Lời mở đầu
Trong quá trình phát triển kinh tế , nhiều nước trên thế giới đã có được những thành công to lớn nhờ có các chính sách phát triển kinh tế - xã hội đúng đắn mà một trong những yếu tố cơ bản là có được chính sách phát triển công nghiệp phù hợp. Tiêu biểu cho sự thành công này phải kể đến các nước NIC. Mặc dù với xuất phát điểm không cao nhưng nhờ có chính sách phát triển công nghiệp đúng đắn, các nước này đã nhanh chóng trở thành những con rồng châu á và đang cạnh tranh với những nước
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1485 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển Công Nghiệp Việt Nam giai đoạn 2000-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
có nền kinh tế phát triển khác.
Dự thảo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII trình Đại hội đại biểu toanf quốc lần thứ IX có nêu: “ Mục tiêu tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001- 2010 là : Đẩy mạnh CNH- HĐH đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển , tập trung sức xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng quan trọng và công nghệ cao sản xuất tư liệu sản xuất cần thiết để trang bị và trang bị lại kỹ thuật; công nghệ chế biến tiên tiến cho các ngành kinh tế nông nghiệp, công nghiệp , dịch vụ và đáp ứng nhu cầu quốc phàng, tạo nền tảng đến 2020 nước ta trở thành một nước công nghiệp “.
Để thực hiện mục tiêu đó, Việt Nam cần thiết phải xây dựng vf thực hiện được một chính sách phát triển kinh tế nói chung và một chính sách phát triển công nghiệp hữu hiệu nói riêng. Song đối với Việt Nam quan niệm về chính sách công nghiệp còn chưa áo sự nhất uán. vì vậyn việc nghiên cứu chính sách công nghiệp Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc thực hiện dường lối đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước, đưa Việt Nam cơ bản trở thành một cước công nghiệp vào năm 2020.
Đó cũng là lý do khiến em chọn đề tài: “Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001- 2020”, với mong muốn gopó một phần công sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước .
Với sự giúp đỡ tận tình của Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Tiến Dũng và Cán bộ hướng dẫn: Lê Thuỷ Chung , Em xin mạnh rạn đưa ra cơ cấu đề tài như sau :
Chương I. Cơ sở lý lluận của chính sách phát triển công nghiệp .
Chương II . Thực trạng chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam .
Chương III. Một số giải pháp cho chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001-2020.
Do có hạn chế vìi thời gian và trình độ, đề tài chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót, Em rất mong có được sự phê bình, sửa chữa của thày cô để chuyên đề thực tập được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !
Chương I
Cơ sở lý luận của chính sách phát triển công nghiệp
I.Bối cảnh ra đời của chính sách công nghiệp
Hai thập kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ II, có thể coi là thời kỳ tăng trưởng kinh tế nhanh nhất của chủ nghĩa tư bản . Tất cả các nước công nghiệp chính trong giai đoạn này đều trải qua mọt giai đoạn tăng trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp. Đây cũng là lý do đưa học thuyết của J. Keynes- Nhà kinh tế học người Mỹ (1883-1946) trở thành một tư tưởng kinh tế phổ biến rộng rãi ở các trung tâm quyền lực của thế giới tư bản .
Thế nhưng, với các cú sốc dầu lửa thập kỷ 70s đã mở đầu cho sự sụp đổ của một giai đoạn tăng trưởng đầy ấn tượng trước đây.Đã có rất nhiều những thay đổi mang tính chất cơ cấu trong nền kinh tế thế giới. Sự dịch chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp truyền thống sang các ngành công nghiệp và dịch vụ tạo ra một thị trường lao động vói giá nhân công tăng và sự lớn mạnh của các tổ chức nghiệp đoàn.
Bên cạnh các nước công nghiệp phát triển phương Tây, Nhật Bản xuất hiện với tư ccách là một trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Các nước mới công nghiệp hoá ở Đông á và Đông nam á ciếm vị trí hàng đầu trên một số thị trường thế giới như : dệt may, điện tử dân dụng, đóng tàu và sắt thép. Những thay đổi này đã làm phong phú hơn cho bức tranh công nghiệp thế giới. Tăng trưởng nhanh chóng trong giai đoạn 1970 đã che dấu một thực tế là các nền kinh tế tư bản có nhiều điểm khác nhau về hệ thống chính sách kinh tế .
Trước những thay đổi ở tren, đi kèm với sự chấm dứt của thời kỳ tăng trưởng nhanh với lạm phát và thất nghiệp thấp, các nước công nghiệp phát triển đã buộc phải điều chỉnh tư tưởng kinh tế chủ đạo, xuất hiện rất nhiều các cố gắng tìm kiếm những phương thức can thiệp của Chính phủ .
Một trong những cố gắng đó được thể hiện qua thuật ngữ “Chính sách công nghiệp ”.
Mặc dù chính sách công nghiệp có ý nghĩa quan trọng đối với một số nước công nghiệp phát triển như Nhật Bản, Pháp và các nước NIC Châu á như: Hàn Quốc, Đài Loan, Singapo thời kỳ sau Chiến tranh thế giới II, song cho đến cuối những năm 1970 khái niệm ít được nhắc đến trên phương diện lý thuyết. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp chủ yếu tập trung vào xem xét chính sách công nghiệp trên khía cạnh các vấn đề chính sách thực thế mà không nghiên cứu nhiều về nền tảng lý thuyết của chính sách công nghiệp . Thưc tế này dẫn đến tình trạng ngay cả những người ủng hộ rất mạnh mẽ chính sách công nghiệp cũng không thể mô tả thực tế chính sách công nghiệp vận hành như thế nào.
II. Tổng quan về chính sách phát triển công nghiệp
1.Khái niệm về chính sách phát triển công nghiệp
1.1. Các quan điểm .
Chính sách công nghiệp là một khái niệm gây nhiều tranh cãi. Chỉ xét riêng ở Nhật Bản đã có những quan điểm bất đồng về chính sách công nghiệp.
Quan điểm của Trezise(1983).
Ông là một trong những người phản đối công nghiệp công nghiệp và cho rằng trợ cấp của Chính phủ và các khoản vay ưu đãi cho khu vực doanh nghiệp Nhật Bản là nhỏ hơn tương đối so vơí một quyết định thành công của Nhật Bản.
Quan điểm của Reich(1982).
Là một trong những học giả ủng hộ rất mạnh mẽ quan điểm về chính sách công nghiệp ở Mỹ .Theo quan điểm của ông, chính sách công nghiệp bao gồm những nội dung sau:
+ Các chính sách đối với những khu vực công nghiệp được ưu tiên .
+ Chính sách phát triển nguồn nhân lực
+ Chính sách phát triển cơ sở hạ tầng
+ Chính sách phát triển vùng
Quan điểm của Pinder(1982)
Nội dung của chính sách công nghiệp gồm:
+ Các chính sách trợ giúp phát triển công nghiệp
+ Các ưu đãi về tài chính cho đầu tư
+ Chương trình đầu tư công cộng
+ Dự trữ của khu vực công cộng
+ Trợ cấp tài chính cho R & D
+ Chống độc quyền
+ Lập luận ngàn công nghiệp non trẻ
+ Các biện pháp khuyến khích ưu đãi các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ
+ Chính sách phát triển vùng
+ Các biện pháp bảo hộ mậu dịch
1.2. Khái niệm chính sách phát triển công nghiệp
Trên phương diện lý thuyết, chính sách công nghiệp được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Một chính sách công nghiệp có thể có phạm vi tổng quát hay mục tiêu cụ thể, nhấn mạnh vào sử dụng các công cụ theo chiều dọc hay chiều ngang, và có thể có tác dụng tiêu cực hoặc tích cực đối với tăng trưởng kinh tế .
Một chính sách công nghiệp có phạm vi rộng nhằm vào khuyến khích tất cả các ngành công nghiệp , trong khi đó một chính sách công nghiệp có phạm vi hẹp thì chỉ tập trung vào một hay một số khu vực công nghiệp được lựa chọn theo những tiêu thức nhất định .
Như vậy, chính sách phát triển công nghiệp được hiểu là sự can thiệp trực tiếp hay gián tiếp của Chính phủ hướng vào những ngành nhất định để đạt được những ngành nhất định để đạt được mục tiêu cụ thể (Mục tiêu này có thể là tăng trưởng, xây dựng năng lực cạnh tranh, tạo công ăn việc làm). Chính sách công nghiệp thường được thể hiện dưới dạng tổ chức ngành, chọn ngành ưu tiên, chính sách tài chính và tín dụng (thuế, tợ cấp, đầu tư trực tiếp của Nhà nước, tín dụng ưu đãi) đối với ngành, chính sách phát triển nguồn nhân lưc của ngành, chính sách tăng tỷ lệ nội địa hoá các sản phẩm của ngành, chính sách đầu tư nước ngoài vào các ngành, chính sách kinh tế đối với các ngành , chính sách đối với các khu vực chế xuất và khu công nghiệp tập trung.
2. Nội dung và mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp .
2.1 Nội dung
Một là, chính sách phát triển công nghiệp bao gồm toàn bộ những hoạt động hoạch định của một nước ngằm phát triển công nghiệp, liên quan tới những hoạt động hoạch dịnh này là những vấn đề điều chỉnh cơ cấu sản xuất và đầu tư , hiện đại hoá và cải tổ cơ cấu công nghiệp, chính sách thị trường và xuất nhập khẩu , chính sách khuyến khích R & D , chính sách đối với sản xuất quy mô nhỏ và các chính sách có liên quan đến phát triển nguồn lực và năng lượng.
Hai là, trong chính sách công nghiệp cần định rõ các ngành công nghiệp cụ thể sẽ được khuyến khích và dành cho nhừng lĩnh vực này những ưu tiên khác nhau trong một thời gian nhất định nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước vào việc đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế .
Ba là, xây dựng đồng bộ hệ thống các phương tiện khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp đã dược lựa chọn . Liên quan đến các phương tiện này là khuyến khích về tài chính, xây dựng hệ thống kiểm soát thích hợp hỗ trợ hoạt động R & D, đặc biệt quan tâm tới các mục tiêu và kế hoạch dài hạn ,...
2.2. Mục tiêu.
Vấn đề có ý nghĩa quan trọng là xác định mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp. Phần lớn ở các nước khi xây dựng chính sách phát triển công nghiệp thường đưa ra nhiều mục tiêu. Tuy nhiên, có thể nêu lên 2 mục tiêu chính là : phát triển công nghiệp cân đối và công bằng.
- Phát triển công nghiệp cân đối đòi hỏi phải đảm bảo được sự cân đối giữa ngành công nghiệp, giữa các địa phương và vùng lãnh thổ. Hầu hết các nước trong quá trình phát triển công nghiệp đều không tập trung đầu tư quá mức vào một ngành công nghiệp nào và tìm cách để duy trì được các thị trường có khả năng cạnh tranh lớn.
Ngoài ra, mục tiêu phát triển cân đối còn được thể hiện ở chỗ : Bên cạnh các trung tâm công nghiệp của các thành phố lớn, nhiều nước ddax khuyến khích phát triển các vùng nông thôn và coi việc định vị lại công nghiệp như là phương tiện quan trọng cho mục tiêu này.
Để thiết lầp được một cơ cấu công nghiệp cân đối, các cước chú ý vào hai vấn đề là thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp quy mô nhỏ và lựa chọn, phát triển một số ngành công nghiệp mũi mhọn.
- Mục tiêu công bằng là một trong hai mục tiêu chính của chính sách công nghiệp. Nó bao gồm các mặt như công bằng xã hội và công bằng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Việc thực hiện mục tiêu này có ý ngiã đảm bảo cho sự phát triển bền vững của công nghiệp nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung.
Ngoài hai mục tiêu trên còn có những mục tiêu khác như: đảm bảo “chất lượng cuộc sống” thông qua việc thiết lập các quy tắc xã hội để kiểm soát ô nhiễm và chất thải, ban hạnh luật về lương thực, thực phẩm, hoặc cũng có nước đặt mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp là nhằm tăng thu nhập về ngoại hối nhằm cải thiện cán cân thanh toán. Trong những năm gần đây, gới xu thế gia tăng về hội mhaapj kinh tế, các nước còn coi mục tiêu tăng cường hợp tác kinh tế với thế giới và khu vực là mục tiêu của chính sách phát triển công nghiệp…
3. Trọng tâm của chính sách phát triển công nghiệp.
Chính sách công nghiệp đặt trọng tâm vào phát triển khu vực chế tạo của nền kinh tế. Những người ủng hộ chính sách công nghiệp cho rằng hiện tượng phi công nghiệp hoá ở Anh và Mỹ trong khoảng 3 thập kỷ qua xuất phát từ việc coi nhẹ vai trò của khu vực chế tạo, lam giảm đóng góp của khu vực này vào GDP và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Theo Cohen và Zysman (1987): với tầm quan trọng của khu vực chế tạo thì đây là một sự sai lầm về định hướng chính sách. Thêm vào đó, các biện pháp điều chỉnh kinh tế vĩ mô có thể lầ chưa đủ để có thể thúc đẩy sự phát triển của khu vực chế tạo vì đối với tăng trưởng năng suất của khu vực này, sự phân bổ vốn còn có ý nghĩa quan trọng hơn là tổng giá trị vốn đầu tư. Chính vì vậy, Chính phủ cần can thiệp trực tiếp để thúc đẩy phát triển công nghiệp.
