Phát triển công cụ nghiệp vụ Thị trường mở của Ngân hàng nhà nước Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Nền kinh tế Việt Nam sau gần hai mươi năm đổi mới đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và to lớn, được bạn bè quốc tế đánh giá cao.Kết quả đó có sự đóng góp rất lớn từ việc vận hành đúng đắn và chính xác chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước . Thông qua các công cụ của chính sách tiền tệ như: chiết khấu,dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở,hạn mức tín dụng,tỷ giá….. ngân hàng nhà nước 1 mặt cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh

doc30 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển công cụ nghiệp vụ Thị trường mở của Ngân hàng nhà nước Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế , mặt khác giữ ổn định giá trị của đồng nội tệ. Một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ, Nghiệp vụ thị trường mở sau khoảng thời gian đi vào hoạt động từ ngày 12 tháng 7 năm 2000, công cụ này đã thể hiện được vai trò quan trọng của mình với những ưu thế vốn có của nó, góp phần ổn định giá trị đồng nội tệ, kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên hoạt động thị trường mở trong thời gian qua vẫn bộc lộ một số hạn chế : số lượng hàng hoá giao dịch và số thành viên tham gia trên thị trường mở còn khiêm tốn , phương thức giao dịch còn nhiều thủ tục, kém linh hoạt…. Do vai trò quan trọng và còn nhiều điểm hạn chế trong việc vận hành công cụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thời gian qua nên việc nghiên cứu nhằm phát triển nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam là một đòi hỏi cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn . Vì vậy đề tài :”phát triển công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam “ được lựa chọn nghiên cứu cho đề án này. 2 Mục tiêu,đối tượng và phạm vi nghiên cứu : Mục tiêu nghiên cứu: +Hệ thống hoá cơ sở lý luận về công cụ nghiệp vụ thị trường mở của ngân hàng trung ương(NHTW). +Phân tích đánh giá thực tiễn về việc sử dụng công cụ thỉ trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam(NHNN). +Đề xuất các giải pháp và kiến nghị. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: Các vấn đề có liên quan đến việc khởi thảo và thực thi công cụ thị trường mở của ngân hàng nhà nước Việt Nam trong thơì gian qua. 3 Phương pháp nghiên cứu đề tài: -Phương pháp luận triết học: Duy vật biện chứng,duy vật lịch sử -Phương pháp khảo sát thông kê , phân tích tổng hợp , so sánh tư duy logic và khái quát vấn đề. CHƯƠNG 1 NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 1.1 TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG 1.1.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ Chính sách tiền tệ nhìn một cách tổng quát là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước do NHTW chịu trách nhiệm khởi thảo và thực thi, thông qua các công cụ của mình thực hiện việc kiểm soát và điều tiết lượng tiền cung ứng nhằm đạt các mục tiêu về ổn định và tăng trưởng kinh tế. Trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc gia có thể được hoạch định theo một trong hai hướng: Chính sách tiền tệ mở rộng, nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống suy thoái kinh tế , chống thất nghiệp. Chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng , hạn chế đầu tư kìm hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế . Trong trường hợp này chính sách tiền tệ nhằm chống lạm phát . Chính sách tiền tệ một mặt cung cấp đầy đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, mặt khác giữ ổn định giá trị của đồng bản tệ. Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản , chủ yếu nhất của NHTW. Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của NHTW. 1.1.2 Hệ thống mục tiêu của chính sách tiền tệ Với mỗi quốc gia khác nhau và trong từng thời điểm khác nhau thì mục tiêu cụ thể của chính sách tiền tệ cũng khác nhau nhưng nhìn chung NHTW của các quốc gia đều vận hành chính sách tiền tệ để hướng tới các mục tiêu tăng trưỏng kinh tế, ổn định giá trị đồng tiền, tạo việc làm cho người lao động. 1.1.2.1Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ. Các nhà kinh tế đã cho rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền sản xuất hàng hoá, đặc biệt là nền sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao ( nền kinh tế thị trường). Lúc này với chức năng chính của mình, NHTW luôn coi việc kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý, ổn định giá trị đồng tiền là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ. Có nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát, tuy nhiên nhìn chung có thể hiểu: Lạm phát là sự gia tăng liên tục của giá cả trong 1 thời gian dài.Lạm phát tác động đến nền kinh tế theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực. Khi lạm phát gia tăng tới mức không thể kiểm soát ,sẽ tác động xấu đến mọi mặt của nền kinh tế-xã hội,sản lượng giảm, hàng loạt các doanh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản,hàng hoá bị găm giữ hình thành cầu giả tạo,giá cả leo thang….. Tuy nhiên bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế ,trong chừng mực nào đó,với 1 tỷ lệ lạm phát vừa phải,lạm phát lại là yếu tố để kích thích kinh tế tăng trưởng .Khi đó các nhà kinh tế còn gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Thông qua chính sách tiền tệ NHTW có thể góp phần quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Nếu như lạm phát ở mức cao, NHTW sẽ vận hành chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, qua đó làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ giảm xuống và như vậy tỷ lệ lạm phát giảm xuống. Ngược lại nếu tỷ lệ lạm phát ở mức quá thấp hay thậm chí là thiểu phát, để duy trì một mức tỷ lệ lạm phát hợp lý NHTW sẽ vận hành chính sách tiền tệ mở rộng nhằm kích cầu, thông qua mở rộng cung ứng tiền tệ. Kiểm soát lạm phát được biểu hiện trước hết ở chỗ ổn định giát trị đối nội của đồng tiền,túc là sức mua của nó đối với hàng hoá và dịch vụ trên thị trường trong nước. Mặt khác nó còn được biểu hiện qua sự ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền , được đo bằng tỷ giá hối đoái thả nổi.Một sự tăng lên trong giá trị đồng bản tệ so với ngoại tệ sẽ hạn chế sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế,hạn chế xuất khẩu. Ngược lại,khi giá trị đồng bản tệ giảm xuống so với ngoại tệ sẽ khuyến khích xuất khẩu , hạn chế nhập khẩu….. Gía trị đối nội và giá trị đối ngoạ của đồng tiền có quan hệ mật thiết với nhau. Muốn ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế,nhàn nước phải có các biện pháp ổn định giá cả hàng hoá , dịch vụ trong nước và ổn định tỷ giá. 1.1.2.2 Tạo việc làm ,giảm thất nghiệp. Việc làm cho người lao động là một vấn đề quan trọng đối với bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Thông qua chính sách tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức tỷ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Nếu chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì điều đó sẽ tạo điều kiện mở rộng đầu tư xản xuất, nền kinh tế cần nhiều lao động hơn,cầu về lao động tăng dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, khi lượng cung ứng tiền tệ giảm xuống sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, nền kinh tế sẽ cần ít lao động hơn , tỷ lệ thất nghiệp sẽ tăng. Theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ thất nghiệp bằng không mà tỷ lệ thất nghiệp phải ở mức tự nhiên. Ngoài ra thông thường để có một tỷ lệ công ăn việc làm ở mức hợp lý thì phải chấp nhận một tỷ lệ lạm phát nhất định nào đó, hai mục tiêu này luôn triệt tiêu cho nhau trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ. 