàng Ngân hàng sẽ tiến hành hạch toán theo quy định.
Hình thức thanh toán này gây phiền hà cho khách hàng nhưng sẽ đảm bảo an toàn vốn và khả năng chi trả cho người thụ hưởng vì đã được Ngân hàng đảm bảo. Do vậy, hình thức này được người bán ưu chuộng hơn là người mua vì người mua phải có khoản tiền bằng với số tiền hàng hoá dịch vụ mới được phát hành séc bảo chi.
Qua thực tế cho thấy hình thức thanh toán séc bảo chi phải tính ky hiệu mật và được phép ghi "Có" trước ky hiệu mật, ghi "Nợ" sau khi khách hàng nộp séc vào Ngân hàng sẽ kiểm tra ky hiệu mật, tính hợp lệ hợp pháp, thời hạn thanh toán của tờ séc nếu đầy đủ sẽ thanh toán ngay cho khách hàng. Nếu thanh toán cho khách hàng khác hệ thống theo quy định hiện nay cho phép hạch toán - Nợ - Có đồng thời tại phiên giao dịch bù trừ.
Để giải quyết mâu thuẫn này đòi hỏi Ngân hàng phải đưa ra các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và phát huy ưu việt của nó để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Hiện nay, với công nghệ hiện đại của Ngân hàng có thể đưa ra giải pháp là khách hàng không cần phải trích tiền từ tài khoản tiền gửi của mình sang tiền gửi thanh toán séc mà Ngân hàng chỉ cần phong toả số tiền trên tài khoản của khách hàng bằng với số tiền trên séc bảo chi. Như vậy, vừa tránh phiền hà không cần thiết cho khách hàng mà Ngân hàng vẫn đảm bảo an toàn khả năng chi trả cho người thụ hưởng.
Thanh toán theo hình thức này còn có những hạn chế như: để thanh toán séc bảo chi thì người mua phải lưu ky một khoản tiền tại một tài khoản khác của Ngân hàng do đó gây ứ đọng vốn không thuận tiện cho việc thanh toán hiện nay của khách hàng. Do vậy, hình thức thanh toán này ít được khách hàng sử dụng.
2.2. Uỷ nhiệm chi - chuyển tiền.
Đây là một hình thức thanh toán được sử dụng phổ biến nhất nó chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng các hình thức thanh toán KDTM tại NHNo % PTNT huyện Xuân Trường. Cụ thể:
Năm 2005 có 5.971 món trên tổng số 6.461 món chiếm 92,42% tương ứng với số tiền là 615.783 triệu đồng chiếm 99,27% tổng doanh số thanh toán. So với năm 2004 thể thức thanh toán UNC tăng lên rõ rệt ở năm 2005 với 770 món tương ứng số tiền là 132.459 triệu đồng.
Hình thức thanh toán này được khách hàng sử dụng nhiều bởi nó có ưu điểm là phạm vi thanh toán rộng, nó được dùng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, những khoản thanh toán khác của Ngân hàng như đều chuyển vốn, thực hiện nghĩa vụ đối với Ngân sách Nhà nước. UNC được thanh toán cùng Ngân hàng, cùng Ngân hàng cùng hệ thống, khác Ngân hàng khác hệ thống khác địa bàn. Thủ tục thanh toán đơn giản, dễ sử dụng, thuận tiện cho cả hai bên. Hơn nữa, do công nghệ Ngân hàng phát triển việc thanh toán được thực hiện qua máy vi tính rất nhanh gọn chỉ trong vòng ngày làm việc thậm chí vài giờ sau khi người mua gửi UNC tới Ngân hàng người bán đã nhận được tiền hàng hoá dịch vụ. Nhưng cũng có thể họ không nhận được tiền hàng vì còn phụ thuộc vào bên mua có lập UNC để thanh toán ngay hay không? Do vậy, hình thức thanh toán này chỉ được áp dụng cho các đơn vị có quan hệ thường xuyên, có sự tín nhiệm lẫn nhau. Mặt khác hình thức thanh toán này có sự tách rời sự vận động của vật tư hàng hoá nên dễ gây rủi ro thiệt thò cho người lớn.