Tuy nhiên, đó cũng là trong tâm gây nhiều tranh cãi. Những người phản đối quan điển chính sách công nghiệp cho rằng tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ hậu công nghiệp ở các nước tư bản phát triển đặt trọng tâm vào khu vực dịch vụ, dịch vụ trở thành trung tâm của các hoạt động kinh tế. Vì vậy, các biện pháp can thiệp của Chính phủ theo hướng ưu tiên khu vực công nghiệp mà không tập trung cho phát triển khu vực dịch vụ không nhưngx là không cần thiết mà còn có ảnh hưởng tiêu cực đối với nền kinh tế. Chính sách công nghiệp sẽ cản trở cơ chế chọn lọc tự nhiên của thị trường và ngăn cản việc tái phân bổ các nguồn lực khan hiếm của nền kinh tế cho khu vực dịch vụ, vì vậy ảnh hưởng tiêu cực đến triển vọng tăng trưởng lâu dài của nên kinh tế (quan điểm của Burtơn-1983).
Song sự thay đổi về cơ cấu theo hướng phát triển dịch vụ không phải chỉ đơn thuần là vì con người mong muốn tiêu dùng nhiều dịch vụ khi đới sống được cải thiện. Lý do chủ yếu nhất của sự dịch chuyển về cơ cấu này là do chi phí lạm phát tương đối của khu vực dịch vụ tăng trưởng chậm trong năng suất của khu vực này, chứ không phải là do sự dịch chuyển thật sự của nhu cẩu thị trường về phía khu vực dịch vụ khi thu nhập gia tăng.
Bên cạnh đó, xu hướng phi công nghiệp hoá quan sát được ở một số nước công nghiệp phát triển là một kết quả tất yếu trong dài hạn của sự chênh lệch năng suất lao động giữa hai khu vực này chứ không nhất thiết là do khu vực công nghiệp suy giảm sức cạnh tranh. Ngay cả các nền kinh tế hướng mạnh vào xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp như Nhật Bản, Đức cũng chịu những ảnh hưởng nhất định của phi công nghiệp hoá. Nói cách khác, phi công nghiệp hoá và sự suy giảm của khu vực công nghiệp là hai khái niệm khác nhau, mặc dù sự giảm sút của khu vực công nghiệp có thể ảnh hưởng đến mức độ phi công nghiệp hoá. Vì vậy, không thể kết luận rằng khu vực công nghiệp của một nền kinh tế nào đó đang xuống dốc nếu chỉ căn cứ vào những biểu hiện của phi công nghiệp hoá mà nó đang phải trải qua theo định nghĩa ở trên.
4. Tính tất yếu của chính sách công nghiệp.
Chính sách bao hàm ý nghĩa có sự can thiệp của Chính phủ dưới bất cứ hình thức nào. Cần phải có chính sách là vì thị trường có những khiếm khuyết nhất định:
4.1.Do những thất bại của thị trường và vai trò can thiệp của Chính phủ .
Lý thuyết phổ biến nhất lý giải cho sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế là lý thuyết về sự thất bại của thị trường. Tư tưởng trong tâm của trường phái này tập trung vào thất bại của cơ chế thị trường trong việc cân bằng giữa chi phí và lợi ích giữa cá nhân và xã hội, đồng thời cho rằng Chính phủ có thể can thiệp để khắc phục khuyết tật của thị trường.
Hàng hoá công cộng là một thất bại hay được nhắc đến nhất của cơ chế thị trường. Vì tính không ngoại trừ của hàng hoá công cộng, các cá nhân luôn có đông lực thực hiện hành vi của những người ăn theo, ảnh hưởng của vấn đề những người ăn theo là các hàng hoá công cộng sẽ được cung cấp ít hơn mức xã hội mong muốn. Vì vậy Chính phủ cần can thiệp thông qua trực tiếp cung cấp hàng hoá công cộng.
Tiếp nữa, sự tồn tại của tính kinh tế nhờ quy mô có thể là một yếu tố dẫn đến những cơ cấu thị trường cạnh tranh không hoàn hảo. Trong một cơ cấu thị trường như vậy, mức giá cung cấp sẽ cao hơn mức giá cạnh tranh hoàn hảo dẫn đến tổn thất thặng dư tiêu dùng. Phần tổn thất này được chuyển một phần vào thặng dư sản xuất dưới dạng lợi nhuận độc quyền, phần còn lại là lợi ích mất không của xã hội. Mặc dù lý thuyết “Điều tốt thứ nhì”và quan điểm cho rằng can thiệp của Chính phủ có thể là nguyên nhân của thị trường cạnh tranh không hoàn hảo, sự tồn tại của cơ cấu thị trường này vẫn là một lý do quan trọng biện minh cho vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị
trường.
4.2. Xuất phát từ lý thuyết về sự thất bại của Chính phủ.
Trong thực tế, cũng như khả năng thị trường tự do có những khuyết tật, sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế cũng có thể không thành công vì bản thân Chính phủ cũng có những thát baị của nó.
Có hai yếu tố chính cản trở Chính phủ có thể đạt được mục tiêu can thiệp vào nền kinh tế.
Thứ nhất, chi phí cần thiết để Chính phủ có thể thu thập đủ và xử lý tốt các thông tin về thất bại thị trường trong nhiều trường hợp có thể còn lớn hơn cả lợi ích mà các biện pháp khắc phục khuyết tật thị trường mang lại.
Thứ hai, vì có sự xuất hiện của việc thu thập , xử lý thông tin, sự can thiệp của Chính phủ có thể lại dẫn đến những chi phí nhất định đối với xã hội, và chi phí này cũng có thể lớn hơn lợi ích mà nó mang lại.
4.3. Lý thuyết thể chế mới về sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế.
Như đã phân tích trong phần trên, can thiệp của Chính phủ để khắc phục những khuyết tật củâ thị trường sẽ dẫn đến những chi phí nhất định mà những chi phí này có thể lớn hơn cả lợi ích thu được từ sự can thiệp của Chính phủ. Tuy nhiên, điều đó không đủ để có thể kết luận rằng Chính phủ không thể can thiệp có hiệu quả vào nền kinh tế.
Lý thuyết thể chế mới cho rằng chi phí về thông tin có thể giảm thong qua những thay đổi thichs hợp trong hệ thống tổ chức của bộ náy hành chính và trong quan niệm về giá trị của các cá nhân là thành viên của bộ váy chính quyền và xã hội. Những chi phí thu thập và xử lý thông tin sẽ có thể được loại bỏ thông qua việc cho phép cạnh tranh giữa các Đảng phái và sử dụng các công cụ can thiệp thích hợp.
Ngoài ra, lý thuyết này còn cho rằng thị trường không phải là một cơ chế điều phối duy nhất đối với sự can thiệp của Chính phủ vào nền kinh tế. Thị trường,Chính phủ, các hãng, và các thể chế kinh tế khác đều có vai trò trong một cơ chế phối hợp để dưa ra các quyết định chính sách. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng Chính phủ có thể giải quyết vấn đề phối hợp giữa các tác nhân ở trên với chi phí thấp hơn mức chi phí phối hợp của thị trường, thông qua việc xác lập một hệ thống quyền sở hữu phù hợp, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, tái cấu trúc xã hội theo các nhóm, tầng lớp lớn, điều phối và định hướng đầu tư, xây dựng tự hào và bản sắc dân tộc.
4.4. Quan điểm kinh tế chính trị.
Lý thuyết thất bại thị trường biện minh cho sự can thiệp của Chính phủ dựa trên giả định cho rằng mục tiêu của Chính phủ là phải can thiệp vào thị trường, phục vụ lợi ích của xã hội.
Quan điểm kinh tế chính trị, ở một thái cực là các nhà kinh tế Marxist, ở thái cực khác là trường phái Chicago xuất phát từ những quan điểm khác.
Chính phủ có thể có một mức độ độc lập nhất định đối với đai chúng, nhất là khi không có giai cấp nào có đủ khả năng ảnh hưởng mạnh đến các quyết định chính sách. Trong tình huống này Chính phủ có thể hành động theo mục tiêu tối đa hoá nguồn thu vào ngân sách.
Theo Findlay (1990), Chính phủ có thể được coi như là một lực lượng độc lập đưa ra các quyết định không nhất thiết phải xuất phát từ lợi ích của xã hội.
Quan điểm về nhóm lợi ích coi Chính phủ như là chiếc hộp đen mà các nhóm lợi ích trong xã hội có thể đối kháng, hay liên minh với nhau để đưa ra các quyết định về chính sách. Khi một khu vực công nghiệp nào đó có tầm quan trọng đối với nền kinh tế, sức ép của nhóm lợi ích này có thể dẫn đến các quyết định về chính sách thuận lợi đối với nhóm lợi ích đó mà có thể gây phương hại đến những nhóm lợi ích khác trong xã hội.
Một số nhà kinh tế Marxist cho rằng sự tồn tại của một Nhà nước phu thuộc chặt chẽ vào phương thức tái sản xuất của xã hội, và vì vậy, Chính phủ phải hành động vì lợi ích của giai cấp đóng vai trò chủ đạo về kinh tế trong cấu trúc xã hội.
Nói tóm lại, khác với lý thuyết về thất bại của thị trường, quan điểm kinh tế chính trị cho rằngcp có thể có sự can thiệp vào nền kinh tế nhưng có thể đươc biện minh bởi những nguyên nhân xuất phát từ đặc điểm, mức độ độc lậpcủa từng hệ thống chính quyền.
Từ những lý do nói trên dẫn đến nền kinh tế nói chung và lĩnh vực công nghiệp nói riêng cần phải có một chính sách để phát triển đó là Chính sách phát triển công nghiệp.
5. Phân loại chính sách công nghiệp .
Bản thân nền công nghiệp, đối tượng của chính sách, là thực thể luôn luôn động. Hơn nữa, chính sách công nghiệp là cái luôn biến đổi từng giờ, từng phút với sự biến động của thời đại của xã hội và có rất nhiều loại đối tượng. Không có lý luận chung cho chính sách công nghiệp. Do vậy, phải phân loại chính sách công nghiệp theo mục đích, chủng loại, và tính chất.
5.1. Phân loại theo vai trò của Nhà nước trong sự phân công giữa Nhà nước và các doanh nghiệp.
Theo cách phân loại này, chức năng của chính sách công nghiệp hướng vào 3 mục đích chính:
- Hỗ trợ phát triển ngành: chính sách tạo khả năng đối kháng với doanh nghiệp tư nhân (chỉ đạo hay quy chế cho pjhép công nghiệp hợp tác, bổ sung hoặc hỗ trợ đối với doanh nghiệp tư nhân). Các chính sách này khác nhau ở chỗ là dựa vào pháp luật (quyề lực hay chỉ đạo hướng dẫn, …).
- Khống chế các giao dịch bất chính: Bao gồm chính sách có mục đích duy trì trật tự (chỉ đạo, ngăn cấm, cho phép) hay các chính sách có tính phán quyết hình thức (đăng ký, thông báo,…).
- Dự thảo luật: gồm chính sách tạo lập môi trường mới hay chính sách xuất phát từ thái độ thụ động tạo ra trật tự để đối phó với môi trường mới.
5.2. Phân loại theo đối tượng mục đích của chính sách.
- Các vấn đề cơ cấu công nghiệp : gồm chính sách có đối tượng là toàn bộ cơ cấu công nghiệp với chính sách có đối tượng là từng ngành (hay từng doanh nghiệp ).
Chính sách điều chỉnh ngược với các ngành suy thoái hay chính sách chấn hưng cho các ngành mới (tỷ trọng công nghệ cao trong cơ cấu công nghiệp ).
- Vấn đề thị trường .
+ Phân biệt chính sách bổ sung khắc phục các thất vại của thị trường với chính sách bổ ưung hoàn thiện hạn chế của thị trường.
+ Phân biệt chính sách điều chỉnh trật tự thị trường bị lệch lạc (tổ chức ngành sản xuất ) với chính sách điều chỉnh yếu tố bên ngoài bị lệch lạc(môi trường tự nhiên, quyền lợi người tiêu dùng).
+ Phân biệt chính sách ngay trong bản thân trật tự sẵn có với chính sách để tiến hành trật tự mới.
Vấn đề phát triển công nghiệp có tính chiến lược .
Cần phân biệt rõ chính sách phát triển ngành có tính chiến lược (ngành xuất khẩu, điện tử …) với chính sách phát triển các ngành sản xuất cơ sở hạ tầng (sản xuất nguyên vật liệu chủ yếu, linh kiện, phụ kiện, …).
5.3. Phân biệt theo thủ pháp chính sách ( theo cách thức để thực hiện mục tiêu )
Vấn đề hoàn thiện cơ sở hạ tầng.
+ Phân biệt chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần cứng và chính sách hoàn thiện cơ sở hạ tầng phần mềm (môi trưowngf công nghiệp ).
+ Phân biệt chính sách phát triển cơ sở hạ tầng (như tài chính, tiền tệ, thuế…) với chính sách phát triển kỹ thuật cho phần cơ sở hạ tầng (như nghiên cứu , quy cách hoá, chế độ quyền sở hữu công nghiệp ) và cả chính sách cơ cấu công nghiệp cơ sở hạ tầng ( như cơ cấu sản xuất phụ tùng của các doanh nghiệp trong ngành cơ khí).
Về kế hoạch triển vọng.
+ Phân biệt kế hoạch mang tính chất giáo dục, nhận thức, hay mục tiêu chính sách, hay kế hoạch điều chỉnh định hướng.
+ Phân biệt kế hoạch được xây dựng bằng ý trí của Chính phủ hoặc được xây dựng trên cơ sở của sự thoả thuận với người có lieen quan.
Về phương pháp luận.
+ Phân biệt chính sách bất biến, chính sách tạm thời hay chính sách khẩn cấp.
+ Phân biệt chính sách có tính uy quyền (chỉ huy, cơ chế,…) với các chính sách hỗ trợ (tài trợ, cho vay vốn , chế độ thuế…) hoặc chính sách có tính hoàn thiện môi trường (như cung cấp thông tin, đưa ra quy cách, phát triển kỹ thuật,…) hay chính sách mang tính hướng đạo.