1.1.2.3 Kích thích tăng trưởng kinh tế. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế luôn gắn liền với mục tiêu công ăn việc làm cao. Chính sách tiền tệ có thể tác động đồng thời hai mục tiêu này. Khi mức cung ứng tiền tệ tăng lên trong ngắn hạn lãi suất tín dụng giảm sẽ khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh , làm tăng sản lượng và tăng trưởng kinh tế. Ngược lại khi mức cung tiền tệ giảm trong ngắn hạn lãi suất tín dụng tăng sẽ thu hẹp hoạt động sản xuất kinh doanh , sản lưọng giảm, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế giảm. Các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng, nền kinh tế thị trường luôn biến động mang thính chu kỳ: Từ tăng trưởng kinh tế quá mức dẫn đến lạm phát cao, từ đó rễ rơi vào trạng thái ngưng trệ rồi suy thoái kinh tế. Vấn đề đặt ra là đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ phải tìm giải pháp để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được các mục tiêu còn lại. 1.1.3 Các công cụ của chính sách tiền tệ 1.1.3.1Chính sách chiết khấu. Ngân hàng thương mại là doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực đặc biệt đó là tiền tệ với chức năng chính là nhận tiền gửi và cho vay . Nhưng không phải lúc nào hoạt động của hệ thống ngân hàng cũng đều thuận lợi.Có những lúc khách hàng đến rút tiền quá nhiều, khi đó ngân hàng thương mại có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.Vì vậy nếu không có Ngân hàng trung ương , các ngân hàng thương mại(NHTM) có thể sẽ rơi vào tình trạng phá sản . Chính vào lúc khó khăn này, NHTW sẽ thực hiện chức năng là người cho vay cuối cùng của nền kinh tế. NHTW sẽ cấp tín dụng cho NHTM qua nhiều hình thức, thông dụng nhất đó là tái cấp vốn dưới hình thức chiết khấu và tái chiết khấu các thương phiếu hoặc các giấy tờ có giá . Khi chấn nhận chiết khấu hoặc tái chiết khấu là NHTW đã làm tăng lượng tiền trong lưu thông. Đây là hình thức phát hành tiền được xem là lành mạnh do được đảm bảo bằng các giấy tờ có giá và khi đáo hạn NHTW sẽ đòi được các món nợ đã cho vay. Việc điều hành công cụ chiết khấu , tái chiết khấu để thực thi chính sách tiền tệ được thông qua lãi suất chiết khấu và tái chiết khấu. NHTW có thể tác động để tăng hoặc giảm khả năng cho vay của các NHTM , qua đó tăng hoặc giảm lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế. Khi NHTW tăng lãi suất tái chiết khấu, giá của các khoản vay tăng lên, các ngân hàng thương mại sẽ nâng lãi suất cho vay và hạn chế khả năng cho vay đối với nền kinh tế, đồng thời lãi suất tăng sẽ dẫn đến nhu cầu vay vốn của nền kinh tế sẽ giảm,lượng tiền cung ứng sẽ giảm. Khi NHTW giảm lãi suất tái chiết khấu sẽ có tác động ngược lại. Chiết khấu và tái chiết khấu là việc NHTW “mua” các thương phiếu của các NHTM nhằm điều chỉnh mức cung tín dụng của ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế, đồng thời qua đó điều chỉnh cung ứng tiền tệ. Chính sách chiết khấu là một công cụ rất quan trọng trong việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTW .Nó không chỉ điều tiết lượng tiền cung ứng mà còn thể hiện được vai trò người cho vay cuối cùng của nền kinh tế và tác động đến việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế. Tuy nhiên với công cụ này , NHTW không thể chủ động trong việc điều tiết lượng tiền cung ứng, do việc chiết khấu hay không chiết khấu do các NHTM tự quyết định , NHTW không thể ép buộc. 1.1.3.2 Dự trữ bắt buộc. Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các tổ chức tín dụng phải giữ lại, không được dùng để cho vay hoặc đầu tư, mức dự trữ này do Ngân hàng trung ương quy định và bằng một tỷ lệ nhất định so với tổng số tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng . Dự trữ bắt buộc mang tính pháp luật, được các tổ chức tín dụng gửi tại các tài khoản của mình ở NHTW và thường không được hưởng lãi hoặc lãi suất rất thấp. NHTW sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để tác động tới lượng tiền cung ứng trên hai phương diện : Thứ nhất : Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tác động đến cơ chế tạo tiền gửi của các NHTM. Theo thuyết tạo tiền gửi, từ một lượng tiền dự trữ ban đầu , hệ thống ngân hàng thương mại có thể tạo ra một lượng tiền gửi lớn gấp nhiều lần với công thức tổng quát : Tiền gửi mới được tạo ra= Tiền dự trữ ban đầuTỷ lệ dự trữ bắt buộc Trong đó : 1/Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là số nhân tiền với hai giả thiết: Các NHTM không có tiền dự trữ dư thừa so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mà NHTW quy định. Các khoản tiền gửi do các NHTM tạo ra đều được giữ lại trong hệ thống ngân hàng. Khi NHTW quyết định tăng hoặc giảm tỷ lện dự trữ bắt buộc sẽ làm cho số nhân tiền giảm đi hoặc tăng lên. Qua đó làm giảm hoặc tăng lượng tiền cung ứng. Thứ hai : Tỷ lện dự trữ bắt buộc tác động đến lãi suất cho vay của các NHTM . Số tiền dự trữ bắt buộc của 1 NHTM được gửi ở một tài khoản tại NHTW , không được hưởng lãi hoặc lãi suất rất thấp trong khi các ngân hàng thương mại vẫn phải trả lãi của khoản tiền đó cho khách hàng của mình. Do vậy khi mức dự trữ tăng lên đòi hỏi các NHTM phải tăng lãi suất cho vay vì chi phí huy động vốn lớn hơn và khả năng cho vay của NHTM giảm xuống, theo đó lượng tiền cung ứng sẽ giảm xuống. Và ngược lại , khi tỷ lện dự trữ bắt buộc giảm xuống, các ngân hàng thương mại có thể giảm lãi suất cho vay vì chí phí huy động vốn giảm xuống, tăng khả năng cho vay của các NHTM và theo đó lượng tiền cung ứng tăng lên. Điểm lợi chính của việc sủ dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm soát lượng tiền cung ứng là nó có thể tác động bình đẳng đến các ngân hàng. Đây là công cụ có ảnh hưởng rất lớn đến lượng tiền cung ứng. Nhưng chính điều này cũng làm cho công cụ dự trữ bắ buộc trở lên phức tạp và thiếu linh hoạt vì sự thay đổi thường xuyên sẽ gây ra sự bất ổn trong hoạt động của hệ thống ngân hàng và chi phí cho việc điều chỉnh thích ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới là rất tốn kém. Ngoài ra việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc có thể ảnh hưởng ngay lập tức tới khả năng thanh khoản của các ngân hàng có tỷ lệ dự trữ vượt quá ở mức thấp. Do đó hiện nay công cụ dự trữ bắt buộc đóng vai trò kém phần quan trọng trong quá trình thực thi chính sách tiền tệ của NHTW.. 1.1.3.3 Nghiệp vụ thị trường mở. Vì phạm vi của đề án này tập trung đi sâu vào nghiên cứu về nghiệp vụ thị trường mở . Do đó công cụ này sẽ được đề cập rõ ràng và đầy đủ ở phần sau của bài viết 1.2 CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 1.2.1 Khái niệm và cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở. 1.2.1.1Khái niệm. Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn hoặc trung và dài hạn nhưng thời gian còn lại cho đến khi đáo hạn là ngắn hạn như: Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu Ngân hàng trung ương, Chứng chỉ tiền gửi…. của NHTW trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối dự trữ của các NHTM , từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các NHTM dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ. 1.2.1.2 Cơ chế tác động của nghiệp vụ thị trường mở. a.Tác động vào dự trữ của hệ thống ngân hàng Hành vi mua, bán chứng khoán trên thị trường mở của NHTW có khẳ năng ảnh hưởng ngay lập tức đến tình trạng dự trữ của các NHTM thông qua việc tác động tới lượng tiền gửi của các NHTM tai NHTW và tiền gửi của khách hàng tại các NHTM. Bằng việc bán các chứng khoán cho các đối tác, NHTW có thể làm giảm đi một khối lượng dự trữ tương ứng (nếu các nhân tố khác không đổi), dù người mua là NHTM hay khách hàng của nó khi tiền thanh toán cho lượng chứng khoán được ghi nợ vào tài khoản của ngân hàng tại NHTW. Trong trường