Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở TP.HCM

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản là một trong những nội dung quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tiễn chỉ ra rằng, một số nước trên thế giới nhờ tiến hành phát triển công nghiệp chế biến (các nước đi trước như Anh, Pháp, Mỹ, Đức... các nước đi sau như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore...) đã thúc đẩy các ngành kinh tế quốc dân, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Việc ngh

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2230 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở TP.HCM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên cứu tiếp cận công nghiệp chế biến của các nước này để tìm ra phương hướng, giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông lâm hải sản ở Việt Nam là việc làm cần thiết. Trong những năm gần đây, nhất là khi phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN, công nghiệp chế biến ở nước ta có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội. Một số sản phẩm của công nghiệp chế biến nông lâm hải sản có giá trị xuất khẩu tăng như chè, cà phê, cao su, thủy hải sản... thu được nguồn ngoại tệ lớn. Tuy vậy, ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản có những hạn chế như chất lượng chế biến nông sản chưa cao, khả năng cạnh tranh trên thị trường còn thấp. Khắc phục những điều này chính là lời giải thiết thực đối với công nghiệp chế biến nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố công nghiệp ở miền Nam, là chỗ dựa cho các tỉnh đồng bằng Nam bộ, cực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Là một thành phố công nghiệp lớn, do vậy thành phố Hồ Chí Minh phải nỗ lực xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp của thành phố, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Làm được điều này không những kinh tế thành phố Hồ Chí Minh phát triển, đời sống nhân dân thành phố Hồ Chí Minh được nâng cao, mà còn thúc đẩy kinh tế các tỉnh phía Nam và kinh tế cả nước. Vì vậy, tôi chọn đề tài "Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh" làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế. 2. Tình hình nghiên cứu Trong các văn kiện của Đại hội Đảng, việc phát triển nông nghiệp toàn diện luôn chú trọng đến công nghiệp chế biến. Trên các tạp chí nghiên cứu, cho đến nay có một số bài viết của các nhà nghiên cứu về công nghiệp chế biến nông sản: Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam của GS. TS Ngô Đình Giao, Phát triển công nghiệp chế biến, một biện pháp thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế của TS Nguyễn Trung Quế... Trong đề tài này, chúng tôi phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra đối với công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh trong những năm tới. 3. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích những đặc điểm và thực trạng của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những giải pháp để phát triển hơn nữa doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản của thành phố trong những năm tới. Để thực hiện mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ: - Phân tích có hệ thống lý luận về ngành công nghiệp chế biến nói chung và ngành công nghiệp chế biến nông lâm hải sản nói riêng. - Tìm hiểu thực trạng công nghiệp chế biến nông lâm hải sản và những vấn đề bức xúc ở thành phố Hồ Chí Minh. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông lâm sản của thành phố trong những năm tới. 4. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản tại thành phố Hồ Chí Minh, để đề xuất những giải pháp phát triển ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận Luận án được hình thành trên cơ sở nhận thức những quan điểm lý luận của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước, tham khảo và tiếp thu có chọn lọc những ý kiến của các nhà kinh tế học và các nhà hoạt động kinh tế thực tiễn qua những bài viết trên các tạp chí, tham khảo kinh nghiệm của những nước có điều kiện tương tự, khái quát tình hình hoạt động của các công ty, xí nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản trong cả nước và ở thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu kinh tế - chính trị, chú ý vận dụng tổng hợp các phương pháp so sánh, phân tích, thống kê, nghiên cứu điển hình, phương pháp hệ thống, tổng kết thực tiễn và khái quát vấn đề. 6. Những đóng góp của luận văn - Phân tích làm rõ hơn vai trò của công nghiệp chế biến trong quan hệ giữa sản xuất nguyên liệu, chế biến nông, lâm sản và tiêu thụ nông, lâm sản chế biến. - Trình bày thực trạng ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh và nêu bật những vấn đề búc xúc cần giải quyết. - Bước đầu đề xuất một số giải pháp cơ bản để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương. Chương 1 CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NÓI CHUNG 1.1. CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN VÀ VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NÔNG, LÂM NGHIỆP NÓI RIÊNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NÓI CHUNG 1.1.1. Khái niệm về công nghiệp chế biến nói chung và công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng Theo quan điểm của Mác, một trong những nguyên nhân để sản xuất hàng hóa ra đời thì phải có sự phân công lao động xã hội. Sự phân công xã hội là cơ sở của kinh tế hàng hóa. Công nghiệp chế biến tách khỏi công nghiệp khai thác và mỗi công nghiệp đó lại chia thành nhiều loại như chế tạo sản phẩm này hay sản phẩm khác dưới hình thức hàng hóa và đem đi trao đổi với tất cả các ngành sản xuất khác. Như vậy, kinh tế hàng hóa phát triển thì đi đến chỗ làm tăng thêm số lượng các công nghiệp riêng biệt và độc lập, xu hướng của sự phát triển này nhằm biến việc chế tạo sản phẩm riêng, mà các việc chế biến từng bộ phận của sản phẩm thành một ngành công nghiệp chế biến riêng biệt [8, 21-27]. C. Mác chia sản phẩm do xã hội sản xuất thành hai loại: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực: sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất tư liệu tiêu dùng. Phát triển quan điểm của C. Mác, Lênin khi phân tích khu vực của nền sản xuất xã hội, đã phân chia các ngành của nền kinh tế thành ba nhóm: - Các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất. - Các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng. - Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng. Với cách chia như trên, công nghiệp chế biến nông, lâm sản thuộc nhóm thứ ba. Trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, để đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, việc phân loại các ngành trong nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành công nghiệp, đã được tiếp cận theo quan điểm mới. Theo Nghị định 75 CP ngày 27/10/1993 của Chính phủ về ban hành hệ thống ngành kinh tế quốc dân cấp I và Quyết định 143-TCKT/PPGĐ ngày 22/12/1993 của Tổng cục Thống kê ban hành và hướng dẫn việc thi hành hệ thống ngành kinh tế cấp II, cấp III và cấp IV thì các ngành công nghiệp trước đây, nay được tách ra thành bốn nhóm ngành, cấp I gồm: công nghiệp khai thác mỏ, công nghiệp chế biến, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước và xây dựng. Với cách phân loại này, công nghiệp chế biến là một ngành kinh tế độc lập, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất như công nghiệp thực phẩm, công nghiệp dệt và may mặc, công nghiệp đồ gỗ, công nghiệp giấy và in, công nghiệp hóa dầu, công nghiệp luyện kim, chế biến các khoáng sản không phải kim loại, công nghiệp chế tạo máy và công cụ kim khí. Từ quan niệm nói trên về công nghiệp chế biến, có thể hiểu công nghiệp chế biến nông, lâm sản là một bộ phận hợp thành của công nghiệp thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng của nguyên liệu từ nông, lâm, ngư nghiệp thông qua quá trình cơ nhiệt hóa nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường. Qua khái niệm trên, công nghiệp chế biến nông, lâm sản gồm hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Sơ chế bảo quản. Giai đoạn này được tiến hành ngay sau khi thi hoạch, nằm ngoài xí nghiệp chế biến, chủ yếu sử dụng lao động thủ công với phương tiện bảo quản và vận chuyển chuyên dùng. Nó quyết định mức độ tổn thất sau thu hoạch và chất lượng nguyên liệu đưa đến xí nghiệp chế biến. Đây là giai đoạn quan trọng có ý nghĩa xác định thứ hạng sản phẩm ở giai đoạn sau. Nó bao gồm những công việc cụ thể như phơi sấy, lựa chọn, lưu kho... - Giai đoạn 2: chế biến công nghiệp. Giai đoạn này diễn ra trong các xí nghiệp công nghiệp chế biến. Nó sử dụng lao động kỹ thuật cùng với máy móc, thiết bị công nghệ cần thiết. Đây là giai đoạn có ý nghĩa quyết định mức độ chất lượng sản phẩm chế biến và mức độ tăng giá trị của sản phẩm. Như vậy, ta có thể hiểu công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản là một bộ phận của ngành công nghiệp chế biến, ngành công nghiệp dùng nguyên liệu nông nghiệp (nông sản, lâm sản), thực hiện các hoạt động bảo quản, giữ gìn, cải biến và nâng giá trị sử dụng của nguyên liệu nông, lâm nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm nông, lâm nghiệp, đem lại hiệu quả kinh tế cao. So với công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến khác, công nghiệp chế biến nông, lâm sản có một số đặc điểm riêng chi phối đến việc xác định vai trò và quan điểm phát triển, quản lý ngành, đó là: - Sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ngày càng được nhiều người sử dụng. Do đó có nhiều yếu tố khác nhau (tâm lý tiêu dùng, tập quán tiêu dùng, thu nhập tăng, tiến bộ khoa học công nghệ và tác động của các yếu tố gây ô nhiễm môi trường), nên hiện đang có hai xu hướng tiêu dùng tác động mạnh mẽ tới công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Thứ nhất, xu hướng tăng cường sử dụng các loại sản phẩm sạch. Thứ hai, tăng cường sử dụng các loại thực phẩm đã qua chế biến công nghiệp. Hai xu hướng này làm cho các vấn đề về vệ sinh, về đảm bảo chất lượng, thời hạn sử dụng, về việc sử dụng các loại hóa chất trong quá trình chế biến được chú trọng hơn, người tiêu dùng đòi hỏi khắt khe hơn, do đó, sản xuất công nghiệp theo hướng hiện đại cũng phải phát triển mới đáp ứng được nhu cầu. - Tính đồng bộ liên ngành trong phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản thể hiện rất rõ, đặc biệt là gắn bó giữa các cơ sở chế biến công nghiệp với sự phát triển nông, lâm nghiệp. Nguyên liệu chính, chiếm tỷ trọng cao trong giá trị sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản (thường từ 70 - 80% giá thành sản phẩm), là những sản phẩm của ngành nông, lâm nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi, khai thác và hầu hết được sản xuất trong nước. Vì vậy, quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu của công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản phụ thuộc rất lớn vào quy mô, tính chất và trình độ phát triển của sản xuất nông, lâm nghiệp. Nhưng mặt khác, do việc chế biến các sản phẩm của nông, lâm nghiệp, nên công nghiệp chế biến nông, lâm sản lại là ngành bảo đảm đầu ra cho sản xuất nông, lâm nghiệp tạo động lực cho nông, lâm nghiệp phát triển, do vậy, công nghiệp chế biến được coi là thị trường trực tiếp của nông, lâm nghiệp. Chính tác động này của công nghiệp chế biến nông, lâm sản tạo điều kiện cho sản xuất phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. 