Tốm lại, có thể tổng kết chính sách phát triển công nghiệp như sau:
Chính sách nhằm ảnh hưởng tới cơ cấu của một nước. Tức là một chính sách can thiệp vào hoạt động giao dịch với nước ngoài như : ngoại thương, đầu tư trực tiếp, chính sách hỗ trợ phát triển và bảo hộ (trợ cấp thuế) chính sách điều tiết và sử dụng nguồn lực.
Các chính sách sửa chữa các thất bại của thị trường do tính không hoàn thiện của hoạt động kỹ thuật và thông tin. Tức là một chính sách khắc phục các dạng thất bại của thị trường bằng cách cung cấp thông tin chính xác, sử dụng các công cụ chính qua trợ cấp, thuế và chỉ đạo việc phân phối nguồn lực theo hướng mông muốn.
Chính sách can thiệp về mặt hành chính vào tổ chức sản xuất theo từng ngành nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế. Cụ thẻ là chính sách nhằm trực tiếp can thiệp vào cơ cấu cạnh tranh và phân bổ nguồn lực trong các nhành sản xuất thông qua hình thức liên minh giảm giá, liên minh đầu tư thiết bị,…
Chính sách được hoạch định theo yêu cầu chính trị là củ yếu chứ không phải mang tính kinh tế. Tức là chính sách bao gồm quy chế tự chủ xuất khẩu hay hiệp định đa phương nhằm xử lý mâu thuẫn ngoại thương.
6. Khái quát về chính sách công nghiệp của Việt Nam.
Như đã phân téch trong các phần ở trên, chính sách công nghiệp là một khái niệm rộng, phức tạp và vòn tương đối mới mẻ đối với các nhà nghiên cứu trên thế giới, nhất là trên phương diện lý thuyết.
Trong bối cảnh như vậy :
Có nên tồn tại hay không một chính sách công nghiệp của Việt Nam.
Nếu là có tồn tại thì chính sách công nghiệp Việt Nam có thể được mô tả như thế nào?
ảnh hưởng của nó đến tăng trưởng kinh tế Việt Nam (nhất là trong những năm đổi mới) như thế nào.
Trong phần này, em sẽ đi sâu tìm hiểu câu hỏi (b) trên phưong diện lý thuyết, các vấn đề còn lại là nội dung nghiên cứu của Chương II và III- Phần thực trạng và các giải pháp.
Thuật ngữ “chính sách công nghiệp” cho đến nay vẫn rất ít xuất hiện trên các pgương tiên thông tin đại chúng của Việt Nam, cũng như trong các công trình nghiên cứu của các tác giả nước. Trong khi đó, một thuật ngữ khác hay được sử dụng có liên quan đến nội dung chính sách công nghiệp là thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”.
Xét về bản chất, thuật ngữ “công nghiệp hoá, hiện đại hoá “ ở Việt Nam bao hàm hệ thống các mục tiêu, các định hướng và hệ thống các chính sách nhằm chuyển Việt Nam từ một nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp. Trong hệ thống các mục tiêu và định hướng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, vấn đề phát triển các ngành, các khu vực, các loại hình quy mô và các thành phần kinh tế chiếm vị trí quan trọng, ở đây, những vấn đề chung được đề cập thường là:
- Cơ cấu ngành kinh tế : công nghiệp – nông nghiệp- dịch vụ , ở đây, các cơ cấu được chú ý trong thiết kế chính sách là : cơ cấu công nghiệp khai thác- công nghiệp chế biến- công nghiệp điện nước; cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi, cơ cấu các loại hình dịch vụ .
- Cơ cấu gữa đo thị và nông thôn
- Cơ cấu giữa quy mô doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và doanh nghiệp nhỏ.
-Cơ cấu giữa doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở các mục tiêu và định hướng phát triển công nghiệp như vậy, phải thiết lập hệ thống các chính sách được sử dụng để hỗ trợ cho phát triển công nghiệp, trong đó phải kể đến một số chính sách chính như : chính sách vốn, chính sách nguồn nhân lực, chính sách phát triển khoa học và chính sách thuế quan.
Như vậy, chính sách công nghiệp của Việt Nam có thể được hiể là tập hợp của các định hướng, chính sách, công cụ điều chỉnh đối với một số ngành công nghiệp để đạt được mục tiêu đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp sang một nước công nghiệp vào năm 2020. Nhiệm vụ của chính sách công nghiệp có thể thay đổi qua mỗi thưòi kỳ nhưng đều có mục tiêu chung là điều chỉnh các hoạt động cuả các khu vực công nghiệp theo chiều hướng có lợi cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.
Nhiệm vụ này được thể hiện trên hai mặt sau :
Một là, tạo điều kiện thuân lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rông thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước.
Hai là, bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng cho yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia.
Thêm vào đó, cũng cần phải nhấn mạnh rằng cách hiểu ở các phần trên về chính sách công nghiệp là quan điểm áp dụng cho các nền kinh tế thị trường. Rất nhiều mô tả về chính sách công nghiệp đươc khái quát từ thực tế vận hành chính sách công nghiệp ở những nước như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, là những nước có hệ thống chính trị khác với Việt Nam và hiện đang ở trình độ phát triển cao hơn Việt Nam.
Nhận định về chính sách công nghiệp Việt Nam cần phải được xẽmét trong bối cảnh Việt Nam là một nền kinh tế đang chuyển đổi sang một nền kinh tế thị trường , Chính phủ đang phải đối mặt với vấn đề cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước, là một trong những trọng tâm của công cuộc cải cách kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam chủ yếu tập trung trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp. Cải cách khu vực doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam được thực hiện thông qua nhiều phương thức, bán doanh nghiệp, cổ phần hoá, cho thuê, khoán kinh doanh, sáp nhập, giải thể,… Vì vậy,mô tả chính sách công nghiệp của Việt Nam bên cạnh những đặc diểm chung của một chính sách công nghiệp theo lý thuyết cần phải đề cập đến những công cụ chính sách sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước.
Ngoài ra, sự tham gia của Việt Nam vào AFTA, APEC, và quá trình đàm phán về khả năng gia nhập WTO với tư cách thành viên chính thức là những minh chứng mạnh mẽ đối với xu hướng tự do hoá thương mại ở Việt Nam. Xét về môi trường chính sách tự do hoá thương mại vừa khuyến khích xuất khẩu nhưng cũng không tạo ra các rào cản đối với nhập khẩu. Bối cảnh đó không cho phép Việt Nam có thể sử dụng các rào cản bảo hộ thuế quan và phi thuế quan để trọ giúp cho phát triển công nghiệp trong dài hạn.
III. Chính sách công nghiệp của một số quốc gia Đông á và bài học kinh nghiêm cho Việt Nam. (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài loan).
Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông á cho thấy chính sách công nghiệp là một công cụ hữu hiệu để các nước Đông á xây dựng kinh tế sau sự tàn phá của chiến tranh và phát triển trở thành các nền kinh tế công nghiệp hoá mới như : Hàn Quốc, Đài Loan, hay nền kinh tế công nghiệp phát triển như Nhật Bản.
Chính sách công nghiệp của các nước này có hai đặc điểm chính :
1. Tập trung vào xây dựng cơ sở kinh tế trong nước.
Với xuất phát điểm là các nền kinh tế bị tàn phá và kiệt quệ sau chiến tranh, vấn đề đặt ra đầu tiên trong chiến lược công nghiệp hoá ở Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan là tái thiết nền kinh tế.
Đài Loan, bắt tay vào công cuộc xây dựng lại nền kinh tế sau 1949 với việc quốc hữu hoá các cơ sở kinh tế từ tay người Nhật thành các doanh nghiệp Nhà nước trong các lĩnh vực như: tinh chế đường, diện lực, lọc dầu. Các công ty thuộc lĩnh vực xi măng, giấy và những công ty nhỏ hơn được tư nhân hoá, nhờ đó giúp chuyển vốn của các địa chủ từ sản xuất nông nghiệp vào khu vực công nghiệp. Đồng thời Chính phủ ủng hộ sự phát triển của các khu vực thay thế nhập khẩu bằng các hàng rào thuế quan và phi thuế quan, chú ý phát triển các công ty tư nhân thôn._.g qua việc nhập khẩu máy móc thiết bị bằng nguồn viện trợ của Mỹ.
Nhật Bản, nền kinh tế sau chiến tranh đang trong tình trạng đổ nát và tụt hậu khá xa về công nghệ so với các quốc gia công nghiệp hoá. những năm đầu sau chiến tranh, chiến lược của Mỹ đối với Nhật Bản là kiềm chế tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng nhanh của Liên Xô cũ và sự mở rộng nhanh chóng của thế giới cộng sản buộc Mỹ thay đôỉ chiến lược đối ngoại đối với Nhật Bản. Kế hoạch Marshall do Mỹ đưa ra nhằm mục tiêu hỗ trợ quá trình tái thiết Nhật Bản và Châu Âu sau chiến tranh. Các nỗ lực phát triển kinh tế của Chính phủ Nhật Bản trong thời kỳ đầu là tập trung vào xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp như điên, than, sắt théo, và đong tàu. Cũng trong giai đoạn này, mộtkhuôn khổ cơ bản của chính sách ccn đã được xác lập với các lĩnh vực ưu tiên khuyến khích về thuế, tài chính và đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, Chính phủ Nhật Bản còn quản lý chặt chẽ, phân bổ các chỉ tiêu nhập khẩu máy móc và nguyên vật liệu, kiểm soát về giá cả áp dụng cho các khu vực ưu tiên.
Sự kết thúc tạm thời của căng thẳng Nam – Bắc có ảnh hưởng đến nền kinh tế Hàn Quốc trên ba phương diên : cải cách ruộng đất, chủ nghĩa dân tộc, và viện trợ của Hoa Kỳ. Chế độ địa chủ bắt đẩu bãi bỏ từ 1953. Nông dân được chia đất và trở thành những người sở hữu đất đai. Tầng lớp địa chủ bị bắt buộc phải chuyển sang các khu vực thương mại và công nghiệp. thêm vào đó, sự tồn tại của cơ chế quản lý sở hữu ruộng đất chặt chẽ cho phép chính quyền có thể thực thi những chính sách nhất định để áp đặt các định hương phát triển đối với khu vực nông nghiệp. Bằng việc không chú ý đầu tư phát triển nông thôn trong khi tạo ra các điều kiện thuận lợi cho khu vực công nghiệp, chính quyền Hàn Quốc trong khoảng thời gian từ 1949-1962 đã có khởng 5 triệu người dân từ khu vực nông thôn di dân đến các vùng thành thị làm việc trong khu vực công nghiệp.
Nằm trong tổng thể chiến lược củng cố sức mạnh của quốc gia để đối phó với các thế lực cộng sanr, phát triển công nghiệp được coi là một nội dung ưu tiên hàng đầu. Trong thời gian 1953-1958, các tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn (gọi là Cheabols) được thành lập với sự hậu thuẫn của chính quyền TW .
Trong những năm 50s, công nghiệp Hàn Quốc chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ trên cả hai lĩnh vực công nghiệp nặng(hoá chât, luyện kim…) và công nghiệp nhẹ (như dệt may, chế biến lương thực thực phẩm).
Để đảm bảo sự tập trung ủng hộ về thể chế, chính quyền cũng sử dụng những biện pháp bạo lực và các chính sách quản lý xã hội chặt chẽ để ngăn ngừa và dẹp bỏ mội sự chống đối từ các phe phái đối lập. Sự phát triển của các Cheabols trong khu vực công nghiệp nặng và hoá chất là sự thể hiện rõ nét của một chiến lược phát triển công nghiệp hướng nội, nhằm vào mục tiêu độc lập kinh tế.
Để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu, Chính phủ Hàn Quốc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái kép, đưa ra mức tỷ giá cố định quy định riêng cho xuất khẩu và nhập khẩu. Đồng thời giảm thuế cho máy móc , thiết bị nhập khẩu.
Bảng 1 - Tóm tắt các chính sách khuyến khích công nghiệp ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.
Nhật Bản
Hàn Quốc
Đài Loan
Hợp lý hoá công nghiệp
(nửa đầu thập kỷ 50)
Ưu tiên đầu tư nhập khẩu thiết bị, đầu tư vào máy móc/ các khoản cho vay của ngân hàng phát triển Nhật Bản / Miễn giảm thuế.
Sau nội chiến Triều Tiên
(Những năm 50)
Phát triển và khuyến khích các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu/ hệ thống trợ cấp bằng hạn ngạch/ tỷ giá hối đoái kép/ miễn giảm thuế cho máy móc, nguyên liệu nhập khẩu
Công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu
(nửa đầu thập kỷ 50)
Điều chỉnh các ngành công nghiệp công cộng chủ chốt (đường, xi măng, phân hoá học…)/ khuyến khích công nghiệp dệt bằng hạn chế số lượng
Khuyến khích phát triển công nghiệp
(nửa sau thập kỷ 50)
Bảo hộ bằng thuế quan với các sản phẩm sợi tổng hợp, dệt may, hoá dầu, máy móc, điện tử dân dụng/ chính sách tài chính và thuế khoá có chọn lọc/ khuyến khích áp dụng công nghệ mới
Thời kỳ quá độ sang CNH hướng về xuất khẩu (nửa sau 1950s)
Hình thành những ngành công nghiệp chủ đạo/ phát triển công nghiệp dệt và chế biến nông sản.
Tăng trưởng cao
(những năm 60)
Phát triển một nên kinh tế mở/ hợp tác giữa Nhà nước và tư nhân/ điều chỉnh cơ cấu đầu tư/ phối hợp các lĩnh vực sản xuất/ thực hiện chương trình phát triển kinh tế ngành(các giải pháp cho công nghiệp máy móc và khu vực điện tử)
Chuyển sang công nghiệp hướng xuất khẩu
(những năm 60)
Ưu tiên tăng trưởng kinh tế/ thu hút vốn đầu tư nước ngoài/ khuyến khích công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu/ miễn thuế/ khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp chủ đạo thông qua can thiệp của Chính phủ và đầu tư cho nghiên cứu ứng dụng.