hợp người mua là khách hàng của NHTM thì số tiền mua chứng khoán sẽ làm giảm số dư tiền gửi của khách hàng đó tại NHTM. Sự giảm xuống của dự trữ sẽ dẫn đến giảm khả năng cho vay của hệ thống ngân hàng và vì thế mà làm giảm khối lượng tiền cung ứng theo bội số, được đo lường bằng sự giảm xuống của số nhân tiền tệ. Hành vi mua chứng khoán của NHTW sẽ có tác động ngược lại. NHTW bán tín phiếu kho bạc à Dự trữ NHâ à Dự trữ để mở rộng cho vay â khối lượng tín dụng â à MS â Sơ đồ 1: Cơ chế tác dộng vào dự trữ của NHTM khi NHTW bán tín phiếu kho bạc. b. Tác động qua lãi suất. Hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường mở cuả NHTW có ảnh hưởng gián tiếp đến mức lãi suất thị trường thông qua 2 con đường: Thứ nhất: khi dự trữ của các ngân hàng bị ảnh hưởng nó có tác động đến cung cầu vốn của NHTW trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Đến lượt nó, cung cầu tiền trung ương thay đổi sẽ dẫn đến lãi suất thị trường tiền NHTW thay đổi. Mức lãi suất ngắn hạn này , thông qua dự đoán của thị trường và các hoạt động Arbirage về lãi suất, sẽ truyền tác động của nó đến các mức lãi suất trung và dài hạn trên thị trường tài chính. Tổng cầu AD của nền kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ được quyết định tại một mức lãi suất thị trường xác định. Thứ hai: Việc mua bán chứng khoán sẽ làm ảnh hưởng ngay đến quan hệ cung cầu về loại chứng khoán đó trên thị trường mở và do đó tác động đến giá cả của nó. Khi giá chứng khoán thay đổi, tỷ lệ sinh lời của chúng cũng thay đổi. Nếu đó là loại chứng khoán chiếm tỷ trọng lớn trong giao dịch trên thị trường tài chính thì sự thay đổi tỷ lệ sinh lời của chúng sẽ tác động trở lại lãi suất thị trường ,tổng cầu AD và sản lượng. Cung TPKB ↑––––> Giá TPKB ↓ –––––––> LS thị trường ↑––––––––––––– NHTW Đầu tư ↓ Bán TPKB Dự trữ ↓ > Cung vốn ↓ LS ngắn hạn ↑ ––––> LS NHTW thị trường Sơ đồ 2: Cơ chế tác động qua lãi suất khi NHTW bán tín phiếu kho bạc 1.2.2 Các loại nghiệp vụ thị trương mở. Trong các nghiệp vụ thị trường mở phải có sự tham gia của NHTW bởi nếu không có NHTW tham gia thì khối lượng tiền tệ nói chung sẽ không thay đổi. Việc NHTM này bán chứng khoán cho một NHTM khác, xét toàn cục, chỉ là sự dịch chuyển chứng khoán và di chuyển ngược lại của một phần dự trữ đang dư thừa từ NHTM này sang NHTM khác đang thiếu vốn mà thôi. Có hai loại nghiệp vụ thị trường mở: Nghiệp vụ thị trường mở năng động, nhằm làm thay đổi mức dự trữ và cơ số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở thụ động, nhằm bù lại những chuyển động của các nhân tố khác đã làm ảnh hưởng đến cơ số tiền tệ. Nghiệp vụ thị trường mở của NHTW thường được sử dụng theo hai cách chủ yếu là : Các giao dịch không hoàn lại và các giao dịch có hoàn lại. Các giao dịch không hoàn lại (hay các giao dịch mua bán đứt đoạn): bao gồm các nghiệp vụ mua, bán chứng khoán của NHTW theo các phương thức mua đứt bán đoạn trên cơ sở giá trị thị trường. Hình thức giao dịch này làm chuyển hẳn quyền sở hữu đối với các chứng khoán là đối tượng giao dịch. Vì vậy, ảnh hưởng của nó đối với dự trữ của các ngân hàng là dài hạn. Các giao dịch có hoàn lại (giao dịch có kỳ hạn) :Phương pháp này chủ yếu được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời là các hợp đồng mua lại (Repor). Hợp đồng mua lại được sử dụng khi NHTW thực hiện một giao dịch theo hợp đồng mua lại, có nghĩa là mua chứng khoán từ người môi giới trên thị trường, người đồng ý sẽ mua lại vào một ngay xác định trong tương lai. Hợp đồng mua lại đảo ngược được áp dụng khi NHTW muốn rút bớt dự trữ của hệ thống ngân hàng. Để đạt được mục đích này, NHTW bán chứng khoán cho người giao dịch, người đồng ý sẽ bán lại vào một ngày xác định trong tương lai. Sự chênh lệch giá bán chứng khoán tại thời điểm t=o và thời điểm t=T là lãi suất của khoản vay (Repor). Nói chung hợp đồng mua lại được sử