Tài liệu Phát triển các dịch vụ hậu cần trong Tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội: LỜI NÓI ĐẦU
Có thể nói những năm gần đây Việt Nam có rất nhiều sự kiện trọng đại như việc tổ chức thành công hội nghị APEC năm 2006, đặc biệt là việc chúng ta trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Nền kinh tế Việt Nam thực sự đang hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, biểu hiện rõ nhất sự bùng nổ công nghệ thông tin, sự xuất hiện các ngành dịch vụ mới như dịch vụ LOGISTICS, một ngành khá mới mẻ tại Việt Nam.
Ngành dệt may Việt Nam đang có những bước phát triển v... Ebook Phát triển các dịch vụ hậu cần trong Tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội
97 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1356 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phát triển các dịch vụ hậu cần trong Tiêu thụ sản phẩm tại Công ty Cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ô cùng mạnh mẽ, kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh nhưng nó cũng vấp phải sự cạnh tranh khốc liệt bởi các đối thủ khác trên thị trường. Vì vậy các doanh nghiệp dệt may cần nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình trên thị trường quốc tế.
Trong thời gian thực tập tại công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội em thấy thực trạng cũng như vai trò phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Vì vậy em quyết định chọn đề tài: “Phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm tại công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận chung về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Thực trạng phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển các dịch vụ hậu cần tại công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội.
Do trình độ có nhiều hạn chế nên em đã được các anh chị trong phòng kinh doanh xuất nhập khẩu giúp đỡ rất tận tình, đặc biệt là GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO người mà trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Qua đây em cũng muốn gửi lời cảm ơn tới tất cả mọi người những người mà đã giúp đỡ em trong thời gian qua.
CHƯƠNG1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
I/ KHÁI KHOÁT VỀ DỊCH VỤ LOGISTICS VÀ DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM.
1/Các khái niệm chung
1.1.Logistics là gì?
Các nguồn tài nguyên trên trái đất là hữu hạn, nhưng ước muốn của con người thì lại vô cùng to lớn. Chính vì vậy logistics ra đời để giúp con người sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả nhất, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bản thân và xã hội.
Logistics là một thuật ngữ trong quân sự đã có từ lâu, thuật ngữ này lần đầu tiên được sử dụng trong quân đội với nghĩa là hậu cần hoặc tiếp vận. Cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội người ta sử dụng nó rộng rãi hơn trong sản xuất, kinh doanh. Ban đầu, nó chỉ được ứng dụng trong phạm vi hẹp đó là công ty, ngành, địa phương, quốc gia. Nhưng sau đó nó đã phát triển ở phạm vi quốc tế từ nước này đến nước khác hình thành nên logistis toàn cầu. Logistics đã phát triển rất nhanh chóng và hiện nay nó được ghi nhận như một chức năng kinh tế chủ yếu, một công cụ hữu hiệu mang lại thành công cho doanh nghiệp cả trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Có rất nhiều quan niệm đưa ra về khái niệm logistics:
Theo hội đồng quản trị logistics Mỹ:
Logistics là quá trình lên kế hoạch, thực hiện và kiểm soát hiệu quả chi phí của dòng lưu chuyển và lưu trữ nguyên liệu, hàng tồn,thành phẩm và các thông tin có liên quan từ điểm xuất phát đến điểm tiêu thụ, nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Theo ủy ban quản lý logistics Mỹ:
Logistics là quá trình lập kế hoạch, chọn phương án tối ưu để thực hiện việc quản lý, kiểm soát việc di chuyển và bảo quản có hiệu quả về chi phí và ngắn nhất về thời gian đối với nguyên vật liệu,bán thành phẩm và thành phẩm cũng như các thông tin tương ứng từ giai đoạn tiền sản xuất cho đến khi hàng hóa đến tay người tiêu dùng cuối cùng để đáp ứng nhu cầu của khách hàng
Theo giáo sư người Anh Martin Christopher thì: “Logistics là quá trình quản trị chiến lược công tác thu mua vận chuyển nguyên vật liệu, bán thành phẩm, thành phẩm (và dòng thông tin tương ứng) trong một công ty và qua các kênh phân phối của công ty để tối đa hóa lợi nhuận hiện tại và tương lai thông qua việc hoàn tất các đơn hàng với chi phí thấp nhất”.
Theo quan điểm 7 đúng thì: “Logistics là quá trình cung cấp sản phẩm đến đúng vị trí, đúng điều kiện với chi phí phù hợp cho khách hàng tiêu dùng sản phẩm”.
Như vậy logistics là nghệ thuật và khoa học của quản lý và điều chỉnh luồng di chuyển của hàng hóa, năng lượng, thông tin và những nguồn lực như sản phẩm dịch vụ và con người, từ nguồn lực của sản xuất cho đến thị trường. Thật khó để hoàn thành việc tiếp thị hay sản xuất mà không có sự hỗ trợ của logistics. Nó thể hiện sự hợp nhất của thông tin liên lạc, vận tải tồn kho, lưu kho, giao nhận nguyên liệu, bao bì đóng gói. Trách nhiệm của logistics là việc tái định vị (theo mục tiêu địa lý)của nguyên liệu thô, của công việc toàn quá trình,và tồn kho với yêu cầu chi phí tối thiểu có thể.
1.1.1/Khái niệm về dịch vụ logistics
Khi nói đến logistics người ta phải đề cập ngay đến khái niệm dịch vụ Logistics, tuy rằng logistics hay dịch vụ logistics vẫn còn phát triển khá mới mẻ tại Việt Nam nhưng trong tương lai lĩnh vực này hứa hẹn một nguồn lợi khổng lồ, dự báo có thể đóng góp 15% GDP của cả nước.
Hiện nay người ta bàn rất nhiều về thực trạng phát triển kinh doanh dịch vụ tại Việt Nam và cũng nêu ra những khó khăn sẽ vấp phải của những doanh nghiệp trong nước. Đặc biệt đến năm 2009 thì Việt Nam phải mở cửa lĩnh vực này theo cam kết với WTO, rõ ràng một nguy cơ bị mất thị trường mồn một. Tuy vậy muốn hiểu rõ về nó thì trước hết cần hiểu dịch vụ logistics là gì?
Theo ông Bùi Văn Trung-Tổng công ty hàng hải Việt Nam, nói một cách đơn giản, dịch vụ logistics là việc thực hiện và kiểm soát toàn bộ hàng hóa cùng những thông tin có liên quan từ nơi hình thành nên hàng hóa cho đến điểm tiêu thụ cuối cùng. Vậy logistics không phải là dịch vụ đơn lẻ mà nó là một chuỗi dịch vụ, do đó thuật ngữ này luôn được viết ở dạng số nhiều “LOGISTICS”. Logistics là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hóa như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phát hàng hóa tới các địa chỉ khác nhau, chuẩn bị hàng hóa luôn sẵn sàng. Chính vì vậy nói tới logistics bao giờ người ta cũng nói đến một chuỗi chệ thống dịch vụ (logistics system chain). Với hệ thống chuỗi dịch vụ này, người cung cấp dịch vụ logistics (logistics service provider) sẽ giúp khách hàng có thể tiết kiệm chi phí trong khâu dịch chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân phối hàng hóa (nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm), cũng như chi phí dịch vụ logistics đã nói trên (trang 2-4 SGK logistics Management của ESCAP xuất bản năm 2000).
Theo luật thương mại tháng 5-2005 định nghĩa dich vụ logistics như sau: “Dich vụ Logistics là một hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hay nhiều công đoạn bao gồm: nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan các thủ tục giấy tờ khắc, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi kí mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ có liên quan đến hàng hóa theo thỏa thuận của khách hàng để hưởng thù lao”
Phân loại dịch vụ logistics theo luật thương mại Việt Nam
Dịch vụ logistics theo quy định tại điều 123 Luật thương mại được phân loại như sau:
Dịch vụ bốc xếp hàng hóa, bao gồm cả hoạt động bốc xếp container
Dịch vụ kho bãi và lưu giữ hàng hóa, bao gồm cả hoạt động kinh doanh kho bãi container và kho xử lý nguyên liệu, thiết bị.
Dịch vụ đại lý vận tải, bao gồm cả hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan và lập kế hoạch bốc dỡ hàng hóa.
Dịch vụ hỗ trợ khác, bao gồm cả hoạt động tiếp vận, lưu kho và quản lý thông tin liên quan đến vận chuyển và lưu kho hàng hóa trong cả chuỗi logistics.
Hoạt động xử lý lại hàng hóa bị trả lại, hàng hóa tồn kho, hàng hóa quá hạn, lỗi mốt và tái phân phối hàng hóa; hoạt động cho thuê và thuê mua container.
1.1.2.Dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
Logistics là một hệ thống chuỗi cung cấp dịch vụ nó giúp cho khách hàng tiết kiệm được cả chi phí đầu vào lẫn chi phí đầu ra. Đồng thời nó góp phần giải quyết tốt cả đầu vào và đầu ra làm giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Vậy dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận của hệ thống dịch vụ logistics, nó là các dịch vụ logistics phục vụ cho công tác tiêu thụ sản phẩm, đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng một các tối ưu với thời gian và chi phí nhỏ nhất.
Nó cũng bao gồm các dịch vụ như bốc xếp, kho bãi, vận tải, các dịch vụ hỗ trợ khác cho việc tiêu thụ sản phẩm đạt hiệu quả tối ưu.
1.1.2/Dịch vụ hậu cần vật tư
Dịch vụ hậu cần vật tư cũng là một bộ phận quan trọng trong chuỗi hệ thống dịch vụ logistics. Tuy nhiên cũng giống như dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm nó cũng có đặc thù riêng,dịch vụ hậu cần vật tư là các hoạt động dịch vụ nhằm đảm bảo cho công tác vật tư của doanh nghiệp đạt được hiệu quả kinh tế cao.
1.2/So sánh dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm và dịch vụ hậu cần vật tư.
Dịch vụ hậu cần vật tư và dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm đều là bộ phận cấu thành của dịch vụ logistics.
Tuy nhiên hai dịch vụ này có những điểm khác nhau cơ bản:
Thứ nhất nó khác nhau về đối tượng phục vụ: Dịch vụ hậu cần vật tư là dịch vụ đảm bảo, hỗ trợ cho các yếu tố đầu vào. Dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm là các dịch vụ hỗ trợ cho các yếu tố đầu ra, đó là thành phẩm, hàng hóa, bán thành phẩm.
Thứ hai là mức độ quan trọng cũng như sự ưu tiên hơn của doanh nghiệp cho việc phát triển dịch vụ nào cho sản xuất kinh doanh. Có thể nói mục tiêu của mọi doanh nghiệp là tiêu thụ sản phẩm. Trong cơ chế thị trường với môi trường cạnh tranh công bằng nhưng mức độ cạnh tranh mạnh mẽ thì việc tiêu thụ sản phẩm rất được công ty coi trọng. Điều này lý giải bởi trong cơ chế thị trường thì khách hàng là thượng đế, mọi doanh nghiệp đều cố gắng làm tốt nhất khả năng của mình để thỏa mãn nhu cầu của khách hàng. Vì thế các dịch vụ nói chung và dịch vụ hậu cần cho sản xuất rất được quan tâm, đặc biệt là dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm vì nó là công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh. Nói thế không có nghĩa là dịch vụ hậu cần vật tư không được quan tâm nhưng rõ ràng là dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm được coi trọng hơn.
Thứ ba do đặc thù của từng đối tượng phục vụ, một bên là nguyên nhiên vật liệu còn một bên là sản phẩm nên việc tổ chức thực hiên dịch vụ hậu cần cho hai đối tượng này là khác nhau từ công tác giao nhận, vận tải, kho bãi.
2/Vai trò của logistics và dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
2.1/Vai trò của logistics
Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế quốc tế như cung cấp, sản xuất, lưu thông, phân phối, mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế. Thực tế cho thấy với tốc độ phát triển chóng mặt của nền kinh tế toàn cầu như hiện nay đặc biệt là việc mở rộng thị trường ở các nước kinh tế đang và chậm phát triển,thì chẳng mấy chốc logistics sẽ phát triển nhanh chóng ở phạm vi toàn cầu. Khi đó nó sẽ góp phần liên kết mọi hoạt động kinh tế từ khâu cung ứng, sản xuất, lưu thông, phân phối. Hoạt động logistics không chỉ dùng lại ở phạm vi quốc gia mà nó còn ở phạm vi quốc tế liên kết mọi hoạt động kinh tế với nhau nhằm mang lại hiệu quả kinh tế cao với thời gian và chi phí tối thiểu.
Sự phát triển của logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh, các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Bản thân logistics được ra đời nhằm tối ưu hóa các yếu tố thuộc nguồn nhân lực của xã hội, đem lại hiệu quả cho hoạt đông kinh tế vì vậy mục tiêu hàng đầu của nó là đảm bảo về mặt thời gian và chất lượng.
Logistics đóng vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động kinh doanh. Mục đích của sản xuất kinh doanh là lợi nhuận, muón đạt được mục đích đó thì trước tiên phải đưa ra những phương án kinh doanh tối ưu. Logistics cho phép nhà quản lý kiểm soát các yếu tố trong chuỗi cung ứng từ khâu cung ứng lưu kho, thời gian, địa điểm cung ứng, phương thức vận chuyển… để giảm tối đa chi phí phát sinh đảm bảo tính hiệu quả trong hoạt động kinh doanh.
Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc thay đổi hoàn thiện dịch vụ vận tải giao nhận, đảm bảo yếu tố đúng thời gian, địa điểm. Khi mới phát triển thì dịch vụ vận tải giao nhận mới phát triển ở khối lượng vận tải hàng hóa còn nhỏ, thường chỉ là trong phạm vi trong một quốc gia. Nhưng do tiến trình hội nhập kinh tế diễn ra quá mạnh mẽ thì vận tải giao nhận không chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia nữa mà nó phát triển ở phạm vi toàn cầu với khối lượng chuyên chở lớn hơn trước, phức tạp hơn, phong phú hơn trước. Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới đối với dịch vụ vận tải giao nhận, đồng thời để tránh tồn đọng vốn thì doanh nghiệp cách duy trì lượng hàng hóa trong kho nhỏ nhất.Kết quả là hoạt động giao nhận vận tải nói riêng và lưu thông phân phối nói chung, cần phải tăng cường về cường độ, về khối lượng hàng hóa vận chuyển đáp ứng nhu cầu nhanh, chính xác, ăn khớp trong quá trình giao nhận vận chuyển.
Logistics còn cho phép các nhà kinh doanh trong lĩnh vực vận tải giao nhận cung cấp các dịch vụ phong phú hơn ngoài dịch vụ vận tải đơn thuần, điều đó xuất phát từ đặc điểm của hoạt động logistics tổng hợp các hoạt động bao gồm giao nhận vận tải, bốc xếp dự trữ, đóng gói, ghi ký mã hiệu hàng hóa.
Vì vậy trong quá trình vận tải người kinh doanh dịch vụ vận tải không chỉ cung cấp dịch vụ vận tải đơn thuần mà thực tế họ đã tham gia cùng với người sản xuất và lưu thông hàng hóa như: lắp ráp, đóng gói, gom hàng, xếp hàng, cung cấp kho hàng…
Rõ ràng với sự phát triển của dịch vụ logistics đã góp phần hoàn thiện dịch vụ vận tải giao nhận.
Cuối cùng logistics góp phần nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp.
Logistics là quá trình tối ưu hóa về địa điểm và thời điểm, tối ưu hóa việc lưu chuyển và dự trữ nguồn tài nguyên từ đầu vào nguyên thủy cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của người tiêu dùng với chi phí thích hợp, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Đồng thời với việc cung cấp hệ thống các chuỗi dịch vụ hoàn hảo thì nó còn làm gia tăng khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, nó đem lại cho người tiêu dùng một sự thỏa mãn, một dịch vụ khá hoàn hảo.
2.2/ Vai trò của dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
Dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm là một bộ phận của dịch vụ logistics, dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm cũng có những vai trò nhất định: Một là hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm vì để sản phẩm hàng hóa đến tay người tiêu dùng thì cần có một quá trình lưu chuyển hàng hóa nói cách khác là cần có vận tải. Vì vậy trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm không thể không có các hoạt động dịch vụ hậu cần, các dịch vụ hậu cần có vai trò quan trọng trong tiêu thụ từ việc dự trữ, bảo quản, bốc xếp phân loại, chọn lọc, ghi bao bì và các biện pháp marketing. Sản phẩm khi đến người tiêu dùng có được giữ nguyên về phẩm chất, số lượng hay không phụ thuộc rất lớn vào các hoạt động này. Mặt khác dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng, doanh nghiệp có thể đáp ứng được yêu cầu của cả những khách hàng khó tính nhất.
Doanh nghiệp luôn có những khách hàng đặc biệt, họ đòi hỏi một dịch vụ trọn gói tức là doanh nghiệp sẽ đảm nhận tất cả các khâu từ việc thu gom, phân loại bốc xếp lên và xuống…Vậy thì việc tổ chức thực hiện tốt các dịch vụ hậu cần đầu ra sẽ “chiều lòng” được những những khách hàng khó tính nhất. Đặc biệt khi được thỏa mãn những nhu cầu ở khía cạnh nhỏ nhất và điều đó có nghĩa là doanh nghiệp đã làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng.
Ngoài ra, nó còn góp phần tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Một khi khách hàng của doanh nghiệp có được sự thỏa mãn lớn hơn thì họ cũng sẵn sàng trả giá cao hơn cho sản phẩm và dịch vụ họ được sử dụng. Bởi vì có trong kinh doanh có một nguyên tắc là bạn muốn được hưởng dịch vụ tốt hơn đồng nghĩa bạn phải trả một cái giá cao hơn. Như vậy dịch vụ hậu cần đầu ra đã gián tiếp làm tăng doanh số cho doanh nghiệp, từ đó làm tăng lợi nhuận, còn ở khía cạnh khác thì nó còn là một công cụ cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp. Thực tế trong môi trường kinh doanh hiện nay, người ta có thể cạnh tranh bằng giá, chất lượng nhưng các công cụ đấy không bền vững , còn cạnh tranh về dịch vụ lại có những ưu điểm mà hai công cụ kia không có được.Chỉ có cạnh tranh bằng dịch vụ mới có thể tồn tại lâu dài vì nó không vấp phải giới hạn nào cả, nếu cạnh tranh về giá thì sẽ vấp phải giới hạn là giá vốn mà nếu qua giới hạn đó thì doanh nghiệp sẽ thua lỗ, nếu cạnh tranh về mặt chất lượng thì doanh nghiệp sẽ gặp phải giới hạn về mặt công nghệ vì không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể nghĩ ra ngay một công nghệ mới.
3/ Một số dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm.
3.1/ Dịch vụ giao nhận hàng hóa
Giao nhận là một hoạt động cơ bản trong hoạt động kinh doanh bao gồm cả kinh doanh trong nước và kinh doanh quốc tế. Thực tế chứng minh vai trò to lớn của dịch vụ giao nhận.Trong toàn bộ quá trình lưu thông hàng hóa thì giao nhận là một khâu hết sức quan trọng, đảm bảo hàng hóa đến tận tay người tiêu dùng, nếu không có nó thì coi như hợp đồng không thể thực hiện được.
Vậy dịch vụ giao nhận là gì?
Theo liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận(FIATA) đã đưa ra các khái niệm về dịch vụ giao nhận như sau: “Dịch vụ giao nhận là bất cứ loại dịch vụ nào liên quan đến vận chuyển ,gom hàng, lưu kho, bốc xếp, mua bảo hiểm thanh toán, thu nhập chứng từ liên quan đến hàng hóa.
Theo luật thương mại Viêt Nam: “Dịch vụ giao nhận hàng hóa là hành vi thương mại theo đó người làm dịch vụ giao nhận hàng hóa nhận hàng từ người gửi, tổ chức thực hiện vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác liên quan để giao hàng cho người nhận ủy thác của chủ hàng,của người vận tải hoặc người làm dich vụ giao nhận khác (gọi chung là khách hàng).
Phân loại giao nhận:
Căn cứ vào phạm vi hoạt động:
Giao nhận quốc tế
Giao nhận nội địa
Căn cứ vào nghiệp vụ kinh doanh
Giao nhận thuần túy: Là bao gồm thuần túy việc gửi hàng đi và nhận hàng đến.
Giao nhận tổng hợp: Bao gồm tất cả các hoạt động như xếp,dỡ,bảo quản,vận chuyển.
Căn cứ vào phương tiện vận tải:
Giao nhận bằng đường biển
Giao nhận bằng đường hàng không
Giao nhận bằng đường thủy
Giao nhận bằng đường bộ
Giao nhận bằng đường sắt
Giao nhận vận tải liên hợp, vận tải đa phương thức
Căn cứ vào tính chất giao nhận:
Giao nhận riêng: là hoạt động do người kinh doanh tự mình tổ chức
Giao nhận chuyên nghiệp: Là hoạt động giao nhận mà doanh nghiệp đi thuê các doanh nghiệp chuyên kinh doanh dịch vụ giao nhận
Nội dung cơ bản của nghiệp vụ giao nhận:
Nghiệp vụ giao nhận truyền thống:
+ Tổ chức chuyên chở hàng hóa từ nơi sản xuất đến các địa điểm đầu mối vận tải và ngược lại.
+ Tổ chức xếp dỡ hàng hóa lên xuống các phương tiện vận tải tại các điểm đầu mối phương tiện vận tải.
+ Lập các chứng từ có liên quan đến giao nhận vận chuyển nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ hàng.
+Cuối cùng là giải quyết các khiếu nại về hàng hóa trong quá trình giao nhận vận tải đồng thời thanh toán tiền hàng.
Đối với nghiệp vụ giao nhân quốc tế thì có phức tạp hơn do tính chất của hàng hóa mang đi xuất nhập khẩu.
Làm dịch vụ quá cảnh cho hàng hóa (thủ tục xuất nhập khẩu).
Ngoài ra còn các nghiệp vụ mà giao nhận nội địa không có đó là: lưu cước tàu chợ, thuê tàu chiến, thuê các phương tiện vận tải khác, mua bảo hiểm cho hàng hóa, bảo quản hàng, tái chế, đóng gói, thu gom hoặc chia lẻ hàng. Thuê hoặc cho thuê vỏ container, giao hàng đến cơ sở sản xuất.
Có thể làm thủ tục tư vấn cho nhà kinh doanh xuất nhập khẩu về mọi mặt liên quan đến hàng hóa như đặc điểm cơ lý hóa học.
3.2/ Kho bãi
Quá trình sản xuất cũng như lưu thông không thể tiến hành được liên tục nêu như không có dự trữ. Hầu hết các sản phẩm khi được hoàn thành thường không trực tiếp được đưa vào tiêu dùng mà nó thường qua một giai đoạn gọi là dự trữ trong các kho hàng hóa. Rõ ràng không thể không có quá trình dự trữ hàng hóa trong lưu thông, mặt khác kho là cơ sở vật chất của việc dự trữ hàng hóa
Theo nghĩa hẹp hay về mặt kĩ thuật kho được hiểu là:Kho vật tư hàng hóa là một công trình dùng để dự trữ và bảo quản vật tư hàng hóa phục vụ cho sản xuát liên tục và lưu thông hàng hóa bình thuờng.Với góc độ này thì kho bao gồm nhà kho,sân bãi,ác trang thiết bị để chứa đựng và bảo quản hàng hóa sản phẩm.
Trên góc độ kinh tế xã hội: Kho vật tư hàng hóa là một đơn vị kinh tế có chức năng và nhiệm vụ dự trữ, bảo quản, giao nhận hàng hóa nhằm phục vụ cho sane xuất và lưu thông. Nghĩa là kho vật tư hàng hóa là một phân xưởng đặc biệt trong sản xuất, hoặc một bộ phận của doanh nghiệp thương mại, hoặc là một doanh nghiệp độc lập, có đủ các yếu tố: cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư hàng hóa, người lao động thực hiện các công tác bảo quản bảo vệ hàng hóa trong kho.
Chức năng kho bãi
Hỗ trợ sản xuất: kho là nơi dự trữ nghuyên nhiên vật liệu và hàng hóa cần thiết đảm bảo cho xuất bán bình thường hoặc cấp phát đầy đủ, đồng bộ, kịp thời cho sản xuất liên tục. Mặt khác kho nguyên liệu thường nằm ngay trong nhà sản xuất nên việc cung cấp rất nhanh chóng, tiện lợi. Nhờ có kho đảm bảo vật tư cho sản xuất đúng chất lượng, đủ số lượng và kịp về mặt thời gian, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất. Vì vậy có thể nói rằng kho hỗ trợ đắc lực cho công tác sản xuất của doanh nghiệp.
Gom hàng: Đây là một chức năng thiết yếu của kho hàng. Bởi vì doanh nghiệp tiến hành thu gom hàng hóa ở các đơn vị sản xuất nhỏ rồi đem về tập trung tại khu vực kho bãi sao cho đủ số lượng và đảm bảo về chất lượng và cuối cùng là tiến hành giao hàng cho khách hàng. Hơn nữa việc thu gom hàng hóa sẽ góp phần hạn chế mất mát có thể xảy ra, nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh, đáp ứng được yêu cầu của những đơn hàng lớn.
Tách hàng thành nhiều lô nhỏ: ngược lại với chức năng trên thì trong một vài trường hợp kho phải tiến hành tách hàng hóa thành nhiều lô nhỏ để đáp ứng yêu cầu của những khách hàng nhỏ lẻ.
Các loại kho:
Kho đa năng: phân loại, tổng hợp, hoàn thiện hàng hóa để phục vụ người tiêu dùng.Kho đa năng có những chức năng cơ bản giống như một trung tâm phân phối tổng hợp. Sản phẩm sẽ được chuyển đến kho đa năng theo những lô hàng lớn, tại đây lô hàng sẽ được tách ra, chuẩn bị theo những yêu cầu cần thiết của khách hàng, rồi gửi cho khách.
Kho thuê theo hợp đồng Kho: Hợp đồng thuê kho là sự thỏa thuận giữa ben cho thuê và bên đi thuê về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, trong đó bên cho thuê sẽ cung cấp những dịch vụ kho bãi theo thỏa thuận cho khách hàng và bên đi thuê sẽ thanh toán tiền thuê cho bên cho thuê.
Các loại kho công cộng: Có nhiều loại kho công cộng như kho tổng hợp, kho đông lạnh, kho hải quan, kho gửi hàng cá nhân, kho đặc biệt, kho hàng rời, kho hàng lỏng.
Kho ngoại quan: Được thiết lập trên lãnh thổ Việt Nam và được thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt động củ kho chịu sự kiểm tra, giám sát và quản lý về mặt nhà nước.
Kho thành phẩm đầu ra của doanh nghiệp: Là kho dùng để chứa các sản phẩm hoàn thành, kho này thường là các kho mà có đầy đủ nhất các cơ sở vật chất của doanh nghiệp. Bởi vì chất lượng sản phẩm có giữ nguyên giá trị, số lượng có được bảo toàn không mất mát hay không phụ thuộc vào công tác thực hiện các nghiệp vụ kho của cán bộ kho hàng. Kho thành phẩm thường có một quy định bảo quản nghiêm ngặt nhất vì sản phẩm tại kho các sản phẩm không chỉ sản phẩm hoàn thành mà nó còn được giao cho các công trình. Vì vậy nếu như việc bảo quản không tốt sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng công trình
3.3/ Vận tải
Vận tải là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nó đóng góp to lớn vào GDP quốc dân, vận tải phát triển từ lâu và ngày nay ngành này
ngày càng chiếm vị trí quan trọng,vận tải có rất nhiều phương thức khác nhau:
Vận tải biển: Là phương thức xuất hiện sớm nhất cùng với sự ra đời của hoạt động mua bán trao đổi giữa các quốc gia vùng lãnh thổ trên thế giới.