Công nghiệp hoá hướng xuất khẩu (những năm 60)
Tăng cường sử dụng vốn nước ngoài (các khoản vay và đầu tư trực tiếp)/ tập trung vào khu vực kinh tế tư nhân/ lập các KCX/ miễn giảm thuế/ khuyến khích các công ty thương mại .
Tăng trưởng ổn định
(từ những năm 70)
Lập các kế hoạch tầm xa/ sử dụng cơ chế thị trường / phát triển các ngành sử dụng nhiều yếu tố tri thức, công nghệ cao
CNH các ngành công nghiệp nặng, hoá chất hướng xuất khẩu
(những năm 70)
Kế hoạch chiến lược phát triển công nghiệp nặng, hoá chất/ tài trợ có kiểm soát cho các hoạt động kinh doanh/ cho vay lãi suất đối với các ngành công nghiệp nặng, hoá chất và sản xuất hàng xuất khẩu/ khuyến khích mở rộng trang thiết bị trong các xí nghiệp tư nhân.
CNH hướng xuất khẩu (những năm 70)
Lập kế hoạch phát triển chính thức cho các công ty Nhà nước về sắt thép, hoá dầu, và đóng tàu/ hình thành quỹ vốn đầu tư xã hội.
Tự do hoá phối hợp các ngành công nghiệp nặng, hoá chất.
(những năm 80)
Tự do hoá kinh tế/ tư nhân hoá một số khu vực công cộng/ tự do hoá quản lý cốn đầu tư nước ngoài/ tự do hoá tài chính/ tiếp tục khuyến khích phát triển doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ.
Khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao.
(những năm 80)
Xác định các ngành công nghiệp chiến lược/ miễn thuế đối với các ngành điện tử và máy móc/ lãi suất cho vay thấp/ khuyến khích công nghiệp ô tô.
2. Công nghiệp hoá hướng nội, thay thế nhập khẩu được chuyển hướng thành công nghiệp hoá hướng ngoại, khuyến khích xuất khẩu vào thời điểm thích hợp
Đây là điểm phân biệt quyết định sự thành công của các nước NIE so với các nền kinh tế Latin America. Chiến lược công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu đã xuất hiện đầu tiên ở các nước Mỹ Latin. Nhưng do duy trì quá lâu chính sách này nên đã biểu hiện những nhược điểm rõ rệt.
Kinh nghiệm của Brazil thực hiện công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu cho thấy việc duy trì ưu tiên theo hướng thay thế nhập khẩu trong một khoảng thời gian dài có thể là một nguyên nhân cơ bản nhất dẫn đến sự thất bại của chiêns lược công nghiệp hoá hướng nội.
- Khác với Brazil, ấn Độ, NIEs và Nhật Bản đều đã thực hiện các bươc chuyển hướng ngoạn mục từ ưu tiên tái thiết kinh tế trong nước thông qua thay thế nhập khẩu bằng việc chuyển ưu tiên phát triển sang các khu vực khuyến khích xuất khẩu vào nửa cuối thập kỷ 50(đối với Nhật Bản và Đài Loan ) và những năm đầu của thập kỷ 60 (đối với Hàn Quốc).
Bảng 2- Khuyến khích công nghiệp xuất khẩu và các chính sách kuyến khích xuất khẩu ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan .
Nhật Bản
Hàn Quốc
Đài Loan
Hợp lý hoá công nghiệp
(nửa đầu thập kỷ 50)
Tài trợ ưu đãi, trợ cấp ưu tiên cho xuất khẩu/ cho vay với lãi suất thấp của Ngân hàng phát triển Nhật Bản/ thành lập Ngân hàng xuất khẩu Nhật Bản (1950)/ khuyến khích về thuế, khấu trừ thu nhập cho xuất khẩu/ phát triển bảo hiểm xuất khẩu/ thành lập JETRO.
Sau nội chiến Triều Tiên
(những năm 1950)
Khuyến khích xuất khẩu cũng là 1 phần của CNH thay thế nhập khẩu ở Hàn Quốc/ thành lập quỹ khuyến khích xuất khẩu/ trợ cấp tín dụng cho xuất khẩu, trợ cấp khác cho xuất khẩu.
CNH thay thế nhập khẩu (nửa đầu thập kỷ 50)
Thành lập các ngành công nghiệp công cộng chủ đạo/ lán sóng viện trợ của Mỹ/ hạn ngạch nhập khẩu để bảo hộ/ chế độ tỷ giá kép/ áp dụng hệ thống hai giá để khuyến khích xuất khẩu.
Khuyến khích phát triển công nghiệp
(cửa sau những năm 50)
Xuất khẩu tàu biển/ cho vay lãi suất thấp của NHPT Nhật Bản/ khấu trừ đặc biệt cho các khoản thu nhập liên quan đến giao dịch ở nước ngoài.
Chuyển sang CNH hướng xuất khẩu.
(nửa sau những năm 50)
Bắt đẩu xuất khẩu gạo, đường và nông sản chế biến của khu vực công cộng/ cải cách hệ thống tỷ giá theo hướng khuyến khích xuất khẩu.
Tăng trưởng cao
(những năm 60)
Tự do hoá kinh tế, tăng sức cạnh tranh/ xuất khẩu thiết bị máy móc/ tiếp tục cho vay lãi suất thấp của NHPT Nhật Bản/ khấu trừ đặc biệt đối với xuất khẩu/ phát triển thị trường nước ngoài/ mở rộng quy mô và hiệu quả hoạt động JETRO
Chuyển sang CNH hướng xuất khẩu
(những năm 60)
Khuyến khích các xí nghiệp tư nhân trong các ngành CNXK/ các khoản trợ cấp trực tiếp/ cho vay lãi suất thấp/ miễn giảm thuế, khấu hao theo gia tốc/ khuyến khích phát triển xuất khẩu sản phẩm công nghiệp nhẹ/ thành lập KOTRA.
CNH hướng xuất khẩu hoàn toàn
(những năm 60)
Các khoản cho vay đặc biệt/ cho vay xuất khẩu/ phát triển KCX/ khuyến khích các công ty thương mại/ miễn giảm thuế/ ban hành luật đầu tư/ tăng cường sử dụng vốn nước ngoài.
Tăng trưởng nhanh của Công nghiệp xuất khẩu
(những năm 70)
Mở rộng các khoản cho vay lãi suất thấp/ phát triển các EPZ/ phá giá nội tệ/ thành lập ngân hàng XNK/ áp dụng thuế VAT.
Sự tiến bộ của các ngành công nghiệp xuất khẩu
(những năm 70)
Củng cố các xí nghiệp Nhà nước/ phát triển BHXK/ hệ thống cho vay trung và dài hạn của NH XNK/ hiệp hội phát triển ngoại thương.
Đối phó với xung đột thương mại
(những năm 80)
Hạn chế xuất khẩu tự nguyện/ các công ty phát triển đầu tư kinh doanh tại Mỹ(xuất khẩu tại chỗ)/ khuyến khích thị trường tự do.
Nhật Bản
Bắt đầu từ nửa cuối của thập kỷ 50, Nhật Bản đã thực hiện hàng loạt những cải tiến về công nghệ và đề ra một chính sách công nghiệp đa dạng nhằm mở rộng cơ sở công nghiệp trong nước, khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp mới, cơ cấu lại các khu vực đang giảm sút.
Mục tiêu của chính sách công nghiệp trong thời kỳ này gồm hai phần: thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Các ngành như sợi tổng hợp, hoá dầu, máy móc, phụ tùng, điện tử được xác định là các khu vực ưu tiên và được hưởng các ưu đãi của Chính phủ về miễn giảm thuế kinh doanh về thuế xuất khẩu, cho vay lãi suất thấp, cho phép nhập khẩu công nghệ nước ngoài, và miễn phải chịu luật chống độc quyền. Bên cạnh đó, Chính phủ Nhật Bản cũng chủ ý thay đổi về thể chế để khuyến khích xuất khẩu .
Mục tiêu chính sách công nghiệp những năm 60 được bổ sung thêm nội dung bảo vệ các ngành công nghiệp trước những tác động của tự do hoá. Nếu như việc bảo vệ các ngành công nghiệp này vẫn sử dụng những công cụ chính sách như thời kỳ trước đây thì sẽ không có sự chuyển hướng của chính sách công nghiệp. Thay vào đó, các công cụ chính sách theo chiều ngang được thực hiện để tăng cường sức cạnh tranh cho công nghiệp Nhật Bản. Mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của công nghiệp Nhật Bản được thông qua việc Chính phủ khuyến khích việc phối hợp giữa các ngành công nghiệp, tăng cường hợp tác, trao đổi thông tin giữa khu vực tư nhân và khu vực Nhà nước. Tuy nhiên, chính sách công nghiệp vẫn sử dụng các công cụ theo chiều dọc đối với một vài ngành công nghiệp cụ thể như ô tô và hoá dầu, được coi là những ngành có tính chiến lược, song những công cụ theo chiều dọc này trong thực tế đã không có hiệu lực như mong muốn.
Thay vào đó, cơ chế thị trường và sự phối hợp giữa Chính phủ với các ngành công nghiệp theo phương châm “Chính phủ không phải là cha, Chính phủ chỉ là người anh trai đối với các ngành công nghiệp ”.Kết quả là, trong thời kỳ này, công nghiệp Nhật Bản đạt được mức tăng trưởng cao chưa từng có, với hệ thống kinh tế tự do được hình thành và củng cố vững chắc.
Hàn Quốc
Sự chuyển hướng từ công nghiệp hoá hướng nội sang khuyến khích các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu ở Hàn Quốc có nhiều điểm khác biệt so với Nhật Bản. Nếu như Chính phủ Nhật Bản đã bắt đầu có dấu hiệu chuyển hướng từ nửa cuối 1950s và cho đến 1960s thì hầu như các công cụ của chính sách công nghiệp được sử dụng đều là các công cụ chính sách theo vhiều ngang, thì Chính phủ Hàn Quốc vẫn sử dụng nhiều các công cụ chính sách theo chiều dọc ngay cả khi nền kinh tế đã bắt đầu chuyển hưoứng theo hướng khuyến khích xuất khẩu.
Năm 1961, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện quốc hữu hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng. Bằng các mệnh lệnh hành chính, Chính phủ phân phối các nguồn tín dụng khan hiếm cho các ngành công nghiệp được ưu tiên.
Vào đầu thập niên 70, khi chi phí nhân công ngày càng cao, Chính phủ sử dụng hệ thống tín dụng để khuyến khích các doanh nghiệp chuyển hướng đầu tư mạnh vào các ngành công nghiệp nặng hướng ra xuất khẩu như hoá chất, đóng tàu, luyện thép. Tỷ trọng của xuất khẩu hàng hoá công nghiệp nặng trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng lên từ 14% năm 1974 lên 60% năm1984. Đồng thời Chính phủ cũng tiếp tục sử dụng hỗ trợ tín dụng để hậu thuẫn cho các Cheabol phát triển mở rộng. Ztrong thời gian từ 1972 đến 1979 số lượng các doanh nghiệp trong nước thuộc sở hữu các cheabol tăng từ 7,5% đến 25,4%, tốc độ tăng trưởng của các cheabol trong thời kỳ này đạt 44,7% trong khi đó tốc độ tăng GDP là 10,2% .
Để khuyến khích xuất khẩu chính phủ cho phép phá giá đồng tiền ở mức độ đáng kể. Năm 1961 đồng won phá giá 50%. Các biện pháp phá giá mạnh mẽ hơn vào năm 1963 và trong thời kỳ 1971 – 1972 đã có tác dụng rất quan trọng để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Hàn Quốc trên thị trường quốc tế. Theo đánh giá của WB, đây là một trong những biểu hiện của sự thành công của chính phủ Hàn Quốc trong việc nới lỏng dânf các hàng rào bảo hộ để làm cho nền công nghiệp trong nước có sức cạnh tranh cao hơn .
Đồng thời chính phủ cũng rất chú ý đến phối hợp trao đổi thông tin giữa khu vực tư nhân và các cơ quan quản lý kinh tế vĩ mô, đực biệt là cơ chế phối hợp thông qua uỷ ban kế hoạch kinh tế Hàn Quốc. Bên cạnh đó trung tâm thương mại Hàn Quốc ( Kotra ) được thành lập cũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp các ngành xuất khẩu phát triển.
Thời kỳ này chính phủ Hàn Quốc mới dần dần sử dụng ít đi các công cụ chính sách theo chiều dọc để chuyển sang sử dụng các chính sách theo chiều ngang. Vào đầu những năm 1980 chính phủ chủ yếu thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với khu vực công nghiệp thông qua việc kiểm soát các tổ chức tài chính tài trợ cho phát triển các ngành công nghiệp sanr xuất hàng xuất khẩu.
Đài Loan :
Bắt tay vào khuyến khích phát triển các ngành công nghiệp hướng ra xuất khẩu vào cuối những năm 1950, sớm hơn vài năm so với Hàn Quốc. Việc nới lỏng đối với xuất nhập khẩu được thực hiện từ sau 1958. Chính sách tỷ giá hối đoái kép được thay bằng một hệ thống tỷ giá thống nhất. Đầu tư nước ngoài bắt đầu được chú ý vào đầu những năm 1960. Chính phủ cho phép các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu được sử dụng các khoản tín dụng ưu đãi và các miễn giảm về thuế.
