LỜI MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới. Đây thực sự trở thành một mốc son quan trọng trong lịch sử Việt Nam, đó vừa là cơ hội, vừa là thách thức với Việt Nam - một con hổ đang chuyển mình.
Năm 2007 một năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam đã chính thức thực thi các cam kết của WTO. Nền kinh tế Việt Nam đã thực sự bước vào một con đường mới - con đường mở cửa và hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
144 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Đông Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới. Trong xu hướng hội nhập của nền kinh tế, các hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng và phát triển, làm phát sinh nhiều nhu cầu về thực hiện nghĩa vụ tiền tệ với các đối tác nước ngoài. Do vậy, hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại cần được mở rộng và phát triển.
Tuy nhiên, việc thực thi các cam kết hội nhập đòi hỏi Việt Nam phải mở cửa lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế trong đó có lĩnh vực tài chính – ngân hàng. Kể từ tháng 4/2007 Việt Nam chính thức cho phép thành lập ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Theo đó, năm 2007 đã có rất nhiều tổ chức nước ngoài nộp đơn xin ngân hàng nhà nước cho phép thành lập ngân hàng. Điều này, đã tạo ra sức cạnh tranh rất lớn từ các ngân hàng nước ngoài đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Các ngân hàng thương mại Việt Nam sẽ làm gì trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt đó? Đó là các ngân hàng thương mại Việt Nam phải có chiến lược sử dụng các nguồn lực hiện có để nâng cao sức cạnh của mình, để phát triển trong thời gian dài. Tức là phải hướng tới sự phát triển bền vững. Vậy thế nào là sự phát triển bền vững? Các yêu cầu của sự phát triển bền vững là gì? Các ngân hàng thương mại phải làm gì để phát triển bền vững?
Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội trực thuộc ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam là một ngân hàng thương mại nhà nước trước yêu cầu hội nhập và phát triển cũng đang đề ra chiến lược nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Nhưng một ngân hàng chỉ thực sự phát triển bền vững khi từng hoạt động bộ phận trong nó cũng phải phát triển bền vững. Cùng với xu hướng hội nhập của nền kinh tế hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng sẽ ngày càng được mở rộng và phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do đó, vấn đề phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội cũng là một vấn đề đang được ban lãnh đạo ngân hàng quan tâm.
Xuất phát từ nhận thức trên, tác giả quyết định chọn đề tài: “Phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh Đông Hà Nội”
Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hoá các lý luận liên quan đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại. Tìm hiểu, phân tích và luận giải các yêu cầu cần thiết phải thực hiện để phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại.
Đánh giá thực trạng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội thông qua các số liệu thống kê và tình hình thực hiện các yêu cầu phát triển bền vững. Chỉ ra các những thành tựu và hạn chế trong phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội.
Đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm hướng tới phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Tổng quan về hoạt động thanh toán quốc tế và các yêu cầu phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại.
Thực trạng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế và tình hình thực hiện các yêu cầu phát triển bền vững tại Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội
Phạm vi nghiên cứu
Thời gian: Giai đoạn từ 2004 – 2007.
Không gian: Ngân hàng Nông nghiệp Đông Hà Nội
Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng
Phân tích, xem xét sự phát triển của hoạt động thanh toán quốc tế trong mối quan hệ với các yếu tố bên ngoài (yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia và quốc tế), các yếu tố bên trong (các yếu tố nội tại của ngân hàng thương mại), và mối quan hệ trong sự phát triển cùng với các hoạt động ngân hàng khác
Phương pháp lịch sử:
Xem xét hoạt động thanh toán quốc tế trong quá khứ, hiện tại để rút ra các mặt được và chưa được trong phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Từ đó, đề ra các giải pháp nhằm hướng tới phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế
Các phương pháp khác:
Đề tài cũng sử dụng các phương pháp phân tích thống kê, mô tả, tổng hợp, tư duy logic, phân tích hệ thống …. để luận giải các vấn đề liên quan của đề tài.
Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm phần mở đầu, phần kết luận và ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về hoạt động thanh toán quốc tế và các yêu cầu để phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế trong các Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – Chi nhánh Đông Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp nhằm hướng tới phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn – Chi nhánh Đông Hà Nội.
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ CÁC YÊU CẦU ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ TRONG CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1. Một số vấn đề chung về hoạt động Thanh toán quốc tế trong các Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động Thanh toán quốc tế
Khái niệm
Thanh toán quốc tế là hoạt động thanh toán giữa các nước với nhau về những khoản nợ lẫn nhau phát sinh (thanh toán các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh) từ các quan hệ kinh tế, tài chính, chính trị, văn hoá,… giữa các chủ thể của các nước có liên quan.
Từ khái niệm Thanh toán quốc tế ta có thể rút ra các đặc điểm riêng có của Thanh toán quốc tế so với thanh toán trong nước như sau:
Đặc điểm
Chủ thể trong thanh toán quốc tế là các cá nhân, các pháp nhân, chính phủ ở các quốc gia khác nhau. Mỗi giao dịch thanh toán quốc tế có liên quan tối thiểu tới hai quốc gia.
Hoạt động Thanh toán quốc tế liên quan đến hệ thống luật pháp của quốc tế như: UCP, Incoterm, ISBP …, hệ thống luật pháp của các quốc gia. Nguồn luật điều chỉnh của quốc tế và mỗi quốc gia có thể khác nhau thậm chí là mâu thuẫn với nhau. Do đó, để giảm tính phức tạp trong hoạt động thanh toán quốc tế, các bên tham gia thường lựa chọn các quy phạm pháp luật mang tính thống nhất và theo thông lệ quốc tế.
Đồng tiền trong Thanh toán quốc tế thường tồn tại dưới hình thức các phương tiện thanh toán (Hối phiếu, séc, thẻ, chuyển khoản …), có thể là đồng tiền của nước người mua hoặc người bán, hoặc có thể là đồng tiền của nước thứ ba nhưng thường là ngoại tệ mạnh.
Ngôn ngữ được sử dụng trong Thanh toán quốc tế thường là Tiếng Anh
Thanh toán quốc tế đòi hỏi trình độ chuyên môn, trình độ công nghệ tương xứng trình độ quốc tế
Quan hệ thanh toán quốc tế bao gồm hai loại: Thanh toán mậu dịch (quan hệ phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá, dịch vụ thương mại theo giá cả quốc tế) và thanh toán phi mậu dịch (quan hệ phát sinh không liên quan đến hàng hoá hay cung ứng lao vụ, không mang tính thương mại).
Về cơ bản Thanh toán quốc tế phát sinh dựa trên cơ sở hoạt động ngoại thương. Thanh toán quốc tế là một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trong xu hướng hội nhập toàn cầu cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ hiện nay kéo theo sự phát triển của hoạt động Thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, trong xu hướng mới đó cũng nảy sinh các nhiều vấn đề làm cho hoạt động Thanh toán quốc tế trở nên phức tạp hơn như: các hành vi gian lận ngày càng trở nên tinh vi hơn, diễn biến kinh tế chính trị bất thường, tỷ giá hối đoái trở lên bất ổn định hơn trên thị trường quốc tế ….. Nhiệm vụ của Thanh toán quốc tế hiện nay là: đảm bảo an toàn cho các hợp đồng nhập khẩu, thu tiền xuất khẩu kịp thời, an toàn và chính xác và bảo vệ được uy tín của ngân hàng.
1.1.2. Sự cần thiết phát triển hoạt động thanh toán quốc tế trong các Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế
a. Thu hút nguồn ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế
Trong phát triển kinh tế, không có một quốc gia nào có thể tự đáp ứng vốn cho phát triển. Ở các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế là rất lớn. Nguồn vốn bên ngoài có vai trò quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế các nước này tăng trưởng và phát triển nhanh hơn. Vì vậy, các biện pháp nhằm thu hút nguồn vốn bên ngoài được các nước đề ra như: thực hiện chiến lược phát triển nền kinh tế hướng về xuất khẩu, tăng cường các biện phát thu hút đầu tư trực tiếp, gián tiếp nước ngoài, vay nợ nước ngoài …... Tất cả các hoạt động đó đều làm phát sinh các nghĩa vụ tiền tệ của mỗi chủ thể nước này với các chủ thể nước ngoài. Các hoạt động này chỉ diễn ra thuận lợi khi hoạt thanh toán quốc tế được tiến hành nhanh chóng, an toàn, chính xác và hiệu quả.
b. Tăng GDP của nền kinh tế
Thanh toán quốc tế phát triển giúp quá trình lưu thông hàng hoá - tiền tệ giữa người mua và người bán diễn ra trôi chảy và hiệu quả hơn. Luồng vốn được quay vòng nhanh hơn, được sử dụng hiệu quả hơn và giảm rủi ro cho các doanh nghiệp tham gia vào quá trình thanh toán. Mỗi doanh nghiệp là một chủ thể của nền kinh tế, sự phát triển của doanh nghiệp đóng góp vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế.
Thanh toán quốc tế cũng làm gia tăng thu nhập của các Ngân hàng thương mại thông qua các khoản phí thu được khi thực hiện các dịch vụ thanh toán quốc tế, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Do vậy hoạt động thanh toán quốc tế phát triển góp phần vào tăng trưởng GDP của nền kinh tế
c. Tăng cường quan hệ đối ngoại của các cá nhân, pháp nhân và chính phủ
Trong xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, hoạt động kinh tế đối ngoại càng trở nên quan trọng hơn đối với sự phát triển của các quốc gia. Các chủ thể của nền kinh tế không chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh trong nước mà còn mở rộng hoạt động kinh doanh ra nhiều nước khác trên thế giới nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao hơn. Quá trình mua bán, luân chuyển hàng hoá, dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân thuộc các quốc gia khác nhau trở nên thường xuyên hơn. Khi đó, hoạt động thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng thúc đẩy hoạt động kinh tế đối ngoại của các chủ thể kinh tế. Nó là một mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh tế, kể từ khi chuẩn bị các bước cần thiết để sản xuất ra hàng hoá tới khi xuất khẩu thu ngoại tệ hay chi ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá phục vụ sản xuất, đời sống con người.