1.1.2. Vai trò của công nghiệp chế biến với sự phát triển nông, lâm nghiệp nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung Quá trình của công nghiệp chế biến thường phải trải qua ba khâu: Nguyên liệu ® Chế biến ® Thị trường Công nghiệp chế biến có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế được biểu hiện ở một số vấn đề sau. Một là, kích thích và định hướng cho sản xuất nguyên liệu. Với tư cách là cầu nối giữa nguyên liệu với thị trường, công nghiệp chế biến nông, lâm sản có tác dụng giữ gìn chất lượng nguyên liệu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, nhờ đó thu được lợi nhuận cao; công nghiệp chế biến nông, lâm sản chính là thị trường đầu ra của khâu nguyên liệu. Nó có tác dụng định hướng về các mặt quy mô, cơ cấu, kích cỡ, chất lượng, giá cả cho khâu sản xuất nguyên liệu một cách trực tiếp. Việc các ngành nông, lâm nghiệp sản xuất cái gì, sản xuất ra sao, khai thác như thế nào phụ thuộc rất nhiều vào sự phát triển của công nghiệp chế biến nếu không có công nghiệp chế biến nông, lâm hải sản thì phương án sản xuất nguyên liệu khó đưa lại hiệu quả, và nếu có thực hiện chính sách kinh tế mở thì cũng chủ yếu xuất khẩu hàng thô, kém khả năng cạnh tranh, bị chèn ép và thường bị thua thiệt [19, 12-13]. Hai là, sự phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản phát triển sẽ thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp chế biến có vai trò lớn trong việc thúc đẩy nông, lâm nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa trên cơ sở công nghiệp hóa, hiện đại hóa và các lý do sau đây: - Thứ nhất: Do sản phẩm của nông nghiệp là nguyên liệu chính của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, cho nên muốn phát triển ngành này tất yếu đòi hỏi nông nghiệp phải phát triển theo hướng thâm canh, đa dạng hóa, tạo ra các loại sản phẩm, các vùng chuyên canh, có năng suất cao có tỷ suất hàng hóa lớn. Mặt khác cũng vì sản phẩm nông nghiệp khó bảo quản, dễ bị hư hỏng, thối nát, nên sự phát triển của nó chỉ có thể được đảm bảo vững chắc nếu tổ chức được cả hệ thống các cơ sở công nghiệp, sơ chế, tinh chế và sản xuất có liên hệ mật thiết với nhau. Công nghiệp chế biến nông, lâm sản không chỉ tạo sức ép buộc nông, lâm nghiệp phải phát triển, mà nó tạo điều kiện để nông, lâm nghiệp phát triển thuận lợi qua việc nâng cao hiệu quả của sản xuất nông, lâm nghiệp, từ đó tăng khả năng tích lũy, tăng khả năng đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, hiện đại hóa quá trình sản xuất trong nông, lâm sản. Tác động này trước hết thể hiện ở chỗ: sau khi đưa vào chế biến, giá trị của nông, lâm, ngư nghiệp tăng lên rất nhiều. Theo tính toán của các chuyên gia, sau khi tinh chế giá trị của nông, lâm sản có thể tăng từ 4 - 10 lần so với giá trị lúc chưa chế biến [9, 17-18]. Thứ hai: Thông qua công nghiệp chế biến nông, lâm sản tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, làm giảm sự phụ thuộc vào yếu tố thời gian và khoảng cách đối với tiêu dùng các sản phẩm nông, lâm nghiệp. Sự phát triển của công nghiệp chế biến nông, lâm sản còn làm tăng nhu cầu về sản phẩm của nông, lâm nghiệp. Thứ ba: Thông qua chế biến, từ một sản phẩm nông, lâm nghiệp có thể tạo ra nhiều loại sản phẩm có những giá trị sử dụng rất khác nhau, thậm chí tạo ra những đặc tính mới, những giá trị sử dụng mới cho sản phẩm của nông nghiệp; từ đó nâng cao mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng. Phát triển công nghiệp chế biến góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn, đặc biệt là qua việc phát triển hệ thống các cơ sở chế biến ngay ở nông thôn. Điều này giải quyết việc làm lao động nông nhàn ở nông thôn (đặc biệt sau vụ mùa và giữa hai vụ mùa). Như vậy, việc phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản vừa có tác dụng trực tiếp, vừa có tác dụng gián tiếp tới sự phát triển của nông, lâm nghiệp, vừa tạo cầu nối giữa công nghiệp và nông nghiệp, là khâu đột phá để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn. Ba là, công nghiệp chế biến nông, lâm sản góp phần đẩy mạnh xuất khẩu phát huy lợi thế so sánh của đất nước, tăng nguồn thu ngoại tệ, tăng khả năng tích lũy phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp chế biến nông, lâm không chỉ gìn giữ, khắc phục làm giảm hư hao sản phẩm nguyên liệu, mà còn bổ sung, làm tăng giá trị sử dụng của các sản phẩm đó, mở rộng khả năng cung ứng hàng hóa trên thị trường với mẫu mã, hình thức đa dạng mà còn kích thích nhu cầu mở rộng khả năng tiêu dùng của xã hội. Người tiêu dùng với tâm lý sẵn sàng trả một giá cao hơn cho những sản phẩm nếu chúng được ưa chuộng. Họ đòi hỏi sản phẩm phải được chế biến trước khi mua. Do vậy công nghiệp chế biến vừa làm tăng giá trị sử dụng, đồng thời vừa làm tăng giá trị sản phẩm. Tính hiệu quả của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, trên thị trường được thể hiện ở khối lượng lợi nhuận do sự phát triển của công nghiệp chế biến thu được. Công nghiệp chế biến càng phát triển thì sức cung hàng hóa càng lớn, sức mua càng tăng và cuối cùng khối lượng lợi nhuận thu được càng nhiều, thu nhập tăng. Trong điều kiện chính sách kinh tế mở, sự phát triển của công nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản, có hiệu quả làm tăng kim ngạch xuất khẩu, mang lại nguồn ngoại tệ khá lớn, góp phần giảm bớt sự mất cân đối giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Vai trò này của công nghiệp chế biến càng quan trọng đối với các nước kém phát triển, mà nguồn thu ngoại tệ chủ yếu dựa vào xuất khẩu thô. Ở nước ta, giá trị xuất khẩu công nghiệp chế biến đã chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, dù rằng công nghiệp chế biến ở nước ta còn ở trình độ thấp, sản phẩm sơ chế chiếm tỷ trọng lớn trong sản lượng hàng hóa xuất khẩu. Nếu công nghiệp chế biến ở trình độ phát triển cao hơn (đặc biệt là nâng cao được chất lượng sản phẩm, tăng tỷ trọng sản phẩm tinh chế, đa dạng hóa mặt hàng, đáp ứng được nhu cầu về số lượng của những khách hàng lớn...) thì giá trị xuất khẩu còn cao hơn. Ngay ở thị trường trong nước, do tác động của chính sách kinh tế mở cửa, người nước ngoài vào nước ta ngày càng nhiều. Nhu cầu tiêu dùng của nhóm khách hàng này cũng ngày càng nhiều, nếu hiện đại hóa công nghiệp chế biến, tạo ra nhiều sản phẩm đa dạng có chất lượng cao, đáp ứng tốt nhu cầu của họ thì có thể tăng lượng sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu tại chỗ một cách đáng kể và sẽ có hiệu quả cao. Công nghiệp chế biến, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản tồn tại và phát triển trên cơ sở nguyên liệu chính được sản xuất trong nước. Theo Adam Smít thì ở mỗi đất nước đều có những nguồn lực và tài nguyên nhất định như nguồn đất đai, mặt nước, khí hậu, địa hình... Sự phát triển của công nghiệp chế biến cho phép phát huy tiềm năng lợi thế của mỗi vùng, mỗi khu vực trong việc khai thác nguyên liệu, phát huy công nghệ truyền thống, sản xuất và chế biến sản phẩm riêng của mỗi địa phương. Như vậy các quốc gia sẽ tiến hành sản xuất chuyên môn hóa những mặt hàng có lợi thế để xuất khẩu và nhập khẩu những mặt hàng trong nước không có điều kiện sản xuất hoặc sản xuất không có lợi. Bốn là, phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sự phát triển của công nghiệp chế biến tác động mạnh đến đời sống và sự phát triển của nhiều ngành kinh tế quốc dân, nên công nghiệp chế biến đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả của nền kinh tế. Sự phát triển của công nghiệp chế biến là một trong những thước đo quan trọng để đánh giá trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia. Một ưu điểm là các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản không đòi hỏi vốn đầu tư lớn, không đòi hỏi công nghệ phức tạp, nhưng nó có khả năng thu hút được nhiều lao động và tạo ra tích lũy lớn. Nước ta là một nước nông nghiệp, nền kinh tế chưa thật phát triển đang phải tập trung mọi lực lượng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngành công nghiệp chế biến do đó cũng chưa phát triển, mâu thuẫn sâu sắc với nhu cầu chế biến số lượng lớn nông, lâm sản của ngành nông nghiệp đang trong xu thế phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Hơn nữa, nền sản xuất nông nghiệp nước ta với nhiều hạn chế trong tập quán, thói quen sản xuất chưa phù hợp với sản xuất công nghiệp như ngành rau quả đã tổng kết: Do vừa trồng chủ yếu ở quy mô hộ gia đình, dưới 5 ha, giống không đồng nhất, chất lượng không đều, nên không thể đưa kỹ thuật cơ khí thu hái, lựa chọn, bảo quản. Do đó nhiều sản phẩm nông nghiệp chưa được chế biến, số lượng hư hỏng cao. Riêng về công nghiệp chế biến: Cả nước hiện nay mới có 17 nhà máy chế biến rau quả, trong đó có 12 nhà máy đồ hộp, công suất 70.000 tấn/năm. 5 nhà máy đông lạnh công suất 50.000 tấn/năm. Những năm cao nhất, các nhà máy này chỉ sản xuất được 30.000 tấn đồ hộp và 40.000 tấn dứa đông lạnh. Như vậy mới có 5 - 7% sản lượng trái cây thu hoạch được chế biến. Ngoài ra, kinh nghiệm sản xuất và kinh nghiệm quản lý theo yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn thiếu, yêu cầu giải quyết việc làm cho một đội ngũ lao động khá đông đảo cũng đang đặt ra yêu cầu cấp bách. Trong bối cảnh đó, nếu phát triển mạnh công nghiệp chế biến thì có thể giải quyết được mâu thuẫn kể trên, đặc biệt là, cho phép huy động được các nguồn vốn trong nền kinh tế quốc dân thông qua các hình thức liên kết, liên doanh, vừa phát huy được tay nghề của người lao động, vừa tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, vừa khai thác được lợi thế của tất cả các vùng, tạo điều kiện từng bước phát triển ngành công nghiệp chế biến trở thành một ngành kinh tế - kỹ thuật sản xuất hàng hóa, vừa phục vụ tốt nhu cầu nội địa, vừa tăng cường được lượng hàng xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế. Một loạt các quốc gia (Tây Âu, Nhật Bản trước đây, các nước NICs và nhiều nước Đông Nam Á hiện nay) đã thực hiện công nghiệp hóa thành công nhờ áp dụng chiến lược phát triển công nghiệp nhẹ và công nghiệp chế biến gắn với nông nghiệp, sau đó phát triển công nghiệp nặng và tiếp theo là phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học kỹ thuật và vốn cao. Chúng ta có thể học tập kinh nghiệm đó của họ. 1.2. PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Công nghiệp hóa - quy luật của mọi quốc gia trong quá trình chuyển nền kinh tế từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, kỹ thuật thủ công lên sản xuất lớn với công nghiệp hiện đại, kỹ thuật tiên tiến. Tuy nhiên, một vấn đề có tính quy luật của quá trình công nghiệp hóa là phải có bước đi cụ thể, tùy theo vai trò vị trí trước mắt, lâu dài của từng ngành mà vạch bước đi thích hợp. Chẳng hạn thời kỳ 1920, Lênin chủ trương trước hết phát triển công nghiệp nhẹ, công nghiệp chế biến sau đó mới đến phát triển các ngành công nghiệp khác [9, 29]. Thực tế hầu hết các nước trên thế giới đều bắt đầu công nghiệp hóa bằng phát triển công nghiệp chế biến, bởi ba lý do: - Công nghiệp chế biến cho phép sản xuất ra những sản phẩm mới mà nông nghiệp bị hạn chế. - Công nghiệp chế biến là nhân tố hết sức quan trọng kích thích tăng trưởng nhanh nền kinh tế, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. - Công nghiệp chế biến tạo ra các động lực thúc đẩy các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế quốc dân. Nhưng, tùy theo điều kiện mỗi nước mà quá trình phát triển công nghiệp chế biến được tiến hành không hoàn toàn giống nhau. Căn cứ vào lịch sử và đặc điểm phát triển có thể thấy hai nhóm nước thực hiện công nghiệp chế biến: Nhóm các nước công nghiệp hóa đi trước như: Anh, Pháp, Mỹ, Đức... và nhóm các nước công nghiệp hóa đi sau như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Indonesia, Malaysia... Đến nay một số nước đi sau đã và đang thành công trong phát triển công nghiệp chế biến, có thể cung cấp những bài học kinh nghiệm cho các nước còn đang ở trong giai đoạn đầu phát triển công nghiệp chế biến. Việc tiếp cận kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến của các nước, đặc biệt là các nước đi sau (NICs và ASEAN) để tìm ra giải pháp phát triển công nghiệp chế biến ở Việt Nam là việc làm cần thiết vì các nước này có nhiều nét tương đồng và xuất phát điểm gần giống với Việt Nam. 1.2.1. Về mặt chính sách và biện pháp phát triển công nghiệp chế biến Các nước NICs bao gồm Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore và Hồng Kông họ bắt đầu công nghiệp hóa vào những năm 1960. Tiếp theo là các nước thuộc khối ASEAN như Thái Lan, Malaixia, Indonêxia bắt đầu công nghiệp hóa vào những năm 1970. Trong thời kỳ này ở tất cả các nước, công nghiệp chế biến là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất của nền kinh tế. Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp chế biến vào GDP của mỗi nước rất cao và ngày càng có xu hướng tăng. Có thể thấy điều này qua các biểu sau. Biểu 1: Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp chế biến ở Đài Loan (%) 1955-1960 1960-1965 1965-1970 1970-1975 1975-1980 Công nghiệp chế biến 10,9 13,8 20,6 13,5 15,4 GNP 6,7 9,5 9,8 8,8 10,4 GNP/người 3,1 6,1 6,6 6,7 8,2 LĐ trongCNCB 4,8 5,3 8,3 9,9 7,5 Tổng số lao động 2,1 2,3 4,3 3,8 3,5 Biểu 2: Tỷ trọng của công nghiệp chế biến trong GDP ở Malaysia (%) 1970 1980 1985 1990 1995 2000 GDP 100 100 100 100 100 100 - Công nghiệp chế biến 13,9 19,6 19,7 26,7 34,7 37,2 - Nông nghiệp 29,0 22,9 20,8 18,7 13,5 10 [16] Biểu 3: Tỷ lệ chế biến trong xuất khẩu của các nước ASSEAN (%) [3, 239-240] Inđonesia Malaysia Philippin Singapore Thái Lan 1976 1990 1976 1990 1976 1990 1976 1990 1976 1990 Tổng số 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Hàng chế biến 9,2 44,1 31,9 58,5 46,7 52,0 47,2 70,3 80,8 90,8 Nguyên liệu thô* 18,5 7,7 42,2 12,7 27,0 6,7 1,4 3,0 15,8 5,5 * Không kể nguyên liệu khai khoáng. Để phát triển công nghiệp chế biến, các nước trong khu vực đã thực hiện chính sách, biện pháp: - Thông qua chiến lược công nghiệp hóa trong giai đoạn đầu với chính sách thay thế hàng nhập khẩu, các nước này thực hiện chính sách phát triển công nghiệp chế biến như phát triển các ngành chế biến nguyên liệu, sản xuất hàng tiêu dùng thay thế hàng nhập khẩu từ nước ngoài. Những cơ sở này cần vốn đầu tư ít, thu lợi nhuận nhanh, có khả năng tăng tốc độ tích lũy vốn. Đồng thời, các nước này cũng đẩy mạnh chế biến các mặt hàng có lợi thế so sánh về nguyên liệu để cân đối trong nưóc và dần chuyển sang xuất khẩu. Việc tích lũy vốn được thực hiện chủ yếu bằng quá trình này. - Chính sách hỗ trợ tài chính tín dụng: Chính phủ các nước đã can thiệp vào thị trường vốn thông qua chính sách lãi suất và tín dụng hướng luồng vốn chảy vào các ngành, lĩnh vực ưu tiên cần đầu tư là công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Chính phủ các nước thực hiện ưu tiên "tài trợ ngầm" qua tín dụng, duy trì lãi suất tín dụng thấp hơn lãi suất thị trường chứng khoán. Đây còn là một cách kiềm chế nhẹ giữ cho lãi suất ổn định, mặt khác đảm bảo thực hiện lãi suất tương đối với tiền gửi. Chính sách này được chính phủ Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia và Thái Lan rất coi trọng. Để có nguồn vốn hỗ trợ cho công nghiệp chế biến, các nước đã duy trì tỷ lệ tiết kiệm cao. Đài Loan khuyến khích cá nhân tiết kiệm với lãi suất cao và xây dựng hệ thống tiền gửi đảm bảo thuận tiện, nhanh chóng. Hàn Quốc khai thác truyền thống tiết kiệm của nhân dân, nâng tỷ lệ tiết kiệm lên cao ngay trong điều kiện nền kinh tế còn ở mức tăng trưởng thấp. Chính phủ các nước thực hiện cam kết ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát đồng thời mở rộng chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Thông qua chính sách này mà tích lũy vốn và tiết kiệm trong các nước tăng rất nhanh. Nên như giai đoạn 1960 - 1970 mức tiết kiệm trong nước ở các nước này chỉ khoảng 10 - 20% GDP, thì năm 1995 - 1996 là 30 - 48%. - Chính sách khuyến khích về thuế: Chính phủ các nước áp dụng các chính sách miễn và giảm thuế thu nhập, thuế kinh doanh, thuế lợi tức cho các cơ sở chế biến mới thành lập. Ở Hàn Quốc giảm thuế 5% các loại thuế cho các cơ sở mới thành lập từ 2 - 5 năm. Ở Thái Lan, Chính phủ giảm thuế nhập khẩu máy móc các phụ kiện từ 40% xuống còn 5% vào năm 1999, đồng thời giảm mức thuế cho các nguyên liệu thô. - Chính sách thúc đẩy xuất khẩu: để sản phẩm chế biến tiếp cận với thị trường thế giới, Chính phủ các nước đưa ra những chính sách khuyến khích và trợ giúp xuất khẩu sản phẩm chế biến. Mailaysia thực hiện chính sách trợ giúp phí tổn khi xúc tiến việc xuất khẩu nông sản, trợ giúp trong việc xây dựng các kho chứa bảo quản và tín dụng đổi mới công nghệ. Trong vòng 10 năm (1979 - 1989) Ngân hàng Malaysia đã tăng vốn tài chính cho xuất khẩu từ 140 triệu lên 9.900 triệu USD. Mặt khác, họ tổ chức cung cấp thông tin về thị trường thế giới, giới thiệu các cơ hội và những quy định trong buôn bán quốc tế, giúp các doanh nghiệp phát triển [23, 291]. Chính phủ Thái Lan còn có những biện pháp khuyến khích xuất khẩu như: Bỏ chế độ hạn ngạch (quota), không thu thuế xuất khẩu, nhà xuất khẩu chỉ phải nộp thuế lợi tức nếu có, tạo tín dụng thuận tiện cho các nhà kinh doanh được vay vốn ưu đãi, khi cần thiết được chính phủ hỗ trợ việc xuất khẩu, định hướng thị trường chủ yếu, can thiệp để ký những hợp đồng lớn [13, 36]. - Chính sách phát triển khoa học công nghệ, đào tạo cán bộ tay nghề cao: Trong điều kiện tiến bộ của khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng, các nước đi sau, không phải đi tuần tự như các nước đi trước, nên chính sách ở các nước này là tập trung vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với lợi thế vốn có của mình để tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế. Thái Lan, Inđônêxia ưu tiên công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm và lâm sản để chuyển dịch cơ cấu kinh tế dần sang các ngành may, dệt, hóa chất, tinh dầu, ô tô, điện tử... Gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế là chính sách đi tắt: nhập khẩu công nghệ kết hợp với nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ, cán bộ quản lý và nâng cao tay nghề cho người lao động. Hàn Quốc chi 2,15% GDP cho khoa học công nghệ; Đài Loan chi 2,13% GDP, Singapore 1,27% GDP [18, 8]. Chi phí cho hoạt động khoa học công nghệ của ta còn thấp, tính bình quân 1991 - 1995 chi cho khoa học - công nghệ mới đạt 0,91% ngân sách nhà nước (khoảng 0,22% GDP), tính tất cả các nguồn (cả từ sản xuất và viện trợ) chỉ đạt khoảng 0,5% GDP [7, 110-111]. 1.3.2. Vận dụng kinh nghiệm phát triển công nghiệp chế biến ở thành phố Hồ Chí Minh Qua nghiên cứu sự phát triển công nghiệp chế biến ở các nước trong khu vực, cho thấy, sự tăng trưởng nhanh chóng của nền nông nghiệp nói chung, của các ngành nông, lâm sản xuất khẩu nói riêng là nhờ những kinh nghiệm sau đây: - Thứ nhất, thành công của các nước là gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến, lấy nông nghiệp làm điểm khởi đầu để phát triển toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính phủ các nước trên đã kiên trì theo đuổi chiến lược đó: tập trung nỗ lực cho phát triển nông nghiệp để tạo đà và đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp, thực hiện chiến lược công nghiệp hóa và hiện đại hóa của một nền nông nghiệp hướng ra xuất khẩu là chủ yếu. Thực hiện đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát huy các lợi thế tuyệt đối và tương đối (lợi thế so sánh) phục vụ cho mục tiêu xuất khẩu là con đường chủ yếu để nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nông nghiệp, từ kinh nghiệm này trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Đảng ta chủ trương: "phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy ._.sản, đổi mới cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn" [23, 19-21]. Thứ hai: áp dụng công nghệ chế biến nhiều trình độ, có trọng điểm, mũi nhọn đi tắt lên hiện đại, tạo điều kiện chuyển sang lấy công nghệ chế biến hiện đại làm chủ yếu. Trong điều kiện từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua nhiều năm chiến tranh, chịu ảnh hưởng của mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp kéo dài, làm cho đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội. Sau 15 năm đổi mới, nền kinh tế có những bước khởi sắc nhất định. Song do sự gia tăng dân số, sức ép công ăn việc làm quá lớn, ngân sách còn hạn hẹp nên tuy đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, nhưng còn một số yếu tố chưa vững chắc như Đảng ta đã nhận định. Trong điều kiện đó, việc bố trí cơ cấu công nghệ phải đa dạng, đa trình độ, đồng thời phải biết lựa chọn khâu, ngành và mặt hàng mũi nhọn đi tắt lên hiện đại là quan điểm đúng trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến. Ba là: Phối hợp đồng bộ các chính sách và giải pháp để đạt mục tiêu đã đề ra trong từng thời kỳ nhất định, đặc biệt đối với các nông sản xuất khẩu, các nước bước đầu đều có chính sách bảo hộ và các chương trình hỗ trợ đặc biệt để tạo dựng ngành hàng xuất khẩu. Ví dụ: Các xí nghiệp sơ chế nguyên liệu ở Malaysia, các cơ sở chế biến nông, lâm, thủy sản ở Thái Lan, Malaisia, Philippin... Trên cơ sở phát triển các mặt hàng này, các nước tập trung phát triển các ngành chế biến có hàm lượng khoa học công nghệ cao. Bốn là: chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp và nghiên cứu triển khai, tăng cường đổi mới hệ thống tiếp thu, phát triển các kênh sản xuất - tiêu thụ - xuất khẩu, coi trọng chữ tín để mở rộng và tạo lập thị trường. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa, các ngành công nghiệp chế biến, nhất là chế biến các sản phẩm mà nguyên liệu có sẵn trong nước được ưu tiên phát triển. Chính phủ cần thực hiện các chính sách hỗ trợ về tài chính, xây dựng môi trường pháp lý thuận lợi để sớm mở rộng và nâng cấp các cơ sở chế biến và tạo kết cấu hạ tầng thuận lợi để chúng hoạt động. Đối với các nước công nghiệp chế biến phát triển muộn, việc xây dựng đi trước một bước các kết cấu hạ tầng về kinh tế và pháp lý là điều kiện rất quan trọng để đẩy nhanh tốc độ và quy mô phát triển công nghiệp chế biến. Kết cấu hạ tầng thuận lợi là cách tốt nhất để nối liền các cơ sở sản xuất, khai thác nguyên liệu với các trung tâm chế biến, là cách khai thông sản phẩm chế biến với thị trường. Để sản phẩm công nghiệp chế biến tiếp cận với thị trường thế giới và phát triển lợi thế về tài nguyên thiên nhiên và lao động, các nước đã đưa ra những chính sách khuyến khích và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm chế biến. Đài Loan, Hàn Quốc thực hiện miễn thuế và cấp vốn với lãi suất thấp để tăng sức cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu sang các nước phát triển. Năm là: Sử dụng các chính sách kinh tế vĩ mô để can thiệp gián tiếp và điều tiết sản xuất nông nghiệp có hiệu quả như chính sách tài chính, tín dụng, ngân hàng, thương mại trong quá trình phát triển. Chính phủ các nước đã can thiệp có hệ thống vào thị trường vốn thông qua chính sách lãi suất và chỉ đạo tín dụng, hướng luồng vốn chảy vào các ngành lĩnh vực cần ưu tiên đầu tư. Chế biến nông, lâm, thủy sản là một trong những hướng mà các chính phủ Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia và Philippin quan tâm. Tóm lại, Công nghiệp chế biến nông, lâm sản là ngành sản xuất công nghiệp mà nguyên liệu đầu vào là sản phẩm nông nghiệp. Vì thế là một ngành cần được phát triển và có nhiều điều kiện phát triển ở nước ta - một nước có tiềm năng nông, lâm nghiệp nhiệt đới. Thành phố Hồ Chí Minh có vị trí thuận lợi, nằm ở giữa vùng đồng bằng Nam Bộ có nhiều ưu đãi cho nền nông nghiệp, có nhiều sông ngòi, cận kề biển lại là đầu mối giao thông quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là trung tâm công nghiệp phát triển từ lâu, do đó có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Việc đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố Hồ Chí Minh là một yêu cầu bức xúc. Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM SẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.1. ĐẶC ĐIỂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH VỚI KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM SẢN 2.1.1. Vị trí của thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh nằm trên vùng đồi núi thoai thoải cao hơn mặt sông từ 2 đến 10 m, có diện tích rộng 2.056 km2, Bắc giáp tỉnh Tây Ninh, Tây giáp tỉnh Long An, Đông giáp tỉnh Đồng Nai - Bình Dương, Nam ăn thông ra biển. Thành phố nằm ở giữa hai hệ thống sông Đồng Nai và sông miền Tây, là cửa ngõ của các đường thủy lẫn đường bộ, nối với Campuchia và hạ Lào, là nơi hội tụ của nhiều sông với hệ thống kênh rạch thuận lợi, nhờ đó làm cho sông và biển nối liền lại thành một hệ thống cảng, cầu cảng và biển. Cùng với các cảng hàng không thuận lợi, những điều kiện địa hình trên làm cho thành phố Hồ Chí Minh là một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội lớn của cả nước. Với dân số chính thức đến cuối 1999 là 5.063.871 người, trong đó dân cư thành thị chiếm 73%, dân cư nông thôn chiếm 27%; nam chiếm tỷ trọng 48,2%; nữ chiếm 51,8%; dân cư phi nông nghiệp 91,5%; dân cư nông nghiệp chiếm 8,5% [12, 18]. Thành phố Hồ Chí Minh là một thành phố có số dân đông nhất nước, trong số lao động của thành phố, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật và công nhân lành nghề có tỷ lệ cao hơn nhiều địa phương khác, là một tiềm năng lớn cho phát triển công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến nói riêng. Dân số ở đây cũng là nguồn lao động tiềm tàng đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến trong thời gian tới. Tuy nhiên, dân số quá đông cũng tạo một sức ép lớn trong giải quyết việc làm và nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Ngoài những ưu thế về vị trí địa lý, về lao động, thành phố Hồ Chí Minh còn các ưu thế sau: · Là đầu mối giao thông gắn với thị trường của các yếu tố đầu vào của sản xuất công nghiệp chế biến, hàng hóa, dịch vụ và gắn với thị trường đầu ra giữa các địa phương, giữa các vùng trong nước, giữa thành phố với các nước trên thế giới. · Thành phố Hồ Chí Minh là nơi có trình độ kinh tế thị trường sớm phát triển so với các địa phương khác trong cả nước, và cũng là nơi hội tụ khá đầy đủ, rõ nét nhất khối lượng cung cầu hàng hóa, dịch vụ, tiền tệ, tài chính. · Thành phố Hồ Chí Minh là chỗ dựa công nghiệp cho các tỉnh phía Nam, góp sức cho sự phát triển kinh tế vùng đồng bằng Nam bộ và cực Nam Trung bộ, Tây Nguyên [21, 13]. Những ưu thế trên tạo nên những tiềm năng và những điều kiện quy định sự phát triển của công nghiệp chế biến ở thành phố Hồ Chí Minh. 2.1.2. Tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh với điều kiện, vị trí thuận lợi, gắn với nhiều nguồn lực của công nghiệp chế biến, nên có tiềm năng để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản, đó là: Thứ nhất, Thành phố có thế mạnh về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Trước ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, một số cơ sở vật chất kỹ thuật trong công nghiệp đã hình thành. Mặc dù sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho nhu cầu chiến tranh thông qua việc cung cấp thực phẩm, quân trang, quân dụng, sự phân bố mang tính tự phát, thiếu hẳn một số ngành cơ bản và then chốt. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, cơ sở vật chất được tiếp quản gần như nguyên vẹn và được tiếp tục tăng cường qua các thời kỳ kế hoạch 5 năm (1986 - 1990) nhất là từ 1991 - 1995. Năng lực sản xuất trong một số ngành công nghiệp nhờ vậy đã tăng thêm. Một số sản phẩm chủ yếu do thành phố sản xuất như vải, thuốc lá, bột ngọt, đồ hộp, tân dược... chiếm hơn một nửa sản lượng của cả nước. Nhiều sản phẩm đã có mặt trên thị trường thế giới. Thành phố có một hệ thống lao động làm việc trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chiếm khoảng 40% tổng số lao động trong các ngành kinh tế, đóng góp khoảng một nửa tổng thu nhập quốc dân của thành phố và chiếm một phần ba giá trị sản lưọng công nghiệp của cả nước. Nếu tính riêng tiểu thủ công nghiệp thành phố chiếm khoảng 50% giá trị sản lượng tiểu thủ công nghiệp của cả nước. Thứ hai, Có lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo, một tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Theo số liệu thống kê năm 1999, lực lượng cán bộ khoa học kỹ thuật đang làm việc trên địa bàn thành phố là 193.097 người chiếm khoảng 11% dân số trong độ tuổi lao động. Trong đó, trung học chuyên nghiệp chiếm 47%; cao đẳng và đại học chiếm 52,6%; tiến sĩ chiếm 0,4%. Về cơ cấu ngành nghề, số cán bộ khoa học - kỹ thuật nằm trong 4 lĩnh vực: khoa học xã hội chiếm 53,7%, khoa học kỹ thuật 17,1%; khoa học y dược 13,2%; khoa học tự nhiên 11,2%. Thành phố Hồ Chí Minh có số đông trường đại học và cao đẳng, có các viện và phân viện nghiên cứu trên các lĩnh vực liên quan đến phát triển công nghiệp chế biến nhiều hơn so với các địa phương khác trong cả nước (sau Thủ đô Hà Nội). Thành phố Hồ Chí Minh có khả năng quy tụ đội ngũ trí thức và công nhân lành nghề. Trong nhiều năm qua, nhất là từ khi đổi mới đến nay, lực lượng cán bộ khoa học công nghệ trên địa bàn thành phố đã đóng góp nhiều công sức và trí tuệ phục vụ cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, trong đó có công nghiệp chế biến. Thứ ba, thành phố Hồ Chí Minh có thế mạnh về giao thông vận tải, bưu chính viễn thông. Là đầu mối về giao thông vận tải và bưu điện, thành phố có hầu hết các loại đường giao thông: đường bộ, đường thủy, đường không. Có thể nói hàng hóa, nguyên liệu, vật tư, máy móc, thiết bị từ sân bay, bến cảng, nhà ga, bưu điện đều quy tụ về thành phố và từ đây tỏa đi khắp mọi miền đất nước, tới nhiều nước trên thế giới và khu vực. Qua 15 năm đổi mới, hệ thống đường bộ, bến xe, hệ thống đường sông, biển và các bến cảng, đường hàng không, bưu chính viễn thông đã được cải tạo nâng cấp theo hướng ngày một hiện đại, thay đổi nhiều so với thành phố trước ngày giải phóng. Sự tiến bộ này đã tạo khả năng nâng cao năng lực vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa, vật tư, nguyên liệu có liên quan đến các yếu tố đầu vào và đầu ra của sự phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố. Thứ tư, Thành phố Hồ Chí Minh gắn với một vùng nông, lâm nghiệp phụ cận phát triển có khả năng cung ứng nhu cầu thiết yếu về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tạo ra sự hài hòa cân bằng về môi trường sinh thái. Thành phố Hồ Chí Minh có tiềm năng thế mạnh phát triển công nghiệp chế biến, có vùng ngoại thành thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm nghiệp. Các huyện ngoại thành với hơn nửa triệu nhân khẩu nông nghiệp, hơn 360 ngàn lao động chiếm 62,5% nhân khẩu nông nghiệp, với diện tích gieo trồng các loại tính đến năm 1995 là 107.774 ha, trong đó, cây lương thực 81.251 ha, rau đậu các loại 13.160 ha, cây công nghiệp hàng năm 12.837 ha, cây hàng năm khác 526 ha [11, 75], tạo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Thứ năm, Thành phố Hồ Chí Minh còn có lợi thế khác mà các địa phương khác không có. Đó là: - Một thành phố dân cư đông đúc, hơn 5 triệu dân, chưa kể người trong và ngoài nước qua lại trên địa bàn thành phố. Số dân lớn tạo nên sức mua lớn, làm cho thị trường đầu ra của công nghiệp chế biến nông, lâm sản ngày càng tăng, đồng thời cho phép mở rộng thị trường các yếu tố đầu vào của công nghiệp chế biến. - Là một trung tâm giao lưu quốc tế thuận lợi so với cả nước, thành phố Hồ Chí Minh mở ra triển vọng to lớn cho việc thực hiện quan hệ kinh tế đối ngoại với nhiều hình thức như: xuất nhập khẩu, hợp tác sản xuất, liên doanh liên kết và đầu tư nước ngoài. Thế mạnh này có tác dụng to lớn đối với việc phát triển công nghiệp chế biến như tăng kim ngạch xuất khẩu, đổi mới công nghệ, tạo nguồn vật tư thông qua nhập khẩu, gọi vốn đầu tư, hình thành các khu chế xuất, khu công nghiệp kỹ thuật cao, trong đó có công nghiệp chế biến. - Vị trí của thành phố thuận lợi, nằm giữa Nam Bộ, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, có khả năng mở rộng thị trường đầu ra hàng công nghiệp chế biến đến các địa phương trong khu vực, đồng thời cho phép thu hút các nguồn nguyên liệu từ các địa phương về thành phố để phát triển công nghiệp chế biến. 2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM SẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2.2.1. Tình hình công nghiệp chế biến nông, lâm sản từ trước đổi mới Thời kỳ trước 1986, xu hướng vận động của nền kinh tế, xu hướng vận động công nghiệp nói chung và công nghiệp chế biến nói riêng, trên địa bàn thành phố, chịu ảnh hưởng bởi một số đặc điểm sau: Trước ngày Sài Gòn giải phóng, nền kinh tế nói chung, trong đó cả công nghiệp chế biến nông, lâm sản của thành phố mang tính lệ thuộc nước ngoài, phát triển theo hướng phục vụ cuộc chiến tranh phi nghĩa xâm lược của Mỹ và thế lực thù địch trong nước. Từ 30 tháng 4 năm 1975 đến trước đổi mới 1986, là giai đoạn bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Là một nước có điểm xuất phát thấp, chịu ảnh hưởng nặng nề của mô hình kinh tế chỉ huy tập trung quan liêu, bao cấp nên đường lối và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với công, thương nghiệp ở miền Nam nói chung và ở thành phố Hồ Chí Minh nói riêng có nhiều thiếu sót, chủ quan làm nhịp độ phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản diễn ra chậm chạp. Vì vậy, quy mô, chủng loại và trình độ công nghệ chế biến còn nhỏ bé, lạc hậu. Một số cơ sở công nghiệp nhà nước rơi vào tình trạng suy thoái, trì trệ, thua lỗ, đã và đang đứng trước bờ vực phá sản. 30/4/1975, Sài Gòn được giải phóng, chế độ chính trị mới đã sử dụng quyền lực chính trị của mình thông qua cải tạo và tổ chức lại nền kinh tế thành phố theo yêu cầu từng bước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện chủ trương cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện quốc hữu hóa với quy mô lớn để đánh đổ giai cấp tư sản về phương diện kinh tế, tạo điều kiện để thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa phát triển, mà chủ yếu là kinh tế quốc doanh phát triển. Qua cải tạo đã quốc hữu hóa 1.071 xí nghiệp công nghiệp quan trọng chủ chốt của công nghiệp thành phố lúc bấy giờ, của 3.987 hộ tư sản công nghiệp, biến nó thành các xí nghiệp công nghiệp xã hội chủ nghĩa. Toàn bộ cơ sở vật chất, kinh doanh của hệ thống ngân hàng, tài chính, thương mại, dịch vụ của tư sản mại bản, tư sản thương mại lớn bao gồm 110.044 hộ (kiêm thu gom nguyên liệu, bảo quản, sơ chế, bán) cũng được cải tạo. Ngoài ra, cải tạo 190.092 hộ tư sản, biến nó thành các xí nghiệp (hay công ty) dưới hình thức công ty hợp doanh. Toàn bộ tài sản thế chấp, vắng chủ, hệ thống kho tàng, hàng hóa, vật tư đều được nhà nước tịch thu hoặc trưng mua để phục vụ yêu cầu cho các xí nghiệp sản xuất kinh doanh của nhà nước. Trình độ cơ sở vật chất, thiết bị và công nghệ của công nghiệp trên địa bàn thành phố của thời kỳ này tuy có cao hơn so với trình độ công nghệ phía Bắc, nhưng vẫn thuộc thế hệ những công nghệ của những năm 60. Về cơ cấu ngành công nghiệp, phần lớn là thuộc