Điểm nổi bật trong khuyến khích công nghiệp xuất khẩu của Đài Loan là việc thành lập các khu chế xuất ( EPZ ). Đài Loan là nước thành công nhất trong việc sử dụng mô hình EPZ vào khuyến khích phát triển xuất khẩu.
Kết quả của những cố gắng đã tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn với cơ sở hạ tầng hiện đại, các ưu đãi về thuế, thủ tục hành chính đơn giản là các lĩnh vực hành chính như dệt, chế biến thực phẩm, công nghiệp nhẹ, linh kiện điện tử, đồ gia dụng đã phát triển nhanh chóng trong khuôn khổ các EPZ.
Vào đầu những năm 1970 Đài Loan tiếp tục đẩy mạnh các ngành công nghiệp hướng vào xuất khẩu và thông qua 10 dự án xây dựng lớn ( 1973 ). Chính phủ tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Các ngành công nghiệp như sắt thép, hoá dầu, đòng tầu được tiếp tục củng cố thông qua các khoản đầu tư khổng lồ của các tập đoàn kinh tế nhà nước. Việc ưu đãi phát triển cho khu vực này là nguyên nhân dẫn đến những khó khăn của nền kinh tế cuôí những năm 1970 dưới ảnh hưởng của cú sốc dầu lửa lần thứ 2 vào năm 1979
Chương II
Thực trạng chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam
I.Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam thời kỳ (1954-1989).
1. Khái quát chính sách phát triển công nghiệp thời kỳ (1954-1989)
1.1. Giai đoạn (1954-1957)
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời từ tháng 9 năm 1945, nhưng chỉ sau đó một thời gian ngắn, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Hiệp định Giơ-ne-vơ mới chỉ mang lại hoà bình trên nửa phía Bắc. Có thể nói, từ đây cho đến 1975, chính sách công nghiệp hoàn toàn khác nhau.
Miền Bắc thực hiện cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung theo mô hình và với sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, đứng đầu là Liên Xô, Trung Quốc và các nước Đông Âu. Trong khi đó, ở Miền Nam, với sự có mặt của Hoa Kỳ, một nền kinh tế phục vụ chiến tranh theo cơ chế thị trường được kiến tạo mạnh, đặc biệt bắt đầu từ 1960.
Do đó, Việt Nam tồn tại song song hai mô hình kinh tế khác nhau và tất nhiên là với hai chính sách công nghiệp khác nhau.
Nét đặc trưng của chính sách công nghiệp giai đoạn 1954-1957 ở Miền Bắc là giai đoạn cải tạo công thương nghiệp. Các cơ sở công nghiệp thưong mại của thực dân Pháp để lại và của các nhà tư sản Việt Nam đèu được quốc hữu hoá. ở giai đoạn này, thay đổi quan hệ sở hữu là chính sách được tập trung thực hiện để đảm bảo Nhà nước có được trong tay tiềm lực kinh tế cho sự quản lý tập trung. Kết quả là nền kinh tế nói chung. Công nghiệp nói tiêng có 3 hình thức tổ chức :
Các nhà máy xí nghiệp và công ty thương mại dịch vụ thuộc sở hữu Nhà nước (gọi chung là các doanh nghiệp Nhà nước )
Các hợp tác xã dựa trên sở hữu tập thể.
Một số cơ sở công tư hợp doanh, hình thức này chỉ còn lại rất ít cho đến đầu những năm 1960.
Chính sách bao trùn của thời kỳ này trong công nghiệp là đặt nền móng cho một nền công nghiệp dưới sự kiểm soát tập trung của Nhà nước. Cũng trong thời kỳ này, những nhà quản lý học tập cách điều hành xí nghiệp theo phương thức “vừa làm , vừa học” và chờ đợi gào sự chỉ đạo trực thiếp của cấp trên. Đây là giai đoạn mà công nghiệp hầu như chưa có sự đầu tư mới nào.
1.2. Giai đoạn 1958-1960.
Cùng với kế hoạch khôi phục kinh tế 3 năm, công nghiệp Việt Nam lần đầu tiên được phác thảo bởi một chính sách phát triển khá rõ nét. Đặc trưng của giai đoạn này nhằm:
Khôi phục lại và nâng cao công suất của các cơ sở công nghiệp có từ trước theo phương thức quản lý dựa trên chée độ công hữu .
Tiếp nhận sự giúp đỡ của các nước theo hệ thống Xã hội chủ nghĩa để xây dựng một nền công nghiệp tự lập, tự cường. Đây là thời kỳ khởi công cho ciệc xây dựng một nền công nghiệp của nước Việt Nam mới.
Sự quản lý tập trung được đặt trực tiếp vào Bộ Công nghiệp .
1.3. Giai đọan (1960-1965).
Đây là giai đoạn có những bước tiến nhảy vọt của công nghiệp Việt Nam . Với sự giúp đỡ của các nước trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, hàng loạt cơ sở công nghiệp ra đời, trong đó phải kể đến các ngành công nghiệp cơ bản như: luyện kim, điện lực, đặc biệt là cơ sở thuỷ điện đầu thiên xuất hiện , khai thác, cơ khí chế tạo và đóng tàu, dệt may, da giầy, phân bón và hoá chất, vật liệu xây dựng . Bên cạnh đó hàng loạt cơ sở sx hàng tiêu dùng thiết yếu được xây dựng để đáp ứng cho nhu cầu trong nước .
Có thể nói, đây là giai đoạn thực hiện chính sách công nghiệp thay thế nhập khẩu theo hướng ưu tiên phát triển công nghiệp nặng làm nền tảng cho sự tự lực phát triển . Những đặc trưng cơ bản của thời kỳ này là :
Công nghiệp phát triển nhanh chóng với sự ưu tiên cho công nghiệp nặng.Bộ công nghiệp nặng ta đời đặc trách các ngành khai thác, điện lực, luyện kim cơ khí sản xuất tư liệu sản xuất .
Nền công nghiệp phát triển dàn trải trên mọi ngành theo sự trợ giúp của các nước. Trình độ công nghệ dựa trên một mặt bằng thấp, lại không đồng đều và thiếu đồng bộ .
Công suất và năng lực sản xuất nói chung không đáp ứng đủ nhu cầu, nền kinh tế vẫn ở trạng thái khan hiếm trầm trọng và phải trông chờ vào sự viện gíup của nước ngoài.
Sự quản lý tập trung của Nhà nước dựa vào nguyên tắc kết hợp quản lý theo ngành và theo địa phương, vùng lãnh thổ. Như vậy, các cơ sở công nghiệp có hai loại: cơ sở của Trung ương và của địa phương, vừa chịu sự quản lý theo ngành kỹ thuật vừa theo địa phương .
Thời kỳ này không tồn tại các tổ chức dạng hiệp hội mà hầu hết các ngành có xu hướng tổ chức sản xuất khép kín trong các xí nghiệp liên hợp (liên hiệp theo chiều dọc) hay liên hiệp các xí nghiệp (liên hiệp theo chiều ngang).
4.1. Giai đoạn (1965-1975).
Giai đoạn này nền công nghiệp chịu sự phá hoại khóc liệt của cuộc chiến tranh do Hoa Kỳ thực hiện . Toàn bộ các cơ sở công nghiệp non trể đều bị đánh phá dữ dội. Một số cơ sở được dời chuyển, sơ tán, một số cơ sở thiếp tục sản xuất trong điều kiện bị ném bom, số còn lại phải tạm ngừng sản xuất , lương thực, thực phẩm, quân trang, quân dụng. Nền kinh tế nói chung phụ thuộc rất lớn vào sự viện trợ, giúp đỡ của cước ngoài, hệ thống phân phối hiện vật dược áp dụng để đảm bảo mức sống tối thiểu trong điều kiện khan kiếm.
1.5. Giai đoạn (1976-1989)
Sau khi thống nhất đất nước, công nghiệp phía Bắc hầu như bị tàn phá hoàn toàn, trong khi đó, công nghiệp phía Nam cũng chủ yếu định hướng phục vụ chiến tranh nên cơ cấu rất thiên lệch . Hầu như không có các sơ sở công nghiệp nặng được xây dựng ở phía Nam cho đến 1975, ngoại trừ các cơ sở đã có từ thời Pháp thuộc . Tuy nhiên, ở ciền Nam đã xuất hiện các cơ sở chế biến khá hiện đại, đặc biệt là cách quản lý theo cơ chế thị trường . Các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biếc được tổ chức theo các loại hình của kinh tế thị trường , các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tư bản trong nước đã khá phát triển . Lúc này có nhiều quan điểm thậm chí trái ngược nhau trong việc tìm kiếm con đường đi lên cho nền kinh tế nói chung, công nghiệp nói riêng của nước Việt Nam thống nhất.
Quan điểm thứ nhất cho rằng nên tiếp tục duy trì công nghiệp phía Nam như vốn có để tranh thủ những mặt mạnh của cơ chế thị trường , của các quan hệ truyền thống và kinh nghiệm quản lý .
Quan điểm thứ hai cho rằng cần ngay lập tức cải tạo quan hệ kinh tế và công nghiệp phía Nam theo mô hình kế hoạch hoá tập trung hiện có của các nước xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này đã thắng thế hoàn toàn và công cuộc cải tạo, hoà nhập hai nền công nghiệp được thực thi.
- Như vậy nét đặc trưng của thời kỳ này là sự cải tạo và nhất thể hoá nền công nghiệp trên cơ sở công hữu và tập trung vào hệ thống quản lý Nhà nước . Có ba điều cần rút ra ở đây là :
+ Các cơ sở công nghiệp nhỏ lẻ vận hành theo cơ chế thị trường vẫn có sức sống mãnh liệt mặc dù bị phân biệt đối xử.
+ Sự hợp tác toàn diện với Hội đồng tương trợ kinh tế (1978) theo nguyên tắc mới, nguyên tắc của sự phân công cùng có lợi đã không cho phép nền công nghiệp có được những giúp đỡ đầu tư cần thiết như đầu những năm 1960 . Mặt khác, lúc này bản thân các nước xã hội chủ nghĩa cũng bộc lộ những điểm yếu khó khắc phục của sự trì trệ và khan hiếm.
Nền công nghiệp Việt Nam ở giai đoạn này gặp nhiều khó khăn: máy móc thiết bị và công nghệ lạc hậu, nguyên liệu mà trước đây được trợ giúp từ các nước xã hội chủ nghĩa không còn, nên năng suất suy giảm tuyệt đối. Các vấn đề xã hội cốn đã nặng lề với một đất nước trải qua cuộc chiến tranh tàn khốc, nay lại càng nặng lề hơn khi cền kinh tế sau chiến tranh không những không được cải thiện mà lại trầm trọng hơn.
Năm 1986 Việt Nam khởi xướng sự đổi mới bắt đẩu từ cơ chế quản lý kinh tế , theo đó những đấu hiệu của sự tự do kinh tế xuất hiện, quyền chủ động của các doanh nghiệp được đề cao, các thành phần kinh tế khác được thừa nhận, mối quan hệ kinh tế đa phương được thiết lập … Tất cả những cấn đề đó đã cho phép phục sinh và phát triển trở lại nền công nghiệp Việt Nam .
2.Nhận xét chung về chính sách phát triển công nghiệp thời kỳ (1954-1989)
Từ các biến động khách quan của lịch sử, công nghiệp Việt Nam đã qua những bước thăng trầm khiến cho sự đánh giá rất khó khăn. Tuy nhiên, có thể khái quát một số nhận xét về chính sách phát triển công nghiệp thời kỳ này như sau :
- Chính sách xây dựng một cền công nghiệp tự lập, tự cường dựa trên chủ trương ưu tiên công nghiệp nặng là điểm xuyên suốt thời kỳ này. Đáng tiếc là các nhân tố cần thiết để có thể tự lực , tự cường lại thiếu thốn hoặc chưa xuất hiện nên trên thực tế là chúng ta có một nền công nghiệp dàn trải, què quặt và thiếu mũi nhọn.
- Tư tưởng tự lập và sự đóng cửa nền kinh tế đã khiến cho các dòng chảy công nghệ và kỹ thuật bị chặn laị, kết quả là công nghệ của chúng ta lạc hậu nhiều thế hệ.
-Cơ chế quản lý hành chính đã dồn nén nền công nghiệp vốn yếu ớt thành các cơ sở xơ cứng, thiếu năng động, xa lạ với các nguyên tắc của thị trường . Cách thức tổ chức hệ thống công nghiệp và thương mại gần như biệt lập nhau đã càng làm cho công nghiệp thuần tuý chỉ là cơ sở sản xuất đến mức không phải tự bán sản phẩm do chính họ sản xuất ra, càng không biết đến khách hàng của họ. Ba năm cuối thời kỳ này (1989-1970) là thời kỳ nỗ lực mang tính chất bản lề để có được những thành công bước đầu ở thời kỳ sau.
II. Thực trạng công nghiệp và chính sách công nghiệp Việt Nam giai đoạn (1990-2000)
1. Thực trạng công nghiệp giai đoạn (1990-2000)
1.1. Tình hình phát triển chung.
Tăng trưởng công nghiệp
Trong những năm qua công nghiệp Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế do phát huy được lợi thế so sánh trong việc khai thác tài nguyên và phát huy lợi thế về sử dụng nguồn lao động.
Bảng 3: Tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành
Đơn vị: Tỷ đồng
Stt
1995
1996
1997
1998
1999
Tổng số
228.892
272.037
313.624
361.016
399.942
1
Nông, lâm, ngư nghiệp
62.219
75.514
80.826
93.072
101.723
2
Công nghiệp, XD
65.820
80.877
100.595
117.299
137.959
3
Dịch vụ
100.853
115.646
132.203
150.645
160.260
Bảng 4- Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo giá hiện hành
Đơn vị: %
Stt
1995
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng số
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
100,0
1
Nông, lâm, ngư nghiệp
27,2
27,8
25,8
25,8
25,4
22,7
2
Công nghiệp, XD
28,8
29,7
32,1
32,5
34,5
35,5
3
Dịch vụ
41,1
42,5
42,2
41,7
40,1
41,8
Tỷ lệ công nghiệp chiếm trong tổng sản phẩm trong nước từ 21,86% năm 1995 đến năm 1998 đã tăng lên 26,71% và 29,05% năm 1999 (Nếu kể cả xây dựng tỷ lệ này tương ứng là 28,8%; 32,5% và 34,5%).