1.1.2.2.Đối với Ngân hàng thương mại
a. Tạo điều kiện để thu hút khách hàng và mở rộng thị phần và tăng thu nhập cho Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh tế đặc biệt, là một trung gian tài chính cung cấp các dịch vụ ngân hàng, tín dụng. Ngày nay, với sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế các ngân hàng thương mại không chỉ thiết lập quan hệ với khách hàng trong nước mà còn thiết lập quan hệ với các tổ chức quốc tế khác. Trong quan hệ đó, các ngân hàng thương mại đóng vai trò là một chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế. Thanh toán quốc tế trở thành chức năng ngân hàng quốc tế của ngân hàng thương mại.
Trong thanh toán quốc tế, ngân hàng không chỉ đóng vai trò là một trung gian tài chính mà còn là tổ chức tư vấn cho khách hàng, đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, tạo sự an tâm tin tưởng cho khách hàng trong giao dịch ngoại thương.
Thanh toán quốc tế có thể mở rộng phạm vi và đối tượng khách hàng cho các ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế cũng làm tăng nguồn vốn huy động, tạo điều kiện mở rộng hoạt động tín dụng, tăng doanh thu cho ngân hàng thương mại. Đồng thời, thông qua hoạt động Thanh toán quốc tế, Ngân hàng thương mại còn tạo ra nguồn thu đáng kể từ thu phí dịch vụ, tài trợ xuất khẩu, kinh doanh ngoại tệ ….
b. Làm tăng tính thanh khoản và giảm rủi ro trong kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thu hút khách hàng, mở rộng nguồn huy động vốn, làm tăng số dư tiền gửi trong quá trình thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế cho khách hàng như: việc ký quỹ mở L/C trong phương thức tín dụng chứng từ ….. Làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng
Phát triển hoạt động Thanh toán quốc tế giúp ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động kinh doanh thông qua việc cung ứng các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Kinh doanh đa năng luôn là một phương sách hiệu quả để phân tán rủi ro cho các ngân hàng. Mặt khác, thông qua hoạt động Thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể quản lý việc sử dụng vốn vay, giám sát được tình hình kinh doanh của khách hàng, tạo điều kiện quản lý và nâng cao hiệu quả đầu tư.
c. Tăng cường quan hệ đối ngoại của Ngân hàng thương mại
Thanh toán quốc tế giúp quy mô hoạt động của ngân hàng thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thiết lập mối quan hệ đại lý với các ngân hàng nước ngoài. Nâng cao uy tín của ngân hàng trên trường quốc tế. Trên cơ sở đó khai thác nguồn tài trợ trên thị trường tài chính quốc tế, từ các ngân hàng nước ngoài, thu hút thêm khách hàng.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng thương mại
1.1.3.1. Nhân tố khách quan
a. Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước
Chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi nước đề ra nhằm mục đích điều tiết, định hướng phát triển nền kinh tế. Một số chính sách có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến hoạt động Thanh toán quốc tế của các Ngân hàng thương mại như: Chính sách kinh tế đối ngoại, Chính sách quản lý ngoại hối, Chính sách tỷ giá, Chính sách thuế, Chính sách quản lý xuất nhập khẩu ….
Chính sách kinh tế đối ngoại
Kinh tế đối ngoại là một lĩnh vực rộng lớn bao gồm hoạt động ngoại thương, đầu tư tài chính, dịch vụ quốc tế, chuyển giao công nghệ và nhiều hoạt động kinh tế khác, trong đó ngoại thương là hoạt động trọng tâm. Thanh toán quốc tế về bản chất chính là việc thanh toán những khoản nợ giữa các chủ thể của các quốc gia trong các quan hệ: kinh tế, văn hoá, chính trị …. Chính sách kinh tế đối ngoại có tác dụng thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của hoạt động ngoại thương. Vì vậy, chính sách kinh tế đối ngoại là cơ sở và nền tảng có tác động trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế.
Chính sách ngoại hối
Chính sách ngoại hối là những quy định pháp lý, thể lệ của ngân hàng nhà nước trong vấn đề quản lý ngoại tệ, quản lý vàng bạc, đá quý và các giấy tờ có giá trị bằng ngoại tệ trong quan hệ thanh toán, tín dụng với nước ngoài. Đóng vai trò là trung gian tài chính, khi thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế. Ngân hàng thương mại đóng vai trò kiểm soát dòng tiền ra vào của một quốc gia. Vì vậy, các ngân hàng thương mại được phép tham gia hoạt động thanh toán quốc tế phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về quản lý ngoại hối do ngân hàng nhà nước ban hành. Chính sách ngoại hối của nhà nước có tác động trực tiếp đến cán cân thanh toán và ảnh hưởng đến khả năng cân đối ngoại tệ phục vụ cho thanh toán quốc tế.
Chính sách thuế và quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu
Thanh toán quốc tế về bản chất là một dịch vụ do ngân hàng cung cấp để thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ phát sinh giữa các quốc gia. Nó là khâu trung gian giúp hoạt động xuất nhập khẩu được diễn ra thuận lợi hơn.
Chính sách thuế và chính sách quản lý hàng xuất nhập khẩu có tác dụng khuyến khích hoặc thu hẹp hoạt động xuất nhập khẩu. Chẳng hạn, khi Chính phủ quyết định tăng thuế đầu vào đối với hàng nhập khẩu. Giá của hàng nhập khẩu trở nên đắt hơn ở thị trường nội địa, làm giảm nhập khẩu và ngược lại. Tương tự, khi Chính phủ quyết định tăng hoặc giảm thuế xuất khẩu có thể giúp mở rộng hay thu hẹp hoạt động xuất khẩu.
Như vậy, một chính sách thuế và quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu hợp lý sẽ có tác dụng trực tiếp tới việc mở rộng hay thu hẹp hoạt động xuất nhập khẩu của một quốc gia và cũng là điều kiện để ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế.
b. Sự phát triển của hoạt động ngoại thương
Như đã nói ở trên, hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thương (xuất nhập khẩu) nói riêng có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại. Hoạt động ngoại thương phát triển làm phát sinh nhiều nhu cầu thực hiện nghĩa vụ tiền tệ của quốc gia này đối với quốc gia khác. Khi hoạt động ngoại thương càng phát triển trên phạm vi toàn cầu cả về chiều rộng và chiều sâu giữa các chủ thể khác nhau của các quốc gia khác nhau. Điều này, càng làm tăng tính phức tạp của hoạt động ngoại thương, làm phát sinh những nhu cầu đảm bảo an toàn, chính xác và hiệu quả trong thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ giữa các chủ thể tham gia. Trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, các ngân hàng thương mại là cầu nối thanh toán tham gia mạnh mẽ vào các quan hệ thương mại giữa các tổ chức, cá nhân trong nước với các tổ chức và cá nhân nước ngoài, giúp các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu đạt được các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh, thực hiện được yêu cầu của chính sách kinh tế đối ngoại. Vì vậy, nâng cao hiệu quả của hoạt động thanh toán quốc tế là nhiệm vụ quan trọng của các ngân hàng thương mại nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển của hoạt động ngoại thương, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương phát triểthanh toán, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
c. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ của một quốc gia tính bằng tiền tệ của một quốc gia khác, hay là quan hệ so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của các quốc gia khác nhau.
Tỷ giá hối đoái là một nhân tố nhạy cảm được xác định bởi quan hệ cung cầu trên thị trường ngoại hối và sự biến động của tỷ giá có tác động trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại được thể hiện:
Biến động của tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại thương
Khi tỷ giá hối đoái giảm, đồng nội tệ trở nên đắt tương đối so với đồng ngoại tệ. Giá hàng hoá xuất khẩu đắt lên tương đối trên thị trường quốc tế làm giảm lượng hàng hoá xuất khẩu và tăng hàng nhập khẩu do giá hàng hoá quốc tế rẻ tương đối so với hàng trong nước. Ngược lại khi tỷ giá hối đoái tăng lên: xuất khẩu tăng và nhập khẩu giảm.
Ví dụ trong những tháng đầu năm 2008, do nền kinh tế Mỹ rơi vào tình trạng suy thoái. FED đã liên tục cắt giảm lãi suất để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Hành động cắt giảm lãi suất của FED đã làm cho giá trị của đồng USD giảm so với các đồng tiền khác trên thế giới nói chung và giá trị của đồng tiền Việt Nam nói riêng. Điều này có nghĩa tỷ giá giữa Việt Nam đồng so với USD giảm làm hạn chế xuất khẩu và tăng nhập khẩu, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động ngoại thương của Việt Nam và ảnh hưởng đến hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại.
Biến động tỷ giá hối đoái tác động tới hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng thương mại
Trong thời gian vừa qua, khi lãi suất đồng USD giảm, tỷ giá USD/VND giảm làm tăng cung USD do tăng đầu tư của Mỹ và Việt Nam. Sự biến động của tỷ giá hối đoái đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động của ngân hàng thương mại. Việc cân nhắc mua hay bán ngoại tệ của ngân hàng trở nên khó khăn hơn và nguồn cung ngoại tệ phục vụ cho thanh toán quốc tế bị ảnh hưởng. Các ngân hàng buộc phải lựa chọn: hoặc thu hẹp hoạt động thanh toán quốc tế, hạn chế đối tượng khách hàng, hoặc chấp nhận thua lỗ về kinh doanh ngoại tệ để giữ chân khách hàng.
Trong điều kiện hiện nay, khi Việt Nam đang tiến tới thực hiện chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, những diễn biến bất thường của tỷ giá luôn gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Các ngân hàng thương mại cần phải chọn thời điểm và tính toán khả năng cân đối ngoại tệ, cân nhắc lợi ích tổng thể từ các dịch vụ khác do hoạt động thanh toán quốc tế đem lại (nguồn tiền gửi, ký quỹ, tín dụng, dịch vụ phí …) từ đó có những giải pháp phù hợp để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế.
d. Môi trường pháp lý
Để hội nhập vào cộng đồng quốc tế, khung pháp lý của mỗi quốc gia cần phải được bổ sung, hoàn thiện theo hướng gần với thông lệ quốc tế. Các văn bản pháp luật liên quan đến thanh toán quốc tế được ban hành nhằm hướng dẫn và điều chỉnh cho các hoạt động liên quan đến thanh toán quốc tế được thống nhất và diễn ra thuận lợi giữa các chủ thể. Tuy nhiên hoạt động thanh toán quốc tế có tính chất phức tạp hơn so với thanh toán trong nước, nó không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật quốc gia mà còn chịu tác động của luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia khác có liên quan. Do vậy, nếu các văn bản pháp luật được ban hành chồng chéo, mâu thuẫn với thông lệ quốc tế sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng thương mại cũng như các chủ thể tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế.
