Phát triển con người toàn diện, một tư tưởng đặc sắc về con người của Hồ Chí Minh

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản vô giá trong kho tàng lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đó là tư tưởng của "Người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất", người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, người thầy vĩ đại, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc và cách mạng Việt Nam. Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và

doc192 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2371 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển con người toàn diện, một tư tưởng đặc sắc về con người của Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của cách mạng Việt Nam. Việc nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn nữa tính cách mạng và tính khoa học sâu sắc cũng như giá trị to lớn, nhiều mặt của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam trước đây cũng như trong giai đoạn hiện nay là đòi hỏi cấp thiết có ý nghĩa thời đại to lớn. Lương tâm, trách nhiệm, lòng kính yêu lãnh tụ và tinh thần khoa học đã và đang cuốn hút hàng trăm nhà khoa học trong và ngoài nước say mê nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong di sản tư tưởng phong phú và vô giá của Hồ Chí Minh có tư tưởng: Phát triển con người toàn diện, một tư tưởng nhân văn rất đặc sắc. Đây là sự tiếp nối và nâng cao những giá trị tinh túy nhất tư tưởng nhân văn của truyền thống Việt Nam và thế giới. Đây cũng là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng con người của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh đã góp phần to lớn vào việc đào tạo cho dân tộc Việt Nam những người con ưu tú, đủ sức đưa dân tộc Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách hiểm nghèo, liên tục giành được những thắng lợi ngày càng to lớn, làm thay đổi tận gốc địa vị của dân tộc Việt Nam trên chính trường thế giới. Thực tế vinh quang đó đến nay đang được nghiên cứu và tổng kết. Hồ Chí Minh là bậc "Đại trí, đại nhân, đại dũng", là điển hình của con người phát triển toàn diện về thể lực, đạo đức, trí tuệ, tài năng, là hình mẫu sinh động của con người hiện tại và tương lai. Cho nên nghiên cứu, giới thiệu, phổ biến tư tưởng phát triển con người toàn diện, của một người thực sự đã phát triển mọi mặt cá nhân mình là điều cực kỳ lý thú, bổ ích. Việc làm này không chỉ cần thiết về lý luận mà còn nhằm làm cho mọi người hiểu và tiếp thu tư tưởng quan trọng này của Người, trên cơ sở đó noi gương Người, phấn đấu vươn lên, hoàn thiện bản thân mình, tạo tiền đề cho sự phát triển xã hội. Hiện nay, việc giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dạy "chữ", dạy "nghề", dạy "người" trong giáo dục ở nhà trường, gia đình, xã hội đang có sự lệch lạc khá lớn. Hầu hết chỉ chú trọng đến trang bị kiến thức khoa học, chuyên môn nghề nghiệp mà coi nhẹ việc giáo dục đạo lý làm người, trách nhiệm công dân. Điều này đang làm méo mó sự phát triển toàn diện nhân cách của một bộ phận không nhỏ thanh, thiếu niên cũng như cán bộ, Đảng viên và nhân dân, ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển xã hội. Cho nên, việc nghiên cứu tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh là hết sức cần thiết để tìm ra những định hướng đúng đắn cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, phát triển con người ở Việt Nam trong quá trình đổi mới. Sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang đi vào chiều sâu. Nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cấp thiết đang đặt ra đòi hỏi các nhà khoa học trên nhiều lĩnh vực khác nhau phải nghiên cứu và giải quyết, trong đó có vấn đề thiết kế và xây dựng chiến lược về con người thật sự khoa học, phù hợp với hoàn cảnh nước ta, nhằm phục vụ cho việc phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Đây là công việc rất khó khăn, phức tạp, muốn hoàn thành nó trước hết phải có những định hướng đúng. Trong thực tế, tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh đã, đang và sẽ cho chúng ta những chỉ dẫn quý báu, sáng suốt để xây dựng thành công chiến lược con người trong điều kiện mới, nhằm đào tạo cho đất nước những con người mới, đủ tài, đức, sức khỏe, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, nghiên cứu, làm sáng tỏ giá trị khoa học to lớn và ý nghĩa thời đại sâu sắc của tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, tìm ra những cách thức, biện pháp đúng đắn để thực hiện tốt hơn tư tưởng đó trong thực tiễn là vấn đề có ý nghĩa thời sự cấp bách. Luận án này nhằm góp phần nhỏ vào việc giải quyết những vấn đề lớn, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đó. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước nghiên cứu từ lâu, đặc biệt là sau Đại hội lần thứ VII (6-1991) của Đảng cộng sản Việt Nam. Nhà nước đã thành lập Hội đồng quốc gia nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiều đề tài khoa học cấp Nhà nước về tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nghiệm thu. Trong lĩnh vực tư tưởng nhân văn, trong vấn đề con người, nhiều nhà nghiên cứu đã công bố: - Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu, nước mạnh của Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. - Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới- In trong cuốn "Chủ tịch Hồ Chí Minh, người chiến sĩ cộng sản kiên cường..." của Võ Nguyên Giáp, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1990. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội do PGS.TS Lê Sĩ Thắng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. - Tư tưởng triết học về con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh của PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia, Chương 5 - cuốn " Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh", Nxb Lao động, Hà Nội, 2000. - Về vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh của PGS Mai Trung Hậu, Chương 5 - cuốn " Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh", Nxb Lao động, Hà Nội, 2000. - Tư tưởng triết học và thế giới quan Hồ Chí Minh của GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Chương 1- cuốn " Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh", Nxb Lao động, Hà Nội, 2000. - Giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người - cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh của TS Bùi Đình Phong, Tạp chí Lịch sử Đảng, tháng 3/1994. - Cội nguồn và bản chất tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh của PGS.TS Nguyễn Văn Huyên, Tạp chí Triết học, số 4/1996. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giai cấp và dân tộc của GS.TS Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4/1996. - "Trồng cây và trồng người" của GS Vũ Khiêu, Tạp chí Triết học, số 4/1990. - Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội của PGS.TS Phùng Hữu Phú, Tạp chí Thông tin lý luận, số 7/1990. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người của PGS Song Thành, Tạp chí Công tác khoa giáo, tháng 12/1997 v.v... Những công trình này đã nêu lên và khái quát được những nét lớn, chủ yếu của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Một số bắt đầu đi vào khai thác, nghiên cứu những khía cạnh cụ thể của tư tưởng đó và cũng đã nêu lên những ý kiến đặc sắc. Tuy nhiên, hoặc là do khuôn khổ chung của việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, hoặc do giới hạn của một bài nghiên cứu, việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về con người còn nhiều mặt, nhiều vấn đề chưa được đề cập đến. Nhu cầu về lý luận và thực tiễn hiện nay đòi hỏi phải có những chuyên khảo nhằm làm sâu sắc hơn, đầy đủ hơn tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh để cho bức tranh toàn cảnh về tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng về con người nói riêng vừa có bề rộng vừa có chiều sâu, phục vụ cho việc nhận thức, vận dụng và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, tác giả chọn đề tài: "Phát triển con người toàn diện, một tư tưởng đặc sắc về con người của Hồ Chí Minh" làm nội dung nghiên cứu của luận án này. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án a) Mục đích của luận án Làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, nhằm khẳng định giá trị khoa học của tư tưởng đó và vận dụng nó vào việc phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay. b) Nhiệm vụ của luận án Để đạt mục đích trên, luận án phải giải quyết những nhiệm vụ sau: - Làm rõ cơ sở lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện. - Luận chứng những nội dung cơ bản trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh. - Nêu lên những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn phát triển con người theo quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay. - Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về con người toàn diện vào xây dựng con người Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. 4. Phương pháp nghiên cứu - Trong quá trình nghiên cứu, luận án vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước về con người. Luận án còn sử dụng các tài liệu điều tra, công trình nghiên cứu có liên quan. - Luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là phương pháp phân tích- tổng hợp; lôgíc-lịch sử, thống kê, so sánh v.v... 5. Cái mới của luận án Luận án phân tích, hệ thống hóa và làm sáng tỏ những nội dung cơ bản tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh; góp phần làm sâu sắc thêm tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Luận án luận chứng sự cần thiết phải vận dụng và phát huy tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng con người mới ở Việt Nam hiện nay. 6. ý nghĩa luận án Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn học tư tưởng Hồ Chí Minh ở các trường đại học và cao đẳng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương, 7 tiết. Chương 1 Cơ sở lý luận của tư tưởng hồ chí minh về phát triển con người toàn diện 1.1 Tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam - cội nguồn của tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển con người toàn diện Trong những dòng chảy hợp thành của lịch sử tư tưởng Việt Nam, tư tưởng đào tạo phát triển con người là một bộ phận quan trọng, góp phần làm nên giá trị to lớn, nhiều mặt của tư tưởng truyền thống Việt Nam. Có thể nói, từ rất sớm, cha ông ta đã hết sức quan tâm đến vấn đề sống còn này của đất nước. Trải bao thăng trầm của lịch sử, bao sự hưng vong của các triều đại, tư tưởng đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam đã tỏ rõ những giá trị to lớn nhưng đồng thời cũng bộc lộ những hạn chế của nó cần phải khắc phục và vượt lên. Chúng ta biết rằng, Việt Nam là một quốc gia nằm ở cửa ngõ vào Đông Nam châu á, khí hậu khắc nghiệt, nóng lắm, mưa nhiều, bão lớn. Đó là một môi trường sống khó khăn, thiên tai thường xuyên đe dọa sự tồn vong của cả cộng đồng cũng như mỗi một cá nhân. Điều này đặt ra nhu cầu khách quan cần phải rèn luyện thân thể, phát triển thể lực đối với mọi người cũng như yêu cầu chăm sóc, bảo vệ sức khỏe cho nhân dân. Suốt mấy ngàn năm qua, nền kinh tế Việt Nam thực chất là kinh tế tiểu nông lạc hậu, dựa trên sản xuất nông nghiệp theo lối độc canh cây lúa là chủ yếu. Công nghiệp bản địa không có, thủ công nghiệp manh mún, thương nghiệp què