Trong khi đó tỷ trọng nông nghiệp giảm tương ứng là từ 27,2% năm 1995 xuống còn 25,8% năm 1998 và 25,4% năm 1999.
Tốc độ tăng trưởng trong những năm vừa qua đạt bình quân trên 12,7% năm. Công nghiệp là lĩnh vực chịu tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, năm 1999 vẫn giữ được nhịp đọ tăng trưởng 10,5% , có thấp hơn mấy năm trước (năm 1996 là 14,2%; năm 1997 là 13,8%; năm 1998 là 12,5%).Song năm 2000 đã đạt được tỷ lệ tăng trưởng cao hơn 15,7% . Dự báo đến năm 2001 là 14%.
Công nghiệp đã góp phần quan trọng trong giá trị xuất khẩu , chiến khoảng 60% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Một số sản phẩm xuất khẩu có giá trị kim ngạch lớc là : dầu thô, hàng dệt may, hàng da giầy, hàng nông sản chế biếc. Gần đây kim ngạch xuất khẩu sản phẩm linh kiện diện tử cũng đã đạt trên 500 triệu USD.
Bảng 5- Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu
TT
Tên sản phẩm
Đơn vị
Sản lượng
Tốc độ tăng
1995
KH 2000
DK 2005
1995-2000
2000-2005
1
Điện phát ra
Tỷ kwh
14.7
26
44.3
12.1
11.2
2
Dầu thô khai thác
Tr.tấn
7.62
17
22
17.4
5.3
3
Khí
Tỷ.m3
0.25
1.5
8.5
43.1
41.5
4
Than sạch
Tr.tấn
8.3
10
15.3
3.8
8.9
5
Thép cán
Tr.tấn
0.38
1.4
2.3
29.8
10.4
6
Phân lân các loại
1000.tấn
800
1150
1350
7.5
3.3
7
Phân đạm
1000.tấn
111
45
1100
16.5
89.5
8
Vải lụa các loại
Tr.m
228
400
750
11.9
13.4
9
Giấy các loại
1000.tấn
203
300
500
8.1
10.8
10
Xi măng
Tr.tấn
58
11.5
20
14.7
11.7
11
Đường các loại
1000.tấn
517
1000
1300
14.1
5.4
12
Bia
Tr.lít
375
700
900
13.3
5.2
13
Sữa
Tr.hộp
170
180
230
1.1
5.0
14
Động cơ(dầu,xăng)
1000.cái
5.2
8
60
9.0
49.6
15
Động cơ điện
1000.cái
28.7
48
65
10.8
6.3
Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào phát triển công nghiệp , phát triển các khu công nghiệp
Nguồn vốn FDI hiện chiếm khoảng 32% tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội . Trong đó đầu tư cho công nghiệp chiếm 61% (bao gồm cả dầu khí), các ngành dịch vụ khoảng 17%…Hoạt động FDI đã tạo ra nhiều năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, sản phẩm mới và công nghệ mới, hiện đại trong nhiều lĩnh vực công nghiệp như : khai thác dầu khí, sản xuất sắt thép, xi măng, lắp ráp và sản xuất ô tô, xe máy , hàng điện tử…
Năm 1995, khu vực có vốn FDI đã tạo ra 25% giá trị sản xuất ngành công nghiệp , năm 1998 giá trị này đã tăng lên 32% và năm 1999 là 34,7%. Với tốc độ tăng trưởng thời kỳ 1995-1999 tới trên 22,3% năm , đóng góp của khu vực có vốn FDI trong giá trị sản xuất ngành công nghiệp sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Khu vực này hiện chiếm 100% về khai thác dầu thô; 70% về sản xuất, sửa chữa xe có động cơ ; 49% điện tử dân dụng; trên 50% về thép ; 14% sản lường hoá chất của cả nước….
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tăng vào hoạt động xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp ( dầu thô, sản phẩm linh kiện điện tử, hàng may mặc…), góp phần vào cải thiện cán cân thương mại và cán cân thanh toán của Việt Nam . Ngoài ra, còn góp phần tạo việc làm, đào tạo đội ngũ lao động và nâng cao thu nhập cho người lao động .
Phát triển các khu công nghiệp
Cho đến tháng 11 năm 1999, đã có 67 bkhu công nghiệp (KCN), khu chế suất(KCX), và khu công nghệ cao (KCNC) thành lập tại 26 tỉnh , thành phố trực thuộc Trung ương với tổng diện tích giai đoạn đầu 10492 ha đã đầu tư xây dựng hạ tầng trên 400 Tr. USD và 840 Tỷ đồng, chưa kể KCN Dung Quất có diện tích 14000 ha.
Bảng 6- Số liệu về KCN, KCX
Diện tích
(ha)
Diện tích đất có thể cho thuê
(ha)
Đầu tư nước ngoài
Đầu tư trong nước
Diện tích đã cho thuê
(*)
Lao động Việt Nam
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
(tr.USD)
Vốn TH
(tr.USD)
Số dự án
Tổng vốn đầu tư
(tỷ đồng)
._.ùng nổ của cách mạng khoa học kỹ thuật và thế giới bước vào thời kỳ kinh tế tri thức, trong đó có nhiều nước trên thế giới đã trở thành nước công nghiệp phát triển,nhiều cước đi vào giai đoạn hậu công nghiệp. Chính điều này vừa tạo ra cơ hội cho nước ta có thể tiếp thu được những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ hiện đại nhất của thế giới để đi nhanh, phát triển rút ngắn, nhưng cũng tạo ra thách thức, nguy cơ cho sự tụt hậu, nếu ta không tận dụng dược những thành tựu khoa học hiện đại đó.
- Hai là, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế, hội nhậpkt thế giới và khu vực đã tạo nên một mặtbằng về cơ hội đẩu tư, thương mại và chuyển giao công nghệ giữa các nước, đồng thời cũng là một thách thức đối với các nước. Cơ hội mới cho Việt Nam là có thể tranh thủ được cốn, khoa học công ngệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý các nước đi trước. Song những thách thức đặt ra cũng rất lớn. Bởi lẽ, hội nhạp quốc tế là quá trình đòi hỏi Việt Nam phải loại bỏ dần các hàng rào thuế quan trong thương mại quốc tế, thanh toán quốc tế và di chuyển các nhân tố sản xuất giữa các nước từ mức thấp đến mức cao. Chẳng hạn theo cam kết đến 2006 để tham gia vào AFTA, Việt Nam phải chấp nhận các mức thuế quan từ 0% đến 5% cho hàng hoá của các nước nhập vào Việt Nam, đồng thời, hàng hoá của Việt Nam cũng được hưởng những quy định như vậy khi xuất khẩu vào các nước thành viền trong khối. Trong bối cảnh trình độ sx, kinh doanh của Việt Nam còn thấp, phải dựa vào sj bảo hộ của hàng rào thuế quan để tồn tại thì những quy định đó là sự thách thức rất lớn đối ới các doanh nghiệp Việt Nam.
- Ba là, Việt Nam đẩy mạnh jpt công nghiệp trong điều kiện về cơ bản vẫn còn là một nước công nghiệp lạc hậu. Ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, Việt Nam đã coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội. Tiếp đó, Đảng cộng sản Việt Nam chủ trương để ccn hoá cần ưu tiên jpt công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, công nghiệp hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Đến Đại hội VIII, Đảng cộng sản Việt Nam nhấn mạnh để công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.
Với đường lối công nghiệp hoá đó, 40 năm qua Việt Nam đã có đươc một số thành tựu nhất định trong phát triển công nghiệp, tạo lâpj được một số cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế. Chính vì vậy việc đẩy mạnh công nghiệp hoá của Việt Nam ở giai đoạn hiện nay hông phải là từ chỗ chưa có gì, từ số không để đi lên. Tuy nhiên, thức tế chỉ ta là, qua 40 năm, những bước tiến về sự phát triển công nghiệp cồn rất chậm, sự thành công của chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. Xuất thân từ một nước nông nghiệp, sau 40 năm thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đến nay 76% dân số Việt Nam vẫn sống trong nông thôn, vẫn là người nông dân sản xuất nhỏ, tự cấp tự túc. Trên pjhạm vi quốc tế, Việt Nam vẫn là một nước kém phát triển.
2. Mô hình chính sách công nghiệp Việt Nam đến 2020.
2.1.Mục tiêu và định hướng chung của chính sách công nghiệp thương mại là đưa Việt Nam về cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào naưm 2020.
Đây là mục tiêu do Đại hội Đại biểu toàn quốc Đảng cộng sản Việt Nam làn thứ VIII đặt ra và sẽ được khẳng định tiếp tục trong Đại hội IX. Để trở thành một nước công nghiệp, vấn đề quan trọng hàng đầu của nền kinh tế là tập trung chuyển dịch được cơ cấu ngành kinh tế theo hướng taưng nhanh tỷ trọng công nghiệp kể cả về giá trị và về lao động.
Theo cách phân loại hiện nay của thế giới, nước công nghiệp là nước có tỷ trọng sản xuất công nghiệp chiếm hơn 60% trong giá trị gia tăng của sản xuất hàng hoá. Tỷ trọng này của nước nửa công nghiệp từ 40 - 60%, của nước đang công nghiệp hoá là 20 – 40% của nước nông nghiệp là dưới 20%.
ở Việt Nam hiện nay, tỷ trọng trên còn rất thấp. Ngay trong cơ cấu ngành công nghiệp - nông nghiệp – dịch vụ, cả về giá trị và về lao đọng cũng đang còn thấp . Cho đến 1999, tỷ trọng giá trị sản xuất của các ngành này là 34,5% - 25,4% - 40,1%. Tỷ trọng lao động các ngành công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ là 12,5 % - 67%- 20,5%.
Để cơ bản trở thành một nước công nghiệp trong 20 năm tới, Việt Nam phải tập trung chuyển dịch mạnh mẽ hơn nữa về cơ cấu kinh tế, sao cho tỷ trọng giá trị sản xuất và tỷ trọng lao động ngành công nghiệp phải được nâng cao. Hiện nay có nhiều kịch bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, trong đó dự kiến đến 2020 đưa tỷ trọng ngạnh công nghiệp lên 45% trong cơ cấu ngành kinh tế . Để cơ bản trở thành nước công nghiệp, đến năm 2020 chỉ số này cần phải đạt được mức 60%.
Với trình độ phát triển kinh tế còn lạc hậu, trong vòng 20 năm tới đạt được những mục tiêu như nêu trên hay không tuỳ thuộc vào ở chỗ Việt Nam có đưa ra được hay không một chính sách công nghiệp đúng đắn,
Để thực hiện mục tiêu chung đẩy mạnh phát triển công nghiệp, đưa Việt Nam đến 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp trong bối cảnh toàn cầu hoá và sự phát triển của nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam cần phải lựa chọn một chính sách công nghiệp theo hướng : phát huy nội lực, sức mạnh, tự do đầu tư và sáng tạo của toàn dân, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp dử dụng nhiều lao động có lợi thế cạnh tranh đẻ cải biến nền nông nghiệp hiện nay; chủ động hội nhập để tranh thủ công ngệ, vốn, kinh nghiệm quản lý và trí tuệ của thế giới để sản xuất ra nhiếu loại sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và lựa chon đầu tư phát triển một số ngành mũi nhọn, tạo sự đột phá cho việc chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế theo tiêu chuẩn của một nước công nghiệp, đảm bảo tăng trưởng bền vững và nâng cao đới sống nhân dân.
2.2. Những nguyền tắc chung của mô hình chính sách công nghiệp trong 20 năm tới.
- Trên cơ sở tăng cường đưa khoa học, công nghệ vào mọi loại sản phẩm, đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp sử dụng niều lao động có lợi thế cạnh tranh, đồng thời lựa chọn một số ngành mũi nhọn để đầu tư tạo sự đột phá mạnh mẽ cho bước phát triển rút ngắn.
Dựa vào thành tựu khoa học công nghệ hiện đại để cải biến nền nông nghiệp hiện nay, chuyển mạnh nông thôn sản xuất tự cấp sang sản xuất hàng hoá, mở rộng kinh tế thị trường trên phạm vi cả nước.
3. Định hướng cơ cấu công nghiệp.
3.1. Về cơ cấu ngành.
Xuất phát từ thực trạng cơ cấu ngành hiện nay, chính sách cơ cấu ngành cần được thiết kế theo những hướng sau:
Đối với ngành công nghiệp khai thác : tăng cường đầu tư phát triển mạnh ngành khai thác sản phẩmdầu khí và công ngệ hoá chất, công nghiệp chế biến từ sản phẩm dầu khí.
Đối với công nghiệp chế biến : khuyến khích toàn xã hội đầu tư phát triển mạnh công nghiệp chế biến, đặc biệt theo đinh hướng xuất khẩu. Một số vấn đề cần chú ý khi thực hiện chủ trương này là:
+ Ưu tiên hơn nữa cho các ngành khai thác tiềm năng nguyên liệu sẵn có trong nước, trước hết là ngành nông, lâm, thuỷ sản và ngành sử dụng nhiều lao động dễ thu hút được nguồn vốn đàu tư của dân và vốn nước ngoài .
+ Đầu tư nghiên cứu tăng thêm hàm lượng khoa học để nâng cao chất lượng hàng chế biến đối với hàng chế biến từ nông, lâm, thuỷ sản.