1.1.3.2. Nhân tố chủ quan (Nhân tố thuộc về bản thân Ngân hàng thương mại)
a. Chiến lược kinh doanh của Ngân hàng thương mại
Trong thanh toán quốc tế luôn có vai trò tham gia cung ứng dịch vụ của các ngân hàng thương mại bằng các phương thức thanh toán quốc tế khác nhau. Mỗi ngân hàng thương mại đều có cách thức tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế riêng phụ thuộc vào chiến lược kinh doanh của mỗi ngân hàng nhằm đạt được tính tối ưu về các dịch vụ mà họ cung cấp, sử dụng một cách tốt nhất vốn trong kinh doanh, đảm bảo được việc kiểm soát, giám sát hoạt động thanh toán quốc tế.
b. Việc tổ chức điều hành thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại
Điều hành hoạt động thanh toán quốc tế là việc chỉ đạo thực hiện tất cả các hoạt động liên quan để thực hiện chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Để hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra thuận lợi, các ngân hàng thương mại cần đưa ra được một quy trình thực hiện nghiệp vụ làm sao vừa tạo ra sự thuận lợi cho khách hàng, dễ thực hiện đối với cán bộ thanh toán quốc tế nhưng vẫn đảm bảo được độ an toàn cho ngân hàng. Việc tổ chức thực hiện tốt sẽ giúp hoạt động thanh toán quốc tế diễn ra nhanh chóng và an toàn đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng.
c. Mạng lưới thanh toán quốc tế
Mạng lưới thanh toán quốc tế là cách thức tổ chức các chi nhánh, các điểm giao dịch thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế. Mạng lưới thanh toán quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút khách hàng, đối tượng khách hàng mà ngân hàng hướng tới.
Mặc dù, việc tổ chức thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế của mỗi ngân hàng là khác nhau song thường tập trung ở các thành phố lớn nơi có sự tập trung đông các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và phát sinh nhiều nhu cầu thanh toán quốc tế. Tuy nhiên đây cũng là nơi diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong thu hút khách hàng.
d. Khả năng nguồn lực của Ngân hàng thương mại
Để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng thương mại phải có hệ thống ngân hàng đại lý đủ để đáp ứng nhu cầu dịch vụ của khách hàng, là điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động thanh toán quốc tế ở cả hai chiều: thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu. Ngoài ra, ngân hàng phải có đủ nguồn vốn, nguồn ngoại tệ, các hoạt động tín dụng và kinh doanh ngoại tệ phát triển, có điều kiện cung ứng dịch vụ linh hoạt, lãi suất, phí, tỷ giá, điều kiện bảo lãnh, vay vốn ….
Nguồn nhân lực và công nghệ ngân hàng cũng là hai yếu tố quan trọng trong phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Con người chính là yếu tố quyết định trong mọi hoạt động kinh tế. Thanh toán quốc tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ phải am hiểu về luật pháp, các thông lệ quốc tế, tập quán thương mại các nước và có khả năng nắm bắt kịp thời các thay đổi trong thương mại, các sản phẩm dịch vụ trong hoạt động thanh toán quốc tế.
Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay giữa các doanh nghiệp, đồng tiền được quay vòng nhanh hơn tạo ra khả năng sinh lời cao hơn. Vì thế, công nghệ ngân hàng trong thanh toán quốc tế đòi hỏi phải đáp ứng được nhu cầu nhanh, an toàn, chính xác của các doanh nghiệp.
e. Chính sách khách hàng
Để duy trì hoạt động và phát triển, mỗi ngân hàng đều phải có tầm nhìn chiến lược trong xây dựng chính sách khách hàng. Xây dựng chính sách khách hàng tức là lựa chọn đối tượng khách hàng mà ngân hàng sẽ hướng tới phục vụ. Từ đó, xây dựng mối quan hệ bền chặt, gây dựng uy tín ngày càng cao của ngân hàng đối với khách hàng. Chính sách khách hàng của mỗi ngân hàng thương mại phụ thuộc vào mục tiêu phát triển và điều kiện cụ thể của ngân hàng. Việc xếp loại khách hàng không chỉ căn cứ vào chất lượng quan hệ tín dụng mà còn xem xét đến uy tín của khách hàng trong thanh toán.
f. Uy tín của Ngân hàng thương mại trong thanh toán quốc tế
Uy tín của ngân hàng trong nước và trên thị trường quốc tế là tiêu chí tổng hợp từ rất nhiều yếu tố: chất lượng dịch vụ, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ, khả năng thanh toán …. Một ngân hàng có uy tín sẽ là điều kiện để khách hàng (hoặc bên đối tác của họ) lựa chọn giao dịch. Nhờ đó, uy tín của khách hàng cũng được nâng lên, độ rủi ro giảm, khách hàng cũng giảm được chi phí phát sinh từ việc giao dịch với ngân hàng có uy tín không cao. Đây là điều kiện quan trọng để ngân hàng thu hút thêm khách hàng và mở rộng thị phần thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, uy tín của mỗi ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào ngân hàng trung ương của nó mà còn do bản thân mỗi chi nhánh của nó quyết định
1.1.4. Rủi ro trong thanh toán quốc tế tại các Ngân hàng Thương mại
Rủi ro được hiểu là những việc xảy ra ngoài ý muốn chủ quan của con người, đem lại những hậu quả không thể dự đoán trước được. Hoạt động thanh toán quốc tế liên quan đến các giao dịch thương mại quốc tế, khoảng cách địa lý xa cùng với sự khác biệt về văn hoá, luật pháp giữa các bên đối tác tham gia vào quá trình thanh toán đã làm tăng tính rủi ro trong quá trình thanh toán.
1.1.4.1. Rủi ro quốc gia
Đó là những rủi ro liên quan đến sự thay đổi về chính trị, chính sách kinh tế, quản lý ngoại hối của một quốc gia khiến cho nhà xuất khẩu không nhận được tiền, nhà nhập khẩu không nhận được hàng hoá.
Các nguyên nhân gây ra các biến cố chính trị, kinh tế xã hội: mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo, các cuộc xung đột thông qua đình công, biểu tình, chiến tranh bạo động; Cán cân thanh toán của một nước bị thâm hụt nặng nề buộc chính phủ của nước đó phải thay đổi chính sách quản lý ngoại hối và chính sách ngoại thương ….
1.1.4.2. Rủi ro pháp lý
Mặc dù, hoạt động thanh toán quốc tế chủ yếu dựa vào các thông lệ và tập quán quốc tế. Song ở mỗi nước, ngoài các thông lệ quốc tế còn có pháp luật của mỗi quốc gia để tạo nên một hành lang pháp lý đầy đủ cho hoạt động thanh toán quốc tế ở nước đó. Pháp luật ở các quốc gia thông thường là tôn trọng các thông lệ quốc tế và ít mâu thuẫn song không phải là không có mâu thuẫn. Vì vậy, vấn đề am hiểu pháp luật của mỗi quốc gia đối tác là rất cần thiết song không dễ dàng và rủi ro pháp lý là không thể tránh khỏi
1.1.4.3. Rủi ro ngoại hối
Tỷ giá hối đoái luôn biến động theo cung cầu của thị trường và tổn thất bởi sự biến động tỷ giá là khó tránh khỏi đối với các chủ thể trong quá trình thanh toán. Vì thế, mỗi khách hàng đều mong muốn ngân hàng của mình có biện pháp phòng tránh rủi ro hối đoái khi họ nhận được một khoản thu nhập hay phải thanh toán một khoản ngoại tệ nào đó. Tuy nhiên, không phải chỉ có khách hàng mới đối mặt với rủi ro về hối đoái mà chính những ngân hàng thương mại cũng phải đối mặt với nó khi cung cấp các dịch vụ thanh toán quốc tế cho khách hàng.
Rủi ro hối đoái thường xuất hiện trong lĩnh vực hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng thương mại khi các ngân hàng: (1) Cho khách hàng vay bằng ngoại tệ; (2) Phát hành giấy nợ bằng ngoại tệ để huy động thêm vốn (phát hành chứng chỉ tiền gửi); (3) Mua chứng khoán có mệnh giá bằng ngoại tệ; (4) Thực hiện các giao dịch về ngoại tệ cũng như đáp ứng các nhu cầu về ngoại tệ của khách hàng.
1.1.4.4. Rủi ro trong xử lý nghiệp vụ
Rủi ro phát sinh do những sai sót mang tính kỹ thuật trong quá trình thanh toán như có sự khác biệt trong bộ chứng từ thanh toán với nội dung của L/C.
Rủi ro do không tuân thủ các quy định của thông lệ quốc tế
Rủi ro khi không tuân thủ chế độ bảo mật trong quản lý, sử dụng thiết bị và mật mã dùng trong Thanh toán quốc tế.
1.2. Một số vấn đề chung về phát triển bền vững và các yêu cầu đặt ra để phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại
Kinh tế càng phát triển, càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, thanh toán quốc tế trong các ngân hàng thương mại càng cần được xem xét, hoàn thiện và phát triển để đáp ứng nhu cầu của các chủ thể tham gia vào quá trình thanh toán. Tuy nhiên, sự phát triển hoạt động thanh toán quốc tế mà các ngân hàng thương mại hướng tới hiện nay không chỉ là sự phát triển đơn thuần mà hướng tới sự phát triển bền vững. Vậy thế nào là sự phát triển bền vững?
1.2.1. Khái niệm về phát triển bền vững
Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Báo cáo Brundtland) của Uỷ ban Thế giới về môi trường và phát triển (WCED) năm 1997 cũng đưa ra khái niệm về phát triển bền vững, theo đó thừa nhận mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và phát triển. Theo WECD: “Phát triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ”. Tuy nhiên, nhiều người cho rằng khái niệm của WECD khó lượng hoá và khó có những quy chế rõ ràng, cụ thể cho ranh giới giữa phát triển bền vững và phát triển không bền vững. Tuy vậy, đây cũng là khái niệm về phát triển bền vững rõ ràng nhất và được sử dụng rộng rãi nhất. Khái niệm này đã đưa ra khuôn khổ để lồng ghép các chính sách môi trường và các chiến lược phát triển với tầm nhìn dài hạn.