quặt. Tư tưởng "Nhất nông vi bản" đè nặng lên toàn xã hội từ vua quan, cho đến thường dân. Những người làm kỹ nghệ, thương mại bị xếp vào loại kém nhất trong bậc thang xã hội (Sĩ, nông, công, thương). Do đó tính năng động của nền kinh tế rất kém. Trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, do nằm ở vị trí trấn giữ con đường quan trọng và thuận lợi bậc nhất vào Đông Nam á (cả đường bộ và đường biển), lại ở cạnh một quốc gia rộng lớn, luôn có tham vọng bành trướng xuống phía nam, nhân dân ta phải luôn luôn đương đầu với các cuộc xâm lược lớn đến từ phương Bắc và phương Tây. Đặc điểm đó đòi hỏi con người Việt Nam phải luôn cảnh giác, phải quan tâm đến rèn luyện sức khỏe, võ nghệ, kỹ năng chiến đấu, đặc biệt là tinh thần sẵn sàng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức, nghĩa vụ, trách nhiệm, đạo làm người được cha ông ta hết sức coi trọng. Hơn nữa, điều kiện kinh tế thấp kém, khoa học kỹ thuật lạc hậu nên phương tiện kỹ thuật phục vụ cho chiến đấu kém tinh xảo, do đó các yếu tố thuộc về năng lực tinh thần được đề cao và chiếm vị trí quan trọng bậc nhất trong nội dung đào tạo và phát triển con người của cha ông ta. Cũng do nằm ở vị trí gặp gỡ, giao thoa của các nền văn hóa lớn: Văn hóa ấn Độ, văn hóa Trung Hoa và sau này là văn hóa Pháp, nên về đời sống tinh thần, tư tưởng chịu ảnh lớn của Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo và Ki-tô giáo. Trong lĩnh vực đào tạo, phát triển con người cho chế độ phong kiến Việt Nam, Nho giáo có ưu thế hơn các tôn giáo khác bởi nó có một hệ thống phạm trù, khái niệm khá hoàn chỉnh để giáo dục, đào tạo, phát triển con người với nội dung khá sâu sắc. Hơn nữa, Nho giáo còn xây dựng được mẫu người lý tưởng cho xã hội phong kiến đó là những người "quân tử ", những " kẻ sĩ ", những "đại trượng phu" mà ở họ các năng lực, phẩm chất về mặt tinh thần được coi trọng và đề cao. Điều này khá phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội cũng như tư tưởng, tâm lý của dân tộc Việt Nam vốn đề cao đạo làm người, tôn vinh tinh thần xả thân vì Tổ quốc và nhân dân của các thành viên trong cộng đồng. Nho giáo còn đề ra những phương sách cụ thể để đào tạo phát triển con người, trong đó nhấn mạnh yếu tố tự giác "tu thân" của các cá nhân - có ý nghĩa quyết định - đó là điều đáng ghi nhận trong lý luận giáo dục, đào tạo, phát triển con người bởi nó đề cao tính chủ động của con người trước hoàn cảnh. Trong quá trình hoàn thiện và phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam, Nho giáo ngày càng chiếm vị trí quan trọng và trở thành hệ tư tưởng chính thống của giai cấp phong kiến Việt Nam. Nó là cơ sở của thế giới quan và phương pháp luận chỉ đạo giai cấp phong kiến Việt Nam trong việc thiết kế bộ máy nhà nước, quản lý xã hội, là định hướng cơ bản cho việc xây dựng và phát triển con người của xã hội Việt Nam trong suốt hơn một ngàn năm qua. Nảy sinh và phát triển trên mảnh đất hiện thực đó, đồng thời bị qui định bởi những điều kiện mang tính khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, tư tưởng đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam đã góp phần quan trọng đào tạo cho đất nước, cho các triều đại phong kiến Việt Nam không ít những người "văn võ song toàn" những người "hiền tài", những anh hùng dân tộc, có đóng góp lớn cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước, làm rạng danh dân tộc, dòng họ và gia đình, để lại tấm gương muôn đời về lòng yêu nước, thương người, về tinh thần kiên cường, bất khuất, sự mưu trí dũng cảm, tinh thần quên mình vì dân vì nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn, Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung, Nguyễn Trung Trực, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… Họ là niềm tự hào của dân tộc. Tuy nhiên, tư tưởng đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam, qua thử thách của lịch sử cũng đã bộc lộ những hạn chế của nó. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của dân tộc, nhất là ở những thời điểm mang tính chất bước ngoặt. Nghiên cứu triết lý, nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của ông cha ta trong suốt chiều dài lịch sử, chúng ta thấy những điểm chủ yếu sau: Thứ nhất: Thế giới quan, phương pháp luận chi phối nhận thức nguồn gốc, bản chất con người của cha ông ta suốt hơn một ngàn năm kể từ sau chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất (938) trở đi là thế giới quan mang tính chất tôn giáo như Phật, Nho, Lão. Trong đó Nho giáo - với tư cách là hệ tư tưởng chính thống của nhiều triều đại - có ảnh hưởng to lớn và lâu dài nhất. Theo Nho giáo (Khổng tử) con người là kết quả bẩm thụ tinh khí của âm dương, trời đất mà thành. Vì vậy, con người phải tuân theo "thiên lý", hợp với đạo "trung hòa". Con người sống hay chết, giàu hay nghèo, thành hay bại… đều do "thiên mệnh" quy định. Trong "Luận ngữ" Khổng tử viết: "Sống chết có mệnh, giàu sang do trời " (Luận ngữ - Nhan Uyên). Nếu như Khổng Tử cho rằng, con người khi mới sinh ra bản tính đều giống nhau, nhưng quá trình sống đã dẫn đến sự phân hóa bản tính của nó ''tính tương cận, tập tương viễn" thì Mạnh tử lại coi "bản tính con người là thiện", còn Tuân tử khẳng định con người vốn "tính ác". Mặc dù có cách nhìn nhận khác nhau về bản tính, bản chất con người, coi nó là bẩm sinh nhưng các đại biểu của Nho giáo đều cho rằng có thể thay đổi được tính xấu, giữ được tính tốt cho con người nếu biết giáo dục, đào tạo, phát triển con người một cách đúng đắn. Vì thế, Nho giáo đã đề ra phương châm, tư tưởng: "Hữu giáo vô loài"; "dạy không biết mỏi, học không biết chán" để "tồn tâm, dưỡng tính, dưỡng khí" trau dồi đức "nhân", nâng cao phẩm chất, năng lực cho con người, góp phần tạo nên những hiền nhân, quân tử, những đại trượng phu cho giai cấp phong kiến. Mặc dù Nho giáo khi vào nước ta đã bị "Việt Nam hóa" cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với truyền thống văn hóa và tâm lý của dân tộc ta, song, thế giới quan Nho giáo vẫn ảnh hưởng lớn đến các quan niệm, cách nhìn nhận về nguồn gốc bản chất con người của cha ông ta theo hướng duy tâm chủ quan. Thực tiễn cho thấy, nếu không hiểu đúng đắn vấn đề này thì sẽ không có cơ sở để tác động có hiệu quả vào quá trình đào tạo, phát triển con người nhằm hoàn thiện và nâng cao phẩm chất, năng lực về mọi mặt của mỗi cá nhân, phục vụ cho sự phát triển của đất nước. Thứ hai: Lý luận về giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam được thể hiện qua triết lý và nội dung giáo dục, đào tạo cũng như mẫu người lý tưởng mà giai cấp phong kiến Việt Nam nêu lên, định hướng cho việc xây dựng và phát triển con người ở nước ta trong suốt một ngàn năm qua. Khi phân tích triết lý phát triển con người của cha ông trong suốt chiều dài lịch sử, chúng ta thấy sự ảnh hưởng ngày càng nặng nề của Nho giáo, của mẫu người ''quân tử'' đối với quan niệm giáo dục, đào tạo, phát triển con người của giai cấp phong kiến Việt Nam. Tuy rằng trong thực tế, sự hình thành và phát triển của con người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng của Phật giáo, của Đạo giáo và đặc biệt là truyền thống yêu nước, bất khuất, sự cần cù, khéo léo, thông minh, tinh thần vượt mọi khó khăn và lòng thương yêu con người của dân tộc Việt Nam... Một trong những nội dung quan trọng của tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người mà cha ông ta hết sức chú trọng đó là giáo dục, bồi dưỡng đạo lý làm người. Con người với tư cách là chủ thể của xã hội bao giờ cũng là tác nhân quan trọng nhất của mọi sự vận động và biến đổi xã hội. Hành động của con người trong xã hội không những bị chi phối bởi điều kiện khách quan mà còn chịu sự tác động rất lớn của nhân tố chủ quan như lý tưởng, quan điểm sống, trình độ hiểu biết, năng lực thực tiễn, nhu cầu, lợi ích... Vì vậy, để có những con người sẵn sàng xả thân vì quê hương, đất nước, vì cuộc sống yên lành của nhân dân, vì tương lai tươi sáng của dân tộc, sống trung thực, nhân nghĩa, thủy chung, có ý chí, năng lực làm những việc "ích quốc, lợi dân" thì gia đình, nhà trường và xã hội phải quan tâm giáo dục con người về mọi mặt. Con người khi đã ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình đối với cộng đồng, gia đình, anh em, bè bạn... thì họ sẽ tự nguyện, tự giác đứng ra gánh vác những nhiệm vụ khó khăn, gian khổ mà Tổ quốc và nhân dân giao phó, không tính toán "được", "mất", "thiệt", "hơn" thậm chí cả sự hy sinh của bản thân. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng đạo lý làm người của ông cha ta là sự kết hợp những giá trị văn hóa, văn hiến dân tộc như "thương người như thể thương thân", "bầu ơi thương lấy bí cùng","lá lành đùm lá rách", "uống nước nhớ nguồn", "ăn quả nhớ người trồng cây"; là nhân nghĩa thủy chung, sắt son; là tinh thần đoàn kết để vượt qua những khó khăn thử thách "một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao"; là tinh thần kiên cường, bất khuất "chết vinh còn hơn sống nhục"... với những tư tưởng "từ bi, hỷ xả", "cứu khổ, cứu nạn" của Phật giáo; "vô vi" của Lão giáo; "tam cương, ngũ thường","nhân nghĩa", "cần, kiệm, liêm, chính", "tứ đức"... của Nho giáo. Tất cả hợp quyện lại tạo thành những nội dung cơ bản để giáo dục, bồi dưỡng lẽ sống, niềm tin, cách xử thế cho các thế hệ người Việt Nam, trong đó, triết lý nhân sinh của Khổng giáo giữ địa vị ngày càng quan trọng. Có thể nói, chế độ phong kiến càng được củng cố thì tư tưởng, quan niệm của Nho giáo càng giữ vị trí quyết định trong nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam. Trong nội dung giáo dục đạo làm người, cái mà cha ông ta hết sức coi trọng đó là giáo dục con người giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề "trung", "hiếu", với "ái quốc". "Trung" là khái niệm của Nho giáo, phản ánh một trong ba mối quan hệ rường cột của xã hội phong kiến (tam cương), đó là quan hệ vua-tôi. Quan hệ vua - tôi là quan hệ có tính chất phụ thuộc, tôi phải phục tùng vua không điều kiện, thậm chí vua bảo chết cũng không được từ. Chữ ''hiếu'' đối với Nho giáo cũng rất quan trọng. Nó được coi là nền tảng triết lý, là điều bất khả xâm phạm trong quan hệ của con cái với cha mẹ. Con có hiếu với cha mẹ, em kính nể anh chị được coi là đức tính quý báu, là tình cảm tất yếu, tự nhiên của con người. Chữ hiếu đi liền với chữ trung. Chữ tình phải nhẹ hơn chữ hiếu. Mặc dù đạo hiếu trong Nho giáo rất khắt khe, có phần độc đoán, song nó cũng có những điểm đáng trân trọng, giữ gìn, kế thừa và nâng cao. Trong quá trình dùng Nho giáo để ý thức hệ hóa tư tưởng chính trị của xã hội Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam đã lấy khái niệm "trung", "hiếu" làm trụ cột để xây dựng mối quan hệ "quân - thần", "phụ - tử". Dù không còn khắc nghiệt như trong xã hội phong kiến Trung Hoa - do bị khúc xạ bởi tâm lý, tư tưởng, truyền thống chính trị của nhân dân Việt Nam - song, khái niệm "trung", "hiếu" vẫn cột chặt suy nghĩ và hành động của xã hội, của con người với vua chúa, với đấng sinh thành, tạo nên một tâm lý và phương cách xử sự có lợi cho việc duy trì, củng cố chế độ phong kiến nói chung và quyền lực của các vị vua chúa cũng như của những người đứng đầu trong gia đình nói riêng. Vì thế, ''trung'', ''hiếu'' là một trong nhưng tiêu chuẩn hàng đầu mà các triều đại phong kiến nêu ra khi tuyển chọn nhân tài, tuyển chọn các tầng lớp