Đặc điểm của phương thức vận tải đường biển:
Các tuyến đường vận tải hầu hết là tuyến đường giao thông tự nhiên
Năng lực vận chuyển lớn
Giá cước vận tải thấp
Quy trình chuyên chở khác phức tạp
Tác dung của vận tải biển:
Góp phần làm thay đổi cơ cấu mặt hàng,nguồn hàng trong buôn bán quốc tế
Thúc đẩy quan hệ quốc tế phát triển và mở rộng thị trường buôn bán thế giới
Các tuyến đường bao gồm
Đường biển quốc tế
Đường biển ven bờ
Các kênh đào
Cảng biển: Gắn liền với sự phát triển của ngành hàng hải, trước kia cảng biển chỉ được coi là để tránh gió, bão cho tàu thuyền, ngày nay cảng biển không những là nơi bảo vệ an toàn cho tàu thuyền mà còn là đầu mối giao thông quan trọng,trung tâm văn hóa và là một mắt xích chủ yếu của quá trình vận tải.
Vận tải bằng container:
Container là một công cụ chứa hàng, khối hộp chữ nhật được làm bằng gỗ hoặc tấm kim loại, có kích thước tiêu chuẩn hóa được dùng nhiều lần và có sức chứa lớn.
Các yếu tố kĩ thuật của hệ thống vận tải bằng container:
Ga, cảng container: các điểm vận tải phục vụ chuyên chở container là các ga đường sắt, cảng biển, trạm đường bộ…Nó đòi hỏi phải có diện tích rộng, phải có các trang thiết bị chuyên dụng để xếp dỡ sắp đặt container, là nơi tiến hành các thủ tục hải quan, kiểm tra hàng hóa xuất nhập khẩu. C
Công cụ xếp dỡ container: Quy trình kỹ thuật xếp dỡ container lên xuống phương tiện vận tải hoặc ở các kho bãi khác với quy trình xếp dỡ hàng hóa thông thường.Căn cứ vào công dụng có thể chia làm 3 nhóm:
Công cụ phục vụ xếp dỡ container lên xuống phương tiện vận tải.
Công cụ phục vụ sắp xếp container tại các kho bãi.
Công cụ xếp dỡ hàng hóa ra vào container.
Dịch vụ vận tải trong khâu tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
+ Dịch vụ vận tải là sự chuẩn bị các yếu tố phục vụ cho việc chuyên chở nguyên, nhiên vật liệu, bán thành phẩm, sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp.
+Dịch vụ vận tải trong khâu tiêu thụ là dịch vụ các yếu tố vận tải (phương tiện, công cụ, dụng cụ, con người) nhằm chuyên chở hàng hóa của doanh nghiệp tới khách hàng.
+Dịch vụ vận tải trong khâu tiêu thụ có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp:
- Nó chuyên chở một khối lượng lớn hàng hóa cho doanh nghiệp.
- Nó là một hoạt động dịch vụ quan trọng của doanh nghiệp làm tăng sự thỏa mãn của khách hàng.
- Nó thúc đẩy hoạt động tiêu thụ của doanh nghiệp diễn ra nhanh chóng, với khối lượng chu chuyển lớn.
- Nếu tính toán hợp lý chi phí vận tải doanh nghiệp có thể góp phần làm giảm chi phí vận tải, từ đó làm giảm tổng chi phí, làm giá thành sản phẩm giảm để nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm.
4/ Các biện pháp marketing phục vụ cho phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
Trong kinh doanh thời cơ là việc xuất hiện khả năng cung ứng hàng hóa dịch vụ nhằm tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Trên thị trường có vô vàn các cơ hội kinh doanh nhưng nó cũng ẩn chứa đầy rủi ro, nhiệm vụ của marketing là phải tìm ra cơ hội để phát triển hoạt động kinh doanh. Chỉ qua nghiên cứu thị trường thì doanh nghiệp mới có thể tìm kiếm và phát hiện những nhu cầu mới của khách hàn. Có thể nói, dịch vụ hậu cần là một trong số các dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng nhằm thu hút khách hàng. Tuy nhiên nếu không có hoạt động marketing thực hiện nghiên cứu thị trường thì doanh nghiệp cũng thực sự khó khăn trong việc đưa ra dịch vụ nào cho phù hợp với khách hàng, dịch vụ nào khách hàng cần, làm sao cho khách hàng luôn ấn tượng với các dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp.
Doanh nghiệp có thể sử dụng các hình thức quảng cáo (fax, qua tạp chí chuyên ngành, các ấn phẩm) hoặc là marketing trực tiếp, các hình thức khuyến mại…
II/ TỔ CHỨC THỰC HIỆN CÁC DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ.
1.Tổ chức thực hiên các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
1.1.Tổ chức thực hiện dịch vụ giao nhận
Giao nhận là hoạt động mang tinh chất tổng hợp bao gồm rất nhiều công việc khác nhau mà trước hết là phải tiến hành gom hàng từ các địa điểm sản xuất khác nhau. Sau đó tiến hành kiểm nhận hàng hóa và tiến hành phân loại theo lô hoặc theo từng ngăn, giá, chồng đống.Việc kiểm tra hàng hóa về số lượng có thể tiến hành theo phương pháp kiểm tra chọn mẫu hoặc kiểm tra toàn bộ hàng hóa. Còn kiểm tra về mặt chất lượng thì kiểm tra theo phương pháp chọn mẫu là tốt nhất.
Khi có đủ hàng hóa về số lượng cũng như chất lượng thì chúng ta cần xem lại đơn hàng cụ thể để nắm chắc lượng hàng hóa được giao cũng như các điều kiện ghi trong đơn hàng. Tuy nhiên khi tiến hành giao nhận thì cần một lực lượng rất quan trọng đó là nhân lực. Doanh nghiệp cần chuẩn bị nhân lực đầy đủ để công tác giao nhận có thể tiến hành thuận lợi, nhanh chóng và đạt hiệu quả. Đặc biệt lực lượng nhân lực cần phải có:thủ kho, nhân viên kiểm nhận, nhân viên bốc xếp. Vấn đề cuối cùng là chuyên chở hàng hóa đến địa điểm tiêu thụ. Muốn vậy doanh nghiệp cần chuẩn bị phương tiện chuyên chở (tự có hoặc đi thuê).
Các hình thức giao hàng:
Giao hàng thẳng từ kho tổ chức kinh doanh bao gồm
Giao tận nơi khách yêu cầu.
Giao tận nơi kho của đơn vị kinh doanh
Giao hàng thẳng từ kho nhà cung cấp (không qua kho)
Giao tận nơi khách hàng yêu cầu
Giao tại nhà kho cung cấp (giao tay ba tại kho)
1.2.Tổ chức thực hiện dịch vụ kho bãi trong tiêu thụ sản phẩm
Dịch vụ kho bãi là một dịch vụ không thể thiếu đối với các hoạt động hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm, bởi vì nó đóng góp rất lớn vào việc thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm mang lại hiệu quả cao. Vậy người ta tiến hành tổ chức thực hiện dịch vụ kho bãi như thế nào cho đạt hiệu quả cao nhất?
Muốn thực hiện dịch vụ kho bãi thì doanh nghiệp cần chuẩn bị hệ thống kho bãi cùng với cơ sở vật chất cho hệ thống kho bãi. Doanh nghiệp cần chuẩn bị hệ thống thiết bị của khi bãi bao gồm: thiết bị bảo quản hàng hóa, thiết bị vạn chuyển xếp dỡ, thiết bị cân đo và kiểm nghiệm hàng hóa, thiết bị phòng chống cháy và bão lụt.
Kho cần chuẩn bị đầy đủ các thiết bị cả về mặt số lượng và chất lượng sao cho vừa đảm bảo tính hiệu quả của kho hàng như là tiết kiệm diện tích kho, thuận tiện, nhanh chóng, đơn giản, gọn nhẹ và các thiết bị phải có chất lượng tốt để giảm thiệt hại có thể xảy ra trong quá trình bảo quản, phân loại, vận chuyển, đóng gói. Với một hệ thống kho tàng hoàn chỉnh khi đó doanh nghiệp cần có nguồn nhân lực có trình độ, kinh nghiệm và am hiểu về nghiệp vụ kho hàng. Tất nhiên để có được đầy đủ cơ sở vật chất cho kho hàng cùng với đội ngũ lao động hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực kho hàng thì nhất thiết phải chuẩn bị đầy đủ về mặt tài chính
1.3.Tổ chức thực hiện dịch vụ vận tải trong tiêu thụ sản phẩm
Thực chất của việc tổ chức thực hiện các dịch vụ vận tải là việc luân chuyển hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng hoặc nhà thương mại. Vậy để tổ chức việc vận._. tải doanh nghiệp cần có kế hoach vận tải từ trước, phải tổ chức được đội xe vận tải chuyên nghiệp cho doanh nghiệp bao gồm: phương tiện công cụ, dụng cụ dùng để chuyên chở và cả con người. Song song với điều đó doanh nghiệp cần thực hiện giám sát chặt chẽ quá trình vận tải, phân định rõ trách nhiệm vật chất khi có sự cố xảy ra, trong một số trường hợp cần có sự hỗ trợ kịp thời khi có sự kiện đột xuất. Khi phương tiện vận tải đến nơi phải có sẵn nhân viên tiến hành bốc dỡ sản phẩm hàng hóa. Thực hiện kiểm nhận,kiểm nghiệm kĩ lưỡng trước khi ra về, ghi lại những khiếu nại của khách hàng về sản phẩm hàng hóa…
1.4.Tổ chức thực hiện các hoạt động marketing
Tổ chức thực hiện marketing là động viên, huy động nỗ lực của mọi thành viên trong doanh nghiệp nhằm biến ý tưởng, chiến lược marketing thành hiện thực, kiểm tra đánh giá hoạt động marketing để đảm bảo rằng việc tổ chức thực hiện theo trình tự vạch ra, theo mục tiêu đã định.
Tổ chức bộ máy marketing là việc hình thành các phòng ban hoặc các bộ phận marketing của doanh nghiệp có đủ năng lực để thực hiện các hoạt động marketing trong kinh doanh. Như vậy cần phải có cán bộ chuyên trách thực hiện các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, quản lý sản phẩm và nhãn hiệu, quản lý bán hàng, nghiên cứu marketing, tuyên truyền quảng cáo, phân phối sản phẩm, thiết kế bao bì, chăm sóc và quản lý khách hàng…Sau đó cần phân rõ trách nhiệm của tưng bộ phận từng phòng ban. Cuối cùng cần phải tuyển chọn, đào tạo cán bộ marketing thuc đẩy sự nỗ lực của mọi người.
Tổ chức thực hiện các chương trình marketing
Để tổ chức tốt các chương trình marketing thì người làm marketing cần rèn luyện bốn kĩ năng cơ bản
Kĩ năng chuẩn đoán và nhận thức vấn đề
Kĩ năng đánh giá mức độ tồn tại các vấn đề
Kĩ năng tổ chức thực hiện các kế hoạch
Kĩ năng đánh giá kết quả thực hiện
Đánh giá hoạt động marketing thông qua các chỉ tiêu, doanh số và khối lượng hàng hóa bán ra; tỷ lệ phần trăm; tỷ lệ chi phí marketing so với doanh số bán; các tỷ suất lợi nhuận doanh thu trên vốn; mức độ hài lòng của khách hàng; khả năng sinh lời của hoạt động marketing.
2.Các chỉ tiêu đánh giá dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
2.1/ Doanh thu các hoạt động dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
Doanh thu từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ tiền bán sản phẩm hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường sau khi đã trừ đi các khoản chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán,hàng bán bị trả lại (nếu có); thu từ phần trợ giá của nhà nước khi thực hiện cung cấp hàng hóa dịch vụ theo yêu cầu của nhà nước
Đối với doanh nghiệp thương mại doanh thu hành thành từ các hoạt động bán hàng và các hoạt động dịch vụ là chủ yếu.
Đối với doanh nghiệp sản xuất doanh thu được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau bao gồm: doanh thu từ hoạt động kinh doanh, từ hoạt động tài chính và doanh thu từ hoạt động khác.
Tuy nhiên đối với các doanh nghiệp sản xuất thì các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm thường là dịch vụ hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm một cách đơn thuần, nên thường không có doanh thu. Tuy nhiên một số ít doanh nghiệp cũng có thể sử dụng các dịch vụ này đem lại nguồn thu cho doanh nghiệp, ví dụ như: cho thuê kho bãi hay phương tiện vận tải
khi dư thừa không sử dụng đến.
Vậy doanh thu được tính như thế nào?
Cũng như các hoạt động kinh doanh khác thì doanh thu được tính như sau:
DT=Pi*Qi
DT-doanh thu từ hoạt động kinh doanh dịch vụ hậu cần
Pi: giá của dịch vụ thứ i
Qi: khối lượng dịch vụ i
Có thể nói doanh thu là một chỉ tiêu về mặt lượng phản ánh hiệu quả của công tác hậu cần vật tư cho doanh nghiệp. Nó cũng phản ánh một phần việc tận dụng tối đa hệ thống kho bãi, nhà xưởng của doanh nghiệp cũng như hệ thống cơ sở vật chất.