Trong cuốn “Cứu lấy trái đất: Chiến lược vì sự sống bền vững” khái niệm phát triển bền vững tiếp tục được hoàn thiện. Theo đó, các khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường được lồng ghép vào nhau Phần giao của ba vòng tròn biểu thị sự phát triển bền vững
MÔI TRƯỜNG
XÃ HỘI
KINH TẾ
Như vậy, quan điểm về phát triển bền vững vẫn chưa hoàn toàn thống nhất, nhưng các khái niệm về phát triển bền vững đều thể hiện ba khía cạnh:
Thứ nhất: Khía cạnh kinh tế: đáp ứng được nhu cầu mong muốn của con người
Thứ hai: Khía cạnh xã hội: Thoả mãn được sự công bằng, sẻ chia giữa các thế hệ trong hiện tại, tương lai và trong bản thân thế hệ hiện tại
Thứ ba: Khía cạnh môi trường: Duy trì khả năng hỗ trợ sự sống của con người
Từ khái niệm về phát triển bền vững kinh tế, chúng ta có thể hiểu thể nào là ngân hàng phát triển bền vững? Thế nào là phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế?
Ngân hàng phát triển bền vững: Là ngân hàng phát triển ổn định trong một thời gian dài trên cơ sở khai thác các nguồn lực ngân hàng trong hiện tại nhưng kh._.ông làm ảnh hưởng đến phát triển các nguồn lực đó trong tương lai với sự gắn kết chặt chẽ với môi trường kinh doanh
Phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế: đó là sự phát triển trên cơ sở khai thác hiệu quả nguồn lực hiện có của ngân hàng cho hoạt động thanh toán quốc tế nhưng không làm ảnh hưởng đến sự phát triển trong tương lai trong sự gắn kết chặt chẽ với các hoạt động khác và với môi trường kinh doanh.
Như vậy, mọi hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng được coi là phát triển bền vững nếu nó thoả mãn được cả ba yếu tố:
Yếu tố kinh tế: Sự phát triển của hoạt động đó phải tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, duy trì sự tồn tại và phát triển của ngân hàng
Yếu tố xã hội: Thoả mãn được nhu cầu của cán bộ ngân hàng trong hiện tại và tương lai
Yếu tố môi trường: Duy trì được sự thoả mãn của khách hàng và thị trường đối với các hoạt động của ngân hàng
Nếu một hoạt động của ngân hàng thiếu một trong ba yếu tố trên thì có thể coi là phát triển không bền vững. Vậy để phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo hướng phát triển bền vững, thì ngân hàng thương mại phải đáp ứng các yêu cầu nào?
1.2.2. Các yêu cầu cần thực hiện để phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại
1.2.2.1. Yêu cầu về hoạch định chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế
Để ngân hàng hay bất cứ một tổ chức, một hoạt động kinh tế nào có thể phát triển bền vững đều phải xây dựng một chiến lược kinh doanh. Từ chiến lược kinh doanh đó, ngân hàng tiến hành hoạch định các chiến lược cụ thể cho các hoạt động của Ngân hàng, trong đó không thể thiếu chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế. Xây dựng chiến lược phát triển chung cho hoạt động của Ngân hàng hay xây dựng chiến lược phát triển cho hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng theo hướng phát triển bền vững cần tiến hành theo các nội dung sau:
Phân tích môi trường kinh doanh
Môi trường kinh doanh là nơi mà mọi hoạt động của Ngân hàng trong đó có hoạt động Thanh toán quốc tế tồn tại và phát triển. Sự thay đổi của môi trường kinh doanh có ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Việc xây dựng chiến lược kinh doanh hướng tới sự phát triển bền vững cho các hoạt động của Ngân hàng đòi hỏi phải có sự phân tích, nghiên cứu kỹ môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm:
Thứ nhất: Môi trường kinh tế
Nghiên cứu môi trường kinh tế cần phân tích rõ thực trạng và triển vọng của môi trường kinh tế vĩ mô trong nước liên quan đến hoạt động Ngân hàng. Đặc biệt, hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ có các đối tác trong nước mà còn có các đối tác nước ngoài. Vì thế, cần phải phân tích thực trạng và xu hướng phát triển của kinh tế quốc tế và khu vực trong tương lai (thường là mười năm trở lên)
Thứ hai: Phân tích môi trường pháp lý
Bất cứ một hoạt động kinh tế nào cũng chịu sự điều chỉnh của hệ thống luật pháp. Bất cứ sự thay đổi nào của chính sách và pháp luật đều liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Để ngân hàng phát triển bền vững, đòi hỏi phải nghiên cứu kỹ hệ thống pháp luật của nhà nước nói chung và hệ thống pháp luật liên quan trực tiếp đến hoạt động ngân hàng.
Ngoài ra, hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng còn liên quan đến hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đối tác. Vì vậy cần nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại.
Thứ ba: Phân tích môi trường công nghệ
Môi trường công nghệ là toàn bộ các yếu tố liên quan đến quá trình trang bị, chuyển giao và áp dụng khoa học công nghệ mới vào sử dụng.
Công nghệ luôn biến đổi do những phát minh sáng chế, do vậy các ngân hàng thương mại muốn phát triển và nâng cao năng lực cạnh tranh thì phải đổi mới khoa học công nghệ trong quá trình phát triển của mình. Do đó cần phân tích môi trường công nghệ để thấy rõ được thực trạng và xu hướng phát triển công nghệ trên thế giới và trong nước. Triển vọng áp dụng công nghệ để có được tầm nhìn dài hạn cho việc trang bị công nghệ của ngân hàng.
Thứ tư: Phân tích môi trường tự nhiên và xã hội
Hoạt động của ngân hàng không thể tách khỏi môi trường và môi trường luôn tồn tại trong mọi hoạt động của ngân hàng. Do vậy, muốn phát triển bền vững thì việc xây dựng chiến lược kinh doanh của Ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng phải gắn kết cùng môi trường.
Xác định vị thế của Ngân hàng
Để biết được vị thế của Ngân hàng, cần phải trả lời câu hỏi: Tiềm lực, khả năng thực tế của ngân hàng hiện tại như thế nào? Khả năng phát triển và mở rộng ra sao? Muốn vậy, ngân hàng có thể phân tích thông qua mô hình SWOT: điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức của Ngân hàng
Việc xác định tiềm lực của ngân hàng phải được đặt trong sự xem xét đánh giá với khả năng nội tại của chúng để tìm ra hướng khai thác và phát triển. Do vậy nhiệm vụ quan trọng trong xác định tiềm lực của ngân hàng là phải phân tích chính xác tình hình hiện tại về các yếu tố kinh doanh, từ đó thấy được khả năng sử dụng và khai thác các yếu tố đó
Ngoài ra, để xác định được vị thế của mình, ngân hàng còn phải biết được tiềm lực của các đối thủ cạnh tranh. Phân tích được ưu nhược điểm của mỗi hoạt động của mình (trong đó có hoạt động thanh toán quốc tế) với hoạt động đó của các ngân hàng thương mại khác.
Xác định nhu cầu của thị trường Ngân hàng
Muốn xác định được thị phần phù hợp với mục tiêu phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng, trước hết ngân hàng cần hiểu rõ về thị trường, nhu cầu của thị trường. Muốn làm tốt điều này ngân hàng phải có thông tin chính xác về chúng thông qua các hình thức:
Thông qua sự cung cấp của khách hàng
Thông qua việc thu thập và xử lý thông tin có được từ các nguồn: sách báo, tài liệu, thực tế kinh doanh của ngân hàng …
Thông qua việc tiến hành tổ chức điều tra mẫu từ thị trường.
Xác định sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế
Từ các bước phân tích ở trên, Ngân hàng hoàn toàn có thể đưa ra ý tưởng về sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế mà ngân hàng hướng đến phục vụ. Tuy nhiên, phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế còn phải trên cơ sở sự phát triển bền vững của ngân hàng. Do vậy, xác định thị phần của hoạt động thanh toán quốc tế phải đảm bảo sự cân đối với các hoạt động khác của ngân hàng.
Việc xác định sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng phải thông qua việc nghiên cứu thị trường. Các tín hiệu thị trường là cơ sở quan trọng nhất để ngân hàng quyết định sản phẩm và dịch vụ cung cấp phù hợp. Tuy nhiên việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ cũng cần dựa trên khả năng hiện có của đơn vị. Nhưng không được coi đây là hoạt động thụ động mà cần tìm ra các giải pháp thích hợp để thực hiện định hướng mà ngân hàng đã nhận thấy từ tín hiệu thị trường.
Quyết định chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế
Thông qua các phân tích ở trên, có thể cho phép các nhà lãnh đạo ngân hàng đưa ra chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của mình. Trong chiến lược này, cần chỉ ra được: Thị trường chủ yếu, các sản phẩm và dịch vụ chủ yếu, cách thức chính để thực hiện chiến lược phát triển đã đề ra.
Trong quá trình quyết định chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế cần lưu ý:
- Chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế phải phù hợp với chiến lược hoạt động của Ngân hàng
- Chiến lược phát triển hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng và các chiến lược kinh doanh khác nói chung đều phải có hệ thống bảo mật. Có nội dung cần công khai, có nội dung cần được bảo mật với các mức độ khác nhau. Vấn đề này cần được hoạch định rõ trong quá trình tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh ngân hàng.
- Thông thường chiến lược cần được phân tích kỹ, nhưng chiến lược hoạch định cần ngắn gọn, rõ ràng, mang tính khái quát cao tránh tình trạng diễn giải dài, khó hiểu.