quan lại cũng như là nội dung chủ yếu để giáo dục, đào tạo các nho sinh. Hội thề đền Đồng Cổ (4/4 âm lịch) hàng năm của các quan lại thời Lý - Trần đã ghi: "Làm tôi bất trung, ai trái lời thề thần minh giết chết". Cùng với việc giáo dục " trung quân", ''hiếu nghĩa'', cha ông ta cũng hết sức coi trọng giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu nước cho mỗi người Việt Nam. Có thể nói, yêu nước là giá trị hàng đầu trong bảng giá trị của truyền thống dân tộc Việt Nam. Chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam, những kẻ phản bội Tổ quốc được coi là người sống có đạo lý, trong khi đó, có những người dấy binh chống triều đình, chống lại vua chúa - nhất là những tên bạo chúa - vẫn được nhân dân phụng thờ. Nho giáo nguyên nghĩa không dạy người ta yêu nước, song số đông những người Việt Nam dù xuất thân từ cửa Khổng, sân Trình vẫn là những người có tinh thần yêu nước cao, luôn quan tâm đến vận mệnh của đất nước và lợi ích của quốc gia. Trần Hưng Đạo - một hiền tài đời Trần, không vì chữ "hiếu" mà theo lời trăng trối của cha giành lại ngôi vua về tay mình, dù lúc ấy ông có tất cả điều kiện để thực thi ý tưởng đó của cha là Trần Liễu. Bởi hơn ai hết, ông hiểu trong cảnh nước sôi lửa bỏng, vận mệnh đất nước đang lâm nguy trước sự xâm lược của quân Nguyên - Mông thì cái cái chính yếu của tất cả con dân nước Việt lúc này là phải đánh giặc cứu nước. Trần Hưng Đạo đã hành động theo tiếng gọi của non sông chứ không theo lời trăng trối của người cha ích kỷ. Vào đầu thế kỷ 15, đất nước ta bị quân Minh đô hộ, hầu hết triều thần nhà Hồ bị bắt và đưa về phương Bắc. Trong tình cảnh đau thương đó vẫn sáng ngời lên lòng yêu nước của con người Việt Nam. Cuộc chia ly giữa Nguyễn Trãi với cha là Nguyễn Phi Khanh cùng lời nhắc nhở, dặn dò của ông với Nguyễn Trãi: Không nên đi theo cha mà cần phải quay về lo cứu dân, cứu nước, đó mới là chữ "hiếu" lớn nhất. Những lời tâm huyết đó của hiền nhân Nguyễn Phi Khanh đã góp phần quan trọng làm nên một anh hùng dân tộc, một nhà văn hóa lớn của Việt Nam và thế giới: danh nhân Nguyễn Trãi. Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp, Phan Huy ích… thế kỷ 18 đều là những người trưởng thành dưới triều Lê. Sự mục nát của nhà Lê mà đỉnh cao của nó là việc Lê Chiêu Thống vì lợi ích của dòng họ và bản thân đã bán rẻ đất nước cho nhà Thanh. Trong bối cảnh đó, lòng yêu nước đã đưa các ông vượt qua chữ "trung" thông thường để đến với anh hùng áo vải Quang Trung - người đang đại diện cho tinh thần quật cường của dân tộc - Công lao của hiền tài Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp, trong việc đại phá quân Thanh, bảo vệ non sông, đất nước cũng như giúp Quang Trung kiến thiết lại nước nhà, đã được sử sách cũng như nhân dân ghi nhận một cách sâu sắc. Nửa cuối thế kỷ XIX, khi triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, một mặt liên tiếp cắt đất dâng cho thực dân Pháp xâm lược, mặt khác lại ra lệnh cho nhân dân các địa phương phải bãi binh, ngừng chiến đấu. Trong bối cảnh đó, danh tướng Trương Công Định đã khẳng khái tuyên bố: Triều đình hòa nghị thì cứ hòa nghị, việc của Định thì Định cứ làm, Định không nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm. Và ông kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiếp tục kháng chiến. Điểm qua một số trường hợp cụ thể của các vị hiền nhân Việt Nam - những người được giáo dục, đào tạo khá kỹ lưỡng về đạo làm người - trong việc xử lý mối quan hệ giữa "trung", "hiếu" với "ái quốc", chúng tôi, một mặt muốn khẳng định: yêu nước là một trong những phẩm chất hàng đầu của con người Việt Nam, mặt khác cũng muốn chứng minh rằng, nền giáo dục phong kiến Việt Nam dù chịu ảnh hưởng khá nặng nề của Nho giáo vẫn tạo ra được lớp người biết vượt qua những quan niệm chật hẹp về "trung", "hiếu" của Nho giáo, biết hướng tới quyền lợi chung của cả dân tộc, đem hết tài năng, sức lực để xây dựng và bảo vệ đất nước, đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên quyền lợi của gia đình, dòng họ. Giáo dục nhân nghĩa, thương dân, coi trọng dân. Nội dung kiến thức về nhân nghĩa mà hệ thống giáo dục dưới chế độ phong kiến Việt Nam trang bị cho con người là sự kết hợp những tư tưởng, quan điểm ''nhân nghĩa'' của Nho giáo với tư tưởng "từ bi, bác ái,'' của Phật giáo và lối sống nhân nghĩa, biết ơn ông bà, cha mẹ, kính trên nhường dưới, yêu làng xóm quê hương của nhân dân ta, trong đó hạt nhân là tư tưởng nhân nghĩa của Khổng tử, Mạnh tử. Nhân là lòng thương người, là tình cảm trung hậu với vạn vật, là lòng mong muốn cho vạn vật bao giờ cũng có cái khoái lạc sinh sống ở trên đời. Nghĩa là điều mà con người phải làm trong bất cứ hoàn cảnh nào, không vụ lợi. Ông cha ta cho rằng, có lòng nhân nghĩa mới hợp quần với nhau, coi nhau như anh em, xem cả đoàn thể như một người, cả vũ trụ như nhất thể. Đã như một người thì hễ có chỗ nào đau là cả người thấy khó chịu. Người bất nhân, bất nghĩa thì chẳng khác gì người mắc bệnh tê, thân thể đau ở đâu cũng không hay biết. Người không có nhân nghĩa thì ai đau khổ thế nào, bị tai nạn ra sao cũng dửng dưng không hề có cảm động chút nào. Còn theo Mạnh tử, nhân nghĩa là bản năng cố hữu của tâm. Khi có nhân ở trong tâm thì tự nhiên có ái biểu hiện ra ở hành vi. Khi có lòng trắc ẩn thì tự nhiên có lòng tu, ố (xấu hổ, ghét), có lòng từ nhượng (nhường nhịn), có lòng thị phi (biết phải trái). Đó là bốn đầu mối của đạo làm người: nhân, nghĩa, lễ, trí. Ông chủ trương phải hết sức khuếch trương các nhân tính của con người. "Phàm người ta là có bốn đầu mối ở mình thì mở rộng cho đầy đủ, cũng như lửa bắt đầu cháy, suối bắt đầu tuôn, nếu có thể sung mãn được bốn mối lớn ấy thì đủ giữ được bốn bể" (Mạnh tử - Công Tôn Sửu) Trước Mạnh Tử, Khổng Tử cũng đã nêu rõ đức nhân ở người quân tử. Đó phải là người thực hiện đạo trung thứ tức là "Cái gì mình không muốn làm thì đừng làm cho người khác" (Kỉ sở bất dục vật thi ư nhân) và "Cái gì mình muốn dựng lên thì dựng cho người khác, cái gì mình muốn đạt được thì làm cho người đạt" (Kỉ dục lập nhi lập nhân, kỉ dục đạt nhi đạt nhân). Làm được điều trên là đạo thứ, làm được điều dưới là đạo trung. Nhân là cái gốc lớn của phép sinh hóa trong vũ trụ, thế gian nhờ đó mà đứng, vạn vật nhờ đó mà sinh, quốc gia nhờ đó mà còn, lễ nghĩa nhờ đó mà phát hiện ra. Nhân nghĩa là cái chuẩn, là lý tưởng mà con người muốn thành người quân tử phải phấn đấu để đạt tới. Bởi vậy, Khổng Tử khuyên: "Người quân tử trong khoảng bữa ăn cũng không trái nhân, vội vàng cũng phải nhân, hoạn nạn cũng phải theo nhân" [123, tr. 58]. Một trong những nội dung chủ yếu của tư tưởng giáo dục, đào tạo con người của cha ông ta đó là giáo dục tình thương yêu đồng loại, thương yêu nhân dân, những "dân đen", "con đỏ". Trong cách nhìn của cha ông về nhân cách con người, cái nổi bật đầu tiên chưa phải là tài năng mà là đạo đức, thái độ với đồng bào. Đạo đức của con người được biểu hiện qua nhiều khía cạnh, hành vi cụ thể, nhưng trước hết (và là cái quan trọng bậc nhất) đó là thái độ và hành vi với đồng loại, với những người cùng mẹ Âu Cơ sinh ra. Nói thương dân, thương đồng bào mà chỉ dừng lại ở khẩu đàm thì chưa đủ, thậm chí còn vô nghĩa. Cái chính là phải biết hiện thực hóa lòng yêu thương nhân dân bằng những việc làm cụ thể trong thực tiễn. Cha ông ta đã rất có lý khi cho rằng cần phải kiểm chứng, đánh giá con người qua hành động thực tiễn của họ. Một người chỉ được coi sống có đạo lý khi việc làm của người đó giúp ích cho nước, cho dân, biết coi trọng nhân dân, luôn ra sức phấn đấu đem lại cho nhân dân một cuộc sống ngày càng no đủ. Lịch sử Việt Nam đã ghi lại vô vàn những tấm gương về lòng yêu thương nhân dân của những bậc "vua sáng", "tôi hiền","sĩ tốt", như Lê Hoàn, Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Du, Quang Trung, Phan Bội Châu... Họ là những người luôn quan tâm đến cuộc sống của nhân dân, chú trọng thực thi các chính sách "thân dân", "khoan thư sức dân", nhằm tạo lập cho nhân dân một cuộc sống ngày càng tốt đẹp để "khắp thôn cùng xóm vắng không còn tiếng oán sầu". Để kiểm chứng, đánh giá thái độ, quan điểm, lòng yêu thương nhân dân của các vị quan lại, cha ông ta đã thực thi nhiều chính sách biện pháp rất cụ thể. Ví dụ, Lê Thánh Tông - vị vua anh minh của dân tộc - trong thời gian trị vì của mình đã định lệ ba năm khảo hạch các vị quan lại - những kẻ "chăn dân" thay triều đình - một lần, với ba tiêu chí: Có được nhân dân yêu mến không. Có lòng yêu nhân dân không. Trong hạt có dân trốn đi nơi khác không ? Nếu vị quan nào lười biếng, yếu hèn, đê tiện, không quan tâm đến đời sống nhân dân, ăn hối lộ, ức hiếp nhân dân thì bị xử phạt nặng, những ai được dân yêu mến sẽ trọng thưởng [123, tr. 63-64]. Giáo dục đức dũng, sống ngay thẳng, trong sạch, tôn trọng lẽ phải. Sống trong sạch, ngay thẳng, dám đương đầu chống lại cái sai, bảo vệ cái đúng là phẩm chất quan trọng của những con người mà cha ông ta mong muốn đào tạo. Đây cũng là yêu cầu, tiêu chuẩn đặt ra của xã hội, của thể chế chính trị đối với hệ th._.ống giáo dục trong chế độ phong kiến Việt Nam. Không thể có một xã hội "thái bình, thịnh trị" nếu trong xã hội đó những người cầm quyền, những người "chăn dân" rặt những kẻ bất tài, vô đạo đức, tham lam, xu nịnh, nhu nhược… Vì vậy, trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, các triều đại đều coi trọng sự trong sạch, trung thực, ngay thẳng của tầng lớp quan lại và có nhiều biện pháp để kiểm tra, giám sát, cổ xúy cho sự liêm khiết của những "phụ mẫu chi dân". Để làm được "tôi hiền" trước hết phải sống trong sạch, không tham lam. vơ vét nhũng nhiễu nhân dân. Trong bối cảnh chế độ phong kiến, khi tầng lớp tham gia bộ máy thống trị nắm trong tay nhiều quyền lực thì giữ được sự thanh liêm không phải dễ. Tầm cao, sự hơn người của người "tôi hiền", "sĩ tốt" là tự mình biết vượt qua những cám dỗ đời thường đó để sống trong sạch, chính trực. Hơn thế nữa, bản thân sự trong sáng trong đời sống cá nhân, cho phép người ta dám nói lên sự thật, dám đấu tranh cho cái đúng, cái thiện, chống lại cái sai, cái xấu xa vốn tồn tại phổ biến trong chế độ phong kiến. Lịch sử Việt Nam còn ghi lại những hình ảnh tiêu biểu của các bậc hiền tài nổi tiếng cương trực, có tiết tháo, không khuất phục trước cường quyền, dám lên tiếng can ngăn, phản đối sự tàn ác của những kẻ cầm quyền, những thói hư tật xấu trong xã hội, dũng cảm bảo vệ công bằng và lẽ phải như: Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ… Các vị đó là sản phẩm tiêu biểu của một nền giáo dục luôn coi trọng và đề cao việc bồi dưỡng đức dũng, lối sống ngay thẳng, liêm chính, trung thực của dân tộc Việt Nam. Giáo dục trí dục, đề cao tinh thần hiếu học là một trong những nội dung quan trọng của tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam. Cha ông ta cho rằng con người muốn đạt tới những đức tính cao đẹp, muốn hiểu thấu đáo đạo lý làm người thì cần phải học, bởi ''nhân bất học bất tri lý''. Những đức tính đó là Nhân, Trí, Tín, Trực, Dũng, Cương, song nếu không học để hiểu rõ lẽ phải trái thì kết quả đạt được sẽ có thể ngược lại. Theo quan điểm của cha ông ta, "nhân" mà không học thành ngu; "trí" mà không học thành phóng đãng; "tín" mà không học thành hẹp hòi, cố chấp; "trực" mà không học thành ngang ngạnh; "dũng" và ''cương'' mà không học thành loạn. Vì vậy, việc giáo dục kiến thức về