Để có thể tăng doanh thu của hoạt động dịch vụ hậu cần doanh nghiệp cũng cần có kế hoạch sử dụng hệ thống nhà xưởng hợp lý, thường xuyên bổ xung, cung cấp đầy đủ các cơ sở cần có của kho hàng.
2.2/ Chi phí từ các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm
Đối với doanh nghiệp sản xuất thì các dịch vụ hậu cần chủ yếu là các dịch vụ hỗ trợ thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm cho doanh nghiệp. Vì vậy chi phí cho các dịch vụ hậu cần là một chỉ tiêu phản ánh rõ nhất tính hiệu quả của các hoạt động dịch vụ hậu cần. Các chi phí của dịch vụ hậu cần bao gồm:
Chi phí khấu hao tài sản cố định như hệ thống nhà kho, kho bãi của doanh nghiệp, công cụ dụng cụ sử dụng lâu năm.
Chi phí biến đổi như chi phí mua mua các thiết bị, công cụ phục vụ cho thời gian ngắn cho các hoạt động bốc xếp, luân chuyển hàng hóa .
Chi phí nhân công.
Chi phí khác như điện nước, chi phí cho cán bộ hải quan.
Để đánh giá chất lượng của dịch vụ hậu cần người ta tính tỷ số doanh thu trên chi phí xem khi bỏ ra một đồng chi phí cho dịch vụ hậu cần có thể thu được bao nhiêu đồng doanh thu và lợi nhuận.
H1=DT/ CP H2=LN/CP
DT tổng doanh thu
CP chi phí của hoạt động dịch vụ hậu cần
LN lợi nhuận
2.3. Chỉ tiêu lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ sản phẩm thặng dư do con người tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,là nguồn gốc của tái sản xuất kinh doanh mở rộng,là đòn bẩy kinh tế quan trọng có tác dụng khuyến khích người lao động nâng cao hiệu quả kinh doanh.Lợi nhuận của doanh nghiệp được xác định như sau:
P=DT-CP
P: lợi nhuận
DT: doanh thu của các dịch vụ hậu cần
CP:chi phí của các dịch vụ hậu cần
2.4/Mức dự trữ thành phẩm
Dự trữ thành phẩm là những sản phẩm được xuất xưởng và nhập kho thành phẩm nhưng chưa giao cho khách hàng.Việc hình thành dự trữ chủ yếu là một tất yếu do yêu cầu của nghiệp vụ chuẩn bị hàng trước lúc bán và do ăn khớp về thời gian sản xuất và thời gian giao hàng.
Lượng dự trữ thành phẩm phải ở mức tối ưu và đáp ứng hai yêu cầu: vừa đủ để bán hàng liên tục vừa ở mức tối thiểu làm tăng nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động. Mức dự trữ thành phẩm là đại lượng dự trữ bình quân năm theo ngày cuối cùng ở cuối kỳ kế hoạch.
Mức dự trữ phụ thuộc rất lớn vào các nghiệp vụ giao nhận, hình thức vận chuyển, tên nhãn hiệu và bao gói, làm thủ tục chuyển hàng cho đơn vị vận tải. Toàn bộ thời gian để thực hiện các nghiệp vụ trên gọi là chu kỳ tiêu thụ và xác định mức dự trữ thành phẩm tính theo ngày. Vì vậy đây là một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm, nếu các dịch vụ hậu cần thực hiện tốt thì mức dự trữ sẽ tối ưu.
Thời gian cần tích tụ số hàng đến một lượng đủ cho lô hàng xuất được xác định theo công thức:
Tkh=Vhg/Vbq
Vhg là số lượng sản phẩm của lô hàng xuất bán
Vbq là lượng sản phẩm sản xuất bình quân ngày đêm dùng để giao hàng. Đại lượng này được tính như sau:
Vbq=Vo-Vbn/n
Vo là lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ
Vnb là lượng sản phẩm dùng nội bộ doanh nghiệp
N: số ngày trong ký (360, 90, 30)
Thời gian cần thiết bao gói sản phẩm và tích tụ số hàng bao gói đến một lượng đủ cho lô hàng xuất (Tbg) được xác định theo công thức sau:
Tbg=Vlbg/Vbgbg
Vlbg là số lô hàng xuất ra đã được bao gói
Vbgbg là lượng sản phẩm bình quân 1 ngày cần bao gói
Thời gian giao hàng được tính trên cơ sở khối lượng sản phẩm được sản xuất trong một ngày đêm và tính bằng khối lượng hàng hóa giao dịch một ngày đêm.Đại lượng này được tích tụ ở kho một ngày đêm,hình thành dự trữ bình quân một ngày đêm (0,5). Khi xuất hàng theo đường sắt,dự trữ này có thể tăng do haọt động của các toa xe không liên tục và do đó phải tính đến hệ số không liên tục của các toa xe.
Thời gian giao sản phẩm(Tg)được xác định theo công thức
Tg=0,5 Kh
Kh hệ số không liên tục trong việc giao xe.
Thời gian chuyển hàng đến ga xuất và lập các chứng từ vận chuyển hàng cho đơn vị vận tải được xác định bằng cách chia số ngày đêm cho số lượng bình quân các toa xe chở lô hàng của doanh nghiệp
Mức dự trữ thành phẩm
Hdttp=Tkh+Tbg+Tg+T1+Tt
T1 thời gian để tiến hành các thử nghiệm
Tt Thời gian chuyển hàng trên toa xe đến ga xuất để lập chứng từ cho đơn vị vận chuyển. ( Tham khảo giáo trình thương mại doanh nghiệp).
2.5/ Mức độ thỏa mãn của khách hàng
Đối với một dich vụ bất kỳ,thì mức độ thỏa mãn của khách hàng là một chỉ tiêu chất lượng quan trọng. Một doanh nghiệp dù sản phẩm tốt đến đâu nhưng khi thiếu đi một chính sách dịch vụ thì sản phẩm đó cũng không hoàn hảo. Mức độ thỏa mãn nhu cầu khách hàng được thể hiện qua chỉ tiêu mức độ đáp ứng nhu cầu dịch vụ.
Thực tế kinh doanh cho chúng ta thấy rằng dịch vụ cung cấp cho khách hàng của doanh nghiệp đã đem lại hiệu quả rõ rệt không chỉ ở khía cạnh giữ khách hàng cho doanh nghiệp. Do vậy để thỏa mãn tố hơn nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp cần chú trọng xây dựng chính sách dịch vụ khách hàng dựa vào các yêu cầu của khách hàng và chiến lược tổng quan của doanh nghiệp.
Các phương pháp xây dựng
So sánh cạnh tranh: đây là một phương pháp phổ biến để xây dựng hệ thống dịch vụ khách hàng là thực hiện so sánh với các doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp có thể biết đối thủ của mình đang làm gì,sử dụng loại dịch vụ nào nhưng nguồn thông tin đó chỉ là giới hạn.Không chỉ dừng ở việc so sánh mà doanh nghiệp cần điều tra, tìm hiểu, để xác định tầm quan trọng của các dịch vụ khác nhau, xác định các khiếm khuyết.
Phản ứng của khách hàng đối với việc hết hàng: tức là khi hết hàng khách hàng thường có phản ứng gì, có thể là thay thế sản phẩm của hãng về kích cỡ, thay đổi về thương hiệu. Căn cứ vào phản ứng của khách hàng để doanh nghiệp đánh giá xem dịch vụ khách hàng của doanh nghiệp đã tốt chưa? Có thể giữ chân khách hàng hay không đểmtừ đó doanh nghiệp có các điều chỉnh kịp thời như thay đổi thời gian, chu kỳ lệnh mua hàng, chọn lựa về vận tải…
Phân tích chi phí trên doanh số: khi xây dựng chiến lược khách hàng,cần phải tính toán chi phí bỏ ra và lợi ích thu được.Các chi phí đó có thể bao gồm: chi phí kho, chi phí vận tải, xử lý thông tin, lệnh đặt hàng…Việc nâng cao chất lượng dịch vụ có thể làm tăng doanh số khách hàng và doanh thu. Tuy nhiên khi thực hiện các dịch vụ ấy thường xuyên phát sinh chi phí, vì vật nhà quản lý cần cân nhắc đánh đổi giữa doanh thu và chi phí
Phân tích ABC/phân tích pareto:
Phân tích ABC cho rằng,trong các khách hàng của doanh nghiệp có một số khách hàng có thể đem lại nhiều lợi ích hơn các khách hàng khác.
Ích lợi ở đây có thể là: doanh thu, lợi nhuận, tỷ lệ tăng trưởng hoặc các nhân tố quan trọng khác. Cũng giống như ABC thì luật Pareto cho rằng một số hiện tượng bị chi phối bởi một nhóm các yếu tố, 80% của doanh thu là từ 20% khách hàng.
Kiểm soát dịch vụ khách hàng: Kiểm soát dịch vụ khách hàng là đánh giá mức độ dịch vụ khách hàng mà doanh nghiệp cung cấp để so sánh, đánh giá tác động của sự thay đổi dịch vụ khách hàng trong doanh nghiệp.
Mục tiêu của sự kiểm soát là:
Xác định các nhân tố dịch vụ khách hàng quan trọng nhất
Xác định việc quản lý các nhân tố dịch vụ này ra sao
Đánh giá chất lượng và khả năng của hệ thống thông tin nội bộ.
Hoạt động kiểm soát bao gồm 4 giai đoạn:
Kiểm soát dịch vụ khách hàng bên ngoài doanh nghiệp
Kiểm soát dịch vụ khách hàng nội bộ doanh nghiệp
Xác định cơ hội và phương pháp hoàn thiện
Đánh giá dịch vụ khách hàng
III. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM
1/ Môi trường địa lý, sinh thái của doanh nghiệp
Vị trí của doanh nghiệp như thế nào ảnh hưởng trực tiếp việc tiến hành các dịch vụ hậu cần:
Thứ nhất nó ảnh hưởng đến cước phí vận tải mà doanh nghiệp phải trả. Vì nếu doanh nghiệp có vị trí thuận lợi (gần đường giao thông) thì việc vận tải sẽ rất thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không thuận lợi về đường giao thông thì có để có thể đưa sản phẩm hàng hóa lên xe thì doanh nghiệp cần có đội ngũ chuyên chở hàng hóa từ kho doanh nghiệp ra xe như vậy doanh nghiệp phải mất thêm chi phí vận tải.
Đặc biệt cước phí vận tải còn phụ thuộc nhiều vào việc hàng hóa sẽ được vận chuyển đến đâu. Nêú quãng đường vận chuyển ngắn thì cước phí nhỏ hơn so với những tuyến đường vận tải xa.
Vị trí thuận lợi thì giúp cho hoạt động kho bãi cũng được thuận lợi chẳng hạn như khách hàng muốn thuê dịch vụ kho bãi của doanh nghiệp có thể dễ dàng đưa hàng hóa vào kho doanh nghiệp. Đồng thời sẽ có nhiều khách hàng thuê dịch vụ kinh doanh kho bãi của doanh nghiệp, giá dịch vụ cho thuê vì thế mà có thể cao hơn.
2/Tình hình tài chính của doanh nghiệp
Đây là một vấn đề được coi là nhạy cảm nhất đối với doanh nghiệp. Bất kỳ một doanh nghiệp nào khi bắt tay vào hoạt động kinh doanh đều gặp khó khăn nhất đó là vấn đề tài chính. Như vậy tài chính có tính quyết định rất cao đối với các hoạt động trong sản xuất kinh doanh. Trong hoạt động dịch vụ hậu cần thì tài chính của doanh nghiệp có vai trò quan trọng đối với việc hoàn thiện, phát triển các hoạt động dịch vụ hậu cần. Vì khi tiến hành hoạt động nào cũng vậy cần có sự đầu tư tiền của vào hệ thống cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ người lao động cho doanh nghiệp. Mà nếu không có tài chính thì làm sao có thể thực hiện được.
Hơn nữa khi doanh nghiệp đầu tư được một cơ sở vật chất tốt và hiện đại, đào tạo được đội ngũ lao động dịch vụ chuyên nghiệp còn nâng cao chất lượng của các hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp. Vì khi ấy nó sẽ giúp nâng cao hiệu quả hoạt động kho bãi, vận tải, giao nhận trong doanh nghiệp.
Mặt khác khi doanh nghiệp có kế hoạch phát triển các dịch vụ hậu cần thì kế hoạch này phải phù hợp với tình hình tài chính của công ty. Nếu không kế hoạch đó không khả thi, không thể thực hiện được
4/ Nguồn nhân lực của công ty
Có thể nói con người là một nguồn lực vô giá, bất kỳ một hoạt động nào mà không có sự góp sức của con người thì nó không thể hoàn hảo được. Đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ thì vai trò của con người càng trở nên quan trọng. Vì chất lượng của một sản phẩm dịch vụ phụ thuộc rất lớn vào sự tương tác, tiếp xúc giữa người làm dịch vụ và khách hàng.
Dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm bao gồm các hoạt động giao nhận, kho bãi vận tải thì nhân viên thực hiện các hoạt động này là nhân viên kho, nhân viên vận tải, nhân viên giao nhận của doanh nghiệp. Họ là những người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng, là người trực tiếp thực thi các hoạt động dịch vụ vì vậy chất lượng dịch vụ như thế nào là quyết định bởi đội ngũ nhân viên này. Thái độ, cách phục vụ của họ thể hiện chất lượng dịch vụ hậu cần cho doanh nghiệp, thể hiện hình ảnh của doanh nghiệp trong con mắt bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần tạo cho nhân viên của mình một tác phong làm việc công nghiệp, thái độ tận tụy với khách hàng và tinh thần làm việc đồng đội, hợp tác để hoạt động dịch vụ hậu cần đạt kết quả cao nhất. Ngoài việc đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên hiện có doanh nghiệp cần tuyển dụng được những nhân viên mới có trình độ, chuyên môn về nghiệp vụ các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ, những nhân viên năng động, có tinh thần trách nhiệm cao..