nhóm ngành công nghiệp chế biến hàng hóa tiêu dùng nội địa với trình độ công nghệ lạc hậu, hoặc chỉ là các cơ sở thu gom, bảo quản và sơ chế. Tính đến cuối năm 1980, tình hình kinh tế và công nghiệp trên địa bàn thành phố rơi vào tình trạng khủng hoảng sa sút, đặc biệt là khu vực kinh tế quốc doanh. Cụ thể là: - Khu vực kinh tế quốc doanh, nhất là công nghiệp quốc doanh do trung ương quản lý sa sút nghiêm trọng, tỷ trọng trong cơ cấu công nghiệp từ 70,3% năm 1976 giảm xuống còn 36,5% năm 1980. Hàng loạt xí nghiệp quốc doanh đóng cửa hoặc hoạt động cầm chừng, hơn 2,5 vạn công nhân thiếu việc hoặc không có việc làm do thiếu nguyên liệu và phụ tùng thay thế, năng suất lao động chỉ bằng một nửa so với 1976. - Khu vực công nghiệp quốc doanh do thành phố quản lý có tình trạng khó khăn: hàng nghìn công nhân bỏ xí nghiệp ra làm bên ngoài. Tình trạng tiêu cực nảy sinh. Tuy nhiên, do tiềm năng vốn có trong công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp thành phố nên trong thời gian này, tỷ trọng, giá trị tổng sản lượng tiểu thủ công nghiệp của kinh tế tư nhân, cá thể lại tăng nhanh, từ 22,5% năm 1976 lên 48,5% năm 1980 trong cơ cấu giá trị tổng sản lượng công nghiệp. Năng suất lao động ở các cơ sở tiểu thủ công nghiệp tăng gấp 5 lần so với 1976. Năm 1981 số cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của tư nhân, cá thể lên đến hơn 8.000, hoạt động trong 7 ngành công nghiệp, trong đó chế biến lương thực, thực phẩm có 160 cơ sở, dệt 51 cơ sở, hàng tiêu dùng khác 27 cơ sở. 2.2.2 Tình hình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản từ 1986 đến nay 2.2.2.1. Giai đoạn từ 1986 - 1990 Đây là giai đoạn nền kinh tế bắt đầu bước vào thời kỳ đổi mới. Công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng cũng phải đổi mới. Tuy nhiên, đổi mới là một quá trình. Giai đoạn 1986 - 1990 là giai đoạn bước đầu khởi động, làm cơ sở cho việc xác lập đường lối và chính sách kinh tế mới. Văn kiện Đại hội lần thứ VI của Đảng nêu: "Trong lĩnh vực kinh tế, đó là chuyển hướng về bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, đổi mới chính sách kinh tế và cơ chế quản lý nhằm khai thác mọi tiềm năng của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, tăng nhanh sản phẩm xã hội, thực hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân" [23, 147]. Trong giai đoạn này, chịu ảnh hưởng nặng nề của mô hình cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, nên khi chuyển sang cơ chế thị trường các cơ sở quốc doanh, ngoài quốc doanh gặp nhiều lúng túng, khó khăn trong cơ chế mới. Nhiều đơn vị không chuyển đổi kịp phải giải thể và bị thua lỗ. Chỉ số phát triển công nghiệp thời kỳ này ở thành phố Hồ Chí Minh là không đều, bấp bênh: có năm vượt kế hoạch, có năm không đạt kế hoạch được biểu hiện qua bảng 4. So sánh hai thời kỳ kế hoạch thì thời kỳ 1985 - 1990 chỉ số phát triển bình quân có tăng nhưng thấp xa so với thời kỳ 1980 - 1985, kể cả hai khu vực công nghiệp nhà nước và công nghiệp ngoài quốc doanh. Biểu 4: Chỉ số phát triển bình quân giá trị sản lượng công nghiệp từ 1988 - 1990 Đơn vị: % Năm trước = 100% Bình quân 1980 - 1985 Bình quân 1985 - 1990 1988 1989 1990 Tổng số 113,8 97,8 106,8 115,5 106,5 Trong đó: - Công nghiệp nhà nước 113,8 95,3 113,2 115,4 107,5 - Công nghiệp ngoài quốc doanh 114,6 98,0 101,3 115,7 104,7 [4, 202]. Trong thời kỳ này, các mặt hàng thuộc ngành công nghiệp chế biến, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản có chỉ số phát triển qua các năm thể hiện ở biểu sau: Biểu 5: Chỉ số phát triển một số mặt hàng công nghiệp chủ yếu từ 1988-1990 và bình quân giữa hai thời kỳ 5 năm trên địa bàn thành phố Đơn vị: % Nhóm hàng theo phân loại cũ Năm trước = 100% Bình quân 1980 - 1985 Bình quân 1985 - 1990 1988 1989 1990 - Cao su 101,8 105,7 117,1 119,1 103,9 - Khai thác chế biến gỗ 100,2 89,1 98,7 107,1 101,2 - Giấy, xen lu lô 115,6 85,3 99,4 111,1 105,3 - Lương thực 102,9 153,9 94,3 121,4 107,9 - Thực phẩm 116,9 84,0 134,0 119,6 109,7 - Dệt 96,9 103,8 94,8 117,1 99,9 - May mặc 137,6 85,0 107,8 99,7 112,0 - Da, giả da 148,8 123,8 104,8 109,2 127,0 - Công nghiệp chế biến khác 132,2 90,3 86,2 112,2 104,3 [17, 202-203]. Nhìn vào biểu 5, ta thấy tiềm năng phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố còn lớn, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhiều nhóm sản phẩm của công nghiệp chế biến tăng có chỉ số phát triển cao, tạo điều kiện tăng doanh thu, thu hút lao động ngày một nhiều. Tính đến năm 1990, nhiều sản phẩm công nghiệp chế biến tăng nhiều lần so với 10 năm về trước (1980) như lương thực xay xát tăng 290%, thuốc lá tăng 307%, vải tăng 233% [4, 70-72]. Một số ngành khác cũng tăng nhanh cả về nguyên liệu và sản phẩm. Số lượng đàn gia súc cũng rất lớn, theo báo cáo thống kê năm 1999, đàn gia súc trên địa bàn thành phố là: trâu 10.794 con, bò 39.864 con, heo 190.880 con, gà 2.100.618 con v.v... Công nghiệp sữa thành phố Hồ Chí Minh chiếm 50% năng lực sản xuất và cung ứng sữa cho nhu cầu toàn quốc. Trong thời gian qua, công nghiệp chế biến sữa trên địa bàn thành phố đã có bước đầu tư khá lớn, đưa ra được nhiều sản phẩm có chất lượng đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn của người tiêu dùng như các loại sữa đặc có đường đóng hộp do nhà máy sữa Trường Thọ, sữa Thống Nhất sản xuất, sữa bột Dielac, Ridielac ngọt nhãn xanh v.v... Sản xuất thuốc lá, dự báo đến năm 2010 thuốc lá mỗi năm tăng 3.500 triệu bao và sản xuất thuốc lá của thành phố năm 1999 đạt 1.218 triệu bao, chiếm 2/3 sản lượng của toàn quốc. Công nghiệp giấy công nghệ cũ kỹ lạc hậu, sản lượng năm 1999 đạt 32.600 tấn, nhu cầu của ngành này đòi hỏi phải đối mới nhiều để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao. Sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic, ngành này bao gồm công nghiệp cao su, công nghiệp nhựa (plastic). Hiện tại, trên địa bàn thành phố, tính đến cuối năm 1999, số cơ sở sản xuất là 2.266 cơ sở, nhìn chung công nghệ lạc hậu, sản xuất chất lượng sản phẩm thấp. Ngoại trừ nhà máy nhựa Bình Minh và nhà máy cao su Hóc Môn đầu tư đổi mới công nghệ, do vậy sản phẩm đã có chỗ đứng tương đối vững chắc trên thị trường thành phố và các tỉnh. Trong thời điểm 1990, cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp bao gồm trên 600 xí nghiệp công nghiệp quốc doanh, gần 400 hợp tác xã, hơn 150 xí nghiệp tư doanh và 20.000 cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp cá thể. Vốn dùng vào sản xuất kinh doanh của toàn ngành công nghiệp trong thời gian này khoảng 3.300 tỷ đồng chiếm 51% tổng số vốn trên địa bàn thành phố [4, 70-72]. Thời kỳ này, một số xí nghiệp đã cải tiến thiết bị, đổi mới từng phần công nghệ như may Việt Tiến, may Nhà Bè, dệt Đông Á, cao su Phú Lâm, Xí nghiệp chế biến xuất khẩu Cầu Tre... Công nghiệp ngoài quốc doanh ở các quận, huyện cũng mở rộng đầu tư, đổi mới và áp dụng dây chuyền công nghệ mới, tăng thêm năng lực sản xuất của một số ngành công nghiệp, tạo thêm nhiều sản phẩm mới có uy tín trên thị trường trong nước và thị trường thế giới. Kim ngạch xuất khẩu năm 1990 tăng gấp 4,3 lần so với 1985: tốc độ tăng bình quân thời kỳ 1986 - 1990 là 34% (thời kỳ 1980 - 1985 là 29%). Mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của thành phố là gạo, ván sàn, gỗ, các loại đậu, hàng may mặc sẵn... Biểu 6: Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu trên địa bàn thành phố thời kỳ 1986 - 1990 Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu Tổng số Tỷ lệ % Tổng số Tỷ lệ % Trong đó: Trong đó: - Hàng nông sản 51,6 - Thiết bị phụ tùng 19,2 - Hải sản 21,0 - Nguyên vật liệu 46,2 - Lâm sản 10,4 - Hàng tiêu dùng 34,6 - Hàng công nghiệp chế biến 17,0 [17, 70-72]. Sự phát triển của công nghiệp chế biến khiến giá trị sản lượng (GDP) công nghiệp trên địa bàn thành phố tăng lên: năm 1990 thực hiện gần 45 tỷ đồng (theo giá thời điểm 1982), tăng 182% so với 1980 và gấp 3 lần so với 1976. Sự phát triển của công nghiệp nói chung, công nghiệp chế biến nói riêng đã giải quyết thêm nhiều việc làm. Tính đến 1990, số lao động làm việc trong ngành công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp có khoảng gần 600.000 người chiếm gần 40% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế. Thời kỳ này, công nghiệp đóng góp một nửa trong tổng thu nhập quốc dân năm 1990 và chiếm một phần ba tổng giá trị sản lượng công nghiệp trong cả nước. Trong giai đoạn này, bên cạnh kết quả đạt được còn có những hạn chế. Đó là: - Còn chưa khai thác được tiềm năng và thế mạnh của công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố. Việc đổi mới thiết bị máy móc công nghệ được tiến hành ở một số cơ sở nhưng với nhịp độ chậm và chưa nhiều. chất lượng hàng hóa và khả năng cạnh tranh trên thị trường còn hạn chế. - Tình trạng thiếu vốn sản xuất kinh doanh ở các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến là một vấn đề bức xúc do ngân sách hạn hẹp. Vì vậy năng suất và hoạt động sản xuất chưa cao. Nằm ở vị trí thuận lợi, nhưng ngành công nghiệp chế biến nói chung và ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng chưa khai thác và tận dụng tốt, có hiệu quả các nguồn nguyên liệu, nên có lúc không chủ động được nguồn nguyên liệu. Thêm vào đó là những khó khăn về cơ chế, chính sách và pháp luật thuộc tầm quản lý của Nhà nước chậm được tháo gỡ. 2.2.2.2. Giai đoạn từ 1991 - nay Về năng lực sản xuất Nếu như trong giai đoạn 1986 - 1990 là giai đoạn mới ở trạng thái khởi động bước đầu, thì giai đoạn này, sự phát triển công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản đều có những bước phát triển đáng kể trên các mặt sau đây: Một là, tỷ trọng và tốc độ tăng trưởng của giá trị sản lượng công nghiệp và công nghiệp chế biến, trong đó có công nghiệp chế biến nông, lâm sản tăng qua các năm. Điều đó được thể hiện ở biểu 7. Biểu 7: Động thái tăng trưởng giá trị sản lượng công nghiệp và cơ cấu của nó (1990 - 1994) Đơn vị: % 1990 1991 1992 1993 1994 Tăng bình quân thời kỳ Tổng số 100 100 100 100 100 13,9 A. Doanh nghiệp công nghiệp nhà nước 72,3 69,9 70 68,6 97,6 12,0 Trong đó: - Trung ương 48,0 48,5 49,5 49,5 49,5 14,8 - Thành phố 7,0 16,0 15,0 14,0 14,3 9,1 - Quận, huyện 7,3 5,4 5,5 5,1 3,8 0,2 B. Doanh nghiệp công nghiệp ngoài nhà nước 27,7 30,1 30,0 31,4 32,4 18,5 C. Phân theo cơ cấu ngành công nghiệp - Công nghiệp chế biến 96,4 96,7 96,9 97,5 97,6 14,3 - Sản xuất thực phẩm, đồ uống 28,7 26,6 27,6 27,5 25,9 11,0 - Sản xuất các sản phẩm thuốc lá 12,2 11,3 10,3 10,3 10,7 10,2 - Dệt 11,7 13,4 13,6 11,7 11,1 12,3 - Chế biến gỗ 2,4 2,2 2,2 0,9 0,8 —13,0 - Sản phẩm cao su 4,1 4,0 4,0 6,0 6,3 26,9 - Tái chê 1,7 1,8 1,6 1,4 1,3 8,1 - Sản xuất gường, tủ, bàn ghế 1,1 1,2 1,2 1,2 1,2 18,0 [11, 75]. Từ số liệu ở biểu 7 ta thấy nhịp độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm 1990 - 1994 của ngành công nghiệp là 13,9%. Nếu tính cả năm 1995, một năm công nghiệp có nhịp độ tăng trưởng nhanh thì bình quân hàng năm trong 5 năm 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng là 16,8% [21, 16]. Trong đó, xét về cơ cấu thành phần kinh tế thì công nghiệp quốc doanh có tốc độ tăng trưởng bình quân là 12%, công nghiệp ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng là 18,5%. Về tỷ trọng, công nghiệp quốc doanh dao động trong khoảng trên dưới 70% (nếu năm 1990 chiếm tỷ trọng 72,3% thì đến năm 1994 còn 67,6%). Trong khi đó công nghiệp ngoài quốc doanh có chiều hướng tăng lên qua các năm (nếu năm 1990 là 27,7% thì đến 1994 tỷ trọng chiếm là 32,4%). Theo báo cáo tổng kết thực hiện nhiệm vụ kế hoạch năm 1995 và 1996 của Sở Công nghiệp thành phố thì cơ câú giá