mọi mặt, nâng cao sự hiểu biết cho mọi người để họ nhận thức được lẽ phải, trái, hiểu thấu đạo làm người là vấn đề vô cùng quan trọng để con người nhận thức đúng đắn, hành động tích cực, phấn đấu hết sức mình cho sự phồn vinh của đất nước và hạnh phúc của nhân dân. Hiếu học là truyền thống lâu đời của nhân dân ta. Truyền thống đó được cha ông ta hết sức coi trọng. Vì vậy, trong nội dung giáo dục đạo làm người, cha ông ta rất chú ý giáo dục, bồi dưỡng lòng hiếu học, tinh thần vượt mọi khó khăn để học tập của con người Việt Nam. Nhằm động viên, khuyến khích mọi người hăng hái học tập, cha ông ta đã sáng tạo ra nhiều hình thức biểu dương, cổ vũ như: Vào những ngày sóc, vọng hàng tháng (mùng 1 và ngày rằm) trường Quốc Tử Giám và các trường học ở huyện, tỉnh thường tổ chức các cuộc khảo khóa, bình văn. Những văn bài hay của các nho sĩ được đem đọc và bình luận, khen chê. Điều này có tác dụng to lớn cổ vũ học trò, sĩ tử say mê, cố gắng học tập đồng thời lôi cuốn mọi người hăng hái tham gia học tập, rèn luyện văn chương, võ nghệ. Các hình thức nêu danh, yết bảng các sĩ tử thi đỗ, việc khắc tên vào bảng vàng, bia đá, việc tổ chức lễ vinh quy bái tổ cho các ông nghè về làng cùng với sự ban thưởng ân tứ của vua đã cổ vũ lớn lao cho việc học. Giáo dục nền nếp, trật tự, kỷ cương, gia phong. Chính danh định phận là một trong những tư tưởng quan trọng của học thuyết Nho giáo và đây cũng là cơ sở của nội dung giáo dục trật tự, kỷ cương, gia phong cho con người của giai cấp phong kiến Việt Nam. Danh phận đã định rõ thì người nào có vị thế của người đó, trên ra trên, dưới ra dưới, theo trật tự phân minh, "vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con", đó là nguyên tắc, là tôn ti trật tự trong mỗi gia đình cũng như ngoài xã hội. Vì vậy, giáo dục tôn ti, trật tự, kỷ cương, gia phong là nội dung quan trọng mà cha ông ta rất quan tâm khi xây dựng những nhận thức về đạo lý làm người cho các thế hệ người Việt Nam. Điều này có tác dụng không nhỏ trong việc giữ gìn sự ổn định của xã hội, làng xóm, gia đình. Thứ ba: Trong quá trình thực thi việc đào tạo, phát triển con người, giai cấp phong kiến Việt Nam đã sử dụng một phương pháp giáo dục, đào tạo dựa trên các phương pháp của Nho giáo là chủ yếu. Chúng ta biết rằng, bất kỳ một phương pháp nhận thức và hành động nào của con người cũng đều bị chi phối bởi một thế giới quan và phương pháp luận nhất định. Trong xã hội phong kiến Việt Nam, hệ tư tưởng chỉ đạo giai cấp phong kiến Việt Nam là Nho giáo. Mặc dù chịu tác động không nhỏ của những quan điểm giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam, nhưng về cơ bản, nền giáo dục phong kiến vẫn sử dụng những biện pháp giáo dục, rèn luyện con người của Nho giáo vào thực tiễn đào tạo, phát triển con người ở nước ta. Qua các tài liệu sử học và giáo dục học đã được công bố, chúng ta có thể khái quát lại một số nội dung chủ yếu trong phương pháp giáo dục, đào tạo con người dưới chế độ phong kiến nước ta Điều này được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau: Về phương pháp trí dục: + Học tự kết hợp: Nguyên tắc kết hợp học tập với độc lập suy nghĩ. "Học mà không nghĩ thì mờ tối, chẳng hiểu gì, nghĩ mà không học thì khó nhọc mất công không" (Luận ngữ). + Dụ đạo khải phát: Dạy học dùng cách ví von, hỏi han, hướng dẫn, khêu gợi, mở mang để người học tìm ra chân lý, giáo dục cho người học không chịu ảnh hưởng của dư luận mà tự mình suy xét ra kết luận. + Nhân tài thi giáo: Dạy học tùy theo đối tượng. Tùy trình độ môn sinh, dạy mỗi người một khác, không đồng loạt. Do vậy, dù ở trình độ nào,học trò cũng có thể tiếp thu được. + Học nhi thời tập: Học đi đôi với thực hành. Con người phải giữ tâm trung chính, việc làm thành thực, để sự biết và việc làm hợp làm một. Đó là trí mà hành, hành mà trí vậy. Học phải chuyên tâm trí, không hời hợt. Học điều thiện để thực hành chứ không chỉ nói ra miệng mà thôi. ở nhà trường cũ, hành ở đây chủ yếu là về đạo đức, tư cách. + Hiếu học, lạc học: Người đi học phải có chí, chí đã lập thì phải kiên định, không thấy khó mà sợ, không thấy lâu mà nản. Phải bồi dưỡng ý chí, niềm tin, lòng say mê, tinh thần ham học, yêu thích học tập cho con người theo tinh thần mà Khổng tử dạy: "Biết mà học không bằng thích mà học, thích mà học không bằng vui say mà học" (Luận ngữ - Ung giã), "Muốn sự học có vui thú thì phải luyện tập luôn. Học mà cứ buổi buổi tập luôn, thì trong bụng lại không thỏa thích hay sao" (Luận ngữ - Học nhi). Về phương pháp đức dục Các phương pháp trí dục trên thường bao gồm cả đức dục. Song, đi sâu vào việc giáo dục đức dục, ông cha ta còn chú trọng đến nhiều phương pháp khác như: + Tự tu dưỡng, học tập theo con đường khắc kỷ, đó là: - Tự tụng: Thường xuyên tự biện luận với mình về tri thức và hành vi đạo đức, dựa trên chuẩn mực của các sách kinh điển, của xã hội, từ đó ngày càng tiếp cận không chỉ với những nguyên lý của học thuyết mà còn với hiện thực đời sống xã hội. - Tự kiểm: Tự kiểm điểm khi chỉ có riêng mình để thử thách mình về sự thành ý, chính tâm. Rèn luyện không để sự tức giận, sợ hãi, vui mừng lấn át khiến cho không nhận ra lẽ phải trái. - Tự trách: Tự đòi hỏi mình với yêu cầu ngày càng cao mỗi khi gặp thất bại, bao giờ cũng tìm nguyên nhân tự bản thân chứ không tìm lý do khách quan (Tiên trách kỷ, hậu trách nhân). - Tự giới: Tự răn mình, tự ngăn cấm mình không vi phạm những thói hư tật xấu. -Thận ngôn: Nói năng phải luôn thận trọng. - Vô tranh: Không tranh giành với ai, có ý thức nhường nhịn người khác. + Quan nhân: Người học phải quan sát người để xét mình, chú trọng học gương tốt của thánh hiền, của người xưa để rút ra bài học cho bản thân. + Kết giao bằng hữu: Chọn bạn tốt để cùng nhau học tập "quân tử lấy văn mà họp bạn, lấy bạn mà giúp mình làm điều nhân" (Luận ngữ - Nhan Uyên). Ông cha ta đã dạy lớp lớp con cháu rằng: bạn với người trung chính thì sẽ học được điều hay, bạn với kẻ gian tà thì sẽ nhiễm điều dở. Bởi thế phải "chọn bạn mà chơi". + Thân giáo trọng ư ngôn giáo: Sự làm gương của người thầy quan trọng hơn lời giảng. Muốn vậy, người thầy cũng phải luôn luôn tu dưỡng, học hỏi để có tri thức uyên bác. Thầy biết mười chỉ để dạy một. Kết hợp chặt chẽ đức dục với trí dục Trẻ cắp sách đến trường là tiếp thu chữ nghĩa của thánh hiền. Bởi vậy việc học được coi là điều rất quan trọng. Xin học cho con, cha mẹ phải lễ gia tiên ở nhà, chọn ngày lành tháng tốt sửa lễ đến nhà thầy xin học. Thầy đồ trước khi nhận học trò mới, lại phải cáo gia tiên và đức Khổng Tử, có khi lễ tại văn chỉ làng. Sau buổi lễ khai tâm, đứa trẻ từ nay phải sống và học tập theo nề nếp. Một thời gian dài, trước khi học chữ, đứa trẻ phải học cách khoanh tay chào hỏi, cách đi đứng, nói năng lễ độ đối với thầy với bạn, với cha mẹ, ông bà, anh chị ở nhà, với mọi người trong làng xóm. Đi học phải có thái độ chăm chỉ, cần mẫn, bài học phải thuộc, bài làm phải đủ. Lười biếng là bị phạt bằng đòn roi, quỳ ở góc nhà hoặc chui qua háng của trưởng tràng. Lại phải hết sức coi trọng sách vở, chữ nghĩa của thánh hiền. Nhặt được tờ giấy có chữ phải đốt đi… Khi đã qua tiểu học trở thành một nho sĩ, phải chú ý từ cách ăn mặc quần áo, khăn, giầy, đi đứng khoan thai, nói năng lễ độ, cư xử nho nhã, đúng mực. Vậy là phải học lễ rồi mới học văn. Đức và trí kết hợp chặt chẽ, tri và hành đi đôi với nhau. Quá trình tu dưỡng, học tập đó có sự giám sát của thầy, của bạn, của hội đồng môn ở trường, có sự chỉ bảo của cha mẹ, ông bà, anh chị, của họ tộc, của gia pháp, gia phong ở nhà, ở làng xã thì có hương ước, hội tư văn, và có dư luận khen chê của xã hội. Có thể nói, việc giáo dục, đào tạo, phát triển con người dưới chế độ phong kiến Việt Nam bước đầu cũng đã có sự kết hợp của gia đình, nhà trường và xã hội. Gạt bỏ những mặt hạn chế, khiếm khuyết, tiêu cực, nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, có thể nói, nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông ta đã góp phần vô cùng quan trọng đào tạo ra biết bao người con ưu tú, những "hiền tài", có đóng góp hết sức to lớn vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước của dân tộc Việt Nam trong suốt hơn một ngàn năm qua. Sinh trưởng trong một gia đình Nho học (ông ngoại là thầy dạy chữ Hán, bố là một vị đại khoa), ở một vùng quê nổi tiếng với truyền thống hiếu học, cần học. Bản thân Hồ Chí Minh đã có nhiều năm đèn sách dưới sự dạy dỗ của các vị túc nho uyên thâm nhưng sống gần gũi với đời sống thường nhật của người dân thôn quê. Hơn nữa, với tư chất thông minh, tinh thần ham học, đặc biệt là sự yêu thích môn văn học và lịch sử dân tộc đã giúp cho Hồ Chí Minh hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch sử của đất nước và con người nói chung cũng như những tư tưởng, lý luận, nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông ta nói riêng. Trên cơ sở hiểu biết sâu sắc những giá trị tốt đẹp trong tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam cũng như những hạn chế, khiếm khuyết của nó, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa tư tưởng đó trên tinh thần "cái gì... mà xấu, thì phải bỏ. Cái gì... mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Cái gì... tốt, thì phải phát triển thêm lên" [84, tr. 94-95]. Nhìn một cách tổng quát, Hồ Chí Minh đã kết thừa những giá trị của tư tưởng, giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam ở những điểm chủ yếu sau: Một là: Kế thừa một số khái niệm, phạm trù. Chúng ta biết rằng, nền giáo dục đào tạo Việt Nam trước đây đã sử dụng một hệ thống khái niệm, phạm trù khá phong phú, phần lớn có nguồn gốc từ Nho giáo như: Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng, Liêm, Chính, Cần, Kiệm, Trung, Hiếu, Tài, Đức... Có thể nói, trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo,phát triển con người, Nho giáo có ưu thế hơn các tôn giáo khác ở chỗ nó có một hệ thống phạm trù khá chặt chẽ và hoàn chỉnh với nội dung rất phong phú, chuyển tải được nhiều vấn đề thuộc về triết lý nhân sinh, về đạo lý và tri thức để làm người. Trong lịch sử, dân tộc ta đã từng mượn chữ Hán làm chữ viết của mình, mượn một số khái niệm phạm trù của văn hóa Hán, nhất là của Nho giáo để chuyển tải, biểu đạt những tư tưởng, quan điểm, nhận thức của mình. Nhưng tổ tiên chúng ta đã biết phiên âm chữ viết phải vay mượn ấy bằng âm Hán Việt và đã phát âm chữ Hán không giống người Hán, diễn đạt nội dung các khái niệm đó cũng không hoàn toàn giống nghĩa nguyên thủy của nó. Trải qua quá trình lịch sử lâu đời, những âm Hán Việt đã trở thành ngôn ngữ đại chúng của toàn dân tộc và trong phạm vi tiếng nói thì các từ ngữ ấy ngày càng trở nên thông dụng. Trong lịch sử, tổ tiên chúng ta cũng đã có sự nỗ lực để sáng tạo ra chữ viết cho riêng mình, đó là chữ Nôm. Với chữ Nôm, các khái niệm vốn được vay mượn từ chữ Nho đã được Việt hóa một bước cả ở tiếng nói lẫn chữ viết. Nói như vậy để thấy rằng, trong quá trình kế thừa những khái niệm của Nho giáo, hệ thống giáo dục, đào tạo Việt Nam - nhất là ở các trường dân lập, khi sử dụng các khái niệm của Nho giáo cũng đã có sự "Việt Nam hóa" một bước nội hàm của các khái niệm đó, phục vụ cho việc đào tạo, phát triển con người trên đất nước Việt Nam vốn có điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội không tương đồng với Trung Hoa. Tuy nhiên, khi trình bày những điều trên, chúng tôi không có ý phủ nhận ảnh hưởng của các yếu tố tích cực của Nho giáo đối với nội dung cũng như cách biểu đạt và hệ thống khái niệm, phạm trù của nền giáo dục, đào tạo Việt Nam hơn một ngàn năm qua. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta, điều này là rất cần thiết nhằm làm phong phú thêm ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam đồng thời cũng giúp ích nhiều cho sự nghiệp giáo dục, đào tạo, phát triển con người của nhân dân ta trong suốt chiều dài lịch sử. Đối với Hồ Chí Minh, những khái niệm phạm trù của văn hóa Hán, nhất là của Nho giáo mà cha ông ta tiếp thu và vận dụng vào việc giáo dục, đào tạo, phát triển con người có hiệu quả, có tác động tích cực đến sự hình thành và phát triển nhân cách của người Việt Nam trong lịch sử đã được Người kế thừa một cách sáng tạo. Hơn nữa, theo giáo sư Trần Văn Giàu: cụ Hồ Chí Minh là một người hiểu biết Nho giáo rất sâu, rất rộng nữa. Nhưng cụ không phải là một nhà Nho mà là một người biết rõ những nhược điểm, những sai lầm nữa của Nho giáo mà tránh, lại thấm nhuần mấy ưu điểm của nó mà ứng dụng theo lợi ích của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam, một dân tộc đã nhiều trăm năm chịu ảnh hưởng của Nho giáo [40, tr. 36]. Vì vậy, việc Hồ Chí Minh sử dụng một số khái niệm, phạm trù mà hệ thống giáo dục Việt Nam kế thừa từ văn hóa Trung Hoa, từ Nho giáo là có chủ đích, trên cơ sở hiểu biết sâu sắc không chỉ tư tưởng, nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam mà còn trên sự hiểu biết sâu rộng những mặt tích cực của Nho giáo trong sự nghiệp "trồng người". Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Người rất hay sử dụng các khái niệm như: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, khi đề cập đến phẩm chất của con người Việt Nam trong thời đại mới nhất là đối với cán bộ đảng viên. Hồ Chí Minh cho rằng, cũng như trời có bốn mùa, xuân, hạ, thu, đông; đất có bốn phương đông, tây, nam, bắc; con người có bốn đức cơ bản là cần, kiệm, liêm, chính, "thiếu một đức không thành người"; "tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính" [85, tr. 406], đối với cán bộ đảng viên người yêu cầu "ai cũng phải thực hành bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính". [85, tr 622];"đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính"[86-tr 490 ];"phải thi đua thực hành cần, kiệm, liêm, chính"; "cố gắng làm đúng bốn chữ cần, kiệm, liêm, chính" [85, tr. 203]; "mở một chiến dịch giáo dục lại nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính" [84, tr. 8]. Có thể nói, tần số xuất hiện của các khái niệm: Cần, Kiệm, Liêm, Chính trong tư tưởng phát triển con người toàn diện là nhiều nhất trong các khái niệm, phạm trù mà Hồ Chí Minh kế thừa từ tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông ta. Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm cũng là những khái niệm mà Hồ Chí Minh hay dùng, nhất là khi nói về phẩm chất, năng lực của người quân nhân cách mạng, của người làm tướng "tướng giỏi (đủ cả trí, nhân, dũng, liêm) thì nước mạnh" [83, tr. 519]; "nhiệm vụ của người làm tướng là phải trí, dũng, nhân, tín, liêm, trung" [85, tr. 479]; "Quân sự giỏi song nếu không có đạo đức cách mạng thì cũng khó thành công. Muốn có đạo đức cách mạng phải có năm điều sau đây: Trí, tín, nhân, dũng, liêm" [85, tr. 223]... Khái niệm Trung, hiếu đã được Hồ Chí Minh sử dụng rất nhiều để giáo dục các thế hệ cách mạng Việt Nam. Từ tác phẩm "Đường cách mệnh", cuốn sách giáo khoa cách mạng đầu tiên (1927) cho đến Di chúc thiêng liêng (1969), Người luôn nhắc nhở mỗi người Việt Nam, mỗi chiến sĩ cách mạng cũng như cán bộ, Đảng viên phải "trung với nước, hiếu với dân "[84, tr. 239]; "quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân" [91, tr. 349]; "đối với chính phủ phải tuyết đối trung thành, đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép" [85, tr. 406]; "trọn đời trung thành với sự nghiệp cách mạng, với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp" [90, tr. 621]; "Người kiên quyết cách mạng nhất, lại là người đa tình chí hiếu nhất" [87, tr. 60]; "phải hiểu chữ hiếu của cách mạng" [87, tr. 60]; "chữ tình, chữ hiếu cũng phải hiểu một cách rộng" [87, tr. 61]; "phải nâng cao chí khí cách mạng, trung với nước, hiếu với dân" [91, tr. 504]… Yêu nước, thương dân là những khái niệm, phạm trù hết sức quan trọng trong nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam. Nó luôn được sử dụng để giáo dục nhân cách, đạo đức, ý chí, tình cảm cho các thế hệ người Việt Nam trong lịch sử. Các khái niệm này cũng giữ vị trí hàng đầu trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh. Vì vậy, nó thường xuyên xuất hiện trong các bài nói, bài viết của Người, khi thì trong những bài báo sục sôi căm giận tố cáo tội ác man rợ của bọn thực dân, phong kiến; khi thì ở những lời kêu gọi hừng hực khí thế cách mạng như: Tổng khởi nghĩa giành chính quyền (1945), Toàn quốc kháng chiến (1946), chống Mỹ, cứu nước (1966) hay trên những diễn đàn quan trọng: Lễ tuyên ngôn độc lập (9/1945), Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2/1951), Đại hội toàn quốc lần thứ ba của Đảng (9/1960) hoặc sâu lắng, súc tích trong Di chúc thiêng liêng (1969). Ngay từ những bài báo, trang viết đầu tiên trong cuộc đời cách mạng vẻ vang của mình, Hồ Chí Minh đã đề cập đến khái niệm yêu nước, thương dân và khẳng định "chính chủ nghĩa yêu nước" [90, tr. 128] đã thúc giục Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân, tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với chủ nghĩa cộng sản. Trong Đại hội toàn quốc lần thứ hai của Đảng (2/1951) Hồ Chí Minh lại khẳng định: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta" [86, tr. 171]. Cho nên "phát triển tinh thần yêu nước" [86, tr. 171] là rất quan trọng để "làm cho tinh thần yêu nước của tất thảy mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước" [86, tr. 172]. Từ đó, Hồ Chí Minh cho rằng, khi giáo dục, đào tạo, phát triển con người, chúng ta cần phải làm cho mọi người đặc biệt là thế hệ trẻ hiểu sâu sắc nội dung của khái niệm yêu nước, thương dân, cố gắng phấn đấu, rèn luyện, bồi dưỡng để làm cho "lòng yêu nước" trong mỗi con người "ngày một nồng nàn" nhưng cũng cần phải tránh tư tưởng cực đoan "chỉ biết yêu nước mình mà khinh ghét nước người" [85, tr. 102]. Cần phải thấy rằng, trong quá trình sử dụng một số khái niệm, phạm trù của Nho giáo, của nền giáo dục, đào tạo, phát triển con người Việt Nam trước đây, Hồ Chí Minh đã loại bỏ những mặt hạn chế trong nội hàm các khái niệm đó, đưa thêm vào những nội dung mới, mang tính cách mạng, nhằm cải biến một cách căn bản các khái niệm, phạm trù cũ, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp đào tạo các chiến sĩ cách mạng, đào tạo những con người mới xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Điều này có ý nghĩa thực tiễn to lớn, giúp cho mỗi người Việt Nam (vốn đã quen với các khái niệm, thuật ngữ của Nho giáo) có thể lĩnh hội, nắm bắt, tiếp thu, tư tưởng, lý luận, đường lối, phương pháp cách mạng, tri thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật… để không ngừng hoàn thiện và nâng cao phẩm chất, năng lực về mọi mặt của bản thân, góp phần hình thành và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam. Hai là: Kế thừa những mặt tích cực trong nội dung giáo dục đạo lý làm người của cha ông. Trong nền giáo dục truyền thống, cha ông ta rất quan tâm giáo dục triết lý nhân sinh, đạo lý làm người cho các thành viên cộng đồng. Nội dung chủ yếu của nó là giáo dục con người sống có lý tưởng, bản lĩnh, có ý chí vươn lên để tự hoàn thiện mình về mọi mặt, đem hết tài đức của mình xây dựng một xã hội "thái bình, thịnh trị"; "vua sáng, tôi hiền"; là yêu nước, thương dân, sống nhân nghĩa, thủy chung; là đề cao đạo đức, tình đoàn kết trong quan hệ xã hội, quan hệ giữa người với người... Mặc dù không tránh khỏi những hạn chế, khiếm khuyết nhưng triết lý và nội dung giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông ta đã góp phần quan trọng tạo ra những thế hệ người Việt Nam "giàu sang không thể quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục" [86, tr. 184], "trai thời trung hiếu làm đầu; gái thời tiết hạnh làm câu răn mình"; kiên cường, bất khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo... cũng như không ít những người "hiền tài" - nguyên khí của quốc gia, những vị anh hùng dân tộc "văn võ song toàn". Họ đã có những đóng góp hết sức to lớn cho sự trường tồn và phát triển không ngừng của dân tộc Việt Nam, làm rạng danh dân tộc, vẻ vang giống nòi. Đó là niềm tự hào lớn của nhân dân ta. Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng" [86, tr. 171-172]. Sự đánh giá đó của Hồ Chí Minh, trên một ý nghĩa nào đó cũng là sự khẳng định những giá trị, những thành công trong việc giáo dục đạo lý làm người của cha ông ta. Là người được giáo dục kỹ lưỡng về đạo lý làm người, hiểu biết sâu sắc những giá trị tốt đẹp ấy trong truyền thống văn hóa dân tộc cũng như trong tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông, Hồ Chí Minh cho rằng, cần phải kế thừa một cách sáng tạo những giá trị đó vào sự nghiệp xây dựng và phát triển con người cho cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của mình, vấn đề giáo dục đạo lý làm người được Hồ Chí Minh rất quan tâm. Theo Hồ Chí Minh, con người dù bất kỳ ở đâu cũng phải sống có đạo lý. Đối với dân tộc Việt Nam vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. Cha ông ta cho rằng, nếu con người thiếu nhân cách, sống không có đạo lý thì dù tài giỏi đến đâu cũng không giúp ích được cho cộng đồng, xã hội thậm chí còn gây ra những tác hại cho đất nước, cho nhân dân và tất nhiên sẽ bị xã hội lên án, từ bỏ. Vì vậy, giáo dục đạo lý làm người được gia đình, trường học và xã hội rất coi trọng. Cuộc cách mạng mà nhân dân ta tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là vì con người, nhằm đem lại cuộc sống ăn no, hạnh phúc cho đông đảo quần chúng, tạo ra những điều kiện tốt nhất cho sự phát triển mọi mặt của con người Việt Nam. Cho nên, những người tham gia sự nghiệp vẻ vang đó trước hết phải là những người sống có đạo lý. Theo Hồ Chí Minh, đạo lý sống của người cách mạng "nghĩ cho cùng... là vấn đề ở đời và làm người. ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại bị đau khổ, bị áp bức" [105, tr. 138]; là phải "làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành" [84, tr. 152]; "đem tài dân, sức dân, làm lợi cho dân" [85, tr. 65]; "Mình ăn no mặc ấm, cũng cần làm... cho tất cả mọi người được ăn no, mặc ấm" [87, tr. 682]; là "sống với nhau có tình có nghĩa"; "nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống với nhau không có tình có nghĩa thì sao có thể hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin" [92, tr. 554], sao là sống có đạo lý... Sự kế thừa những giá trị tốt đẹp này còn được thể hiện trong thực tiễn giáo dục, đào tạo, phát triển con người của Hồ Chí Minh. Hai mươi bốn điều trong cuốn sách giáo khoa "Đường cách mệnh" đều đề cập đến đạo lý làm người, dạy đạo lý sống cho các chiến sĩ cách mạng Việt Nam. Đến thăm trường Nguyễn ái Quốc trung ương - nơi đào tạo cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, dòng đầu tiên mà Người ghi vào sổ vàng truyền thống của trường là "Học để làm người" trước khi làm cán bộ. Trong nhiều bức thư gửi học sinh, thầy cô giáo, cán bộ quản lý ngành giáo dục, Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở phải chú ý giáo dục đạo đức, ý thức, trách nhiệm công dân, đạo lý làm người, coi đó là phẩm chất quan trọng đầu tiên của con người mới xã hội chủ nghĩa và là tiền để cơ bản để phát triển các phẩm chất, năng lực khác của con người. Hơn ai hết, Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc rằng con người nếu không có một triết lý nhân sinh đúng đắn, một quan điểm sống tích cực, sẽ sa vào lối sống tùy tiện, thực dụng, thấp hèn, dễ biến thành những vật cản trên con đường phát triển của cộng đồng, xã hội. Do đó giáo dục, bồi dưỡng đạo lý làm người cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, cho tầng lớp trẻ là vấn đề được Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Điều này một mặt cho thấy sự hiểu biết sâu sắc quá trình phát triển nhân cách con người của Hồ Chí Minh, mặt khác cũng phản ánh đậm nét việc Người kế thừa, tiếp thu và nâng cao những giá trị nhân văn trong truyền thống văn hóa dân tộc mà cha ông ta đưa vào trong nội dung tư tưởng giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm qua. Ba là: kế thừa một số điểm tích cực trong phương pháp giáo dục, đào tạo, phát triển con người của dân tộc Việt Nam. Trong lịch sử, cha ông ta đã sử dụng một hệ thống phương pháp giáo dục, đào tạo, phát triển con người khá phong phú. Mặc dù còn có nhiều hạn chế song hệ thống phương pháp ấy cũng có những mặt tích cực góp phần không nhỏ vào việc đào tạo cho dân tộc Việt Nam biết bao người con ưu tú, có đủ đạo đức, tài năng đưa nhân dân ta vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo trên con đường phát triển của mình. Chính vì vậy, trong quá trình kế thừa, những giá trị tốt đẹp của tư tưởng giáo dục, đào tạo phát triển con người của cha ông, Hồ Chí Minh đã tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo những mặt tích cực của các phương pháp ấy vào thực tiễn đào tạo, phát triển con người cho cách mạng Việt Nam. Những yếu tố, những mặt tích cực mà Hồ Chí Minh đánh giá cao và kế thừa trong phương pháp giáo dục, đào tạo, phát triển con người của cha ông đó là: - Sự kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đức dục với trí dục. - Kết hợp giữa tri và hành. - Động viên, khuyến khích, tinh thần tự giác vươn lên của mỗi con người. Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, các phương pháp này được vận dụng nhuần nhuyễn và rất sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đạo đức cách mạng, lý tưởng, quan điểm sống với trí thức khoa học xã hội - nhân văn cho con người Việt Nam để không ngừng nâng cao phẩm chất và năng lực về mọi mặt của họ là phương pháp mà Hồ Chí Minh luôn luôn coi trọng và thường xuyên sử dụng. Theo Hồ Chí Minh, có làm tốt điều đó chúng ta mới có thể tạo ra được những con người mới đức tài vẹn toàn cho cách mạng. Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, đạo đức và tài năng, lý trí và tình cảm, là những yếu tố không thể tách rời trong nhân cách của cách mạng, nó phải được kết hợp chặt với nhau. Muốn vậy, khi tiến hành giáo dục, đào tạo, phát triển con người phải kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt đó, phải quan tâm, đến giáo dục cả tri thức đạo đức và tri thức văn hóa, khoa học, kỹ thuật để nâng cao phẩm chất, năng lực cho mỗi cá nhân. Đó là điều luôn luôn được Hồ Chí Minh quan tâm bởi theo Người "có tài phải có đức, có tài mà không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó"; "có tài mà không có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rất giỏi nhưng lại để thụt két thì chẳng những không làm được gì ích cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội. Nếu có đức mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người" [88, tr. 126]. Vì vậy, kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục đức dục với trí dục là phương pháp hết sức quan trọng để đào tạo cho cách mạng những con người "vừa hồng, vừa chuyên" nhằm kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và nhân dân ta. Đó là quan điểm nhất quan của Hồ Chí Minh mà người nêu ra trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của mình. "Tri và hành" phải được kết hợp chặt chẽ với nhau là một quan điểm rất đáng chú ý trong phương pháp đào tạo, phát triển con người của nền giáo dục truyền thống Việt Nam. Mặc dù trong thực tế vấn đề này chưa được hệ thống giáo dục, đào tạo trước đây ở nước ta làm tốt, các kinh nghiệm khi thực hiện phương pháp này để lại cho hậu thế cũng còn ít, song tinh thần tiến bộ, ý nghĩa tích cực của nó trong việc xây dựng, hoàn thiện và phát triển nhân cách con người là điều đáng ghi nhận và cần phải tiếp thu. Khi xây dựng phương pháp giáo dục, đào tạo, phát triển con người, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm kế thừa, nâng cao và hiện thực hóa những giá trị của nó vào thực tiễn "trồng người" ở nước ta. Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của mình, khi đề cập đến phương pháp giáo dục, đào tạo. Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh đến phương pháp này với tinh thần: Kết hợp học với hành, lý luận phải gắn với thực tế, học tập kết hợp với lao động sản xuất. Hồ Chí Minh viết: "Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta cần phải cố gắng học, đồng thời học thì phải hành" [85, tr. 263]; "lao động trí óc mà không biết lao động chân tay, chỉ biết lý luận mà không biết thực hành thì cũng là tri thức một nửa… Trong lúc học tập lý luận cũng phải kết hợp với thực hành và tất cả… đều phải: lý luận kết hợp với thực hành, học tập kết hợp với lao động sản xuất" [89, tr. 174]; theo Hồ Chí Minh, nếu thực hiện tốt phương pháp kết hợp chặt chẽ giữa "tri và hành"; giữa nhận thức với hoạt động._.mọi mặt của con người Việt Nam là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm xây dựng và phát triển con người toàn diện ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Về môi trường kinh tế: Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: Kinh tế như nước đời sống như thuyền, nước lên thì thuyền lên. Kinh tế tác động đến đời sống của con người trên cả hai bình diện vật chất và tinh thần. Nếu như trước đây nó chỉ tạo ra những vật phẩm đảm bảo sự sinh tồn, duy trì sự sống của con người, thỏa mãn nhu cầu về ăn, mặc, ở, đi lại cho con người thì ngày nay những sản phẩm của nền kinh tế hiện đại còn trực tiếp góp phần nâng cao đời sống tinh thần của con người, làm phong phú thêm giá trị nhân văn, nhân bản của con người. Cần lưu ý rằng, đối với Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế không chỉ thuần túy là lợi nhuận mà còn nhằm tạo ra điều kiện để cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển con người về mọi mặt. Mục đích nhân văn đó chi phối toàn bộ nội dung, phương hướng phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước ta từ trước tới nay và mãi mãi về sau. Đảng khẳng định: "Sự phát triển phải hướng vào yêu cầu vì con người và phục vụ con người, tạo ra cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn cho nhân dân ta. Vì thế tăng trưởng kinh tế phải luôn luôn gắn với việc thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội" [115, tr. 20]. Để thực hiện ngày càng tốt hơn mục tiêu cao cả đó, phải mở rộng hơn nữa dân chủ về kinh tế, tạo ra môi trường kinh tế và pháp luật thuận lợi để nhân dân tham gia phát triển kinh tế, sao cho mỗi người dân ai có điều kiện và khả năng đều có thể tiến hành sản xuất kinh doanh, góp công, góp sức xây dựng đất nước, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia đình. Thực tiễn cho thấy khi những ràng buộc vô lý được xóa bỏ, dân chủ hóa về kinh tế được thực hiện tốt thì nhân dân sẽ tham gia tích cực vào hoạt động phát triển kinh tế đất nước. Ví dụ, qua 6 tháng thực hiện Luật doanh nghiệp và tiến hành xóa bỏ những giấy phép kinh doanh (hàng trăm loại) trái với Luật doanh nghiệp, đến tháng 5-2000 đã có hơn 5.000 doanh nghiệp mới được đăng ký thành lập với số vốn là 4.500 tỷ đồng, vượt xa số doanh nghiệp mới đăng ký năm 1999. Có hơn 300 công ty được cổ phần hóa bằng tổng số công ty cổ phần thành lập 9 năm trước đây [7, tr. 52]. Thực hiện việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã tạo ra động lực to lớn khuyến khích nông dân hăng hái sản xuất, đầu tư công sức phát triển sản xuất. Người nông dân đã có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. Đến nay đã có 2 triệu hộ sản xuất giỏi, kinh tế trang trại phát triển mạnh, hàng năm tạo ra giá trị sản phẩm gần 12.000 tỷ đồng. Đời sống của tuyệt đại nông dân được cải thiện rõ rệt [7, tr. 54-55]. Điều đó cho thấy, việc thực hiện tốt dân chủ hóa về kinh tế không chỉ phát huy được nội lực đất nước, huy động được sức dân để phát triển kinh tế mà còn là phương thức có hiệu quả để trực tiếp cải thiện và nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân. Cùng với dân chủ hóa về kinh tế, chúng ta cần phải tăng cường phát triển kinh tế Nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế này, đảm bảo thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế quốc dân. Kinh tế nhà nước liên quan đến nhiều vấn đề quốc kế, dân sinh. Nhiệm vụ trọng tâm của nó không chỉ sản xuất kinh doanh có hiệu quả về kinh tế mà còn bảo đảm sự ổn định kinh tế, xã hội đất nước và cuộc sống của nhân dân. Hiện tại kinh tế nhà nước thu hút số lượng công nhân và người lao động lớn nhất khoảng 2,5 triệu người, hoạt động trong những ngành kinh tế then chốt của đất nước, sự hoạt động có hiệu quả hay không của nó ảnh hưởng rất lớn đời sống của hàng chục triệu người. Do đó, để có một nền kinh tế vững mạnh, hướng vào việc phục vụ lợi ích của đông đảo quần chúng, bảo đảm cho Nhà nước có điều kiện thực hiện tốt chính sách xã hội nhất thiết phải ra sức phát triển kinh tế nhà nước, bảo đảm cho nó luôn giữ được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nước ta. Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo. Nghèo đói không chỉ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của thể lực mà còn tác động không tốt tới trí tuệ, đạo đức, lối sống... của con người. Thực tế cho thấy, sự suy kiệt về thể lực, sự thiếu hụt về năng lượng sống thường làm méo mó nhân cách con người, kìm hãm sự phát triển xã hội. Vì thế xóa đói, giảm nghèo đang là vấn đề được cả thế giới quan tâm hiện nay. ở Việt Nam, từ rất sớm, Đảng cộng sản và Nhà nước đã hết sức chú trọng giải quyết vấn đề này. Từ năm 1998 công tác xóa đói giảm nghèo đã trở thành một chương trình quốc gia, được cả xã hội quan tâm. Trong thời gian từ 1992 - 1998, Nhà nước Việt Nam đã đầu tư cho công tác xóa đói giảm nghèo khoảng 13,3 nghìn tỷ đồng. Kết quả đã giảm được tỉ lệ đói nghèo từ 30% số hộ (1992) xuống còn 10-11% năm 2000. Gần 2,3 triệu hộ với 11,5 triệu người thoát khỏi cảnh đói nghèo. Đã có 15 tỉnh, thành phố tỉ lệ đói nghèo dưới 10% [7, tr. 114]. Để đẩy mạnh chủ trương xóa đói, giảm nghèo, làm cho nó thu được kết quả tốt hơn nữa, tránh tình trạng "tái đói nghèo" trở lại, cần phải quán triệt phương châm "cho cần câu", hướng dẫn nhân dân cách làm ăn, chứ không phải "cho con cá". Theo tinh thần đó, Nhà nước và xã hội cần tăng đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, hỗ trợ nhân dân các vùng khó khăn, nghèo đói về giống, vốn, kỹ thuật canh tác, cách thức sản xuất, làm ăn, giáo dục nâng cao dân trí, xóa bỏ tập tục lạc hậu, mê tín, xây dựng cho mọi người tinh thần cần kiệm, ý thức vươn lên xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu, tạo lập một cuộc sống no ấm, văn minh. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất, kinh doanh đến lập nghiệp ở vùng có tiềm năng, đồng thời tích cực giải quyết việc làm cho những người trong độ tuổi lao động. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng, bằng việc ban hành những chính sách mới về điều kiện vay vốn, lãi suất tín dụng, thuế, tiêu thụ sản phẩm, giúp đỡ kỹ thuật. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt không thể tự lao động, không có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Tiến hành cải cách cơ bản tiền lương và thu nhập. Hạn chế cơ bản của chế độ tiền lương ở nước ta hiện nay là chưa đủ tái sản xuất sức lao động đã hao phí của con người. Tình bình quân trong chế độ lương còn khá nặng, sự cách biệt giữa lao động phổ thông giản đơn với lao động kỹ thuật, lao động trí tuệ, lao động sáng tạo chưa rõ nét. Khoảng cách giữa các bậc lương không cao, thời hạn lên lương cứng nhắc nên ít khuyến khích mọi người vươn lên làm việc tốt để được tăng lương sớm. Xét trên tổng thể, đồng lương chưa đảm bảo được đời sống bình thường của những người lao động, nhất là những công nhân, viên chức chỉ có nguồn thu nhập duy nhất từ đồng lương. Thực tế đó, đòi hỏi phải cải cách cơ bản chế độ tiền lương hiện nay ở nước ta. Có như vậy mới cải thiện và từng bước nâng cao được đời sống của nhân dân. Cải cách chế độ tiền lương cần phải lưu ý: - Tiền lương phải là nguồn thu nhập chủ yếu của người làm công, phải đảm bảo đủ sống cho người lao động, được điều chỉnh tương ứng với nhịp độ tăng thu nhập của xã hội. Hệ thống thang bậc lương đảm bảo sự tương quan hợp lý, khuyến khích người tài. - Các doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp nhà nước, được chủ động trong việc trả lương và tiền thưởng trên cơ sở năng suất, hiệu quả sản xuất, kinh doanh. Nhà nước và xã hội tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh doanh. Về môi trường văn hóa-xã hội: Tính nhân văn của con người phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tiếp thụ, chuyển hóa những tri thức, những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc và nhân loại ở mỗi con người. Văn hóa là thước đo trình độ phát triển con người, biểu hiện qua thái độ, hành vi ứng xử của con người với tự nhiên, xã hội và đồng loại. Những kiến thức văn hóa đến với con người thông qua hệ thống giáo dục từ gia đình, nhà trường và xã hội cũng như sự tự học hỏi, tìm hiểu của mỗi cá nhân. Để có lý tưởng, quan điểm sống tích cực, tình cảm, đạo đức trong sáng, trí tuệ minh mẫn, sức khỏe dồi dào... những giá trị văn hóa giàu tính nhân bản nhất - con người phải được giáo dục, đào tạo đúng đắn, khoa học và phải được sống trong một môi trường xã hội giàu tính nhân văn. Vì vậy, phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng môi trường văn hóa - xã hội tốt đẹp là phương sách hữu hiệu, góp phần quyết định cho sự phát triển mọi mặt của con người, nâng cao chất lượng cuộc sống của người Việt Nam hiện nay. Mở rộng mạng lưới y tế, chăm sóc và bảo về tốt hơn sức khỏe của các tầng lớp nhân dân. Thể lực, sức khỏe là nền tảng cơ bản cho sự phát triển mọi mặt của con người. Công tác y tế có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp chăm sóc và nâng cao sức khỏe cho người dân. Vì vậy, ở bất cứ giai đoạn phát triển nào của đất nước, Đảng và Nhà nước cũng hết sức quan tâm đến vấn đề này. Những thành tựu của ngành y tế trong những năm đổi mới đã được các tầng lớp nhân dân ghi nhận và hoan nghênh. Song, bản thân ngành y tế cũng thấy được những hạn chế thiếu sót không nhỏ của mình và đã cố gắng tìm biện pháp khắc phục. Trên tinh thần: tất cả vì sức khỏe ngành của nhân dân, bảo vệ chăm sóc tốt hơn sức khỏe của người Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ngành y tế cần phải nâng cao chất lượng phòng, chống dịch, khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu, thực hiện tốt hơn nữa việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, người cao tuổi, người bị dị tật. Nâng cao kiến thức về bảo vệ sức khỏe, khả năng tự chăm sóc sức khỏe của bản thân, gia đình và cộng đồng. Củng cố và nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở nhất là bệnh viện tuyến huyện. Từng bước hiện đại hóa trang, thiết bị y tế, ứng dụng công nghệ hiện đại trong khám, chữa bệnh. Kết hợp tốt hơn nữa phương pháp Đông y và Tây y trong việc khám và chữa bệnh cho nhân dân. Ngành y tế cần nghiên cứu và đổi mới cơ chế, chính sách viện phí, bảo hiểm y tế và có chính sách trợ giúp khám chữa bệnh cho người nghèo, bảo đảm mọi người dân đều được khám, chữa bệnh khi đau ốm. Đề cao y đức, thực hiện tốt lời dạy "Lương y phải như từ mẫu" của Hồ Chí Minh. Tạo môi trường thuận lợi để con người Việt Nam có cơ hội cải thiện và không ngừng nâng cao mọi mặt đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân là giải pháp hết sức quan trọng để phát triển con người mới ở nước ta hiện nay. Muốn thực hiện giải pháp này đòi hỏi chúng ta phải giải quyết hàng loạt vấn đề về kinh tế, văn hóa, giáo dục, thể dục thể thao, xóa đói giảm nghèo, cải cách chế độ tiền lương, công tác y tế, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đó là những vấn đề lớn, khó khăn và phức tạp, song nhất thiết phải làm thật tốt để xây dựng nền móng cho sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam trong thời đại mới. Kết luận chương 3 Tóm lại, trong chương 3, chúng tôi đã tập trung khảo sát, phân tích và chỉ ra ba vấn đề chủ yếu đang đặt ra trong thực tiễn phát triển con người theo quan điểm toàn diện của Hồ Chí Minh, đó là: - Độ lệch giữa mục tiêu với thực tế phát triển con người toàn diện trong những năm đổi mới rất lớn. - Sự mất cân đối giữa các mặt trong giáo dục, đào tạo, phát triển con người ở gia đình, nhà trường và xã hội diễn ra khá nghiêm trọng. - Đầu tư cho các lĩnh vực liên qua đến sự phát triển con người còn chưa tương xứng với vị trí và vai trò của nó. Các nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên thì có nhiều, song theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do chúng ta chưa hiểu sâu sắc và vận dụng đúng đắn tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh vào quá trình phát triển con người ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua. Thực tiễn phát triển con người mới của cách mạng Việt Nam hơn bảy mươi năm qua đã chứng minh một cách sâu sắc rằng: khi nào chúng ta quán triệt và biết vận dụng đúng đắn tư tưỏng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh vào quá trình xây dựng và phát triển con người cho chế độ mới thì chúng ta thành công. Ngược lại, nếu xa rời hoặc thực hiện không đúng tư tưởng đó thì công cuộc xây dựng con người mới ở nước ta gặp những khó khăn, thậm chí thất bại. Để quán triệt và vận dụng đúng đắn, có hiệu quả tư tưởng quan trọng đó của Hồ Chí Minh vào việc giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta hiện nay và đưa sự nghiệp cao cả đó tới thành công, chúng tôi đề xuất một số định hướng cơ bản sau: - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa dạy ''chữ'', dạy ''nghề'' và dạy ''người'' trong giáo dục, đào tạo. - Đổi mới quan điểm đánh giá và tiêu chuẩn tuyển chọn, sắp xếp đội ngũ cán bộ, công chức và lực lượng lao động xã hội. - Tạo môi trường thuận lợi để con người Việt nam có cơ hội nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, phát triển toàn diện phẩm chất, năng lực cá nhân. Tin rằng, thực hiện tốt những vấn đề trên, chúng ta sẽ tạo ra bước chuyển biến tích cực trong sự nghiệp xây dựng và phát triển con người mới ở Việt Nam hiện nay. Kết luận Nghiên cứu tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, chúng tôi thấy đây là tư tưởng có nội dung rất sâu sắc, thể hiện ở tầm cao chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt xuất, Hồ Chí Minh không chỉ "thâu thái, tích hợp" được những giá trị của văn hóa Việt Nam và thế giới mà còn sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới trên tinh thần cách mạng và khoa học. Việc Hồ Chí Minh đề xuất và trực tiếp chỉ đạo thực hiện tư tưởng phát triển con người toàn diện là một sáng tạo văn hóa giàu tính nhân văn nhất. Tiền đề và cơ sở lý luận nó là tư tưởng giáo dục, đào tạo phát triển con người của dân tộc Việt Nam; là lý luận về phát triển con người toàn diện của những nhà sáng lập ra chủ nghĩa xã hội khoa học và kinh nghiệm từ cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của bản thân Hồ Chí Minh. Bằng thiên tài trí tuệ và lòng yêu thương, kính trọng con người, tin tưởng vào khả năng và sức mạnh vô tận của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp phục hưng nền độc lập dân tộc và sáng tạo ra xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - trên đất nước Việt Nam, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò quyết định của nhân dân, của con người đối với sự phát triển của lịch sử. Theo Hồ Chí Minh, đó phải là những con người được trang bị thế giới quan khoa học, có lý tưởng cách mạng vững vàng, có tri thức toàn diện, đạo đức trong sáng, sức khỏe dồi dào, năng lực sáng tạo cao và khả năng thích ứng tốt. Những con người đó không xuất hiện ngẫu nhiên, tự phát mà là kết quả tác động hợp quy luật của xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng, xã hội càng phát triển, càng hiện đại thì tính tự giác, chủ động trong việc đào tạo, phát triển con người càng phải cao, nguồn lực mà xã hội dành cho vấn đề này càng phải lớn, nội dung đào tạo và phát triển con người càng sâu sắc và toàn diện. Vì vậy, con người phát triển cao về mọi mặt phải là mục tiêu xuyên suốt của chiến lược con người ở Việt Nam trong bất cứ giai đoạn cách mạng nào. Vận dụng đúng đắn và sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin vào việc nghiên cứu con người, Hồ Chí Minh đã chỉ ra quá trình vận động và phát triển các phẩm chất, năng lực của con người Việt Nam thông qua hoạt động nhận thức- lý luận và hoạt động thực tiễn - cách mạng. Trong tư tưởng phát triển con người toàn diện của mình, Hồ Chí Minh đã chỉ ra được tính quy luật, những điều kiện và phương sách để đào tạo, phát triển con người toàn diện ở Việt Nam - một nước mà kinh tế, văn hóa, xã hội còn rất thấp kém. Đây là đóng góp quan trọng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc của Hồ Chí Minh vào vấn đề phát triển con người toàn diện của nhân loại. Hơn nữa, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: con người Việt Nam hoàn toàn có đủ khả năng, năng lực để trở thành những con người phát triển toàn diện, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta có thể đào tạo, phát triển con người toàn diện bằng cách tiến hành giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mĩ; bằng cách đề ra những yêu cầu phù hợp về phẩm chất năng lực của con người Việt Nam trong từng giai đoạn phát triển của cách mạng. Phát triển con người theo hướng toàn diện là xu thế khách quan của lịch sử, cách mạng Việt Nam cần phải chú trọng đến vấn đề này . Kết luận sâu sắc đó của Hồ Chí Minh không những có tác dụng to lớn trong việc chỉ đạo giáo dục, đào tạo, phát triển con người toàn diện trước đây mà còn là ánh sáng rực rỡ định hướng cho chiến lược con người, xây dựng và phát triển con người mới xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Từ kết quả nghiên cứu nội dung cơ bản tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh, xem xét những vấn đề đang đặt ra qua thực tiễn phát triển con người theo quan điểm toàn diện của của Người ở Việt Nam trong những năm đổi mới vừa qua, đồng thời căn cứ vào xu thế phát triển của thế giới và yêu cầu đặt ra của cách mạng Việt Nam, chúng tôi đề xuất một số định hướng cơ bản để vận dụng và phát huy tư tưởng phát triển con người toàn diện của Hồ Chí Minh vào việc giải quyết những vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển con người mới ở nước ta hiện nay nhằm đưa sự nghiệp cao cả đó đi tới thành công, tạo cơ sở vững chắc cho việc phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ có hiệu quả sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa Việt Nam tiếp cận nền kinh tế tri thức - chìa khóa để chúng ta đi tới mục tiêu: ''Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''. những công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến luận án Nguyễn Hữu Công (2000), "Vấn đề bồi dưỡng kiến thức văn hóa, khoa học kỹ thuật cho người lao động Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh", Triết học, (5). Nguyễn Hữu Công (2000), "Hồ Chí Minh với phương pháp giáo dục "Nêu gương"", Đại học và trung học chuyên nghiệp, (8). Nguyễn Hữu Công (2000), "Tìm hiểu tư tưởng Nhà nước "vì dân" của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Tổ chức Nhà nước, (9). Nguyễn Hữu Công (2000), "Tìm hiểu quan điểm giáo dục toàn diện của Chủ tịch Hồ Chí Minh", Đại học và trung học chuyên nghiệp, (11). Danh mục tài liệu tham khảo Phạm Ngọc Anh (1995), "Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Nghiên cứu lý luận, (2), tr. 13-15. Bác Hồ với quê hương Nghệ Tĩnh (1990), (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Nghệ Tĩnh. Hoàng Chí Bảo (1995), "Xác định hệ quan niệm và hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh", Báo chí và tuyên truyền, (3), tr. 10-13. Hoàng Chí Bảo (1995), "Hồ Chí Minh, biểu tượng văn hóa làm người", Nghiên cứu lý luận, (5), tr. 25-28. Nguyễn Trọng Bảo (chủ biên) (1998), Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý kinh doanh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Vũ Đình Bách (1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2000), Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu các văn kiện (dự thảo) trình đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Ban tư tưởng văn hóa Trung ương (2000), Tài liệu hỏi đáp về các văn kiện (dự thảo) trình Đại hội IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên) (1991), Về sự phát triển của xã hội ta hiện nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn (1990), "Nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội", Triết học, (4). Nguyễn Trọng Chuẩn (1996), "Vai trò động lực của dân chủ đối với sự hoạt động và sáng tạo của con người", Triết học, (5), tr. 3-5. Cù Huy Chử (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về văn học và mỹ học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn (1995), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Đình Cự (1996), Khoa học và công nghệ là lực lượng sản xuất hàng đầu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Như Cương (1990), "Chủ tịch Hồ Chí Minh nhà cách mạng, nhà văn hóa lớn", Triết học, (1), tr. 3-7. Phạm Như Cương (1998), Vấn đề xây dựng con người mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Hữu Dũng - Trần Hữu Trung (1997), Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Hữu Dật (chủ biên) (1994), Phương sách dùng người của cha ông ta trong lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thành Duy (1990), Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng, danh nhân văn hóa thế giới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Thành Duy (1993), "Vấn đề nghiên cứu tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - nguồn gốc và bản chất", Triết học, (3). Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng, Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1993), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1997), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 2, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng cộng sản Việt Nam (1998), Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đề cương giới thiệu nội dung cơ bản chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2000-2010 và phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 2000-2005 (2000), Tài liệu tập huấn giảng viên Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phạm Văn Đồng (1974), Hồ Chí Minh - hình ảnh dân tộc, tinh hoa thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1993), Hồ Chí Minh và con người Việt Nam trên con đường dân giàu nước mạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Văn Đồng (1992), Góp phần tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, Hà Nội. Nguyễn Tĩnh Gia (2000), "Tư tưởng triết học về con người trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh", Chương V cuốn Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội. Võ Nguyên Giáp (1996), "Nguồn gốc tư tưởng Hồ Chí Minh", Tạp chí Cộng sản, (23), tr. 3-9. Võ Nguyên Giáp (1997), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1973), Sự phát triển tư tưởng ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (1996), Phát triển giáo dục phát triển con người phục vụ cho phát triển xã hội - kinh tế, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (1996), "Phát huy nguồn lực con người", Báo Nhân Dân, ngày 30-6. Nguyễn Xuân Hãn (1998), "Chấn chỉnh quy mô và chất lượng đào tạo Đại học", Báo Nhân Dân, ngày 29-6. Hoàng Văn Hảo (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước kiểu mới - sự hình thành và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Mai Trung Hậu (2000), "Vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh", chương V cuốn Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội. Phan Huy Hiền (1998), "Mô hình và giải pháp dạy nghề", Báo Nhân Dân, ngày 26-5. Dương Phú Hiệp (1992), "Sự hình thành và phát triển nhân cách người Việt Nam trong điều kiện chuyển từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường", Triết học, (4), tr. 8-11. Trần Đình Hoan (1997), Phát triển nguồn nhân lực, Báo Nhân Dân, ngày 22-12. Trần Viết Hoàn (1995), "Lòng nhân ái Hồ Chí Minh", Nghiên cứu nghệ thuật, (10), tr. 9-10. Đỗ Huy (1984), Cái đẹp - một giá trị, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội. Đỗ Huy (1995), "Nghĩ về các tư tưởng văn nghệ cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh", Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (6). Đỗ Huy (2000), Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển nền văn hóa mới ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Văn Huyên (1996), "Cội nguồn và bản chất tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh", Triết học, (4), tr. 3-5. Đặng Hữu (2000), Nền kinh tế tri thức và chiến lược phát triển của Việt Nam, Tài liệu tập huấn giảng viên Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Phạm Văn Khánh (1998), "Mãi mãi là Nhà nước của dân, do dân và vì dân", Báo Nhân Dân, ngày 30-8. Đặng Xuân Kỳ (1997), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đặng Xuân Kỳ (1998), "Bác Hồ với việc dùng người", Báo Nhân Dân, ngày 4-2. Vũ Khiêu (1975), "Quan hệ giữa đạo đức và tài năng ở Hồ Chí Minh", Triết học, (10), tr. 13-22. Vũ Khiêu (chủ biên) (1993), Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - truyền thống dân tộc và nhân loại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu (1996), Bàn về văn hiến Việt Nam, (3 tập), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Vũ Khiêu (1997), Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Phan Huy Lê - Chu Thiên - Vương Hoàng Tuyên - Đinh Xuân Lâm (1990), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Phạm Ngọc Liên - Đinh Xuân Lâm (1998), Hoạt động của Bác Hồ ở nước ngoài, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Bá Linh (1995), Tư tưởng Hồ Chí Minh, Một số nội dung cơ bản, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. V.I. Lênin (1974), Toàn tập, tập 1, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. "Luật giáo dục, Điều 2" (1998), Báo Nhân Dân, ngày 2-12. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen, Toàn tập, Tập 20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 34, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1993), Biên niên tiểu sử, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1994), Biên niên tiểu sử, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Biên niên tiểu sử, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1996), Biên niên tiểu sử, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1970), Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1981), Văn hóa, nghệ thuật là một mặt trận, Nxb Văn học, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1971), Nhà nước và pháp luật, Nxb Lao động, Hà Nội. Phạm Đình Nghiệp (1997), "Bác Hồ với sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ", Báo Quân đội nhân dân, ngày 6-4. Đào Phan (1991), Hồ Chí Minh, Danh nhân văn hóa, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Đào Phan (1996), Đạo Khổng trong văn Bác Hồ, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Đỗ Nguyên Phương (1998), Một số vấn đề xây dựng ngành y tế phát triển ở Việt Nam, Nxb Y học, Hà Nội. Phát triển nguồn nhân lực, Kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phùng Hữu Phú (chủ biên) (1995), Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Quán (1995), Chỉ tiêu và chỉ số phát triển người, Báo cáo của UNDP, Nxb Thống kê, Hà Nội. "Quy chế tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo" (1997), Báo Nhân Dân, ngày 8-9. Tài liệu tham khảo Nghị quyết trung ương lần thứ 4, khóa VIII (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Tài liệu tập huấn giảng viên Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hè năm 2000. Song Thành (1997), Một số vấn đề về phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu về Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Song Thành (1999), Hồ Chí Minh nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hà Nhật Thăng - Đào Thanh Âm (1998), Lịch sử giáo dục thế giới, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Mạch Quang Thắng (1996), Một số chuyên đề về môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Lê Sĩ Thắng (chủ biên) (1996), Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chính sách xã hội, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. An Tâm (1997), "Thiếu tiền, thiếu giáo viên", Báo Đại đoàn kết, ngày 31-8. Trần Dân Tiên (1989), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên) (1996), Lịch sử giáo dục Việt Nam (trước Cách mạng tháng 8-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội. Lê Đình Tuyến (1999), "Giải quyết khiếu nại và tố cáo của công dân", Báo Nhân Dân, ngày 4-3. Đinh Thị Tuyết (1998), "Nguồn lực con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa", Báo Nhân Dân, ngày 2-3. Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh, Ký hiệu H.25- C5. Vấn đề con người trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2749.DOC
Tài liệu liên quan