5/ Nhu cầu của khách hàng và tình hình tiêu thụ trên thị trường
Trong thời đại ngày nay khách hàng luôn được coi là thượng đế, mọi
hoạt động của doanh nghiệp đều nhằm phục vụ tốt nhất thượng đế của mình. Thậm chí người ta còn coi khách hàng là người trả lương cho doanh nghiệp, mỗi khách hàng đều đóng góp nên thành công của doanh nghiệp.
Với tiêu chí hoạt động đó thì các hoạt động dịch vụ phải đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng. Doanh nghiệp cần phải tạo được những dịch vụ mới để thu hút hơn nữa khách hàng của doanh nghiệp. Hơn nữa thái độ của khách hàng, nhu cầu của khách hàng quyết định hướng phát triển của các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm. Xuất phát từ nhu cầu của khách hàng doanh nghiệp sẽ quyết định là nên phát triển các dịch vụ nào. Hơn nữa doanh nghiệpcần phải căn cứ vào lượng khách hàng có nhu cầu về một dịch vụ nào đó rồi quyết định xem có nên cung cấp dịch vụ ấy không. Nhưng để biết được các nhu cầu của khách hàng thì doanh nghiệp cần tiến hành công tác nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu nhu cầu khách hàng giúp doanh nghiệp đưa ra các dịch vụ hậu cần hợp lý, hiệu quả, tiết kiệm về mặt chi phí. Mặt khác trên thị trường hiện nay người ta luôn cố gắng cung cấp dịch vụ tốt nhất để tăng cường cạnh tranh. Vì thế làm tốt công tác dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm giúp doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Đồng thời doanh nghiệp cũng cần quan tâm đến tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường để có những kế hoạch điề chỉnh các dịch vụ này cho phù hợp hơn,góp phần tiết kiệm các chi phí một cách tối đa.
6/ Các yếu tố thuộc về cơ sở vật chất kĩ thuật của doanh nghiệp
Dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm bao gồm dịch vụ giao nhận, kho bãi, vận tải. Để tiến hành các dịch vụ trên doanh nghiệp cần có hệ thống kho bãi, phương tiện vận tải, các công cụ dụng cụ phục vụ cho vận chuyển, bốc dỡ hàng hóa. Sản phẩm khi được sản xuất thường chưa đưa vào lưu thông ngay mà luôn luôn được dự trữ trong kho bãi. Một phần nó dự trữ tạm thời khi nào gom đủ hàng sẽ tiến hành chuyên chở, một phần khác nó chưa được sử dụng ngay mà cần phải dự trữ, bảo quản. Vậy muốn dự trữ được cần có hệ thống kho bãi với cơ sơ vật chất đầy đủ.
Sản phẩm có được bảo toàn về mặt số lượng, chất lượng hay không phụ thuộc rất lớn vào hệ thống kho bãi có đảm bảo những tiêu chuẩn cần thiết hay không chẳng hạn như về nhiệt độ, độ ẩm.
Thậm chí cơ sở vật như thế nào còn quyết định tính nhanh chóng trong việc đưa hàng vào kho, lên và bốc dỡ hàng xuống phương tiện vận tải. Việc bốc hàng chậm trễ đôi khi xảy ra các rủi ro như hàng ướt, hàng bị hỏng, hàng bị mất cắp. Nếu trong trường hợp doanh nghiệp không có phương tiện vận tải thì sẽ không chủ động được trong việc chuyên chở, có khi hàng bốc ra kho vài ngày rồi mà vẫn không có phương tiện chuyên chở, gây ảnh hưởng đến chất lượng cũng như số lượng của sản phẩm.
Chính vì thế để đạt hiệu quả cao trong công việc kinh doanh cần chuẩn bị tốt hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật
7/Mức độ cạnh tranh trên thị trường
Tại Việt Nam thì mức độ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là rất gay gắt, đơn giản chỉ lấy ví dụ về một dịch vụ đó là dịch vụ thuê bao di động cũng có thể thất rõ điều này,họ luôn cạnh tranh và đưa ra những chương trình khuyến mãi, những chính sách giảm cước mới. Tất nhiên khách hàng là người được hưởng lợi đầu tiên từ việc này nhưng mục địch chính của họ là lôi kéo thu hút khách hàng của đối thủ cạnh tranh. Điều này không chỉ đúng trong nghành dịch vụ mà trong nghành sản xuất cũng vậy, họ luôn đưa ra các dich vụ mới nhằm làm hài lòng khách hàng của mình. Mặc dù hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm là một dịch vụ mang tính sản xuất nhưng nó cũng góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Khi mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng trở nên gay gắt hơn thì người ta sẵn sàng đầu tư nhiều hơn vào việc phát triển các dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp vì đây là một vũ khí cạnh tranh đặc biệt, nó thể hiện một nét đặc thù của từng doanh nghiệp không ai giống ai.
8/Nhân tố quản trị
Việc tổ chức thực hiên các dịch vụ hậu cần vật tư nếu không có yếu tố kiểm tra giám sát sẽ không đạt mục đích đề ra. Nhà quản trị có vai trò rất lớn,vì họ vừa là những người có chuyên môn đồng thời cũng có kinh nghiệm. Ở khía cạnh thứ nhất thì nhà quản trị về dịch vụ hậu cần phải biết về các dịch vụ vận tải, cước phí vận tải, tình hình kho bãi, tình hình tiêu thụ trên thị trường…Thứ hai nhà quản trị còn phải hiểu mối quan hệ của chuỗi các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm, biết cách liên kết, phối hợp hài hòa hoạt động của logistics với các hoạt động khác trong doanh nghiệp cũng như với doanh nghiệp và khách hàng.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT VẢI
CÔNG NGHIỆP HÀ NÔI
I/ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
1/ Khái khoát chung về công ty
*Giới thiệu chung
Công ty cổ phần dệt vải công nghiệp Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc tổng công ty dệt may, có trụ sở tại 93 Lĩnh Nam, Phường Mai Động, quận Hoàng Mai, Hà Nội. Với tư các là một doanh nghiệp có bề dày lịch sử trong ngành dệt may, công ty đã có một số thành tựu đáng kể, được nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao qúy, được người khách hàng đánh giá là hàng vn chất lượng cao. Công ty kinh doanh một số danh mục sản phẩm chủ yếu như vải mành, vải không dệt, sản phẩm may mặc, xăng dầu. Hiện nay doanh nghiệp có vốn điều lệ là 17 tỷ đồng, với doanh số hàng năm đạt khoảng hơn 200 tỷ đồng, có lợi nhuận. Đặc biệt công ty có một phương châm hoạt động là luôn luôn vì khách hàng, chất lượng sản phẩm là mục tiêu ưu tiên hàng đầu của công ty. Chính vì vậy, ban lãnh đạo doanh nghiệp luôn yêu cầu nhân viên của công ty làm việc, hoạt động theo tiêu chí đó, đặc biệt trong thời gian tới toàn thể công ty phải nỗ lực hơn nữa để đáp ứng tốt hơn nhu cầu khách hàng, phải làm cho khách hàng thực sự hài lòng với sản phẩm, dịch vụ mà công ty cung cấp.
2/Lịch sử hình thành và phát triển của công ty
2.1 Giai đoạn trước năm 1986
Công ty được thành lập tháng 04/ 1967, tiền thân từ một xí nghiệp thành
viên của nhà máy liên hiệp dệt Nam Định, được lệnh tháo dỡ máy móc sơ tán lên Hà Nội với tên gọi ban đầu là Nhà máy dệt chăn, địa điểm tại xã Vĩnh Tuy - Thanh Trì - Hà Nội. Sản phẩm của xí nghiệp là chăn chiên được sản xuất từ phế liệu bông đay và sợi rối của nhà máy dệt Nam Định. Sau khi sơ tán lên Hà Nội xí nghiệp đã phải mua phế liệu của các nhà máy khác tại đây như Dệt 8/3, dệt Kim Đông Xuân để tiếp tục sản xuất.
Năm 1970 xí nghiệp lắp đặt dây chuyền sản xuất vải mành từ sợi bông do Trung Quốc giúp xây dựng để cung cấp nguyên liệu cho Nhà máy Cao su Sao Vàng làm lốp xe đạp.
Năm 1973 xí nghiệp đã trả lại dây chuyền dệt chăn cho Nhà máy dệt Nam Định và nhận nhiệm vụ lắp đặt dây chuyền sản xuất vải bạt song song với dây chuyền sản xuất vải mành, từ đó sản xuất kinh doanh dần đi vào thế ổn định. Đến tháng 10/1973 nhà máy đổi tên thành Nhà máy Dệt vải Công nghiệp Hà Nội với các nhiệm vụ chủ yếu là dệt các loại vải dùng trong công nghiệp như vải mành, vải bạt, sợi xe - là nguyên liệu cho các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân cụ thể: Vải mành dùng để sản xuất lốp xe đạp, xe máy, ôtô, vải bạt dùng để làm giầy, băng tải. Sợi xe dùng làm chỉ may công nghiệp.
Từ năm 1974 đến năm 1986 trong cơ chế quản lý bao cấp, doanh nghiệp luôn luôn đạt được những chỉ tiêu kinh tế kế hoạch do nhà nước giao, và là một trong những đơn vị tiên tiến. Tuy nhiên do bị ảnh hưởng bởi cơ chế quản lý kinh tế bao cấp nên hiệu quả hoạt động kinh doanh không cao, đã có lúc làm ban lãnh đạo công ty phải nhọc tâm, trăn trở.
2.2 Giai đoạn sau năm 1986
Từ năm 1989 chuyển sang cơ chế sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường Công ty mất độc quyền buộc phải đương đầu với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường trong nước và nước ngoài. Chính trong môi trường ấy đòi hỏi doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh mới có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh. Nhận thức được yêu cầu đòi hỏi của thị trường, cũng như nhận thức được môi trường kinh doanh đã thay đổi, doanh nghiệp đã kịp thời lắm bắt cơ hội , khắc phục những yếu kém hiện tại để vững bước tiến lên.
Nhằm thực hiện quyết định 91/TTG ngày 7/3/1994 về việc thành lập tập đoàn kinh doanh, ngày 23/8/1994 Thủ tướng chính phủ ra quyết định thành lập Tổng Công ty Dệt May Việt Nam (Vinatex). Trong Tổng công ty bao gồm các thành viên là các doanh nghiệp hạch toán độc lập, doanh nghiệp hoạch toán phụ thuộc và các đơn vị sự nghiệp. Công ty cổ phần dệt công nghiệp Hà Nội là một thành viên của Tổng công ty và được Bộ công nghiệp cấp giấy phép thành lập số 100151 từ ngày 23/8/1994.
Trải qua 40 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty đã phát triển lớn mạnh cả về cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ sản xuất cũng như trình độ quản lý. Đặc biệt từ giai đoạn sau năm 1986 hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đã có thay đổi rõ nét. Áp dụng hình thức hạch toán kinh doanh mới đem lại hiệu quả rõ rệt, sử dụng các phương pháp, hình thức sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu góp phần vào giảm giá thành sản xuất, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
.Theo đúng kế hoạch Nhà nước đến đầu năm 2006 Công ty đã thực hiện cổ phần hoá lấy tên là “Công ty Cổ phần Dệt Công nghiệp Hà Nội” trong đó Nhà nước chiếm 51% vốn điều lệ. Nhưng đến nay Công ty luôn cạnh tranh và đáp ứng được nhu cầu của thị trường và khách hàng. Chất lượng sản phẩm được đánh giá bằng các huy chương vàng, bạc tại các hội chợ, triển lãm công nghiệp như:
- Vải mành cotton được cấp giấy chứng nhận chất lượng số 1 trên toàn quốc.
- Vải không dệt được tặng huy chương vàng trong hội chợ triễn lãm thành tựu kinh tế, kỹ thuật Việt Nam.
3/ Khái khoát về thực trạng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian qua.
3.1/ Đặc điểm về mặt hàng và thị trường
- Đặc điểm về mặt hàng:
Công ty cổ phần Dệt vải công nghiệp Hà Nội là công ty duy nhất tại Việt nam sản xuất các loại sản phẩm phục vụ công nghiệp, giao thông , thủy lợi. Chính sách chất lượng của công ty là nhằm đáp ứng các yêu cầu mong muốn của khách hàng ở mọi lúc, mọi nơi.
Các sản phẩm chính của công ty:
Vải mành: được dùng làm nguyên liệu để sản xuất lốp xe ô tô, xe máy, xe đạp, dây đai thang với công suất 3.500 tấn/năm và tiếp tục nâng cao công suất lên 7000 tấn/năm.
Vải mành là thường dùng nhiều trong công nghiệp, đối tượng khách hàng chủ yếu của doanh nghiệp là các doanh nghiệp công nghiệp trên khắp cả nước. Do đặc điểm riêng có của nó nên quy trình sản xuất ra loại vải này là khác hẳn với các loại vải thông thường, vải cần có sức chịu đựng tốt (như về nhiệt độ, độ đàn hồi, độ dẻo dai), chất lượng của nó phụ thuộc rất lớn vào quy trình tổ chức sản xuất.
Vải không dệt với các mặt hàng: vải địa kỹ thuật, vải lót giầy thể thao, vải thảm, bấc thấm với công suất 2.300 tấn/năm tương đương với 10 triệu m2/ năm. Đây là sản phẩm chủ lực đứng thư hai sau vải mành, hàng năm nó có doanh thu khá lớn khoảng 4 tỷ đồng. Vải không dệt đã từng đạt danh hiệu huy chương vàng trong hội chợ triển lãm thành tựu kinh tế Việt Nam. Quy trình sản xuất hoàn toàn theo quy trình trong hệ thống ISO-9001-2000.