1.2.2.2. Yêu cầu về công tác quản trị điều hành phát triển hoạt động thanh toán quốc tế
Cần quản lý điều hành hoạt động thanh toán quốc tế theo cách nhìn của công nghệ quản lý ngân hàng phát triển bền vững
Có rất nhiều vấn đề liên quan đến công nghệ quản lý ngân hàng phát triền bền vững. Song nhận thức đầu tiên về nó là phải có cái nhìn theo quan điểm mới. Quan điểm công nghệ quản lý ngân hàng phát triển bền vững cho rằng cần phải xuất phát từ nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu của khách hàng mới là động lực hoạt động thực có của ngân hàng. Hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động bộ phận nằm trong hoạt động chung của ngân hàng. Điều hành hoạt động thanh toán quốc tế phải phù hợp với sự điều hành chung của ngân hàng. Điều hành theo công nghệ quản lý của ngân hàng phát triển bền vững.
Mục tiêu của công nghệ quản lý ngân hàng phát triển bền vững
Nếu như trước đây, mục tiêu của công nghệ quản lý ngân hàng chỉ làm sao cho đạt được lợi nhuận tối đa và tăng cường một chút lợi nhuận cho nhân viên để kích thích họ làm việc. Quyền lợi của nhân viên ngân hàng chưa được thoả mãn, quyền lợi của khách hàng thì gần như xa lạ với mục tiêu quản lý của ngân hàng. Với mục tiêu quản lý đó, rõ ràng không thể duy trì và phát triển bất cứ một hoạt động nào trong thời gian dài, đặc biệt là trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay. Do đó, cần có nhận thức mới về mục tiêu của công nghệ quản lý ngân hàng.
Mục tiêu của công nghệ quản lý ngân hàng phát triển bền vững là đạt được sự thoả mãn của ba đối tượng: khách hàng, ngân hàng, và cán bộ ngân hàng. Nếu chỉ thoả mãn một phần trong ba đối tượng này thì có thể xem là sự không thành công của công nghệ quản lý ngân hàng trong việc vận dụng chúng vào thực tiễn. Nếu chỉ thoả mãn cho khách hàng mà không thoả mãn cho ngân hàng thì sẽ không có ý nghĩa gì, ngân hàng sẽ không thể tồn tại và phát triển. Và chắc chắn, khi không thoả mãn cho ngân hàng thì không thể thoả mãn cho cán bộ ngân hàng.
Sự thoả mãn đối với khách hàng
Công nghệ quản lý NHPTBV
Sự thoả mãn đối với cán bộ ngân hàng
Sự thoả mãn đối với ngân hàng
(Động lực thúc đẩy)
(Sự trung thành)
(Khả năng sinh lời)
Toàn ngân hàng cùng hướng về lợi nhuận
Công nghệ quản lý ngân hàng phát triển bền vững cho rằng: Toàn ngân hàng cùng hướng về lợi nhuận. Điều này được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Toàn ngân hàng phải nhận thức được vai trò quyết định cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng là do khách hàng
- Ngân hàng là một thể thống nhất, không có bất cứ sự lệch pha nào bất cứ hoạt động nào của ngân hàng. Tất cả cùng hướng tới thị trường, phục vụ khách hàng, tăng lợi nhuận cho ngân hàng và tăng thu nhập cho chính người lao động
- Công nghệ quản lý ngân hàng Phát triển bền vững đòi hỏi sự sáng tạo trong hoạt động. Do vậy, các bộ phận, cá nhân cần được quan tâm khen thưởng xứng đáng, kịp thời để khuyến khích họ làm tốt hơn, sáng tạo hơn trong công việc của mình.
Xây dựng và hoàn thiện thể chế cho hoạt động thanh toán quốc tế
Nội dung trên đã cho ta những nét định tính trong công tác quản trị, điều hành hoạt động thanh toán quốc tế theo hướng phát triển bền vững. Tuy nhiên, để công tác điều hành có hiệu quả cao, cần phải xây dựng một thể chế, quy trình cụ thể cho hoạt động thanh toán quốc tế sao cho bất cứ một dụng nào của hoạt động thanh toán quốc tế cũng có những quy định thống nhất chung cho toàn ngân hàng, cho mọi cán bộ ngân hàng thực hiện theo. Mọi quy định cần được thể chế hoá, được quy định và tập hợp thành một tài liệu dễ tra cứu đối với cán bộ thực hiện.
Trong quá trình xây dựng thể chế cho hoạt động thanh toán quốc tế cần cố gắng sao cho thể chế đó tồn tại được trong một thời gian dài, tránh tình trạng thay đổi liên tục, quá nhanh cho dù sự thay đổi là không thể tránh khỏi để hoạt động đó thích ứng được với thị trường. Song các yêu cơ bản đối với hoạt động thanh toán quốc tế cần phải được nghiên cứu kỹ để xây dựng được thể chế thích ứng trong một thời gian dài
1.2.2.3. Yêu cầu về trang bị công nghệ hiện đại
Công nghệ thông tin là một công cụ quan trọng trong quản lý, kinh doanh bảo đảm an toàn và hiệu quả, thông qua việc tập trung hoá tài khoản khách hàng, kiểm soát tốt nguồn vốn, mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ hiện đại. Những đổi mới về công nghệ thông tin sẽ tạo nền tảng cơ sở vật chất kỹ thuật thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại nói riêng trong quá trình hội nhập khu vực và thế giới.
Tuy nhiên, trang bị công nghệ như thế nào để phát triển bền vững? Nếu như trước đây, về trang bị công nghệ cho lĩnh vực ngân hàng nói riên và các ngành khác nói chung thường theo hai xu hướng:
Thứ nhất: Cứ đầu tư vào công nghệ thật hiện đại, đắt tiền sẽ đảm bảo cho ngân hàng phát triển bền vững
Thứ hai: Cần tận dụng các công nghệ rẻ tiền, có như vậy mới tiết kiệm được vốn đầu tư, ngân hàng mới có khả năng phát triển lâu dài được.
Rõ ràng, hai xu hướng trên đều có lý của chúng song chúng không đạt được hiệu quả tối ưu trong thực tế. Để lý giải điều này chúng ta cần tìm hiểu thế nào là công nghệ?
Có nhiều cách hiểu về công nghệ.
Theo Uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP): Công nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình và kỹ thuật dùng để chế biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm kiến thức, kỹ năng, thiết bị, phương pháp và hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ.
Theo luật Khoa học và Công nghệ Việt Nam: Công nghệ là tập hợp các quy trình, kỹ năng và bí quyết, công cụ và phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm.
Như vậy công nghệ không phải chỉ là máy móc thiết bị, cũng không chỉ là hệ thống máy tính hay hệ thống thanh toán của ngân hàng, dù đó có thể là một phần lớn trong công nghệ thực hiện dịch vụ của ngân hàng. Công nghệ ngoài phần kỹ thuật còn bao gồm: phần con người (thể hiện ở kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ); phần tổ chức (sự kết hợp bố trí các thiết bị, kết hợp các cá nhân trong sử dụng công nghệ để đạt được hiệu quả cao nhất).
Yêu cầu của ngân hàng phát triển bền vững cho rằng việc trang bị khoa học công nghệ ngân hàng phải xuất phát từ đòi hỏi của thị trường và khả năng nội tại của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu của thị trường. Đây là một điểm khác biệt so với quan niệm trước đây.
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của khoa học kỹ thuật hiện đại trong hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng. Song vấn đề trang bị khoa học và công nghệ phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường. Thị trường là tấm gương cho ngân hàng soi rọi hoạt động của mình vào đó, nó cũng là định hướng cho ngân hàng trang bị công nghệ thích ứng. Từ yêu cầu của thị trường ở hiện tại và trong tương lai, nắm bắt các xu hướng phát triển của khoa học công nghệ kết hợp với khả năng tài chính có ưu tiên của ngân hàng để lựa chọn trang bị công nghệ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
1.2.2.4. Yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực
Con người luôn là nhân tố quyết định cho mọi hoạt động nói chung và hoạt động Ngân hàng nói chung. Vì vậy, để phát triển bền vững, yêu cầu cơ bản và quan trọng là phải hiện đại hoá con người thông qua nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, việc đào tạo đội ngũ cán bộ vẫn là con đường chủ yếu để nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng. Để làm tốt điều này ngân hàng cần phải tiến hành nhanh chóng phân loại đội ngũ cán bộ của toàn ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau
Phân loại theo trình đội bằng cấp: Tiến sĩ, thạc sĩ, cử nhân….
Phân loại theo trình độ thực hiện công việc: làm tốt, khá, trung bình….
Phân loại theo trình độ nghề nghiệp: Chuyên gia, chuyên viên, cán bộ độc lập, cán bộ tác nghiệp, cán bộ phụ trợ …..
Việc phân loại cán bộ như vậy cho phép thấy rõ được thực chất của lực lượng cán bộ hiện tại của ngân hàng để từ đó có các đối sách thích hợp trong việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ của ngân hàng.
Tuy vậy, yêu cầu về đào tạo nguồn nhân lực theo hướng phát triển bền vững đòi hỏi phải xuất phát từ công việc để đào tạo, tránh đào tạo dàn trải, không trọng tâm. Việc đào tạo chủ yếu tập trung vào đào tạo nghiệp vụ để thích ứng với yêu cầu của thực tế. Nên đào tào theo từng nghiệp vụ chuyên sâu.
Ngoài ra, trong chiến lược phát triển các hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng, ngân hàng cần tính đến việc đào tạo lực lượng cán bộ có thể đảm trách được công việc trước khi mở rộng và phát triển các sản phẩm ngân hàng. Đồng thời trước khi trang bị các thiết bị công nghệ mới thì yếu tố đào tạo nguồn nhân lực phải đi trước một bước.
1.2.2.5. Yêu cầu về công tác Marketing
Để hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng phát triển bền vững và hiệu quả trong môi trường cạnh tranh ngày càng cao, cần thiết phải có hệ thống Marketing đủ mạnh để hỗ trợ. Tuy nhiên, vấn đề phát triển marketing ngân hàng là một vấn đề rất rộng lớn. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, có một số nội dung cần thực hiện để có được một hệ thống hỗ trợ marketing hiệu quả nhằm phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế.