dụng trong một thời gian rất ngắn. Thường là qua đêm với t = 1 ngày. Tuy nhiên, cũng có khi thời hạn hợp đồng mua lại dài hơn với t > 1 ngày, được coi là Repor có thời hạn. Với loại Repor mở, thời hạn t không được xác định trước mà 2 bên thoả thuận lại vào mỗi ngày.Giao dịch theo hợp đồng Repor thực chất là một khoản vay có bảo đảm bằng chứng khoán có tính thị trường cao. Các giao dịch hoàn lại được sử dụng chủ yếu trong nghiệp vụ thị trường mở vì những lý do sau đây: Thứ nhất: đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng không dự tính trước đến dự trữ của các ngân hàng. Thứ hai: chi phí giao dịch cho một hợp đồng mua lại rẻ hơn so với các hợp đồng mua bán đứt đoạn. Thứ ba: thích hợp trong trường hợp các định hướng chính sách tiền tệ không hoàn hảo dẫn đến việc sử dụng các giải pháp khắc phục. Thứ tư: làm giảm bớt thời giam thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW. Ngoài ra một loạt các nghiệp vụ khác cũng được NHTW sử dụng trong nghiệp vụ thị trường mở như: phát hành chứng chỉ nợ của NHTW, giao dịch hoán đổi các chứng khoán đến hạn, giao dịch hoán đổi ngoại tệ. 1.2.3 Phương thức hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở. Các nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua hình thức đấu thầu. Có hai loại đấu thầu: Đấu thầu khối lượng và đấu thầu lãi suất. 1.2.3.1Đấu thầu khối lượng (đấu thầu với lãi suất cố định ) NHTW niêm yết trước mức lãi suất. Các tổ chức tham gia đầu thầu chỉ việc đăng ký số tiền trên cơ sở chấp nhận mức lãi suất niêm yết. Việc phân phối thầu đối với mỗi phiên thầu có lãi suất cố định được tiến hành như sau: trước hết toàn bộ số đăng ký đặt thầu được cộng lại với nhau. Nếu tổng số đặt thầu nhỏ hơn số lượng được phân phối thì toàn bộ các đơn đặt thầu đều được phân phối. Nếu các đơn đặt thầu lớn hơn số lượng được phân phối thì các đơn đặt thầu sẽ được phân phối theo công thức sau: Tỷ lệ % phân phối thầu : K = A ∑ a i (i=1,n) Trong đó: A: Số lượng đấu thầu được phân phối. n :tổng số các tổ chức tín dụng tham gia đấu thầu Ai : số lượng đặt thầu của tổ chức i K : tỷ lệ % phân phối thầu. Số lượng trúng thầu của tổ chức i (Ti ) được tính: Ti = K . ai 1.2.3.2 Đâú thâù lãi suất. Các tổ chức tham gia đấu thầu tự đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do mình lựa chọn. Đối với đấu thầu nhằm cung ứng thêm vốn khả dụng, các số lượng đặt thầu được sắp xếp theo thứ tự và được phân phối theo các mức lãi suất từ cao xuống thấp . Nghĩa là những số lượng đăng ký thầu ứng với lãi suất cao sẽ được ưu tiên phân phối trước cho đến khi số lượng phân phối được sử dụng hết. Nếu tại mức lãi suất thấp nhất được chấp nhận, số lượng đăng ký dự thầu lớn hơn số lượng được phân phối thì quá trình phân phối được tiến hành như sau: Gọi : A : là số lượng thầu được phân phối rs : Mức lãi suất thứ s được đăng ký a(rs)i : số lượng tiền đặt thầu ứng với lãi suất rs của thành viên thứ i. a(rs) : Tổng số tiền đặt thầu với mức lãi suất rs của tất cả các tổ chức rm : Mức lãi suất cuối cùng được chấp nhận. Đối với đấu thầu để cung ứng khả năng thanh toán thì : r1 >=rs>=rm Tỷ lệ % trúng thầu được phân phối tại mức lãi suất cuối cùng k(rm)được tính bằng công thức: A – ∑a(rs) (s=1,m-1) K(rm) = ––––––––––––––––––––––––– A(rm) Số lượng trúng thầu được phân phối cho tổ chức i tại mức lãi suất rm là T(rm) được tính băng công thức T(rm) = K (rm) x A (rm) (Đối với đấu thầu để thu hút dự trữ về thì các quy trình diễn ra theo chiều hướng ngược laị ) Trong đấu thầu lãi suất NHTW có thể áp dụng dưới hình thức một giá (phương thức Hà Lan ) hoặc phương thức nhiều giá (phương thức Mỹ) . 