trị sản lượng xét về tỷ trọng giữa công nghiệp quốc doanh và ngoài quốc doanh thuộc khu vực quận huyện quản lý là: Năm 1995: Công nghiệp quốc doanh 71,977 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 8,66% (chưa kể công nghiệp quốc doanh trung ương và thành phố). Công nghiệp ngoài quốc doanh 7.521.363 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 91,33%. Năm 1996: Công nghiệp quốc doanh chiếm tỷ trọng là 7,14%, công nghiệp ngoài quốc doanh do quận huyện quản lý là 92,86%. Có tình hình trên là do công nghiệp ngoài quốc doanh sau thời kỳ khủng hoảng, đang trong quá trình tổ chức sắp xếp lại, còn công nghiệp ngoài quốc doanh được nhà nước tạo nhiều cơ hội để thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần. Mặc dù vậy, nếu xét cả công nghiệp quốc doanh trung ương và thành phố, thì tỷ trọng công nghiệp nhà nước nắm giữ khoảng hai phần ba tổng số giá trị sản lượng công nghiệp trên địa bàn. Theo tư duy mới về cơ cấu thành phần và vai trò chủ đạo, thì tỷ trọng chỉ là một thông số, điều quan trọng và có ý nghĩa quyết định là tỷ trọng công nghiệp nhà nước nắm giữ có thuộc ngành, khâu và mặt hàng then chốt, trọng yếu và mũi nhọn hay không. Qua nghiên cứu biểu 7 ta thấy, trong cơ cấu ngành công nghiệp, thì nhóm công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố ngày càng có vai trò quan trọng, có tốc độ tăng trưởng cao hơn so với tốc độ tăng trưởng bình quân trong ngành công nghiệp. Nếu nhịp độ tăng trưởng trung bình công nghiệp là 13,9% 5 năm 1991 - 1994; thì nhóm ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản các năm đều tăng lên, năm 1990: 96,4%; năm 1991: 96,7%; năm 1992: 96,9%; năm 1993: 97,5%; năm 1994: 97,6%. Đặc biệt, trong thời kỳ 1996 - 1999, mặc dù bị ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á, tốc độ tăng trưởng bình quân nền kinh tế của đất nước có xu hướng chững lại và đi xuống, giá trị sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố vẫn tăng, nhất là công nghiệp chế biến nông, lâm sản (xem biểu 8). Biểu 8: Giá trị sản xuất công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản trên địa bàn thành phố 1996 - 1999 (theo giá cố định 1994) Đơn vị: Triệu đồng 1996 1997 1998 1999 - Thuốc lá 2.195.320 2.281.568 2.624.524 2.628.030 - Thuộc da, sản xuất va-ly, túi xách 1.460.583 2.471.166 2.737.789 3.272.347 - Chế biến gỗ và sản phẩm tủ gỗ, tre, nứa 628.348 633.167 588.234 641.419 - Giấy, sản phẩm từ giấy 762.672 832.900 929.546 1.050.696 [12, 59]. Hai là: Năng lực sản xuất thể hiện ở số lượng các doanh nghiệp tuy có sự biến động nhưng vẫn có xu hướng tăng. Năm 1994, trên địa bàn thành phố có 23.481 cơ sở sản xuất công nghiệp thì đến năm 1996 có 31.243 cơ sở công nghiệp, nhưng đến năm 1999 số cơ sở còn 26.576 cơ sở. So với năm 1996, số cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh giảm đáng kể từ 30.741 cơ sở năm 1996 còn 25.978 cơ sở năm 1999, trong khi đó, cơ sở sản xuất công nghiệp đầu tư nước ngoài lại tăng từ 199 cơ sở năm 1996 lên 313 cơ sở năm 1999. Như vậy nếu như thời kỳ 1991 - 1995 các cơ sở công nghiệp quốc doanh có xu hướng giảm xuống do sắp xếp lại bộ máy, đầu tư mới thiết bị công nghiệp, các cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh dăng ký hoạt động tăng lên thì ngược lại thời kỳ 1994 - 1999 cơ sở công nghiệp quốc doanh tương đối ổn định, các cơ sở công nghiệp ngoài quốc doanh giảm xuống (do trong môi trường cạnh tranh mới, đòi hỏi phải thay đổi công nghệ thiết bị, nhưng các cơ sở ngoài quốc doanh không đáp ứng được yêu cầu đó). Bên cạnh đó xuất hiện các cơ sở sản xuất nhỏ cá thể theo từng hộ gia đình phát triển khá mạnh. Các cơ sở này mặc dù góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, song cũng nảy sinh nhiều mặt tiêu cực, như làm ô nhiễm môi trường, lấn chiếm vỉa hè, chất lượng hàng hóa chưa đảm bảo, trốn thuế, lậu thuế... Ba là: Vốn đầu tư cho s._.trong chăn nuôi và chế biến còn hạn chế, chưa đánh giá và kiểm soát được đầy đủ các chỉ tiêu như dư lượng kim loại nặng, dư lượng kháng sinh, hoóc môn v.v... Vì thế, hướng phát triển trong thời gian tới, trước hết là phải chú trọng đảm bảo nguyên liệu tốt cho chế biến. Cần chú ý đồng bộ các khâu giống, thức ăn, thú y và kỹ thuật chăn nuôi; Tăng cường và mở rộng việc sản xuất, sử dụng thức ăn công nghiệp. Thứ hai, triệt để sử dụng các cơ sở chế biến đã có trên cơ sở đầu tư chiều sâu, sử dụng công nghệ giết mổ tự động và chế biến thức ăn nguội, xây dựng thêm một nhà máy chế biến có quy mô thích hợp và quá trình chế biến hiện đại để chế biến được nhiều loại sản phẩm khác nhau từ thịt. Thứ ba, đầu tư thêm máy cấp đông, kho lạnh, xe lạnh, phấn đấu đạt công suất chế biến thịt, thủy hải sản trên địa bàn thành phố là 63.000 tấn/năm, đảm bảo vệ sinh công nghiệp, xử lý tốt ô nhiễm môi trường. Thứ tư, coi trọng bao bì, thay dụng cụ bằng sắt, mạ kẽm, sơn... sang dụng cụ thép không gỉ, nhựa cứng. 3.2.5. Công nghiệp sữa Qua điều tra cho thấy mức sử dụng sữa bình quân đầu người ở nước ta còn thấp (sữa hộp 2,17 hộp/năm, sữa tươi 0,7 lít/năm, sữa bột 0,08 kg/năm). Trong khi đó mức tiêu dùng sữa trên thế giới khá cao (sữa tươi: Thái Lan 12,5 lít/người/năm, Malaysia 20 lít/người/năm, Tây Âu 400 lít/người/năm). Như vậy nhu cầu tiêu dùng sữa ở nước ta còn khả năng phát triển rất lớn. Mục tiêu và hướng phát triển trong thời gian tới đến 2010, theo dự báo đạt 6,3 lít/người/năm (sữa tươi), 60 hộp/người/năm (sữa đặc), 2,1 kg/người/năm (sữa bột). Theo dự báo, phải sản xuất 630 triệu lít sữa tươi mỗi năm, nâng đàn bò sữa lên gấp 25 lần hiện nay, một mục tiêu vượt quá khả năng của thành phố, vì thế nó thuộc mục tiêu của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu 150 triệu hộp/năm và 12 triệu lít sữa tươi/năm. Hướng đầu tư là xây dựng một nhà máy sữa cao cấp mà nguyên liệu dựa vào nhập sữa bột và sữa tươi từ đàn bò của thành phố, của các tỉnh lân cận. Đầu tư chiều sâu nâng cấp hai nhà máy hiện có. Xây dựng một số trang trại nuôi bò sữa quy mô công nghiệp. Vốn đầu tư cho công nghiệp sữa khoảng 50 triệu USD. 3.2.6. Sản xuất thuốc lá Đặt trong hoàn cảnh thuốc lá là mặt hàng không được khuyến khích tiêu dùng, các sản phẩm thuốc lá bị cấm quảng cáo dưới mọi hình thức và sự cạnh tranh gay gắt giữa thuốc là nội với thuốc lá ngoại, thì nhu cầu về thuốc lá vẫn còn tăng. Trong xu thế hiện nay, cùng với những thành tựu đổi mới, đời sống người dân ngày một được nâng lên, những yêu cầu về phẩm chất hàng hóa nói chung, thuốc lá nói riêng ngày một nâng cao, nhất là trong những năm tới đây, khi nền kinh tế nước ta thực sự hòa nhập với kinh tế ASEAN và khu vực, khi AFTA thực sự có hiệu quả ở Việt Nam. Đón trước khả năng có thể xảy ra, ngành sản xuất thuốc lá phải củng cố và nâng cao hơn nữa phẩm chất những sản phẩm truyền thống; củng cố và mở rộng thị phần của những sản phẩm này để giữ vững nhịp độ phát triển của ngành. - Tích cực nghiên cứu, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, đủ sức cạnh tranh với những nhãn thuốc ngoại nhập. Chuyển dịch cơ cấu sản phẩm theo hướng hạn chế việc sản xuất những sản phẩm còn nhiều độc hại phù hợp với yêu cầu chung của xã hội. - Đầu tư đổi mới trang thiết bị, đổi mới công nghệ phải phù hợp với khả năng, đúng lúc, đúng trọng điểm, phù hợp với khả năng và trình độ kỹ thuật, đảm bảo các yêu cầu về môi trường. 3.2.7. Công nghiệp da giày Mục tiêu đến năm 2010 của công nghiệp da giày là sản xuất 165 triệu đôi giày dép các loại và 50 triệu sản phẩm hàng mềm, khai thác 9.600 tấn da/năm. Đưa tốc độ tăng trưởng 18 - 20%/năm. Muốn vậy, hướng đầu tư là đổi mới thiết bị công nghệ các nhà máy thuộc da hiện có, xây dựng mới 1-2 nhà máy làm giày da hoàn chỉnh để xuất khẩu; xây dựng 5 - 7 nhà máy giày vải, giày thể dục thể thao công suất 1,5 - 2 triệu đôi/năm; xây dựng một nhà máy giả da, đồng thời hết sức coi trọng việc phân bố tránh gây ô nhiễm môi trường. Tổng vốn đầu tư cho công nghiệp da giày khoảng 120 triệu USD. 3.2.8. Công nghiệp giấy Nhu cầu sản lượng giấy ngày càng tăng, nhưng đòi hỏi của thị trường phải có chất lượng ngày càng cao. Hiện nay, ngành công nghiệp giấy còn nhiều yếu kém. Để đưa sản lượng giấy lên 30 - 35 ngàn tấn vào năm 2000 và 50 - 60 ngàn tấn vào năm 2010, đòi hỏi ngành công nghiệp giấy phải đổi mới mặt hàng, tập trung sản xuất các loại sản phẩm có chất lượng tốt và giá trị cao, phải nhanh chóng hiện đại hóa và đổi mới công nghệ sản xuất giấy với nguyên liệu ngoại nhập hoặc do các vùng khác trong nước cung cấp. Tổng số vốn đầu tư khoảng 25 triệu USD. 3.2.9. Sản xuất các sản phẩm từ cao su và plastic - Mục tiêu và hướng phát triển công nghiệp cao su trong thời kỳ 1996 - 2010 là: củng cố năng lực hiện có. Đầu tư mới vào lĩnh vực sản xuất săm lốp ô tô, máy kéo, xe gắn máy. Chọn công nghệ tiên tiến, thiết bị máy móc hiện đại, đồng bộ để đạt doanh số 15 - 20 triệu USD/năm sau năm 2000; tốc độ tăng bình quân 15 - 20%/năm đạt kim ngạch xuất khẩu 2 triệu USD/năm. - Mục tiêu và hướng phát triển công nghiệp nhựa thời kỳ 1996 - 2010 là: đến năm 2005 cả nước sản xuất đạt 198.000 tấn nhựa, tương đương mức bình quân đầu người 10,8 kg/năm, trong đó công nghiệp nhựa thành phố đóng vai trò quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh phấn đấu hết năm 2000 duy trì tốc độ tăng trưởng bình quân 20 - 25%/năm. Sau năm 2000 sẽ duy trì tốc độ này là 17 - 18%/năm. Thông qua đổi mới cơ bản cơ cấu sản phẩm hiện có, mở rộng mặt hàng, đổi mới đầu tư chiều sâu, tiếp nhận có chọn lọc công nghệ tiên tiến, mở rộng chủng loại sản phẩm, sử dụng đa dạng các loại nguyên liệu có tính năng kỹ thuật đặc biệt, tăng cường quản lý vĩ mô, tránh phát triển tự phát, chệch hướng trong thời kỳ 1996 - 2000. Cơ cấu sản lượng sản phẩm công nghiệp nhựa được thể hiện ở biểu sau: Biểu 13: Cơ cấu sản lượng công nghiệp nhựa thời kỳ 1996 - 2010 Nhóm sản phẩm 1995 2000 2005 2010 1- Bao bì 25 30 30 30 2- Vật liệu xây dựng 15 30 30 25 3- Đồ gia dụng 60 25 20 20 4- Nhựa cho các ngành công nghiệp 10 15 20 25 [14, 48]. 