+ Chú ý tới phát triển nành công nghiệp sản xuất và phân phối điện nước .
+ Đầu tư phát triển ngành công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu và công nghiệp hỗ trợ, nghiên cứu phát minh, hướng vào c ngành vật liệu cao.
3.2.Về cơ cấu vùnglãnh thổ.
Chú trọng đầu tư để nâng tỷ trọng công nghiệp của các vùng miền núi và trung du phía Bắc,các tỉnh ven biển Trung Bộ, các tỉnh Tây Nguyên và các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. ở đây cần kết hợp giữa đầu tư Nhà nước và đầu tư toàn dân. Nhà nước tập trung đầu tư cho công nghiệp khai thác tài nguyên, cho công nghiệp sản xuất và phânphối điện nước.
Đồng thời khuyến khích toàn dân đầu tư phát triển công nghiệp chế biến từ sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp, phát triển các vùng dược liệu và ngành công nghiệp dược phẩm trong tương lai.
3.3.Về cơ cấu quy mô.
Xuất pháttừ thực tiễn Việt Nam hiện nay gần 90% doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, hơn nữa xuất phát từ điều kiện phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật trong tương lai, Việt Nam cần ưu tiên cho quy mô vừa và nhỏ có hàm lượng khoa học công nghệ và chất xán cao. Bởi lẽ, sự bùng nổ của khoa học công nghệ như hiện nay đang làm biến đổi tư duy kinh tế và tư duy kỹ thuật cuả thời đại. Với sự phát triển của nó, các yếu tố của nền kinh tế tri thức đã đẩy các yếu tố cạnh trnh truyền thống như tài nguyên, vốn, công ngệ với quy mô lớn xuống hàng thứ yếu. Để phát triển công nghiệp vừa và nhỏ cần lưu ý :
Hình thành các tổ chức xúc tiến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Xây dựng mạng lưới hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, nhân lực cho việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Hình thành các tổ chức tư vấn phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3.4. Về cơ cấu thành phần kinh tế.
Tiếp tục thực hiện chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp:
- Doanh nghiệp công nghiệp Nhà nước tập trung vào những ngành công nghiệp mũi nhọn, có tính chất mở đường cho sọ phát triển của ngành công nghiệp và của nền kinh tế quốc dân. Hiện nay đó là các ngành công nghiệp sản xuất nguyên liệu và công nghiệp hỗ trợ, nghiên cứu phát minh, vật liệu cao, sinh học, điện tử tin học.
- Tạo môi trường chính sách để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển ở các ngành sản xuất các loại hàng hoá khác.
4. Định hướng về bước đi phát triển sản phẩm, thị trường và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp.
4.1. Về bước đi phát triển sản phẩm công nghiệp.
Bắt đầu từ những ngành công nghiệp sử dụng nhiều lợi thế của Việt Nam về phát triển nguồn lao động và tài nguyên, nhất là về nông, lâm, thuỷ hải sản, sang các ngành công nghiệp chế biến sâu. Chú ý đầu tư phát triển thêm những ngành công nghiệp chế biến mới phục vụ cho đời sống con người, dựa trên những lợi thế này như dược liệu, thuốc dân tộc chữa bệnh,...
Đi từ các ngành công nghiệp hạ nguồn, không cần nhiều vốn sang các ngành công nghiệp thượng nguồn trong mối liên kết công nghiệp bền vững .
Nâng cấp công nghệ của ngành công nghiệp từ thấp tới cao, sao cho ngày càng nhiều hàm lượng chất xám được đưa vào sản phẩm công nghiệp sản xuất ra, từ sản phẩm kinh tế đến sản phẩm văn hoá, y tế, giáo dục, sức khoẻ con người, thuộc mọi lứa tuổi trong xã hội.
4.2. Về định hướng thị trường.
Đối với thị trường nước ngoài: Cần ưu tiên phát triển thương mại đa phương đối với hàng công nghiệp Việt Nam. Trong những năm tới, đặc biệt chú ý tới thị trường Mỹ, Nhật Bản, Tây âu, Trung Quốc, ASEAN, Đông âu, Hàn Quốc. Chú ý phát triển thị trường Trung Đông và có giải pháp để từng bước xâm nhập thị trường Châu Phi.
Đối với thị trường trong nước: Xoá bỏ tình trạng trống rỗng của thị trường. Đặc biệt chú ý sản phẩm đáp ứng thị trường tiêu dùng của các tỉnh nông thôn, miền núi,vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo.
4.3. Về nâng cao sức cạnh tranh hàng công nghiệp Việt Nam.
Về phía Nhà nước, cần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự do tiếp cận thị trường nước ngoài để nắm bắt tâm lý, thị hiếu của nhu cầu thị trường về chủng loại, mẫu mã, quy cách, chất lượng sản phẩm, cho phép các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tự do tìm kiếm công nghệ phù hợp để sản xuất . Đồng thời thực hiện một cách rộng rãi nguyên tắc tự do ngoại thương đối với mọi loại hình doanh nghiệp .
Về phía doanh nghiệp, cần cải tiến tổ chức quản lý, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí đầu vào trong sản xuất . ở đây, một vấn đề giảm chi phí đầu vào là cần giảm thiểu những thủ tục hành chính phiền hà do các cơ quan quản lý Nhà nước về kinh tế tạo ra cho doanh nghiệp .
II. Một số giải pháp cụ thể
Ngoài những giải pháp đã thực hiện có hiệu quả trong thời gian qua. Để đưa Việt Nam trong vòng 20 năm tới từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp đòi hỏi Nhà nước phải có những chính sách thích hợp.
1. Tập trung cao độ đẻ nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp chỉ có thể diễn ra khi chúng ta đưa chất xám, trí tuệ khoa học cao độ để có được nguồn nhân lực chất lượng cao. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng caomới có thể đưa chất xám vào mọi loại sản phẩm của nền kinh tế .
Thực tiễn phát triển của các nước chỉ rõ, việc sử dụng công nghệ hiện đại đòi hỏi sức lao động có trình độ cao. Hiện nay ở Mỹ , lao động trs lực đang thu nạp 75% nhân lực. Trong sản xuất giá cả sức lao động chiếm khoảng 10% trong sản phẩm rẻ tiền, còn trong các sản phẩm sử dụng công nghệ hiện dại nó chiếm khoảng 70-80%. Hơn nữa, nguồn lao động có chất lượng cao đóng gốp rất quan trọng cho tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu. Chẳng hạn ở Mỹ theo tính toán của các chuyên gia, trong nhiều năm tăng trưởng vói tốc độ 3,2% năm, thì sự đóng góp của yếu tố khoa học công nghệ là 1,4% , của lao động là 1% , của vốn là 0,8%. Ngay ở Việt Nam cũng theo tính toán, nếu tăng lao động 1% sẽ đóng góp cho tăng trưởng 0,62%, còn tăng 1% vốn thì chỉ đóng góp cho tăng trưởng 0,28%.
Chính vì vậy, trong điều kiện là một nước nghèo về vốn , lạc hậu về công nghệ, giàu về nguồn lao động, việc tập trung nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam có ý nghĩa hàng đầu.
Mặt bằng dân trí và đỉnh cao trí tuệ là hai việc song hành và nhất thiết phải đạt tới một đièu kiện tối thiểu nào đó mới đảm bảo điều kiện đẩy mạnh sự phát triển công nghiệp. Nhờ đó, người dân sẽ thay đổi được tâm lý, tập quán canh tác lạc hậu, thủ công , manh mún hàng ngàn đời, có hiểu biết trong tổ chức sản xuất theo yêu cầu của thị trường, chủ động tìm kiến thị trường, tìm kiếm công nghẹ hiện đại , từ đó thay đổi được phương thức canh tác, từng bước hiện đại hoá kỹ thuật sản xuất, tạo cơ sở cho việc chuyển lao động nông thôn sang sản xuất thàng hoá trên quy mô cả nước.
Từ thực tế Việt Nam, việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao hiện nay cần phải hướng vào loại nhân lực sau:
- Tập trung đào tạođược đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao, điều này sẽ lam cho giá trị kinh tế của mọi sản phẩm sản xuất ra sẽ tăng lên nhanh chóng.
K. Mark đã chỉ ra sự khác nhau giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn. theo ông:“lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn”. Cùng sản xuất ra một loại sản phẩm, lao động phức tạp có hàm lượnggấp nhiều làn so với sản phẩm của lao động giản đơn. hiện nay, đội ngũ này ở Việt Nam rất mỏng. Những năm tới, Việt Nam cần đầu tư mạnh hơn nữa cho sự phát triển của hệ thống dạy nghề và công nhân kỹ thuật cung cấp cho ngành công nghiệp cũng như cho toàn nền kinh tế .
- Chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia về kinh tế và kỹ thuật chất lượng cao. Đội ngũ này không những giúp cho Việt Nam có thể áp dụng và sáng tạo kỹ thuật , hội nhập kinh tế, nhờ đội ngũ này Việt Nam còn có thể tăng nhanh chóng tổng sản phẩm quốc dân thông qua con đường xuất khẩu chuyên gia. Điều rất rõ ràng là tiền lương của người làm việc trong các doanh nghiệp trọng nước. Đó là chưa nói đến việc chúng ta có thể được xuất khẩu các chuyên gia có trình độ cao cho các công ty đa quốc gia.
- Nhanh chóng đào tạo đội ngũ các chủ doanh nghiệp thuộc mọi thành phần trong nền kinh tế quốc dân và đội ngũ những nhà sáng ché, phát minh. Một chủ doanh nghiệp giỏi, môt nhà khoa học có tài đưa ra những phát minh, sáng chế có goá trị thì có thể mang lại lợi ích cho quốc gia rất nhiều.
- Nâng cao trình độ dân trí của toàn dân mà đặc biệt là nông dân.
Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, bởi lẽ, nâng mặt bằng dân trí sẽ tạo cơ hội cho mọi người dân học tập, tiếp thu và ứng dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến vào sản xuất, tạo sản phẩm công nghiệp có chất lượng cao và giá trị cao.
2. Về chính sách công nghệ.
Ngày nay,nhân loại đang chứng kiến sự bùng nổ dữ dội của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Nhiều nhà khoa học đã dự báo, nếu 30 năm qua, khối lượng kiến thức khoa học công nghệ có được lớn hơn hai thiên niên kỷ trước đó, thì trong vòng 20 năm tới, klhối lượng kiến thức khoa học công nghệ phát triển sẽ gấp 4-5 lần so với hiện nay.
Với sự phát triển mạnh mẽ của các lĩnh vực khoa học này, một loạt những lĩnh vực công nghệ mới, hiện đại như công nghệ thông tin, công nghệ phần mềm, phần cứng, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến và công nghệ tự động hoá đang trở thành những lĩnh vực công nghệ cơ bản giúp cho sự tăng trưởng có tính đột phá của các nền kinh tế.
Nếu như những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trong mấy thập kỷ gần đây đã làm thay đôỉ căn bản kỹ thuật và công nghệ sản xuất, nhờ đó, lượng của cải vật chất được tạo ra trong suốt 270 năm trước đó, thì trong vài ba chục năm tới của thế kỷ XXI, lượng của cải sẽ còn tăng lên gấp nhiều lần so với hiện nay. Trong bối cảnh đó, một trong những giải pháp có tính đột phá cho phát triển công nghiệp là tập trung cao cho cho nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại, tạo ra sản phẩm có giá trị cao cho nền kinh tế.
Để có công nghệ hiện đại tạo điều kiện nâng cao giá trị hàng hoá , giải pháp công nghệ của Việt Nam cần theo những hướng sau:
- Về bước đi công nghệ
Hiện nay cần tưng cường ứng dụng công nghệ hiện đai vò sản xuất và kinh doanh. Điều này đòi hỏi phải tìm kiếm và du nhập được những công nghệ hiện đại, nhưng lại phù hợp với điều kiện Việt Nam để có khai thác được tiềm năng lợi thé của công nghiệp Việt Nam về sản xuất sản phẩm từ tài nguyênvà sử dụng nhiều lao động. Những công nghệ hiện đại nay cho phép thực hiện chế biến sâu, làm tăng hiệu quả của nền kinh tế. Hiện nay, việc quản lý chuyển giao công nghệ vẫn còn những hạn chế. Trên cơ sở đó, tăng cường nghiên cứu phát minh, phát triển công nghiệp sản xuất nguyên vật liệu chất lượng cao, tạo ra các sản phẩm công nghệ độc lập, tạo sức cạnh tranh, dẩy nhanh được tốc độ tăng trưởng và phát triển.
Về lĩnh vực công nghệ ưu tiên.
Công nghệ sinh học bao gồm công nghệ vi sinh, công nghệ tế bào, công nghệ enzyn, công nghệ AND, để phục vụ có hiêu quả cho nông nghiệp , công nghiệp , y tế và bảo vệ môi trường. Công nghệ vật liệu cao phát triển theo hướng kết hợp chặt chẽ nhiều ngành khoa học như hoá học, sinh học, cơ học dẻ phát triển ngành công nghiệp sản xuất vật liệu mới như kim loại, chất dẻo, vật lịêu gốm,… công nghệ điện tử và thông tin để hiện đại hoá các ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.
Về phương thức của công nghệ.
Nên phổ biến rộng rãi và phân cấp giữa Nhà nước và toàn dân. bởi lẽ, việc áp dụng mạnh mẽ khoa học công nghệ vào sản xuất không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, mà đó còn là nhiệm vụ của toàn dân. Công cuộc này chỉ có thể thực hiện được nếu như có một cao trào toàn dân tham gia vào áp dụng công nghệ.