1.2.4 Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở. Chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở không giống nhau ở từng nước. Ở những nước như Anh, Mỹ, nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch các chứng khoán chính phủ của NHTW nhưng chủng loại các chứng khoán được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở lại phong phú hơn các nước khác như Nhật Bản, Pháp, Úc. Mặt khác, có nước chỉ cho phép các chứng khoán ngắn hạn được giao dịch trong nghiệp vụ thị trường mở, trong khi các chứng khoán dài hạn lại được chấp nhận ở các nước khác. Về mặt lý thuyết, nghiệp vụ thị trường mở không giới hạn cụ thể chủng loại cũng như thời hạn các chứng khoán giao dịch, tuy nhiên những loại chứng khoán nợ chủ yếu bao gồm: Tín phiếu kho bạc. Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì : thứ nhất Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao; thứ hai được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thỏa mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Bộ Tài Chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu.Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ, vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tùy theo nhu cầu vay mượn của chính phủ. Chứng chỉ tiền gửi Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của ngân hàng hay các trung gian tài chính phi ngân hàng phát hành, xác nhận một món tiền gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với mức lãi suất xác định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn (cũng có trường hợp thời hạn lên tới 3-5 năm). Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tính ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là đảm bảo cho sức sống của nó, và do đó nó được sử dụng như là hàng hóa phổ biến cho nghiệp vụ thị trường mở . Thương phiếu. Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian xác định. Đây là giấy ghi nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ sung nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Luật và pháp lệnh thương phiếu ở các nước đảm bảo tính chất an toàn cho công cụ này bằng các quy định về điều kiện được phép phát hành thương phiếu. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu, có thể là ngân hàng ( thông qua các hành vi chiết khấu hoặc cho vay có bảo đảm bằng thương phiếu) hoặc các tổ chức phi ngân hàng trong quan hệ thanh toán trực tiếp ( cơ chế bảo lãnh của ngân hàng là là cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán của tổ chức này). Vì vậy, việc mua, bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các NHTM hoặc tiền gửi của các khách hàng tại cá NHTM. Trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong nghiệp vụ thị trường mở ở một số quốc gia bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả tín phiếu kho bạc trên thị trường tài chính. Trái phiếu chính quyền địa phương. Tương tự như trái phiếu chính phủ, nhưng trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đển trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu của chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu. Sự can thiệp của NHTW qua việc mua bán loại trái phiếu này cũng tương tự như trái phiếu chính phủ. Chính quyền địa phương phát hành trái phiếu để tài trợ cho chi tiêu của họ và thường chỉ có chính quyền địa phương lớn phát hành. Loại chứng khoán này được các nhà đầu tư ưa chuộng và các NHTM thường dùng trái phiếu này để tái chiết khấu tại NHTW. Các hợp đồng mua lại. Đây là những món vay ngắn hạn trong đó tín phiếu kho bạc được dùng làm vất bảo đảm cho tài sản Có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán nợ. Phần lớn các hợp đồng mua lại là do người kinh doanh thực hiện qua đêm. Nhà kinh doanh ngân hàng và phi ngân hàng thường vay để tài trợ cho tình hình vốn của họ. Các hợp đồng mua lại cũng có thể hiểu là các nghiệp vụ trên thị trường mở. Hàng hóa trên thị trường mở ngày càng có xu hướng đa dạng hóa , điều này phụ thuộc vào các yếu tố sau đây: Một là, do cạnh tranh trên thị trường tài chính ngày càng trở nên gay gắt, đặc biệt là dưới ảnh hưởng của xu hướng toàn