Thứ nhất: Marketing là khuyếch trương, quảng cáo, khuyến mại, tuyên truyền
Giao tiếp, khuyếch trương, quảng cáo luôn là công cụ quan trọng trong quá trình thực hiện tốt chiến lược phát triển của ngân hàng. Nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường luôn thay đổi trong khi nguồn cung trên thị trường lại rất phong phú, không phải lúc nào cung cũng gặp được cầu, Vì thế, giao tiếp, quảng cáo, khuyếch trương có nhiệm vụ làm cho cung gặp được cầu. Hơn thế, giao tiếp, quảng cáo và khuyếch trương còn có vai trò quan trọng trong xây dựng chiến lược phát triển của ngân hàng. Bởi lẽ, thông qua quá trình quảng cáo, khuyếch trương đó ngân hàng mới nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và từ đó quyết định các sản phẩm kinh doanh phù hợp với thị trường.
Giao tiếp, khuyếch trương, quảng cáo tạo điều kiện thực hiện thực hiện dịch vụ tốt hơn. Làm cho việc đưa dịch vụ vào kênh phân phối hợp lý hơn, giảm bớt các chi phí không cần thiết trong quá trình thực hiện dịch vụ. Đây không chỉ là các biện pháp hỗ trợ chính sách dịch vụ, giá cả và phân phối mà nó còn tăng cường hiệu quả của các chính sách đó.
Thứ hai: Marketing là nghệ thuật giao tiếp và tranh thủ khách hàng
Mối quan hệ giữa khách hàng và ngân hàng trong thực hiện sản phẩm thực chất là mối quan hệ giữa con người với con người nên nó mang đầy đủ các yếu tố xã hội gắn kết với tâm sinh lý cụ thể. Trong quan hệ này có những quy luật riêng có mà sự nắm bắt và sử dụng nó chính là nghệ thuật giao tiếp. Đây là yếu tố quan trọng để ngân hàng có thể tranh thủ khách hàng. Làm sao để khách hàng đến với ngân hàng thực hiện giao dịch mà không phải đến với ngân hàng khác. Việc giao tiếp giữa cán bộ ngân hàng và khách hàng phải được xem như một chính sách bắt buộc trong chính sách xúc tiến và khuyếch trương của ngân hàng. Việc kết hợp hài hoà giữa các công cụ khác và sử dụng tốt lợi thế giao tiếp của ngân hàng sẽ tạo ra một kết quả tối ưu cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Thứ ba: Marketing là việc xây dựng và quản lý thương hiệu của ngân hàng
Thương hiệu nói một cách giản dị đó là hình ảnh của ngân hàng. Hình ảnh và uy tín của ngân hàng trong nước cũng như trên thế giới là yếu tố quan trọng để khách hàng lựa chọn đến với ngân hàng. Vì vậy, xây dựng và quản lý hình ảnh ngân hàng là yếu tố sống còn đối với hoạt động của ngân hàng. Muốn quản lý được hình ảnh của ngân hàng điều đầu tiên cần giáo dục cho cán bộ ngân hàng thấy được uy tín và thương hiệu của ngân hàng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Sự giáo dục ở đây không chỉ mang tính chung chung mà phải cụ thể, yêu cầu cán bộ ngân hàng phải có thái độ niềm nở với khách hàng, làm cho họ thấy được mình đang mang một phần hình ảnh của ngân hàng và cùng tập trung duy trì hình ảnh ngân hàng trong giao tiếp với khách hàng.
Hơn thế, uy tín và thương hiệu của ngân hàng không phải ở trụ sở làm việc đẹp, trang thiết bị tiện nghi mà nó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố như: chất lượng dịch vụ, kỹ thuật xử lý nghiệp vụ, khả năng thanh toán ….. Vì vậy, để xây dựng và nâng cao hình ảnh của ngân hàng trong nước và trên thế giới cần có chiến lược phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ của ngân hàng.
1.2.2.6. Yêu cầu về phát triển các sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế thích ứng được với thị trường
Theo cách nhìn của công nghệ quản lý ngân hàng phát triển bền vững thì dịch vụ nói chung hay dịch vụ thanh toán quốc tế nói riêng là hàng hoá gắn liền với mong muốn và nhu cầu của người tiêu dùng trên thị trường, nó vừa mang yếu tố vật chất: khối lượng, giá trị … vừa mang yếu tố phi vật chất: tiện lợi, thói quen, sở thích, thị hiếu và tập quán tiêu dùng …. Theo đó, các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng vừa là cái đã có, đang có và tiếp tục phát sinh trong trạng thái biến đổi không ngừng của sở thích, thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng.
Ngày nay với sự phát triển năng động của nền kinh tế, sự phát triển không ngừng của hoạt động kinh tế đối ngoại, nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ thanh toán quốc tế của các ngân hàng thương mại ngày càng nhiều. Đây là điều kiện để các ngân hàng thương mại phát triển sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế của mình. Song vấn đề đặt ra là phát triển dịch vụ đó theo hướng nào để các sản phẩm và dịch vụ mà ngân hàng tạo ra nhận được sự đồng tình và ủng hộ của khách hàng.
Sản phẩm của ngân hàng được hiểu là toàn bộ những dịch vụ mà ngân hàng tạo ra để cung cấp theo nhu cầu của khách hàng. Nhu cầu của khách hàng ngày càng phát triển, nó không chỉ bó hẹp trong các dịch vụ truyền thống mà còn có nhu cầu về các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng hiện đại, các dịch vụ có kèm theo các sản phẩm tiện ích như tư vấn, môi giới …. Điều này mở ra điều kiện để các ngân hàng đổi mới, khai thác và phát triển các sản phẩm dịch vụ kinh doanh của mình nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.
Ngoài việc phát triển sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế thích ứng với yêu cầu thị trường như trên thì trong chiến lược phát triển sản phẩm thanh toán quốc tế cần phải được đặt trong chiến lược phát triển chung của toàn ngân hàng. Sự phát triển sản phẩm và dịch vụ thanh toán quốc tế cần phải được đặt trong sự gắn kết với các sản phẩm và dịch vụ khác của ngân hàng như: tín dụng, thanh toán qua thẻ, giao dịch thanh toán … Bởi lẽ một doanh nghiệp khi đến giao dịch với ngân hàng không chỉ có nhu cầu về thanh toán quốc tế mà còn có rất nhiều các nhu cầu khác. Do vậy, phát triển hoạt động thanh toán quốc tế cần kết hợp với phát triển đa dạng các sản phẩm khác của ngân hàng. Đặc biệt là các sản phẩm ngân hàng hiện đại đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường.
1.2.2.7. Yêu cầu về tổ chức mạng lưới của thanh toán quốc tế
Yêu cầu phát triển bền vững hoạt động thanh toán quốc tế không chỉ đòi hỏi phải có một chiến lược phát triển tốt mà còn đòi hỏi việc tổ chức mạng lưới hoạt động thanh toán quốc tế hợp lý để cung cấp các dịch vụ đó một cách thuận lợi nhất cho khách hàng đồng thời thoả mãn tối ưu trong quản lý và điều hành hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng.
Chính sách mạng lưới thanh toán quốc tế có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của mỗi ngân hàng. Một chính sách hợp lý sẽ giúp ngân hàng nâng cao chất lượng dịch vụ, an toàn trong kinh doanh, thu hút thêm khách hàng. Từ đó, khẳng định uy tín và thương hiệu của ngân hàng trong quá trình kinh doanh, đồng thời khẳng định được sự phát triển bền vững của ngân hàng. Tuy nhiên, việc xây dựng mạng lưới thanh toán quốc tế có liên quan đến các yếu tố cơ bản như: khách hàng, trung gian môi giới, hệ thống tài sản cố định hiện có (hệ thống kho tàng, trụ sở làm việc, trang thiết bị công nghệ và hệ thống thông tin quản lý ….). Do vậy, việc xây dựng mạng lưới thanh toán quốc tế cần lưu ý các vấn đề sau:
Thứ nhất: Việc tổ chức mạng lưới hoạt động thanh toán quốc tế, mỗi ngân hàng đều có cách thức tổ chức riêng phù hợp với trình độ nghiệp vụ của nhân viên ngân hàng, trang thiết bị công nghệ hiện có, các yếu tố tập quán, truyền thống ….
Thứ hai: Để quyết định chính sách mạng lưới thanh toán quốc tế nào tốt hơn là rất khó, chỉ có thị trường là tấm gương phản chiếu tốt nhất cho các nhà quản lý ngân hàng.
Thứ ba: Một chính sách mạng lưới thanh toán quốc tế tốt phải nhằm đạt được tính tối ưu về các dịch vụ mà họ cung cấp, sử dụng một cách tốt nhất vốn trong kinh doanh và đảm bảo được việc kiểm soát, giám sát hoạt động thanh toán quốc tế.
Thứ tư: Kinh nghiệm của một số ngân hàng lớn trên thế giới thường tổ chức hoạt động thanh toán quốc tế tập trung tại một số trung tâm. Việc tập trung thanh toán của các ngân hàng lớn trên thế giới chỉ tập trung về mặt nghiệp vụ, các hoạt động khác vẫn thể hiện là một chi nhánh độc lập chịu tránh nhiệm trong hoạt động thanh toán quốc tế của mình. Việc tập trung thanh toán tại một số trung tâm giúp ngân hàng:
- Cung cấp được chất lượng dịch vụ tốt hơn
- Xoá bỏ được chênh lệch dịch vụ giữa các chi nhánh tại các quốc gia đang phát triển và các quốc gia phát triển
- Giúp ngân hàng quản lý, kiểm soát tốt hơn hoạt động thanh toán quốc tế tại ngân hàng mình.
1.2.2.8. Yêu cầu về hệ thống phòng ngừa rủi ro
Kinh doanh ngân hàng là hoạt động rất nhạy cảm đối với bất cứ sự thay đổi nào nằm ngoài dự đoán. Do đó, hoạt động kinh doanh ngân hàng luôn chứa những rủi ro có thể dẫn đến phá sản. Những rủi ro này có thể do các nguyên nhân sau:
- Các đối thủ cạnh tranh luôn thay đổi chiến lược cạnh tranh để giành giật thị phần
- Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng thay đổi ảnh hưởng đến khả năng thanh toán với ngân hàng
- Môi trường kinh doanh trong nước và quốc tế có thể thay đổi ngoài dự đoán.
- Những sai sót trong phát triển sản phẩm dịch vụ của ngân hàng ….