Các loại vải bạt, vải dân dụng cung cấp cho các doanh nghiệp nghành giầy vải, cao su, may mặc trong và ngoài nước làm giầy vải xuất khẩu, bảo hộ lao động, tăng võng, quân trang, túi cặp, băng tải, vải bọc bia đường, công suất 3 triệu m2/năm
Sản phẩm may mặc: chủ yếu là hàng gia công cho nước ngoài và ngoài ra còn để bán ở thị trường trong nước.
- Đặc điểm về thị trường:
Đối với sản phẩm vải Mành: Khách hàng chủ yếu là các Công ty cao su như Công ty Cao su Miền Nam, Cao su Hải Phòng, Cao su Sao Vàng, Cao su Đà Nẵng, Cao su Biên Hoà…
Đối với sản phẩm vải không Dệt: Thị trường rất rộng hầu hết các tỉnh thành phố trong cả nước cũng như ở nước ngoài như: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Cà Mau, Hải Phòng, Thái Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Hà Tây... Ở nước ngoài như: Đài Loan, Singapo, Trung Quốc, Úc, Malaixia...
Đối với sản phẩm May mặc: Thị trường trong nước chủ yếu ở các tỉnh Hà Tây, Hà Nội, Thái Nguyên, Hải Phòng … Ngoài ra còn may gia công cho nước ngoài như: EU, Mỹ, Trung Quốc.
Đối với dịch vụ kinh doanh xăng dầu: Khách hàng thường là tư nhân và một số Công ty đóng trên địa bàn thành phố Hà nội.
3.2/ Đặc điểm về tổ chức sản xuất kinh doanh
- Hoạt động sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp May
Chuyên gia công các sản phẩm may mặc như áo jacket, quần áo bảo hộ lao động, quân trang, quân dụng cho các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước.Nguyên vật liệu chính sử dụng tại xí nghiệp chủ yếu là nguồn nhập khẩu từ nước ngoài, vì thế mà giá thành sản phẩm khá cao làm kém khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế
Quy trình sản xuất tại xí nghiệp may là quy trình sản xuất kiểu lien tục, chu kỳ sản xuất xen kẽ và liên tục
Xí nghiệp may được tổ chức thành hai phân xưởng: px1 và px2. Trong các phân xưởng lại tổ chức thành các tổ: tổ 1, tổ 2, …Mỗi tổ chức có một tổ trưởng chịu trách nhiệm quản lý phân xưởng và các thành viên trong quá trình làm việc.
Sơ đồ1.1
Quy trình sản xuất tại xí nghiệp may
Cắt (trải vải, giác mẫu, đính số, cắt)
Nguyên liệu (vải chỉ, kéo, khoá)
May (may cổ, tay, thân ghép, hoàn thành sản phẩm)
Nhập kho
Là, đóng gói đóng kiện
Kiểm tra chất lượng
- Hoạt động sản xuất tại xí nghiệp vải mành
Xí nghiệp vải mành chuyên sản xuất các loại vải: vải mành để cung cấp cho các xí nghiệp sản xuất bia( làm lưới lọc bia), sợi xe để cung cấp cho các xí nghiệp chỉ khâu dân dụng, vải mành PA nhúng keo(vải mành nilon) cung cấp cho các xí nghiệp sản xuất lốp ô tô, xe máy, xe đạp.
Sơ đồ 1.2
Quy trình và công nghệ sản xuất vải mànhSợi ngang
Máy suốt
Nhập kho
Đóng gói
Nhúng keo
Máy dệt
Sợi dọc
Máy xe lần 2
Máy xe lần 1
Máy đậu
Sợi đơn coton
Sợi đơn
-Đặc điểm của xí nghiệp vải không dệt
Mỗi xí nghiệp có một quy trình sản xuất sản phẩm khác nhau, một phần do tính chất đặc thù của sản phẩm vải không dệt thì quy trình sản xuất nó cũng rất là riêng biệt:
Sơ đồ 1.3
Quy trình công nghệ sản xuất ở Xí nghiệp Vải không dệt.
Xơ PP, PE
Máy xe
Máy xếp lớp
Máy xuyên kim 1
Đóng gói vải mộc
Máy cuộn cắt
Máy xuyên kim 2
Máy kéo dãn
Máy cán nhiệt định hình
Đóng gói vải thành phẩm
Kiểm vải
Nhập kho
3.3/ Đặc điểm về tổ chức quản lý
Công ty được quyền quyết định tổ chức bộ máy quản lý trong doanh nghiệp mình cho phù hợp với điều kiện cụ thể của Công ty: Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo kiểu ‘Tham mưu trực tuyến chức năng’. Các phòng ban có quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự chỉ đạo quản lý của Ban giám đốc. Các phòng ban tham mưu cho Ban giám đốc theo từng chức năng nhiệm vụ của mình, giúp Ban giám đốc có các quyết định có lợi cho Công
Tổ chức bộ máy quản lý công ty
HỘI ĐỒNG
QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
GIÁM ĐỐC
PHÒNG
TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH
XÍ NGHIỆP MÀNH
XÍ NGHIỆP MAY
XÍ NGHIỆP VẢI KHÔNG DỆT
PHÒNG TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
PHÒNG SẢN XUẤT KDXNK
PHÒNG CÔNG NGHỆ CHẤT LƯỢNG
NGÀNH CƠ ĐIỆN
Trong đó:
- Giám đốc Công ty:
Là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước về mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty và là người chỉ đạo cao nhất, điều hành mọi hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo việc làm và thu nhập cho cán bộ công nhân viên toàn Công ty theo luật lao động của Nhà nước ._.mặt hàng chủ yếu của công ty như sau:
+ Vải mành 2750 tấn.
+ Vải địa kỹ thuật 10,500 nghìn m2.
+ Sản phẩm may dệt con thoi 1600 m2.
Mục tiêu đặt ra cho các dịch vụ hậu cần của công ty
Về dịch vụ giao nhận:
Hoàn thiện hơn nữa dịch vụ giao nhận của công ty
Tăng cường các hoạt động giao nhận quốc tế như tăng cường các đơn hàng xuất nhập khẩu các sản phẩm của công ty.
Nâng cao hơn nữa chất lượng của công tác dịch vụ giao nhận nhằm thỏa mãn tôt hơn nhu cầu khách hàng.
Tăng cường phát triển về cả chiều rộng và chiều sâu các dịch vụ giao nhận của doanh nghiệp.
Tăng cường giao nhận theo các phương thức khác.
Về dịch vụ kho bãi:
Sử dụng tối đa hệ thống kho bãi của doanh nghiệp.
Bảo quản hàng hóa đúng số lượng, đảm bảo về chất lượng.
Mở rộng và phát triển thêm các dịch vụ mới của dịch vụ kinh doanh kho bãi không dừng lại ở việc cho thuê mặt bằng, cho thuê kho chứa hàng. Doanh nghiệp có thế phát triển các dịch vụ bốc xếp, dịch vụ quản lý kho hàng.
Nâng cấp, cải tiến hệ thống kho bãi theo hướng hiện đại nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ kho bãi cho doanh nghiệp cũng như cho khách hàng.
Không ngừng nâng cao doanh số họat động kinh doanh kho bãi, kinh doanh có hiệu quả hơn hoạt động này.
Về hoạt động vận tải của doanh nghiệp:
Mặc dù hiện nay doanh nghiệp đi thuê các hãng vận tải nhưng nó vẫn là một hoạt động dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng:
Doanh nghiệp có thể hoàn thiện hơn các hoạt động vận tải.
Giám sát chặt chẽ hơn các hoạt động vận tải của doanh nghiệp.
Tăng cường tìm kiếm các hãng vận tải uy tín, có giá cả hợp lý.
Có chính sách tốt với các công ty vận tải làm ăn lâu năm với công ty.
Không ngừng giảm cước phí vận tải để hạ giá thành sản phẩm.
Năm 2008 là một năm mà bản thân nền kinh tế có nhiều bất ổn chỉ số giá tiêu dùng tăng cao, lạm phát tăng cao, giá nhiên liệu, nguyên liệu cũng leo thang, có thể nói là một môi trường đầy khó khăn. Vì vậy mục tiêu mà doanh nghiệp đặt ra không hề dễ dàng chút nào, nhưng toàn thể ban lãnh đạo doanh nghiệp vẫn quyết tâm hoàn thành các mục tiêu trên.
II/ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC DỊCH VỤ HẬU CẦN TRONG TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN DỆT VẢI CÔNG NGHIỆP
Để hoàn thành kế hoạch năm 2008 cần có sự phối hợp tốt của nhiều hoạt động khác nhau, trong đó có dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm. Dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm là một công cụ, một vũ khí cạnh tranh hiệu quả của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy công ty đã làm dịch vụ này khá tốt từ giao nhận, kho bãi, đến vận tải nhưng vẫn chưa thực sự tốt vì công ty vẫn chưa khai thác hết, chưa thực sự cung cấp cho khách hàng một dịch vụ hoàn hảo. Vì vậy phát triển dịch vụ hậu cần là hết sức cần thiêt, nhưng làm sao để phát triển các dịch vụ này? Sau đây là một số biện pháp:
* Các giải pháp chung
1/ Các giải pháp về mặt tổ chức
- Đào tạo, nâng cao chất lượng lao động trong hoạt động dịch vụ hậu cần trong tiêu sản phẩm:
Nhân lực là một nguồn lực vô cùng quan trọng đối với doanh nghiệp, nó quyết định tới sự thành bại của doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có đội ngũ nhân lực có trình độ, nghiệp vụ cao thì sẽ đem lại cho doanh nghiệp một sức mạnh to lơn. Vì vậy đây là vấn đề mà được mọi doanh nghiệp luôn quan tâm và đặt ra vấn đề ưu tiên hàng đầu với mọi doanh nghiệp. Hiện này các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm còn chưa hoàn chỉnh và thực sự nó cần được phát triển hơn nữa. Nhưng để phát triển các dịch vụ hậu cần tốt, doanh nghiệp cần chuẩn bị trước hết là nhân lực cho việc tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm.
Đội ngũ cán bộ, công nhân viên thực hiện các hoạt động dịch vụ hậu cần phải là những người am hiểu về các dịch vụ hậu cần của công ty, có chuyên môn tốt về các lĩnh vực hậu cần trong tiêu thụ, có đầu óc sáng tạo. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý trong lĩnh vực hậu cần. Vì muốn dịch vụ hậu cần phát triển được thì bản thân người lãnh đạo phải có đầu óc nhạy bén, luôn tìm tòi ra các dịch vụ mới trong hoạt động hậu cần trong tiêu thụ. Đội ngũ người lao động hoạt động trong hoạt động hậu cần đầu ra của doanh nghiệp còn yếu về các chuyên môn, nghiệp vụ, họ cũng chưa nhận thức được vai trò quan trọng của hoạt động này đối với việc phát triển kinh doanh. Vì vậy doanh nghiệp cần có những chương trình đào tạo nhằm nâng cao trình độ cho cán bộ công nhân viên.
-Hoàn thiện bộ máy tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm:
Bộ máy tổ chức, thực hiện các hoạt động hậu cần tổ chức tốt là điều kiện để phát triển, mở rộng các hoạt động dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ của doanh nghiệp. Bởi vì một khi các hoạt động dịch vụ hậu cần hiện có của doanh nghiệp có tổ chức tốt thì mới có điều kiện để phát triển thêm các dịch vụ mới cho khách hàng. Do đó việc nhanh chóng hoàn hiện bộ máy tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần là rất cần thiết cho doanh nghiệp vì qua nghiên cứu thực trạng hoạt động dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp còn nhiều khâu yếu kém mà nguyên nhân của nó là do sự yếu kém của khâu tổ chức, thực hiện các dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp. Các biện pháp để hoàn thiện bộ máy thực hiện các dịch vụ hậu cần:
Doanh nghiệp nên tổ chức bộ phận chuyên trách thực hiện các dịch vụ hậu cần
Việc tổ chức thực hiện các dịch vụ hậu cần phải được thống nhất, có được sự hỗ trợ giữa các bộ phận khác trong doanh nghiệp.
Phân công trách nhiệm rõ ràng giữa từng người, mỗi người mỗi nhiệm vụ nhưng phải thống nhất để đảm bảo chất lượng của việc thực hiện các dịch vụ này.
- Tăng cường hệ thống thông tin thương mại
Thông tin thương mại là toàn bộ các thông tin hỗ trợ, phục vụ cho việc xây dựng, tổ chức, thực hiện, theo dõi và điều chỉnh việc thực hiện các kế hoạch, quyết định, xử lý các vấn đề hàng ngày về các hoạt động thương mại.
Xây dựng hệ thống thông tin thương mại là rất cần thiết bởi vì bất kỳ hoạt động nào muốn thực hiện tốt cần có thông tin. Đối với các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm cũng vậy, các thông tin về khách hàng, về thị trường là rất quan trọng bởi vì nó phản ánh chất lượng của các dịch vụ hậu cần mà doanh nghiệp đang cung cấp. Đồng thời nó còn cho doanh nghiệp biết khách hàng đang cần gì ở doanh nghiệp, phát triển các dịch vụ hậu cần ra sao cho phù hợp hơn với nhu cầu của khách hàng. Khi có được những thông tin phản hồi từ phía khách hàng doanh nghiệp có thể tiến hành phân tích, đánh giá, quyết định nên phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm theo hướng nào cho đúng nhất. Vậy các thông tin đó doanh nghiệp có thể lấy từ đâu? Thực tế thì các thông tin này được thu thập từ bộ phận nghiên cứu thị trường của công ty. Bộ phận này sẽ tiến hành các hoạt động thu thập thông tin thị trường, đưa ra những bảng câu hỏi, phiếu thăm dò đề nghị khách hàng của doanh nghiệp tích vào đó. Qua đó doanh nghiệp có thể phân loại thông tin, tiến hành phân tích, và cho kết quả. Mặt khác một kênh thông tin quan trọng đó là thu thập thông tin qua website riêng của doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp chưa thực sự khai thác được kênh thông tin này. Trang web của doanh nghiệp còn khá nghèo nàn, thông tin thì không có gì mới, phong phú nên số lượng người truy cập vào website của doanh nghiệp còn khá hạn chế. Hi vọng trong thời gian sắp tới với sự đầu tư vào trang web của mình, với sự thiết kế hệ thống thông tin phản hồi ngay trên website của doanh nghiệp và thông tin phong phú sẽ giúp doanh nghiệp có thể có được các thông tin phản hồi hiệu quả từ khách hàng của mình. Doanh nghiệp có thể quảng cáo về các dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng của doanh nghiệp biết đến như dịch vụ kinh doanh kho bãi, dịch vụ kinh doanh
Điều quan trọng nhất là việc sử dụng trang web có rất nhiều lợi ích:
Tiết kiệm thời gian, chi phí
Nâng cao chất lượng dịch vụ nhằm phục vụ khách hàng.