3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM SẢN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Khó khăn lớn nhất và cũng dễ thấy nhất của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố hiện nay là tình trạng tiêu thụ sản phẩm chậm, không cạnh tranh được với các loại sản phẩm chế biến ngoại nhập và một số sản phẩm chế biến của một số tỉnh trong cả nước. Do đó có ý kiến cho rằng, yếu tố quyết định sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản ở thành phố là giải quyết đầu ra, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Nhưng xuất phát từ sự phân tích, đánh giá toàn diện thực trạng của ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản, chúng tôi cho rằng, để phát triển ngành này cần giải quyết đồng bộ ba vấn đề liên quan rất chặt chẽ với nhau, đó là: nguyên liệu - công nghệ - thị trường. Tình trạng tiêu thụ sản phẩm chậm ở thành phố là kết quả tổng hợp của những hạn chế ở cả ba lĩnh vực nói trên: thiếu nguyên liệu và nguyên liệu không ổn định, chất lượng nguyên liệu kém; công nghệ lạc hậu, chắp vá; tổ chức, công tác tiêu thụ, khai thác thị trường chưa tốt... Để giải quyết ba vấn đề trên cần những giải pháp chủ yếu sau. 3.3.1. Sắp xếp lại mạng lưới công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố, xác định quy mô và lựa chọn giải pháp công nghệ thích hợp. Cụ thể là: - Khẩn trương xây dựng quy hoạch ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố. Rà xét, phân loại các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn cùng sử dụng một loại nguyên liệu hoặc sản xuất một loại sản phẩm, kể cả doanh nghiệp của trung ương và địa phương để sắp xếp lại và chuyển hướng sản xuất một số doanh nghiệp cho hợp lý, thậm chí giải thể một số xí nghiệp hoạt động không hiệu quả. - Lựa chọn một số xí nghiệp trọng điểm để tập trung đầu tư thiết bị, cải tiến công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất một số loại sản phẩm chất lượng cao nhằm mục tiêu xuất khẩu là chính. Từ đó, hình thành một loạt doanh nghiệp vệ tinh có nhiệm vụ sơ chế nguyên liệu, sản xuất bán thành phẩm hoặc thành phẩm có quy mô vừa và trình độ công nghệ thích hợp. - Mở rộng mạng lưới của cơ sở nhỏ làm nhiệm vụ thu gom, bảo quản sơ chế nguyên liệu tại các vùng sản xuất nông, lâm nghiệp. Đây là khâu rất quan trọng nhưng hiện nay chưa được coi trọng nền dẫn đến tình trạng sản phẩm nông, lâm nghiệp bị hư hao và giảm phẩm cấp quá lớn khi đưa đến nhà máy. 3.3.2. Tích cực triển khai chương trình đổi mới thiết bị và công nghệ, từng bước ứng dụng công nghệ cao trong ngành công nghiệp chế biến Giải pháp này bắt nguồn từ đặc điểm, nhu cầu hàng công nghiệp chế biến ngày một khắt khe về cơ cấu, chủng loại và chất lượng; bắt nguồn từ xu hướng phát triển của công nghiệp chế biến từ sơ chế bảo quản đến tinh chế, từ sử dụng nguyên liệu đơn chiếc đến sử dụng nguyên liệu tổng hợp gắn với sản phẩm chế biến cuối cùng rất đồng bộ. Đổi mới công nghệ phát triển công nghiệp chế biến theo chiều sâu còn do yêu cầu phải thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng mà thành phố có lợi thế. Giải pháp đổi mới công nghệ, chuyển các doanh nghiệp công nghiệp chế biến phát triển theo chiều sâu đòi hỏi cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: - Về trình độ máy móc, thiết bị: Đổi mới từng bước, chọn khâu, bộ phận thực hiện đầu tư mới hệ thống hiện đại, đồng thời trong trường hợp nhất định không loại trừ nhập những thiết bị đã qua sử dụng. Với điểm xuất phát còn thấp, hạn chế về vốn và trình độ sử dụng của lao động có thể phải chịu lạc hậu một thế hệ kỹ thuật so với các nước tiên tiến. Thực hiện chính sách khấu hao nhanh máy móc, thiết bị nhằm thúc đẩy quá trình đổi mới kỹ thuật ở các ngành quan trọng, áp dụng khấu hao đặc biệt đối với một số ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn để rút ngắn khoảng cách lạc hậu so với bên ngoài. - Về trình độ công nghệ (phần mềm): Thực hiện theo hướng đi vào hiện đại hóa trên cả ba mặt kỹ năng, thông tin và tổ chức quản lý hiện đại, nhất là trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến. Phát huy thế mạnh của một trung tâm công nghiệp lớn, nhiều tiềm năng về khoa học - công nghệ so với cả nước, cần đi đầu và đi nhanh vào một số ngành công nghiệp chế biến mũi nhọn, ngành công nghệ mới, ngành tinh chế, tái chế tạo ra những sản phẩm làm tăng giá trị, tăng kim ngạch xuất khẩu, nâng cao hiệu quả của công nghiệp chế biến trên địa bàn. - Nghiên cứu chuyển giao công nghệ (cả trong và ngoài nước) nhất là đối với các khu công nghiệp mới, kỹ nghệ cao và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ, hộ gia đình phù hợp với tính cách sản xuất và con người Việt Nam. 3.3.3. Các giải pháp về nguồn nguyên liệu Thành phố cần có những chủ trương và quyết sách dựa trên đòn bẩy lợi ích kinh tế, kết hợp hài hòa giữa khâu khai thác cung ứng nguyên liệu với khâu sơ chế, công nghiệp chế biến để các doanh nghiệp công nghiệp chế biến triển khai trong thực tiễn. Cụ thể là: - Phối hợp giữa các nhà máy chế biến nông, lâm, thủy hải sản với các nhà khoa học, các trung tâm nghiên cứu để tuyển chọn, lai tạo giống cây, con đáp ứng yêu cầu của công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy hải sản. Cần đặc biệt chú ý khai thác và ứng dụng các thành tựu của công nghệ sinh học như công nghệ gen, cấy hợp tử, và nhân nhanh các giống cây, con quý. - Hình thành một số vùng nguyên liệu tập trung, hình thành một số vùng nông nghiệp chuyên môn hóa của thành phố như vùng cây ăn quả, vùng rau sạch, vùng cá, vùng bò sữa... Phối hợp với các tỉnh phụ cận để hình thành một số vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản thành phố. - Tích cực chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn ngoại thành, khuyến khích và tạo điều kiện để phát triển kinh tế nông trại, trang trại. - Tăng cường kiểm tra, giám sát chất lượng nông sản phẩm trước khi đưa đi tiêu thụ. Có chính sách khuyến khích sản xuất các loại nông sản có chất lượng cao. - Đối với nguyên liệu phải nhập ngoại, do tính chất nhập ngoại nên thường bị động, ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất công nghiệp chế biến, cộng vào đó là chính sách thuế nhập khẩu chưa hợp lý. Để chủ động nguồn nguyên liệu nhập ngoại cần xác định có căn cứ khoa học định mức dự trữ nguyên liệu trong sản xuất nhằm sử dụng vốn lưu động có hiệu quả làm cơ sở cho kế hoạch vay vốn ngân hàng, hoặc kế hoạch tăng vốn tự có, thông qua hợp đồng mua bán được ký kết giữa các doanh nghiệp trong nước với các công ty bán nguyên liệu cuả các nước. 3.3.4. Tăng cường mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm Giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu và công nghệ là điều kiện quyết định để nâng cao chất lượng nông sản chế biến và hạ giá thành sản phẩm, nhờ đó mở rộng thị trường tiêu thụ. Thực tế cho thấy, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của ta còn ở mức khiêm tốn (chỉ hơn 3,4 tỷ USD/ năm). Vì vậy để phấn đấu đưa kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản lên 4-5 tỷ USD cần phải tăng cường hơn nữa công tác mở rộng thị trường [5]. Để mở rộng thị trường cần phối hợp vói các biện pháp sau: - Nghiên cứu xác định một số sản phẩm có lợi thế, có khả năng tiêu thụ ổn định trên thị trường quốc tế để tập trung sản xuất và lựa chọn bạn hàng tiêu thụ. - Nghiên cứu nhu cầu trên thị trường để đa dạng hóa sản phẩm, mở rộng mạng lưới tiêu thụ nhằm khai thác thị trường nội địa và xuất khẩu tại chỗ. Một nghịch cảnh đáng lưu ý hiện nay là, chúng ta quá chú ý đến việc sản xuất các mặt hàng chế biến để xuất khẩu, tham gia vào cuộc cạnh tranh không cân sức với các cơ sở kinh doanh cùng mặt hàng ở nước ngoài thì thị trường nội địa lại để mặc cho hàng hóa nhập ngoại chiếm lĩnh; trong khi các nhà kinh doanh nước ngoài đánh giá rất cao về thị trường tiêu thụ của hơn 70 triệu dân nước ta và hơn 5 triệu dân thành phố hiện có sức tiêu thụ rất lớn. Do vậy giải pháp đồng bộ nhằm khai thác triệt để thị trường nội địa phải được đặt lên hàng đầu trong quá trình phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố trong những năm trước mắt đi đôi với mở rộng thị trường nước ngoài. - Tổ chức có hiệu quả việc thu thập, xử lý về thông tin thị trường trong nước và ngoài nước cho các cơ sở sản xuất kinh doanh, từng bước phát triển thương mại điện tử hàng hóa nông sản. Bên cạnh đó khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức, cá nhân, các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại ở trong nước và cả trên thế giới như hội chợ, triển lãm thương mại, giới thiệu hàng Việt Nam... 3.3.5. Giải quyết những khó khăn về vốn đầu tư cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản Để giải quyết khó khăn về vốn cho ngành chế biến nông, lâm sản cần chú trọng các biện pháp sau: - Vốn ngân sách hạn hẹp cần đầu tư tập trung cho các doanh nghiệp trọng điểm và hỗ trợ cho một số doanh nghiệp sản xuất sản phẩm mới đổi mới thiết bị, công nghệ. - Giảm, miễn thuế doanh thu, thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp chế biến nông, lâm sản, sản xuất mặt hàng mới, đổi mới thiết bị công nghệ hoặc các doanh nghiệp mới thành lập trong 1 - 3 năm đầu. - Khuyến khích hỗ trợ các hộ nông dân thông qua chính sách cho vay ưu đãi, đầu tư ứng trước... để phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản hoặc sản xuất nông, lâm sản để chế biến xuất khẩu. Thực tế cho thấy, thị trường hàng hóa nông, lâm sản thường gặp nhiều rủi ro, gây ảnh hưởng đến lợi ích của nông dân và doanh nghiệp, vì vậy ngoài chính sách hỗ trợ cần khuyến khích lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng. 3.3.6. Mở rộng các hình thức liên doanh, liên kết Trong thời gian tới cần "áp dụng nhiều hình thức góp vốn liên doanh giữa nhà nước và các nhà kinh doanh tư nhân trong nước và ngoài nước nhằm tạo thế và lực cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến Việt Nam phát triển, tăng sức hợp tác và cạnh tranh với bên ngoài" theo hướng: - Tiếp tục mở rộng hình thức hợp tác liên doanh với nước ngoài thông qua đầu tư trực tiếp (FDI). Tính đến tháng 12/1999 trên địa bàn thành phố có 783 dự án, số vốn đầu tư 10,5 tỷ USD. Riêng công nghiệp chế biến có đến 313 dự án. - Tiếp tục thu hút hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài thông qua việc hình thành khu chế xuất Linh Trung và Tân Thuận, hình thành các khu công nghiệp thu hút vốn đầu tư đi vào hoạt động có hiệu quả. - Thực hiện hình thức cho thuê thông qua đấu thầu một số cơ sở vật chất của các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản nhà nước. Phát triển hình thức gia công đặt hàng, một hình thức thường sử dụng nhiều lao động... 3.3.7. Tiêu chuẩn hóa chất lượng sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản Chất lượng sản phẩm là một vấn đề tổng hợp. Các giải pháp đảm bảo và nâng cao chất lượng phải được tiếp cận một cách hệ thống và toàn diện. Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp hình thành các vùng tập trung, chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hóa nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước". Do đó, chất lượng sản phẩm của công nghiệp chế biến nông, lâm sản có ý nghĩa quyết định trong cạnh tranh trên thị trường trong nước, quốc tế, nhất là xu hướng thị trường hiện nay đòi hỏi chất lượng ngày một cao. Ở đây nêu ra phương hướng giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm của công nghiệp chế biến. - Đối với sản phẩm nội địa: Phải đảm bảo tiêu chuẩn Việt Nam, các chỉ tiêu về an toàn và vệ sinh, nâng cao dần chất lượng về màu sắc, mùi vị. - Đối với sản phẩm xuất khẩu: Đạt đầy đủ các yêu cầu theo hợp đồng, các yêu cầu này thường đòi hỏi đạt trình độ quốc tế về tất cả các loại chỉ tiêu, đặc biệt là các chỉ tiêu về vệ sinh và an toàn, tạo nên sự đa dạng, phong phú về chủng loại, mẫu mã, phấn đấu đảm bảo bao bì sản phẩm đúng quy cách, đẹp và hấp dẫn. - Nghiên cứu áp dụng các phương pháp quản lý chất lượng hiện đại vào lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm sản, áp dụng hệ thống ISO 9000 là bộ tiêu chuẩn do tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hóa ban hành. 3.3.8. Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ và nâng cao tay nghề cho người lao động trong các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản Con người là nhân tố quyết định của mọi sự biến đổi và phát triển. Ở nước ta và thành phố lực lượng lao động khá dồi dào, song chất lượng lao động đang là vấn đề đáng được quan tâm. Để có đội ngũ cán bộ và lao động đáp ứng được yêu cầu cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung và sự nghiệp phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản nói riêng trong thời gian tới thành phố phải làm tốt các vấn đề sau đây: - Làm tốt công tác quy hoạch và kế hoạch hóa đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề từ nay đến năm 2020, trước mắt là đến 2010 trên địa bàn thành phố: có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và công nhân. - Đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giảng dạy cho phù hợp với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. - Tạo điều kiện thuận lợi để tăng cường đưa cán bộ, công nhân đi học ở nước ngoài, những ai có khả năng đi học nước ngoài đều được khuyến khích. Có chính sách khuyến khích tài năng trẻ đi vào nghiên cứu và ứng dụng những thành tựu của công nghệ mới vào việc phát triển công nghiệp chế biến. Có chính sách "mở" đối với giáo dục đào tạo với các trường ở nước ngoài. 