3. Chính sách về vốn.
Muốn phát triển công nghiệp, nướ nào cũng phải tích luỹ nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn đó có hiệu quả. Không có vốn tích luỹ , không có điều kiện để đổi mới kỹ thuật, tăng cường chất xám, đào tạo đội ngũ để phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, mỗi nước khác nhau, trong mỗi thời kỳ phát triển khác nhu, nguồn vốn thích luỹ ban đầu và sử dụng nó cũng có sự khác nhau.
ở mỗi nước, trong những điều kiện hoàn cảnh cụ thẻ khác nhau,đều có con đường khác nhau để tích luỹ vốn. Vậy đối với Việt Nam , nguồn vốn cho phát triển công nghiệp cần giải quyết như thế nào ? và lựa chọn như thế nào?
3.1. Dựa vào vốn trong nước là chủ yếu, vừa phải tranh thủ thu hút được nguồn vốn nước ngoài.
Đối với nguồn vốn trong nước, trong những năm qua, nhất là trước thời kỳ đổi mới, nguồn vốn cho phát triển công nghiệp của Việt Nam chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước. Với nguồn vốn đó, Việt Nam đã xây dựng được một bước chuyển biến trong cơ cấu kinh tế. Song nếu chỉ dựa vào ngân sách Nhà nước, việc giải quyết vốn là rất khó khăn, hạn hẹp.
Vì vậy, để huy động vốn trtong nước, phải dựa vào sức dân. Nguồn này không kém phần quan trọng như vốn ngân sách. Nếu như có một chính sách dúng, khuyến khích được toàn dân tiết kiệm và huy động được sức lực và trí tuệ của toàn dân, Việt Nam sẽ có nguồn vốn ban đầu để tích luỹ nhanh. Thực tiễn nhiều địa phương trong nước đang chứng tỏ điều này. Có những địa phương, bằng nguồn vốn tự có của dân tự đầu tư máy móc hiện đại, tự tìm kiếm thị trường, tự tổ chức sản xuất kinh doanh và mang lại hiệu quả kinh tế cao, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Vì vậy, nguồn vốn tích luỹ ban đầucho công nghiệp hoá ở nước ta trong những năm tới phải dựa vào toàn dân.
Tuy rằng vốn trong nước, đặc biệt là vốn của toàn dân là rất quan trong, song bước phát triển mạnh của nền công nghiệp Việt Nam chỉ thực hiện được nếu như thu hút được mạnh mẽ nguồn vốn nước ngoài. Đối với nguồn vốn này, việc thu hút chúng vào Việt Nam hiện nay có nhiều thuận lợi. Trong bối cảnh quốc tế hoá đới sống kinh tế, hội nhập kinh tế, các luồng vốn đầu tư nước ngoài, kể cả ODA, FDI, NGO,… sẵn sàng chảy vào những nơi mà vốn đầu tư được đảm bảo an toàn và sinh lợi cao. Chẳng hạn, theo số liệu thống kê, trong thời gian 1990-1996, ở 8 nền kinh tế phát triển, tổng giá trị vốn được lưu thông trên thị trường tăng 4 lần. Thị trường tài chính của các nứoc công nghiệp mới tăng trưởng với số vônư 1.500 tỷ USD, tương đương với 10% tổng số vốn của toàn cầu, trong đó các nước Châu á chiếm 39,8%, Mỹ la tinh và Caribê chiếm 28,6% , tiểu sa mạc Sahara chiếm 16,1% , Nam Phi chiếm 9,9%, Châu âu và Trung á chiếm 5,4%, còn lại thuộc về Trung Đông và Bắc phi.
Như vậy, vấn deef vốn nước ngời liên quan đến môi trường kinh doanh với các chính sách thích hợp. Nếu có một môi trường pháp lý cho nhà đầu tư yên tâm được bảo toàn vốn, tạo lập được môi trường kinh doanh đảm bảo sinh lợi cho vốn đầu tư thì nguồ vốn lớn từ nước ngoài cho phát triển công nghiệp Việt Nam hoàn toàn có thể được giải quyết. Tất cả những điều này hoàn toàn nằm trong tầm tay của Nhà nước Việt Nam.
3.2. Định hướng sử dụng vốn.
Trong việc sử dụng vốn, Nhà nước tập trung chủ yếu vào xây dựng phát triển các ngành Việt Nam mũi nhọn , những ngành công nghiệp có vai trò dẫn dắt, mở đường và có tác đông lan toả cho toàn nền công nghiệp Việt Nam, còn lĩnh vực sản xuất kinh doanh các loại sản phẩm công nghiệp khác Nhà nước nên tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác đầu tư phát triển.
4. Chính sách thuế quan.
Mặc dù hệ thống thuế quan của Việt Nam đã được cải cách theo yêu càu của quá trình hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới , nhưng cho đến nay vẫn còn những bất cập. Vì vậy tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế quan đang là vấn đề cấp bách đối với Việt Nam trong những năm tới.
4.1. Yêu cầu hoàn thiện chính sách thuế quan
Đảm bảo tính rõ ràng, minh bạch và công bố công khai các văn bản pháp quy có liên quan đến thuế quan.
Không phân biệt, đối xử giữa các thành viên trong mọi hoạt động thương mại, giữa hàng hoá trong nước và hàng hoá nước ngoài.
Tăng cường và thúc đẩy xuất khẩu.
Khuyến khích cạnh tranh công bằng và phù hợp với xu hướng hội nhập.
4.2. Giải pháp hoàn thiện thuế quan trong những năm tới.
Tiếp tục giảm dần tính chất bảo hộ sản xuất trong nước một cách tràn lan của hệ thống thuế quan.
Đây là xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập. Tuy nhiên cũng là cách thức sống còn đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Nguồn gốc của sự bảo hộ tràn an sản xuất trong nước xuất phất từ năgn ực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn rất thấp. Hầu như sản phẩm của Việt Nam khó cạnh tran trên thị trường, trước hết là nâng cao năng lực cạnh tranh nếu được bảo hộ.
Giảm bớt số lượng thuế suất .
Hiện nay, biểu thuế suất ưu đãi của Việt Nam còn gồm quá nhiều thuế suất, mỗi loại hàng hoá có nhiều thuế suất khác nhau cùng sử dụng. Vì vậy, trong những năm tới, cần có sự phân loại để giảm bớt số lượng thuế suất và với mỗi loại hàng nên áp dụng cùng một mức thuế suất.
Mở rộng diện chịu thuế.
Để đảm bảo nguồn thu trong điều kiện cắt giảm thuế nhập khẩu khi tham gia AFTA, Việt Nam cần nghiên cứu mở rộng diẹn các mặt hàng chịu thuế. Muốn vậy, cần hạn chế và đi đến loại bỏ những ưu đãi trong moị sắc thuế.
Mở rộng việc áp dụng phương pháp khấu trừ thuế tại nguồn đối với các trường hợp có nguồn thu tại Việt Nam của các đối tượng người nước ngoài cư trú tại Việt Nam, có thể điều chỉnh thuế nhập khẩu của mhóm háng có thuế suất 0% trong một số trường hợp lên mức 3 –5 %.
5. Chính sách hỗ trợ những ngành công nghiệp mũi nhọn.
Từ thực trạng non yếu về mọi mặt, đặc biệt về công nghệ và sức cạnh tranh,để xây dựng thành những ngành công nghiệp chủ lực, đủ sức trang bị lại cho nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá,hiện đại hoá đất nước, Nhà nước cần có những chính sách hỗ trợ đặc biệt trong giai đoạn đầu. Sự hỗ trợ của Nhà nước như là một khởi động cho sự phát triển dài hạn của các ngành, tránh việc duy trì, những đòi hỏi bảo hộ dai dẳng như kinh nghiệm củâ quá khứ. Nhất là trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì không thể duy trì được các hàng rào bảo hộ mậu dịch bằng thuế quan và phi thuế quan. Cần tổ chức nghiên cứu chi tiết về từng ngành nghề đã lựa chọn để xây dựng chính sách hỗ trợ cụ thể , tạo điều kiện cho các ngành đó nhanh chóng tự phát triển , không ỷ lại vào Nhà nước. Mỗi ngành nghề có một chương trình phát triển với một lịch trình cụ thể.
Có hai loại chính sách hỗ trợ nhằm tạo lập và nuôi dưỡng các ngành công nghiệp này:
+ Trước mắt cần tạo ra một thị trường thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực sự khuyến khích, hỗ trợ cho các ngành nghề phát triển. Tạo môi trường thu hút các thành phần kinh tế và đầu tư trực tiếp của nước ngoài tham gia đầu tư phát triển ngành.
+ Về dài hạn cần tập trung vào các biện pháp nhằm tạo ra các tiền đề cần thiết cho ngành phát triển. Từng ngành sản xuất có những đặc thù riêng, nhưng nhèn chung những biện pháp về tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, hỗ trợ mạnh mẽ về khoa học công nghệ, tạo ra cơ sở hạ tầng cần thiết… đều là những biện pháp quan trọng hàng đầu.
III. Kiến nghị về xây dựng chính sách phát triển công nghiệp ở Việt Nam.
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, phát triển kinh tế theo con đường xã hội chủ nghĩa, ngay từ những năm 60, Đảng ta đã xác định công nghiệp hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quấ độ lên chủ nghĩa xã hội. Để thực hiện chủ trương chiến lược đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chính sách cho phát triển công nghiệp.Đặc biệt trong những năm đổi mới Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chế độ và chính sách nhằm đẩy nhanh tốc độ CNH, HĐH, tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Tuy nhiên, cho đến nay việc xây dựng các chính sách cho phát triển công nghiệp vẫn còn là vấn đề rất mới đối với ta cả về lý luận và tổ chức thực hiện. Về phương diện lý luận, chúng ta đã tiến hành xây dựng nhiều chính sách phát triển công nghiệp, song do mục tiêu và nội dung chưa bo hàm đầy đủ các lĩnh vực, nên trong chỉ đạo thực hiện kết quả còn hạn chế. Biểu hiện là còn một số chính sách và phương diện khuyến khích đưa ra còn thiếu nhất quán, việc tổ chức chỉ đạo triển khai còn chưa đồng bộ.
Trước yêu cầu đẩy nhanh CNH, HĐH nhằm thúc đẩy xuất khẩu và phát triển kinh tế, cần phải xây dựng một cách có căn cứ khoa học chính sách phát triển công nghiệp ở nước ta. Liên quan tới những vấn đề này cần nhanh chóng giải quyết những nhiệm vụ sau:
Một là, để có một chính sách phát triển công nghiệp theo hướng đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH cần phải có một công trình nghiên cứu hệ thống về các chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam, trên cơ sở vận dụng kinh nghiệm của các nước và phù hợp với điều kiện hiện nay của nước ta. Hệ thông các chính sách này phải bao gôm một số ngành công nghiệp then chốt như: năng lượng, chế tạo máy, luyện kim, hoá chất cơ bản và công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng.
Hai là, trong chương trình nghiên cứu đó cần xác định rõ mục tiêu của từng thời kỳ để từ đó có sự đầu tư đúng đắn cho từng ngành công nghiệp, tưng vùng và từng loại quy mô thích hợp.
Ba là, phải hoạch định lại các ngành công nghiệp , lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên nhằm thúc đẩy xuất khẩu phù hợp với điều kiện nước ta và tình hình phát triển của nền kinh tế thế giới, từ đó đánh giá xây dựng, bổ sung, hoàn thiện các chính sách và phương tiện khuyến khích phát triển công nghiệp có hiệu quả.
Bốn là, đổi mới hình thức tổ chức, triển khai, chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm soát và môi trương pháp lý thực hiện chính sách phát triển công nghiệp từ Trung ương đến địa phương và cơ sở, trong toàn bộ hệ thôngs công nghiệp cung như trong từng ngành, đặch biệt là các ngành được lựa chọn ưu tiên phát triển cho những năm tới.
Kết luận.
Chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam có nhiệm vụ nghiên cứu tổng quan về công nghiệp trên phương diện và thực tiễn, làm nền tảng cho việc nghiên cứu các chính sách kinh tế khác như chính sách của ngành công nghiệp thép, ngành dệt may, ngành chế biến nông lâm hải sản, ngành điện tử tin học,….
Trên cơ sở lý luận của chính sách công nghiệp, kinh nghiệm của Nhật bản và các NIEs, thực trạng chính sách công nghiệp Việt Nam. Trong thời gian thực tập tại Vụ Công nghiệp – Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Tôi đã nghiên cứu chuyên đề “ Một số giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam giai đoạn 2001 – 2020”.
Chuyên đề là kết quả thu được trên cơ sở vận dụng những kiến thức đã học, quá trình tìm hiểu thực tiễn qua các tài liệu nghiên cứu và đặc biệt là sự tận tình giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn: Nguyễn Tiến Dũng và Cán bộ hướng dẫn: Lê Thuỷ Chung.
Qua thời gian tìm hiểu cho thắy chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam trong thời gian qua đã phát huy vai trò của mình, công nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể. Song qua đó cũng thấy được những hạn chế của chính sách phát triển công nghiệp.
Những giải pháp và kiến nghị đưa ra với mong muốn chính sách phát triển công nghiệp Việt Nam có thể có được những bước tiến xa hơn giúp cho công nghiệp nói riêng và nền kinh tế Việt Nam nói chung phát triển lên tầm cao mới.
Tuy nhiên, đó chỉ là những suy nghĩ chủ quan của bản thân, rất mong có được sự phê bình, hướng dẫn của các thầy giáo, cô giáo và các cô chú làm việc tại Vụ Công nghiệp Bộ Kế hoạch và Đầu tư để chuyên đề mang tính thiết thực hơn.
Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới thầy giáo Nguyễn Tiến Dũng và cán bộ hướng dẫn Lê Thuỷ Chung đã giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này.
Hà nội 10/04/2001
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3971.doc