Vì thế, việc xây dựng và thiết kế một hệ thống phòng ngừa rủi ro cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng để có những biện pháp tháo gỡ kịp thời là rất quan trọng. Khi xây dựng hệ thống phòng ngừa rủi ro, ngân hàng cần lưu ý các điểm sau:
Thứ nhất: Cần xây dựng hệ thống nắm bắt thông tin ở cả tổng thể và chi tiết trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Thứ hai: Yêu cầu nhân viên lấy thông tin về tình hình kinh doanh của khách hàng, đối tác của khách hàng và tình hình kinh tế, luật pháp của các nước có liên quan
Thứ ba: Cần lưu trữ thông tin và phân loại khách hàng nhằm đưa ra chính sách khách hàng một cách hợp lý để tạo điều kiện cho hoạt động quản lý, giám sát hoạt động thanh toán quốc tế có hiệu quả.
1.2.2.9. Yêu cầu về đánh giá năng lực tài chính
Năng lực tài chính của ngân hàng quyết định trực tiếp hoạt động kinh doanh của ngân hàng bởi:
Năng lực tài chính tạo ra khách hàng và uy tín của ngân hàng: Khi khách hàng quan hệ với khách hàng, họ luôn quan tâm tới khả năng thanh toán của ngân hàng. Do đó, tiềm lực tài chính tốt, ngân hàng sẽ có khả năng chi trả cao. Giảm rủi ro cho khách hàng. Tiềm lực tài chính mạnh giúp ngân hàng thu hút thêm khách hàng, từ đó lại củng cố thêm uy tín cho ngân hàng. Đặc biệt trong hoạt động thanh toán quốc tế, có độ rủi ro cao, nên khách hàng hoặc các đối tác của họ thường tìm các ngân hàng có uy tín lớn nhằm giảm các chi phí không cần thiết khi quan hệ với các ngân hàng có uy tín không cao.
Năng lực tài chính ảnh hưởng đến kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng: Sự phát triển của thương mại quốc tế đòi hỏi nghiệp vụ ngân hàng quốc tế phải thường xuyên thay đổi để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Do đó, vấn đề hiện đại hoá công nghệ ngân hàng được xem là sự sống còn của ngân hàng. Song hiện đại hoá đến đâu phải dựa vào năng lực tài chính thực tại của ngân hàng để đề ra chiến lược cho phù hợp.
Năng lực tài chính ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định phát triển của ngân hàng. Yêu cầu phát triển bền vững cho rằng sự phát triển của ngân hàng phải được dựa trên các nguồn lực hiện có của ngân hàng, trên cơ sở sử dụng hiệu quả các nguồn lực trong thực tại và tìm hướng khai thác, phát triển và sử dụng chúng trong tương lai. Vì vậy, để phát triển bền vững mọi hoạt động của ngân hàng thương mại, chúng ta cần biết năng lực tài chính hiện tại của ngân hàng và đề ra chiến lược kinh doanh dài hạn cho ngân hàng. Yêu cầu đánh giá năng lực tài chính ngân hàng tập trung vào các vấn đề cơ bản sau: Vốn tự có, khả năng sinh lời, hiệu quả hoạt động, chất lượng tài sản, khả năng đảm bảo thanh toán của ngân hàng.
1.3. Sự cần thiết phải phát triển bền vững hoạt động thanh toán trong các ngân hàng thương mại
Việt Nam đã thực sự tham gia vào sân chơi quốc tế. Điều này đã mở ra nhiều cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Hoạt động kinh tế đối ngoại ngày càng mở rộng và phát triển thể hiện: Hoạt động đầu tư nước ngoài tăng mạnh: Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam ra nhập WTO, nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đã đạt mức kỷ lục khoảng 20 tỷ USD. Thời báo kinh tế Việt Nam
Hoạt động chuyển giao khoa học công nghệ cũng có nhiều dự án lớn hợp tác giữa Việt Nam với các nước thành viên của WTO.
Hoạt động xuất nhập khẩu: Năm 2006 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, cao gấp 16.5 lần năm 1990, với quy mô xuất khẩu đạt khoảng 39 tỷ USD. “Năm 2007 tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 48 tỷ USD tăng 20.5% so với năm 2006” Xuất khẩu 2007: 3 thành tưu, 7 hạn chế, www.mof.gov.vn
. “Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2007 đạt 48.38 tỷ USD” Tổng quan xuất nhập khẩu, nhập siêu 2007, www.mof.gov.vn
Ngoài ra các hoạt động du lịch cũng tiếp tục phát triển.
Như vậy, các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng đã phát triển rất mạnh sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Hơn thế, trong thời kỳ hội nhập toàn cầu, thương mại quốc tế ngày càng mở rộng và phát triển. Thực tế thị trường đó đã đòi hỏi hoạt động thanh toán quốc tế tại các ngân hàng thương mại phải được mở rộng và phát triển.
Tuy nhiên, thương mại toàn cầu cũng tạo ra không ít thách thức với các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng được thể hiện:
Việt Nam phải tuân thủ các cam kết gia nhập WTO mở cửa thị trường ngân hàng, năm 2007 đã có rất nhiều tổ chức xin thành lập ngân hàng. Điều này các ngân hàng thương mại Việt Nam trước áp lực cạnh tranh gay gắt hơn. Đòi hỏi các ngân hàng phải tự nâng cao năng lực cạnh tra._. thông báo bằng các phương tiện truyền thông trước lúc đóng cửa của ngày làm việc thứ bảy.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về sự chậm trễ do truyền tin, lỗi chính tả phát sinh trong quá trình chuyển giao hoặc truyền tin.
Chức năng
- Chức năng thanh toán: Bộ chứng từ xuất trình đòi tiền L/C thông thường là những chứng từ xác nhận quyền sở hữu hàng hoá, chứng minh người bán đã hoàn tất việc giao hàng theo hợp đồng đã ký với người mua, là cơ sở để ngân hàng thực hiện thanh toán.
- Chức năng tín dụng: Thư tín dụng là văn bản thể hiện loại tín dụng trực tiếp của ngân hàng cấp cho nhà nhập khẩu và là sự cam kết của trực tiếp của ngân hàng với nhà xuất khẩu.
- Chức năng đảm bảo thanh toán: Tín dụng chứng từ là sự cam kết độc lập của ngân hàng mở L/C đối với nhà xuất khẩu. Trong đó, ngân hàng mở L/C đảm bảo nghĩa vụ thanh toán cho nhà xuất khẩu ngay khi xuất trình bộ chứng từ phù hợp mà không phụ thiệu vào ý muốn hay khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
Bằng phương thức tín dụng chứng từ ngân hàng đóng vai trò là trung gian kiểm soát các chứng từ liên quan đến hợp đồng thương mại và L/C. Phương thức này đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan nên được sử dụng nhiều trên thế giới (khoảng 70%)
3. Phương thức thanh toán nhờ thu
3.1. Khái niệm
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà người xuất khẩu sau khi giao hàng hoặc cung ứng một dịch vụ nào đó cho nhà nhập khẩu tiến hành uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu hoặc chứng từ do người xuất khẩu lập.
3.2. Các bên tham gia giao dịch thanh toán theo phương thức nhờ thu
1 - Người có yêu cầu uỷ nhiệm thu: người cung ứng dịch vụ (gọi là bên bán)
2- Ngân hàng nhận uỷ thác thu: ngân hàng phục vụ bên bán
3 – Ngân hàng xuất trình: Là ngân hàng thu hộ, thường là ngân hàng đại lý hoặc chi nhánh của ngân hàng nhận uỷ nhiệm thu (ở nước người mua).
4 - Người trả tiền: Người nhập khẩu, người sử dụng dịch vụ được cung ứng được gọi chung là bên mua
3.2. Các phương thức thanh toán nhờ thu
Nhờ thu trơn
Là phương thức thanh toán trong đó bên uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua căn cứ vào hối phiếu do chính người bán lập. Các chứng từ thương mại có liên quan đến giao dịch bên bán đã chuyển giao trực tiếp cho bên mua, không qua ngân hàng.
Sơ đồ quy trình nhờ thu trơn
Người mua
NH xuất trình
NH thu hộ
NH nhận uỷ thác thu
Người bán
1
2
7
3
4
5
6
1 – Bên bán chuyển giao hàng hoá, đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá cho bên mua
2 – Bên bán lập hối phiếu đòi tiền người mua, uỷ nhiệm qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua
3 – Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua
4 – Ngân hàng phục vụ bên mua đòi tiền người mua hoặc yêu cầu ký chấp nhận hối phiếu
5- Bên mua thanh toán tiền
6 - Chuyển tiền trả qua ngân hàng phục vụ bên bán
7- Thanh toán tiền cho bên bán
Nhờ thu kèm chứng từ
Là phương thức thanh toán, trong đó bên bán uỷ nhiệm cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không chỉ căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ hàng hoá gửi kèm theo với điều kiện nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền (đối với hối phiếu có kỳ hạn) sẽ trao bộ chứng từ cho người mua nhận hàng.
Sơ đồ quy trình nhờ thu kèm chứng từ
Người mua
NH xuất trình
NH thu hộ
NH nhận uỷ thác thu
Người bán
1
2
7
3
4
5
6
Bên bán chuyển giao hàng hoá cho bên mua
2 - Bên bán lập hối phiếu đòi tiền người mua, đồng thời chuyển toàn bộ chứng từ hàng hoá uỷ nhiệm qua ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền từ người mua.
3 – Ngân hàng phục vụ bên bán chuyển hối phiếu qua ngân hàng phục vụ bên mua nhờ thu tiền từ người mua.
4- Ngân hàng phục vụ bên mua đòi tiền người mua hoặc yêu cầu ký chấp nhận hối phiếu
5 – Bên mua thanh toán tiền
6 - Chuyển tiền trả qua ngân hàng phục vụ bên bán
7 – Thanh toán tiền cho bên bán
Trong nhờ thu kèm chứng từ người bán uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn nhờ ngân hàng khống chế chứng từ hàng hoá đối với người mua. Đây là sự khác nhau cơ bản giữa nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Với cách khống chế theo bộ chứng từ này, quyền lợi của bên bán được đảm bảo hơn vì sự ràng buộc của việc thanh toán tiền và nhận hàng của người mua
Tuy nhiên trong phương thức thanh toán này vẫn còn nhiều mặt hạn chế:
- Người bán thông qua ngân hàng giữ bộ hồ sơ hàng hoá mới chỉ đảm bảo được quyền sở hữu hàng hoá của mình chứ chưa khống chế được việc trả tiền người mua.