3.3.9. Tăng cường thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước đối với sự phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố - Trên cơ sở quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội thành phố, khẩn trương xây dựng quy hoạch các ngành kinh tế, kỹ thuật trong đó có ngành công nghiệp chế biến nông, lâm sản. Đánh giá đúng thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước và triển vọng phát triển của từng doanh nghiệp trên địa bàn. Chỉ rõ những doanh nghiệp có thể và cần phải củng cố phát triển theo hướng mở rộng quy mô sản xuất tập trung đầu tư chiều sâu hoặc chuyển sản xuất sản phẩm. - Sáp nhập, giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu (dưới hình thức cho thuê, nhượng bán hoặc cổ phần hóa doanh nghiệp) đối với các doanh nghiệp mà nhiệm vụ sản xuất chồng chéo, trùng lắp, hiệu quả kinh doanh thấp. - Bố trí, sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp quốc doanh chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố, có kế hoạch di chuyển một số doanh nghiệp nằm trong khu vực đông dân, gây ô nhiễm ra ngoại thành. - Chọn một số doanh nghiệp trọng điểm để tập trung đầu tư thiết bị và cải tiến công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất các sản phẩm có chất lượng cao nhằm mục tiêu xuất khẩu là chính. Bên cạnh đó là xây dựng, hình thành một loạt các doanh nghiệp vệ tinh có nhiệm vụ sơ chế nguyên liệu, sản xuất bán thành phẩm với quy mô và trình độ công nghệ thích hợp. - Giải quyết thỏa đáng mối quan hệ phối hợp quản lý nhà nước giữa trung ương và địa phương trên địa bàn thành phố sao cho có thể hướng dẫn, giám sát, kiểm tra được việc thực hiện luật và các văn bản dưới luật có liên quan đến sản xuất kinh doanh, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản trên địa bàn thành phố. 3.4. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 3.4.1. Lên phương án quy hoạch và có chính sách hỗ trợ - Thành phố khuyến khích hình thành những vùng nông nghiệp chuyên môn hóa sản xuất như vùng cây ăn quả,, vùng rau, vùng cá, vùng nuôi bò sữa v.v... mà trước hết là hỗ trợ vốn đầu tư để xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng. Phối hợp với các tỉnh phụ cận hình thành một số vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông, lâm sản thành phố. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách để cải tạo và phát triển đàn bò sưã, đàn lợn hướng nạc, đàn vịt siêu thịt... - Thực hiện việc duy trì lãi suất cho vay thấp nhằm kích thích các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản mở rộng sản xuất và đổi mới công nghệ, phát triển theo chiều sâu. Thành phố có thể đứng ra bảo lãnh cho một số doanh nghiệp vay vốn nước ngoài để đầu tư. - Để thu hút đầu tư nước ngoài, ngoài việc tích cực cải tiến những thủ tục hành chính như thủ tục cấp đất, cấp phép xây dựng, xét duyệt dự án đầu tư, thành phố cần xây dựng hệ thống danh mục dự án đầu tư lớn nhằm giới thiệu và gọi vốn đầu tư nước ngoài. 3.4.2. Chính sách khuyến khích về thuế Thuế, một chính sách kinh tế, đòn bẩy có tác dụng kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh. Trong lĩnh vực công nghiệp chế biến nông, lâm sản, Nhà nước áp dụng mức thuế theo hướng: - Mở rộng phạm vi miễn giảm thuế đối với các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ đồng bộ từ 1 - 3 năm như là đối với các doanh nghiệp mới thành lập. Sớm cụ thể hóa luật khuyến khích đầu tư trong nước bằng các văn bản cụ thể, đặc biệt là chính sách ưu đãi về thuế với các nhà đầu tư trong nước ở một số lĩnh vực ưu tiên. - Giảm hoặc miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu nhập ngoại, bởi vì ở thành phố Hồ Chí Minh, khoảng 80-85% nguyên liệu chính, nguyên liệu thô của công nghiệp chế biến đều nhập ngoại. Giảm thuế để thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp chế biến, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động đang là sức ép của thành phố. - Mức thuế phải ổn định trong một thời gian tương đối dài để tránh thay đổi quá nhiều như vừa qua. 3.4.3. Chính sách về khuyến khích xuất khẩu Để sản phẩm công nghiệp chế biến nông, lâm sản tiếp cận với thị trường thế giới và khu vực, đề nghị chính sách về khuyến khích xuất khẩu theo hướng sau: - Tăng vốn tài chính cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu. - Thực hiện ưu đãi về lãi xuất đối với hàng hóa xuất khẩu khi vay vốn ngắn hạn. - Thực hiện lãi xuất ưu đãi với những doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản xuất khẩu khi vay vốn trung hạn và dài hạn ở các ngân hàng để đổi mới công nghệ, đầu tư chiều sâu. - Tổ chức cung cấp thông tin thị trường, các yếu tố đầu vào và đầu ra của sản xuất của các xí nghiệp. 3.4.4. Kiến nghị về giải pháp khai thác thị trường nội địa - Tăng cường năng lực quản lý, đặc biệt khả năng tiếp thị, nghiên cứu nhu cầu, cải tiến mẫu mã sản phẩm chế biến cho phù hợp với sức mua và thị hiếu tiêu dùng của mọi tầng lớp dân cư, của các doanh nghiệp. - Hạn chế nhập khẩu (tăng thuế nhập khẩu đối với những mặt hàng mà công nghiệp chế biến trong nước có khả năng sản xuất và cung cấp đầy đủ cho thị trường). Đề ra các biện pháp quản lý thị trường hữu hiệu chống hàng xấu, hàng giả và các sản phẩm nhập lậu. - Có quy chế cụ thể đối với việc thông tin quảng cáo, khuyến khích tiêu dùng hàng nội địa như quy định lệ phí quảng cáo cho hàng ngoại phải cao hơn hàng nội. - Mở rộng các đại lý tiêu thụ cho các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông, lâm sản, mở rộng mạng lưới thu mua, sơ chế, bảo quản và vận chuyển một số loại sản phẩm như sữa, rau quả tươi tại một số nơi sản xuất khi chuyển đến nhà máy. KẾT LUẬN Với mục tiêu nghiên cứu đặt ra, bằng phương pháp hệ thống, phương pháp lôgíc và lịch sử, kết hợp với phương pháp thực chứng, luận văn đã hoàn thành một số nội dung chính dưới đây chính dưới đây: 1- Trên cơ sở làm rõ khái niệm công nghiệp chế biến, đặc điểm của công nghệ chế biến và nét đặc trưng của công nghiệp chế biến nông, lâm sản, luận văn đã phân tích có cơ sở lý luận và thực tiễn vai trò của công nghiệp chế biến một cách toàn diện trên các khía cạnh kinh tế, xã hội ở các nước nói chung và ở nước ta nói riêng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, nhất là các nước NIEs và ASEAN, luận văn tìm ra xu hướng có tính quy luật chung của sự hình thành và phát triển công nghiệp chế biến. Đó là phát triển công nghiệp chế biến gắn với nông, lâm nghiệp, phát triển công nghiệp chế biến theo hướng sử dụng nguyên liệu tổng hợp có liên quan đến sản phẩm cuối cùng, phát triển công nghiệp chế biến trong sự gắn bó hữu cơ với các ngành kinh tế khác kể cả các ngành kết cấu hạ tầng. 2- Luận văn phân tích làm rõ vai trò của công nghiệp chế biến trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là đối với những nước nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phân tích thực trạng và định hướng phát triển công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Về các quan điểm gồm có: gắn nông, lâm nghiệp với công nghiệp chế biến, áp dụng công nghệ chế biến nhiều trình độ, có trọng điểm, đi tắt lên hiện đại, tạo điều kiện chuyển sang lấy công nghệ chế biến hiện đại làm chủ yếu. Gắn công nghiệp chế biến nông, lâm sản với nguồn nguyên liệu giữa nông thôn với đô thị, giữa trung ương với địa phương trên địa bàn trong tiến trình phát triển công nghiệp chế biến, gắn chế biến với các ngành kết cấu hạ tầng, tài chính, ngân hàng, thương mại, dịch vụ trong tiến trình phát triển. 3. Thông qua thực trạng công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố, luận văn đánh giá thành tựu và hạn chế của sự phát triển công nghiệp chế biến qua các thời kỳ trước và sau 1986 đến nay trên các khía cạnh: tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy xuất nhập khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, thu hút đầu tư nước ngoài, đóng góp vào ngân sách, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động. Trên cơ sở hạn chế so với yêu cầu phát triển công nghiệp chế biến, luận văn nêu lên những mâu thuẫn đặt ra cần giải quyết trong thời gian tới, đó là: mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển công nghiệp chế biến với nguồn nguyên liệu và kết cấu hạ tầng, mâu thuẫn giữa khả năng phát triển với tình hình thị trường đầu ra, mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng và phát triển công nghiệp chế biến với trình độ công nghệ, tay nghề và vốn đầu tư, mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển công nghiệp chế biến với các yếu tố quản lý vi mô, vĩ mô. 4. Trên cơ sở lý luận của chương 1 và thực trạng phát triển công nghiệp chế biến trên địa bàn thành phố. Để phát triển công nghiệp chế biến, luận văn đưa ra các giải pháp chủ yếu giải quyết vốn đầu tư cho công nghiệp chế biến, đổi mới công nghệ và đầu tư phát triển chiều sâu, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ngành công nghiệp chế biến với ngành nguyên liệu và kết cấu hạ tầng, tiếp tục sắp xếp tổ chức lại các doanh nghiệp công nghiệp chế biến trên địa bàn, đào tạo cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tăng cường việc thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước. Từ các giải pháp, luận văn đề xuất một số kiến nghị gắn với chính sách tài chính, tín dụng, chính sách về thuế, chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách tiêu thụ, thị trường nội địa... TÀI LIỆU THAM KHẢO Báo cáo một số nét về tình hình kinh tế xã hội thành phố Hồ Chí Minh, 1999. Báo cáo tổng kết năm 1999 của Ban Quản lý khu chế xuất và khu công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh. Công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trong khu vực, Nxb Thống kê, Hà Nội, 1994. Đánh giá phát triển công nghiệp Việt Nam, Dự án VIE/89/007. Đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp - bài toán đã có lời giải. Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 23-8-2000. Ngô Đình Giao, Công nghiệp chế biến thực phẩm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998. Kinh tế học phát triển, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999. V.I. Lênin, Toàn tập, tập 3, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1962. Nguyễn Ngọc Long, Về cuộc cải cách kinh tế của Lênin, Nxb Thanh niên, 1996. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 1994. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 1995. Niên giám thống kê thành phố Hồ Chí Minh năm 1999. Phát huy lợi thế nâng cao khả năng cạnh tranh của nông sản xuất khẩu Việt Nam, Nxb Thống kê, 1999. Quy hoạch phát triển công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh thời kỳ 1996 - 2010, Sở Công nghiệp, 1995. Số liệu thống kê 1985 - 1995 của Tổng Công ty Thuốc lá Việt Nam, 10/1996. Số liệu khảo sát của Văn phòng Chính phủ Malaysia, tháng 9/1995. Thành phố Hồ Chí Minh thực tế và triển vọng, Nxb Thống kê và Cục Thống kê thành phố, 1991. Tổng luận khoa học kỹ thuật kinh tế, số 1-1997. Vũ Anh Tuấn, Xu hướng phát triển ngành công nghiệp chế biến ở thành phố Hồ Chí Minh, Luận án Tiến sĩ kinh tế, Hà Nội, 1998. Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khóa IV. Thành phố Hồ Chí Minh, 1986. Văn kiện Đại hội Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh khóa VI. Thành phố Hồ Chí Minh, 1996. Văn kiện Hội nghị lần thứ 15 BCH Đảng bộ thành phố khóa VI. Thành phố Hồ Chí Minh, 2000. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVTS1.DOC
Tài liệu liên quan