Giúp khách hàng tìm kiếm thông tin dễ dàng hơn.
Giảm bớt các công việc giấy tờ.
Tạo lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
2./ Nâng cao năng lực tài chính của doanh nghiệp
Khi muốn phát triển một lĩnh vực hoạt động nào đó doanh nghiệp cần có ngân sách hay nói cách khác vốn chính là tiền đề quan trọng cho việc phát triển các hoạt động của doanh nghiệp. Vì thế phát triển các dịch vụ hậu cần gắn chặt với tình hình tài chính của doanh nghiệp vì để phát triển các dịch vụ này doanh nghiệp không chỉ đầu tư về cơ sở vật chất mà còn về con người và các điều kiện khác nữa.
Mặt khác năng lực tài chính của công ty còn nhiều yếu kém, nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu là đi vay của các tổ chức tài chính như các ngân hàng thương mại, ngân hàng cổ phần, hoặc các tổ chức tài chính khác…Trong điều kiện hiện nay khi mà nhà nước đang tiến hành xiết chặt chính sách tài chính tiền tệ, không ngừng nâng cao lãi suất cho vay tại các ngân hàng thì điều này thực sự là một khó khăn, một trở ngại cho công ty. Như trên đã phân tích tỷ lệ lãi vay trên chi phí chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng chi phí, vì vậy với tình hình này thì tỷ lệ này còn cao hơn nữa trong thời gian sắp tới. Để có thể kiểm soát tình hình này công ty cần có biện pháp nâng cao năng lực tài chính của công ty:
Tăng vốn chủ sở hữu bằng cách huy động vốn từ các cổ đông. Vì thực tế là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng hiện nay chủ yếu nguồn vốn huy động từ các tổ chức tín dụng, thiếu tính chủ động, chi phí trả lãi vay cũng khá cao.V ì vậy đây là một biện pháp rất cần thiết, một phần nhằm chủ động trong việc huy động vốn, một phần làm giảm chi phí lãi vay từ việc vay từ các ngân hàng.
Công ty cần đẩy mạnh công tác thu hồi vốn tại các công trình mà công trình vì hiện nay tình trạng vốn bị đọng tại các công trình là rất nhiều, điều đó có ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc sử dụng vốn tại công ty, nhiều khi có nhiều khoản tiền đến hạn phải trả mà vẫn chưa có khả năng thanh toán.
Tăng cường các biện pháp phát triển và bảo toàn vốn trong kinh doanh. Bảo toàn và phát triển vốn trong kinh doanh là nghĩa vụ của doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển ổn định và phát triển kinh doanh có hiệu quả, tăng thu nhập cho người lao động và thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Thực chất của việc bảo toàn vốn là giữ được giá trị thực tế hay sức mua của vốn, giữ được khả năng chuyển đổi so với các loại tiền khác. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào hiệu quả của việc sử dụng vốn trong kinh doanh. Tuy nhiên sử dụng vốn có hiệu quả hay không lại phụ thuộc rất lớn vào sự nỗ lực của tất cả các khâu, các bộ phận, từ chiến lược, kế hoạch đến các biện pháp tổ chức. Ngoài ra việc sử dụng vốn cần đảm bảo đúng mục đích, đúng kế hoạch, chấp hành đầy đủ nội dung, quy định, chế độ tài chính doanh nghiệp, hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời. Muốn phát triển và bảo toàn vốn cần: đẩy mạnh khối lượng hàng hóa, dịch vụ bán ra, giảm tới mức thấp nhất các chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng cường công tác quản lý tài chính ở doanh nghiệp.
Với các khoản nợ ngân hàng đến hạn thanh toán thì phải trả cho ngân hàng vì nếu không thanh toán uy tín của công ty bị giảm sút và rất khó để có thể vay tiền ngân hàng lần tiếp. Đồng thời doanh nghiệp cần giữ mối quan hệ tốt với các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng.
Thực hiện tốt các biện pháp đó không những giúp công ty cải tiến năng lực tài chính của mình mà còn tạo điều kiện về nguồn vốn để phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm.
3/ Các biện pháp về mặt marketing
3.1/ Mở rộng và chiếm lĩnh thị trường
Việc khai thác thị trường là một hoạt động không ngừng của doanh
nghiệp vì cơ hội thị trường luôn mở ra đối với doanh nghiệp. Mở rộng và chiếm lĩnh thị trường là góp phần phát triển các dịch vụ hậu cần bởi lẽ một khi thị trường của doanh nghiệp được mở rộng thì việc phát triển các dịch vụ lại càng được chú trọng. Doanh nghiệp không chỉ có nhiệm vụ tìm kiếm thị trường mới mà phải có nhiệm vụ duy trì và phát triển các khu vực thị trường. Mà nhu cầu của khách hàng ngày càng cao, họ luôn đòi hỏi được cung cấp các dịch vụ hoàn hảo, những dịch vụ trọn gói. Vì thế đây là cơ hội để doanh nghiệp hoàn thiện và phát triển các dịch vụ hậu cần cho khách hàng, doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ mới, tạo sự riêng biệt của dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác. Chẳng hạn một dịch vụ giao nhận chính xác kịp thời, một dịch vụ vận tải đến tận công trình một cách nhanh chóng cũng đã tạo được một hình ảnh đặc trưng về phong cách phục vụ của công ty đối với khách hàng. Để làm được điều đó doanh nghiệp có thể:
Về chính sách sản phẩm: Tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp phải không ngừng ứng dụng các công nghệ tiên tiến trên thế giới để có được năng suất chất lượng cao hơn nhằm đáp ứng hơn nhu cầu của khách hàng, đặc biệt việc nâng cao chất lượng sẽ giúp doanh nghiệp có thể tiến xa hơn, mở rộng hơn nữa thị trường ngoài nước của doanh nghiệp.
Về chính sách phát triển các dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp: Thực tế thì đấy là một chính sách rất quan trọng vì cạnh tranh bằng dịch vụ là vũ khí cạnh tranh hiệu quả nhất mà các doanh nghiệp đang sử dụng. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì dịch vụ hậu cần là một dịch vụ hỗ trợ quan trọng cho việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Các dịch vụ này bao gồm: dịch vụ giao nhận, kho bãi và vận tải. Doanh nghiệp cần có chính sách cụ thể để phát triển các dịch vụ hậu cần. Doanh nghiệp có thể đầu tư nâng cao trình độ của đội ngũ người lao động thực hiện các dịch vụ này như cho đi đào tạo, mở các chương trình đào tạo mời các chuyên gia giảng dạy để họ có thể hiểu rõ hơn về lĩnh vực mà mình đang làm viêc. Không chỉ là con người, hệ thống cơ sở vật chất cũng cần được bổ sung, hoàn thiện, hoặc mua, thay thế các thiêt bị cũ không còn sử dụng được.
Về chính sách giá cả: Doanh nghiệp cũng nên có chính sách giá cả hợp lý làm hài lòng khách hàng của doanh nghiệp. Đối với hoạt động kinh doanh kho bãi doanh nghiệp cần phải đưa ra giá cả thật sự hợp lý cho khách hàng sử dụng dịch vụ hợp lý của công ty.
3.2/Giải pháp hoàn thiện và đa dạng hóa dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm:
Hiện nay dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm hiện nay của doanh nghiệp bao gồm một số hoạt động chủ yếu:
- Hoạt động giao nhận bao gồm việc tiếp nhận thành phẩm hàng hóa, dịch vụ bao gói, lên nhãn mác, dịch vụ giao nhận bán sản phẩm hàng hóa cho người tiêu dùng.
- Hoạt động kho bãi của doanh nghiệp bao gồm việc sắp xếp, phân loại hàng hóa, bảo quản hàng hóa, sửa chữa, thay thế sản phẩm; dịch vụ vận tải theo yêu cầu của khách hàng…Đặc biệt hiện nay doanh nghiệp đang thực hiện kinh doanh dịch vụ kho bãi, một dịch vụ hết sức mới mẻ của công ty.
- Hoạt động vận tải của doanh nghiệp chủ yếu là vận tải đường bộ, vận tải đường biển.
Tuy nhiên vì là một doanh nghiệp sản xuất cho nên các hoạt động trên mới chỉ dừng lại ở chức năng hỗ trợ cho sản xuất, nó không thực hiện chức năng kinh doanh (trừ dịch vụ kinh doanh kho bãi, dịch vụ kinh doanh hàng hóa xăng dầu). Có thể nói các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ còn nhiều khả năng phát triển vì hiện nay dịch vụ này còn thực hiện chưa tốt. Công ty cần phải hoàn thiện hơn các dịch vụ hậu cần bằng cách hoàn thiện thêm dịch vụ giao nhận, hoàn thiện các dịch vụ vận tải, dịch vụ kho bãi theo hướng cung cấp một dịch vụ trọn gói cho khách hàng vì hầu hết khách hàng của doanh nghiệp là các công ty lớn (sản phẩm cung cấp cho các công trình, các nhà máy sản xuất các sản phẩm công nghiệp). Vì vậy nếu doanh nghiệp có thể cung cấp một dịch vụ trọn gói cho khách hàng thì sẽ làm cho khách hàng hài lòng hơn. Khi đó doanh nghiệp sẽ thực hiện từ A đến Z các hoạt động dịch vụ và tất nhiên doanh nghiệp có thể thu được doanh thu cao hơn từ việc thực hiện trọn gói các dịch vụ này.
Doanh nghiệp có thể đa dạng hóa các dịch vụ hậu cần vì tùy đối tượng khách nhau người ta có thể cần các dịch vụ khác nhau: có người thì thích một dịch vụ trọn gói, có khách hàng lại chỉ yêu cầu dịch vụ giao nhận riêng, dịch vụ kho thôi. Vậy thì việc đa dạng hóa các dịch vụ hậu cần tạo cho khách hàng một sự thuận tiện khi lựa chọn các hoạt động dịch vụ, đồng thời giúp doanh nghiệp có thể linh hoạt hơn, chọn được nhiều đối tượng khách hàng hơn.
3.3/ Phát triển các dịch vụ mới:
Trong cơ chế thị trường khách hàng luôn là thượng đế, họ luôn có xu hướng yêu cầu, đòi hỏi các dịch vụ mới của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải phát triển các dịch vụ mới, chỉ có vậy mới giúp khách hàng được thỏa mãn hơn, mới có thể giữ chân khách hàng của doanh nghiệp. Đối với dịch vụ kinh doanh kho bãi, doanh nghiệp có thể cung cấp thêm các hình thức dịch vụ kèm theo cho khách hàng thuê kho bãi như bốc xếp, quản lý kho hàng hóa cho khách hàng. Còn đối với hoạt động giao nhận, hiện nay công ty mới chủ yếu có giao nhận qua đường bộ, giao nhận đường biển với số lượng còn khá hạn chế, còn chưa kể là không có hình thức giao nhận khác như giao nhận hàng không, vì vậy công ty cần thiết tập trung phát triển giao nhận bằng đường biển, hình thức này có chi phí rẻ hơn rất nhiều so với giao nhận đường bộ, đặc biệt cần phát triển thêm các hình thức giao nhận mới. Ngoài ra đối với dịch vụ giao nhận quốc tế doanh nghiệp có thể cung cấp cho khách hàng các dịch vụ khách: dịch vụ tư vấn pháp lý, dịch vụ dịch thuật hợp đồng, dịch vụ marketing và cung cấp thông tin cho các đối tác nước ngoài…Đây là xu hướng phát triển tất yếu mà mọi doanh nghiệp cần phải nắm bắt vì khách hàng luôn luôn có những nhu cầu cao hơn, những đòi hỏi cao hơn về sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Doanh nghiệp càng cung cấp được những dịch vụ ngày càng hoàn thiện thì tức là doanh nghiệp chiếm lĩnh được khách hàng, đã giữ chân được khách hàng của mình.
3.4/ Nâng cao chất lượng dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ sản phẩm
Với phương châm hoạt động vì chất lượng sản phẩm, doanh nghiệp luôn đặt chất lượng sản phẩm lên hàng đầu. Tuy nhiên về lĩnh vực dịch vụ hậu cần thì doanh nghiệp lại chưa thực sự làm tốt. Nhìn chung các hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp còn tổ chức khá hình thức mặc dù có quan tâm đến chất lượng nhưng chưa quan tâm sâu nên hầu hết các dịch vụ này chưa được quan tâm chu đáo. Vì vậy muốn phát triển các dịch vụ hậu cần cho tiêu thụ phải quan tâm đến chất lượng dịch vụ. Chất lượng dịch vụ là nhân tố quan trọng quyết định khách hàng có trở lại với doanh nghiệp trong lần tiếp theo hay không. Muốn nâng cao chất lượng của các dịch vụ hậu cần doanh nghiệp cần phải có đội ngũ người lao động chuyên nghiệp thực hiện các dịch vụ này, các dịch vụ mà họ thực hiện phải có sự đặc trưng như là một sự quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp. Hơn nữa muốn biết chất lượng dịch vụ như thế thì doanh nghiệp cần có hệ thống thông tin phản hồi giúp khách hàng giải quyết các khiếu nại về chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên việc giải quyết này phải tiến hành nhanh chóng, tiện lợi cho khách hàng. Có vậy thì chất lượng dịch vụ mới thực sự được nâng cao.