cầu hóa các hoạt động tài chính và sự xuất hiện nhiều tổ chức cung cấp tài chính mới . Tình trạng này đòi hỏi các tổ chức tài chính phải tìm kiếm các công cụ mới thỏa mãn nhu cầu thu hút vốn về các mặt : thời hạn, mức độ, rủi ro, mức sinh lời và cách thức thanh toán nợ. Xu hướng này sẽ có ảnh hưởng đến sự thay đổi cơ cấu hàng hóa trên thị trường mở. Hai là, sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ ngân hàng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng phức tạp của khách hàng và mức độ khẩn trương của cuộc sống là động lực quan trọng ra đời các sản phẩm tài chính mới, có ảnh hưởng đến chủng loại hàng hóa trên thị trường mở. 1.2.5 Ưu nhược điểm của công cụ nghiệp vụ thị trường mở. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở có những ưu điểm tuyệt đối so với các công cụ khác của chính sách tài chính tiền tệ: Thứ nhất : NHTW có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Thứ hai : Đây là công cụ có tính linh hoạt và chính xác cao,có thể sủ dụng ở bất kỳ mức độ nào, mong muốn mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, NHTW cũng có thể thực hiện được bằng cách mua hợc bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng khoán. Thứ ba : NHTW dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai lầm về việc sủ dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược việc sủ dụng công cụ đó.Thí dụ , nếu NHTW thấy rằng cung ứng tiền tệ qua nhanh do đó mua quá nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán các giấy tờ có giá đó trên thị trường mở. Thứ tư : Việc thực hiện công cụ nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh chóng. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, NHTW có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch. Với những lợi thế hơn hẳn so với các công cụ khác, sau khi ra đời công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã được áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước phát triển. Tuy nhiên công cụ nghiệp vụ thị trường mở vẫn còn một số hạn chế. Nhược điểm lớn nhất của công cụ này là để nó có thể phát huy được hết hiệu quả của mình thì quốc gia đó phải có thị trường tài chính phát triển, hàng hoá của thị trường (các giấy tờ có giá) phải đa dạng và phong phú. Không những thế , NHTW phải có khả năng dự báo được mức vốn khả dụng của toàn hệ thống để có thể đưa ra quyết định mua hoặc bán, có như vậy việc can thiệp mới có ý nghĩa lớn trong việc tác động vào lượng tiền cung ứng . Ngoài ra ,khi NHTW thực hiên việc mua bán trên thị trường mở thì sẽ tác động đến lượng tiền trung ương, từ đó sẽ ảnh hưởng tới lãi suất . Vì vậy, để có thể kiểm soát được các ảnh hưởng này, NHTW phải có các giải pháp xử lý phù hợp. Điều này đòi hỏi NHTW phải rất nhạy cảm và linh hoạt trong việc phối hợp các công cụ, điều hành chính sách tiền tệ. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TRONG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM 2.1 KHÁI QUÁT VỀ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ TẠI VIỆT NAM. 2.1.1 Cơ sở pháp lý Trong luật Ngân hàng nhà nước( NHNN) ban hành năm 1997 đã xuất hiện khái niệm về Nghiệp vụ thị trường mở. Tuy nhiên đến tháng 7 năm 2000 công cụ này mói chính thức được đưa vào hoạt động NHNN ban hành qui chế nghiệp vụ thị trường mở theo quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 19-3-2000. Nội dung cơ bản của quy chế đã nêu lên được những quy định chung về hoạt động thị trường mở, các điều kiện về thành viên tham gia thị trường, điều kiện về các loại giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trường, phương thức đấu thầu, quy trình đấu thầu của nghiệp vụ thị trường mở tại Việt nam. Tiếp theo là hàng loạt các văn bản khác liên quan được ban hành như Quy trình nghiệp vụ thị trường mở, Quy định dăng ký giấy từ có._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4804.doc