Tóm lại, hình thức thanh toán UNC là một hình thức thanh toán đơn giản, thuận tiện và kịp thời do vậy nó phù hợp với mọi đối tượng khách hàng. Hiện nay hình thức này được sử dụng thông qua phương thức thanh toán chuyển tiền điện tử nên càng làm cho khách hàng sử dụng hình thức này nhiều hơn.
2.3. Uỷ nhiệm thu:
Tính hình thanh toán bằng UNT ở NHNo & PTNT Xuân Trường được áp dụng để thanh toán tiện cung ứng lao vụ (tiền, điện thoại, tiền điện…) và một vài đơn vị kinh doanh áp dụng để đòi tiền hàng. Theo biểu số liệu 5 ta thấy.
Năm 2005 doanh số thanh toán 3.954 triệu đồng chiếm tỷ trọng 0,63% trong tổng doanh số thanh toán, trong khi đó năm 2004 doanh số thanh toán là 2.108 triệu đồng chiếm tỷ trọng 0,56% trong tổng doanh số thanh toán. Điều đó thể hiện thể thức thanh toán UNT tại NHNo Xuân Trường có chiều hướng gia tăng, nhưng tốc độ chậm. Hiện tượng thanh toán bằng UNT ít được khách hàng ưa dùng là do xuất phát từ nhược điểm của hình thức thanh toán này.
UNT được sử dụng để thu tiền hàng hoá và dịch vụ đã cung ứng do đó thường gây ra những thiệt hại cho người bán. Nếu UNT dùng để đòi tiền đơn vị có tài khoản ở cùng 1 Ngân hàng thì thủ tục đơn giản, khách hàng chỉ cần nộp UNT kèm theo hoá đơn gần như là có tiền ngay. Trờng hợp UNT đòi tiền đơn vị có tài khoản mở ở NH khác, bên bán phải chờ 1 thời gian để Ngân hàng gửi UNT sang NH phục vụ bên mua để ghi "Nợ trước". Sau khi UNT quay về Ngân hàng mới ghi "có" tài khoản đơn vị. Do khả năng chiếm dụng vốn như vậy, người bán thường rất ít sử dụng. Ngoài ra nếu số dư của đơn vị mua không đủ tiền gây chậm chễ cho đơn vị bán hoặc gây thiệt hại cho bên mua nếu nhờ thu đon vị lập nhằm số tiền, sai đơn vị…
Tuy Ngân hàng có áp dụng biện pháp xử phạt trong trường hợp số dư của đơn vị không đủ tiền bằng cách tính phạt chậm trả theo chế độ quy định nhưng người bán hoàn toàn không muốn điều đó xảy ra vì sẽ gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, kế hoạch tài chính của họ.
3. Những tồn tại và nguyên nhân trong công tác TTKDTM tại NHNo & PTNT huyện Xuân Trường.
3.1. Một số tồn tại:
Qua thực tế về tình hình hoạt động kinh doanh cũng như công tác TTKDTM tại NH Xuân Trường đều có sự tăng trưởng một cách hợp ly năm sau cao hơn năm trước. Năm 2005 doanh số thanh toán KDTM chiếm tỷ trọng 64,84% trong tổng doanh số thanh toán chung của NH. Bên cạnh những thành tựu đạt được thì vẫn còn 1 số khó khăn trong công tác thanh toán KDTM như: Khách hàng không quen sử dụng các hình thức thanh toán hiện đại mà chỉ quen sử dụng các hình thức truyền thống, chưa có thời gian mở và sử dụng tài khoản cá nhân trong thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ.
3.2. Nguyên nhân:
- Các công cụ thanh toán KDTM như Séc, thư tín dụng, UNT.. vẫn còn nhiều phức tạp về cơ ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 28149.doc