3.5/ Giải pháp tăng cường chính sách xúc tiến, khuyếch trương
Trong marketing cđo bốn tham số cơ bản: sản phẩm, giá, phân phối, xúc tiến, vì vậy xúc tiến là một hoạt động hết sức được quan tâm trong marketing. Đơn giản là vì muốn khách hàng mua sản phẩm của doanh nghiệp khách hàng cần biết doanh nghiệp là ai, đang kinh doanh sản phẩm gì, tại sao khách hàng nên mua sản phẩm của doanh nghiệp thì hoạt động xúc tiến sẽ trả lời các câu hỏi trên của khách hàng. Vậy hoạt động xúc tiến có vai trò là thông tin marketing đến khách hàng tiềm năng cũng như thông qua hoạt động xúc tiến doanh nghiệp có được thông tin về khách hàng tiềm năng, để từ đó có thể cung cấp cho khách hàng của mình sản phẩm dịch vụ phù hợp hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Xúc tiến là công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh, thúc đẩy cơ hội mua bán hàng hóa, đó là lý do tại sao doan nghiệp cần tăng cường công tác xúc tiến hàng hóa, công tác khuyếch trương. Hàng năm doanh nghiệp cũng chi một khoản tiền cho công tác xúc tiến như hoạt động quảng cáo, khuyến mại, chào hàng nhưng việc chi ngân sách cho các hoạt động này còn quá nhỏ so với doanh thu của doanh nghiệp. Hiện nay doanh nghiệp đã có trang web riêng của mình, thì đây là một hình thức quảng cáo hiệu quả về doanh nghiệp, về sản phẩm của công ty. Nhưng trên thực tế, doanh nghiệp lại đầu tư quá ít vào trang web nên thông tin trên trang web của doanh nghiệp còn rất ít, không phong phú, không hấp dẫn. Vì vậy nếu như trong thời gian tới doanh nghiệp có thể đầu tư hơn cho nó thì chắc chắn hiệu quả còn cao hơn rất nhiều. Ngoài ra đối với một số khách hàng truyền thống, công ty cũng nên dành cho họ những ưu đãi về chiết khấu, giảm giá, thường xuyên thông tin cho khách hàng về các chương trình khuyến mại của công ty.
Việc tăng cường chính sách khuyến mại đem lại cho công ty những lợi ích sau:
Là cơ hội quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp.
Kênh thông tin tiếp cận với khách hàng tiềm năng của doanh nghiệp.
Là công cụ để giữ chân khách hàng.
Thúc đẩy nhanh việc bán hàng hóa, dịch vụ.
Là công cụ hữu hiệu trong cạnh tranh.
3.6/ Giải pháp nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ marketing cho nhân viên kinh doanh
Ngày nay, các doanh nghiệp các chú trọng hơn đến hoạt động marketing, nó trở thành một hoạt động không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp. Mặc dù ý thức được tầm quan trọng của nó nhưng doanh nghiệp vẫn chưa có phòng marketing riêng, số nhân viên làm trong lĩnh vực marketing còn rất ít. Chính khó khăn đó làm cho hoạt động marketing của doanh nghiệp chưa mạnh, thực hiện các nghiệp vụ marketing còn chưa chuyên nghiệp, cho nên việc cần làm ngay là phải có thêm đội ngũ nhân viên marketing đồng thời nâng cao trình độ nghiệp vụ marketing cho nhân viên. Nếu như được có thể tiến tới thành lập bộ phận chuyên trách về marketing. Để có thể đào tạo bồi dưỡng thêm kiến thức cho nhân viên marketing doanh nghiệp có thể thực hiện:
-Doanh nghiệp có thể có những buổi đào tạo riêng về các nghiệp vụ marketing, tại đó các bậc đàn anh có thể truyền đạt kinh nghiệm thực tế của mình về lĩnh vực này cho các nhân viên mới vào nghề.
- Doanh nghiệp có thể cho nhân viên tham gia các khóa học, các buổi chuyên đề về marketing của các tổ chức, các trường đại học trong cả nước
- Doanh nghiệp có thể mời các chuyên gia về marketing về công ty để đào tạo nhân viên marketing.
3.7/Nâng cao uy tín và phát triển thương hiệu
Uy tín và thương hiệu của doanh nghiệp đó chính là yếu tố vô hình, thể hiện qua khả năng bán hàng gián tiếp của doanh nghiệp. Nó ảnh hưởng và tác động tới tâm lý tiêu dùng, đến quyết định có mua hàng hay không của người tiêu dùng. Doanh nghiệp có uy tín tốt trên thương trường thì đã tạo được sự quan tâm của khách hàng tới sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Vì vậy đây là nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển các sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp cần nâng cao uy tín của mình, đặc biệt là phát triển thương hiệu của doanh nghiệp, để mỗi khi nói đến HAICATEX người ta sẽ biết đến sản phẩm vải mành, vải không dệt của công ty, hai mặt hàng được coi là chủ lực của công ty.Để nâng cao uy tín và phát triển thương hiệu, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau:
Một là: Tăng cường quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp thông qua các kênh thông tin đại chúng, qua báo, đài, ti vi, qua internet vì qua các kênh thông tin đó khách hàng có thể nhanh chóng biết về doanh nghiệp, nhanh chóng có được thông tin về doanh nghiệp. Với sự sử dụng tổng hợp nhiều kênh thông tin truyền thông sẽ giúp cho việc quảng bá hình ảnh của doanh nghiệp thêm tính hiệu quả.
Hai là: Tăng cường các hoạt động quan hệ công chúng PR (Public Relations)
Hiện nay co nhiều doanh nghiệp thực hiện hoạt động này do tính hiệu quả thực sự của hoạt động quan hệ công chúng. Doanh nghiệp có thể tổ chức các buổi nói chuyện trên truyền hình, doanh nghiệp có thể tổ chức các cuộc hội nghị, các chương trình tài trợ tất cả nhằm mục đích để khách hàng biết đến về doanh nghiệp. Vai trò của hoạt động PG là truyền thông tin đến khách hàng, để sản phẩm dễ dàng đi vào nhận thức khách hàng, khách hàng có thể lưu dữ tốt hơn về sản phẩm của doanh nghiệp. Mặt khác chi phí cho hoạt động này rẻ hơn so với các chiến dịch quảng bá, phát triển thương hiệu khác của doanh nghiệp. Hơn nữa thương hiệu của doanh nghiệp biểu hiện ở tên nhãn hiệu, logo, biểu tượng. Vì vậy doanh nghiệp cần thông qua các hoạt động quan hệ công chúng để tăng cường quảng bá về nhãn hiệu, logo, biểu tượng của doanh nghiệp. Để mỗi khi nhắc đến dệt vải công nghiệp Hà Nội người ta có thể biết nhãn hiệu, logo, biểu tượng của doanh nghiệp.
*Một số biện pháp khác
1/ Đầu tư thêm cơ sở vật chất, trang thiết bị, đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ.
Đối với hoạt động dịch vụ kho bãi thì cơ sở vật chất của kho (các thiết bị, công cụ dụng cụ trong kho) có vai trò quyết định đối với chất lượng sản phẩm trước khi đưa tới công trình. Một hệ thống kho bãi rộng thoáng, trang thiết bị hiện đại sẽ tạo điều kiện để bảo quản tốt nhất sản phẩm hàng hóa. Điều này càng quan trọng hơn khi doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ kho bãi bởi vì kho bãi tốt thì mới bảo quản hàng hóa tốt. Tuy nhiên hiện nay doanh nghiệp có hệ thống kho chủ yếu là nhà cấp bốn, công cụ, dụng cụ thô sơ cũ kỹ nên trong quá trình vận chuyển rất tốn thời gian, khá là vất vả. Vì vậy việc đầu tư công cụ, dụng cụ hiện đại sẽ giúp quá trình đưa sản phẩm hàng hóa vào kho và ra ngoài kho tiến hành rất dễ dàng, tốn ít thời gian, chi phí hơn. Doanh nghiệp có thể đầu tư thêm hệ thống thông tin liên lạc nhằm kiểm soát tốt hệ thống kho hàng, tránh mât mát, tránh bị mất trộm. Đối với những nhà kho quá cũ thì doanh nghiệp phải tiến hành tu sửa, nâng cấp hệ thống nhà kho (như cải tạo nền kho, hệ thống cửa); sửa chữa thiết bị chiếu sáng tại các kho nhằm đảm bảo an toàn lao động cũng như phòng chống cháy nổ.
2/ Áp dụng các mô hình quản lý mới cho hoạt động này
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều mô hình quản lý hiệu quả cho hoạt động logistics (cho các hoạt động dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm). Với những mô hình này thì công việc quản lý sẽ rất hiệu quả, giảm được độ nhọc trong các công việc lao động phổ thông bốc vác, việc áp dụng các mô hình này còn có tác dụng giảm thời gian, chi phí cho các cho doanh nghiệp. Tuy nhiên để áp dụng các mô hình quản lý tiên tiến, hiện đại cần có đội ngũ nhân viên có khả năng tiếp nhận những mô hình quản lý mới. Họ phải là những người thích nghi với mô hình quản lý tốt, nhanh nhẹn, có chuyên môn, nghiệp vụ vững chắc vì chỉ có vậy thì áp dụng các mô hình quản lý mới đem lại kết quả thiết thực.
III/CÁC ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ VỚI TẬP ĐOÀN DỆT MAY VÀ NHÀ NƯỚC
* Các kiến nghị với tập đoàn dệt may
Tập đoàn cần tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể tốt các mục tiêu mà tập đoàn giao cho.
Có những hướng dẫn, chỉ đạo cụ thể về mục tiêu, nhiệm vụ phải thực hiện của các doanh nghiệp.
Có chính sách đầu tư thêm về cơ sở vật chất cho đơn vị thực hiện tốt các hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động dịch vụ.
Tăng cường sự hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam để có thể có những biện pháp giúp các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, tăng tính cạnh tranh.
*Các kiến nghị về phía Nhà nước:
Nhà nước cần tạo một môi trường pháp lý tốt cho việc tiến hành các hoạt động dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp, tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nhà nước cần có chính sách đầu tư phát triển các ngành công nghiệp cho dệt may Việt Nam vì thực tế hiện nay toàn ngành nguyên liệu chủ yếu là do nhập của nước ngoài, giá thành rất đắt làm đẩy chi phí sản xuất tăng cao, nâng cao giá thành sản phẩm. Một khi xây dựng được các ngành công nghiệp cung cấp nguyên liệu phụ trợ cho ngành may sẽ rất tốt, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhà nước cũng cần tăng cường chương trình xúc tiến, quảng bá thương hiệu hàng dệt may ra thị trường quốc tế để các doanh nghiệp dệt may có thể xâm nhập dễ hơn vào các thị trường.
Tạo điều kiện pháp lý thuận lợi, tạo sự thông thoáng trong các thủ tục hành chính để doanh nghiệp có những văn phòng đại diện tại các quốc gia trên thế giới.
KẾT LUẬN
Trong xu thế toàn cầu hóa, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới, điều đó tạo áp lực cạnh tranh giữa các doanh nghiệp Việt Nam. Đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
Qua thời gian nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm thực tế tại Công ty Cổ phần Dệt công nghiệp Hà Nội em thấy được thực trạng phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm của công ty. Từ lâu, công ty đã thấy được vai trò quan trọng của việc sử dụng các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ là một công cụ cạnh tranh hữu hiệu mang lại kết quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Qua kết quả hoạt động kinh doanh cho thấy các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ của doanh nghiệp đã có những đóng góp to lớn vào việc tăng doanh thu, lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đặc biệt là lĩnh vực kinh doanh dịch vụ kho bãi và dịch vụ kinh doanh hàng hóa xăng dầu đang rất phát triển, nó đóng góp một phần rất đáng kể vào tổng doanh thu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ sản phẩm vẫn chưa được phát triển một cách toàn diện, các dịch vụ hiện nay mới chỉ dừng lại ở chỗ là một công cụ hỗ trợ cho tiêu thụ sản phẩm mà chưa phải là một dạng dịch vụ kinh doanh. Vì vậy trong thời gian tới doanh nghiệp cần phải phát triển hơn nữa các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ để mang lại hiệu quả kinh doanh cao hơn.
Trong phạm vi đề tài nghiên cứu của mình, em đã đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển các dịch vụ hậu cần trong tiêu thụ. Tuy nhiên do trình độ cũng như hiểu biết còn nhiều hạn chế nên em rất mong có được sự góp ý từ các thầy cô giáo trong khoa Thương mại.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. GS. TS. Đặng Đình Đào - Giáo trình kinh tế thương mại.
2. GS. TS. Đặng Đình Đào - Giáo trình thương mại doanh nghiệp
3. Giáo trình kinh doanh kho và bao bì
4. PGS. TS Hoàng Minh Đường & PGS. TS Nguyễn Thừa Lộc – Quản trị doanh nghiệp thương mại
5. Trang web của Bộ Công Thương WWW.moi.com
6. Trang web của công ty cổ phần dệt công nghiệp Hà Nội WWW.haicatex.com
7. Báo, tạp chí chuyên ngành thương mại
8. Luật Thương mại
9. Số liệu tại phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty cổ phần dệt công nghiệp Hà Nội.
10. Số liệu tại phòng kế toán, tài chính của công ty.
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11509.doc