- Người mua có thể kéo dài việc trả tiền bằng cách chưa nhận chứng từ hàng hoá (không cần nhận hàng), không thanh toán khi thị trường biến động bất lợi cho họ.
- Người bán tuy vẫn có quyền sở hữu hàng hoá, bán hàng cho người khác nếu người mua không thanh toán, song việc giải toả hàng gặp khó khăn và gặp rủi ro trong tiêu thụ hàng
- Ngân hàng chỉ đứng vị trí trung gian thu tiền hộ người bán không có trách nhiệm đến việc trả tiền của người mua.
PHỤ LỤC 3
HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Nói đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại nó riêng trong nền kinh tế thi trường là nói đến sự cạnh tranh khốc liệt với vô vàn nhưng rủi ro khó lường trước có thể đến với họ. Nền kinh tế thị trường là một trận địa đầy thách đố với hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Mỗi một ngành kinh doanh đều có những đạc điểm riêng có. Từ các đặc điểm này có thể hiện rõ hơn hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường.
1. Nét đặc thù (đặc điểm) trong hoạt động của ngân hàng thương mại
Thứ nhất: Về nguyên liệu kinh doanh trong ngân hàng thương mại
Tiền là “nguyên liệu” chính trong hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng thương mại. Khách hàng đến ngân hàng để gửi tiền vay tiền, thanh toán … các nghiệp vụ đó đều không thoát ly được đồng tiền. Trong khi đó, tiền là “nguyên liệu” được phổ cập đại chúng. Có thể nói rằng không có người nào trong cuộc sống của mình mà không dùng tới tiền. Cho nên, tiền được xã hội quan tâm. Đây chính là loại hàng hóa mang tính xã hội cao nhất trong các loại hàng hóa mà con người cần thiết dùng trong cuộc sống. Nếu các hàng hóa khác chỉ ảnh hưởng đến một bộ phận nào đó của xã hội thì ngược lại tiền có sức mạnh ảnh hưởng vô cùng sâu rộng đến các hoạt đồng của toàn xã hội. Nó không chỉ ảnh hưởng đến lĩnh vực kinh tế mà còn lan truyền đến các lĩnh vực khác như văn hóa , chính chị , xã hôi. Chỉ có biến động nhỏ có liên quan đến tiền như lãi suất , tỷ giá hay sự gia tăng giá trị đồng tiền … đều có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động kinh tế xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói riêng. Điều này thấy rõ nhất trong thực tiễn khi giá cả hàng hoá tăng lên có nghĩa là giá trị đồng tiền giảm xuống và ở mức độ lớn thường xảy ra cá hiện tượng số dư tiền gửi trong ngân hàng xuống do nhiều người rút tiền khỏi ngân hàng. Tính nhậy cảm của đồng tiền còn gây lên đột bến tâm lý xã hội như tin đồn thất thiệt về về kinh doanh tiền tệ như: khả năng phá giá đồng tiền, đổi tiền … đều gây ra những đột biến các hoạt động liên quan tới tiền, đăc biệt là hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ảnh hưởng của tiền tệ không chỉ giới hạn ở một vùng, một quốc gia nào đó. Ngày nay do nền kinh tế đã phát triển tới mức quốc tế hóa hoạt động kinh tế thì biến động tiền tệ ở một nước không chỉ ảnh hưởng đến nước đó, đến khu vục mà còn mở rộng ra phạm vi rộng lớn trên toàn thế giới. Ví dụ như cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997 xuất phát điểm từ Thái Lan, lan ra các nước toàn khu vực mà Việt Nam cũng không phải quốc gia tránh khỏi hậu quả của cuộc khủng hoảng này. Cuộc khủng hoảng còn lan rộng ra các thị trường tài chính khác như Hồng Kông, Nhật Bản, Nam Triều Tiên … Mà không phải dễ gì dập tắt dù cho các nước tập trung nhiều công sức với sự hỗ trợ hàng trăm tỷ đô la của quỹ tiền tệ Quốc tế IMF
Thứ hai: Về dịch vụ của ngân hàng
Nói đến hoạt động của các ngân hàng thương mại người ta nghĩ ngay đến nguồn tín dụng, nơi cung cấp phương tiện thanh toán. Những dịch vụ của ngân hàng đã được mở rộng ra rất nhiều từ việc tham gia mua cổ phiếu của các công ty cổ phần, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh địa ốc, tín dụng thuê mua, thông tin kinh tế , thông tin phòng ngừa rủi ro…Ở các ngân hàng tiên tiến trên thế giới các dịch vụ “mới” có thể đem lại hoạt đông kinh doanh của họ từ 60-70% lợi nhuận thu được hàng năm. Như vậy sản phẩm của các ngân hành thương mại ngày nay được hiểu là những dịch vụ mà ngân hàng có thể tạo ra để cung cấp theo nhu cầu của khách hành. Cần lưu ý vấn đề này như một phương tiện mở rộng hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Một điểm cần lưu ý: dịch vụ của ngân hàng rất dễ bị bắt chước. Nếu ngân hàng vừa tổ chức thực hiện một loại dịch vụ nào đó có hiệu quả thì rất nhanh các ngân hàng khác có thể thực hiện ngay dịch vụ đó nếu họ muốn.
Có nhiều dịch vụ của ngân hàng gắn chặt chẽ với các yếu tố thời gian. Chúng ta biết rằng với nhiều sản phẩm các ngành kinh doanh khác là “tiền trao cháo múc” có nghĩa thời gian không chỉ ảnh hưởng đến giá cả của sản phẩm (chỉ có một số là có sự phân biệt nhưng không coi là một yếu tố tăng giá). Nhưng trong nhiều dịch vụ chính của ngân hàng yếu tố thời gian chính là yếu tố thực hiện giá trị của dịch vụ. Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay tiền có nghĩa là ngân hàng đã bán quyền sử dụng số tiền vay đó cho doanh nghiệp nhưng không bán quyền sở hữu chúng (các sản phảm khác được bán cả quyền sở hữu và quyền sử dụng). Giá cả bản quyền sử dụng lại liên quan trực tiếp đến thời gian thực hiện dịch vụ, chính vì vậy yếu tố thời gian thực sự là yếu tố vật chất gắn liền với việc thực hiện giá trị dịch vụ của ngân hành.
Ở trên chúng ta đã biết dịch vụ của ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, với quá trình kinh doanh lâu năm, các dịch vụ của ngân hàng trên thường thường đã cũ cả về nội dung lẫn kỹ thuật nghiệp vụ. Khái niệm dịch vụ mới của ngân hàng tương đối khác so với ngành kinh tế khác .Dịch vụ mới không phải là dịch vụ trước đó chưa có ngân hàng nào có để cung cấp cho xa hội, mà dịch vụ mới của ngân hàng là dịch vụ mà ngân hàng có thể lựa chọn đưa ra thị trường trước các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ:dịch vụ chiết khấu kỳ phiếu, đây có thể coi là dịch vụ mới với hoạt động của các ngân hàng thương mại quốc doanh ở Viêt Nam, dù rằng dịch vụ này quá “cũ” đối với hoạt động của ngân hàng.
Thứ ba: Về khách hàng của ngân hàng
Hoạt động của ngân hàng nhiều khi bị nhầm lẫn như là một dịch vụ công cộng do hoạt động của ngân hàng thu hút được môt số lượng đông đảo khách hàng (như dịch vụ gủi tiền tiết kiệm, thanh toán…). Hoạt động công cộng này càng gia tăng hơn cùng với việc hiện đại hóa ngân hàng dẫn đến hầu như mọi người đều phải qua ngân hàng thực hiện việc gửi và rút tiền như tiền lương, tiền bảo hiểm xã hội, thanh toán các loại dịch vụ: diện, nước … đến thanh toán các khoản tiêu dùng thông qua tiền điền tử. Trong điều kiện đó, khối khách hàng của ngân hàng thương mại tăng lên vô vùng lớn.
Khách hàng của ngân hàng đông đảo cả khách hàng mua (tín dụng, thuê mua…) lẫn khách hàng bán (tiền gửi, thanh toán…). Do mỗi khác hàng có nhiều nhu cầu khác nhau cần được ngân hành phục vụ, nên rất nhiều khách hàng là hiện thực với dịch vụ nào đó của ngân hàng, một số lại là khách hàng tiền ẩn đối với dịch vụ khác của nó.
Thú tư: Về tiềm lực vốn của ngân hàng.
Vấn đề tiềm lực vốn, đặc biệt là vốn điều lệ của ngân hàng phải được đặt lên hàng đầu bởi các nguyên nhân sau:
- Tiềm lực vốn của các ngân hàng tạo ra tiềm lực dịch vụ trực tiếp.
Nguồn vốn của ngân hàng phần lớn là nguồn vốn đi vay để cho vay. Nhưng nguồn vốn huy động của ngân hàng không phải là vô hạn bởi lẽ việc huy động vốn của các ngân hàng bị giới hạn trực tiếp bởi tiềm lực vốn, điều này có quan hệ trực tiếp đến an toàn tiền gửi của dân cư. Chính vì vậy, nhà nước thông qua các quy định pháp luật để ấn định một mức vốn huy động nhất định theo số vốn tự có của ngân hàng. Rõ ràng tiền lực vốn càng lớn các ngân hàng càng có thể huy động được nhiều vốn và cho vay ra để thu lợi nhuận hơn
- Tiềm lực vốn tạo ra khách hàng .
Như trên đã nói tiềm lực vốn của ngân hàng càng lớn càng có điều kiện tạo ra nhiều dịch vụ trực tiếp. Có nhiều nguồn vốn là cơ sở để ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng đến với mình. Hơn thế tiềm lực vốn lớn các ngân hàng có điều kiện hiện đại hóa ngân hàng đó cũng là điều kiện mở rộng hoạt động của ngân hàng, thu hút đông đảo khách hàng đến với ngân hàng.
- Tiềm lực vốn tạo ra uy tín.
Trong thực tiễn đời sống xã hội, có câu nói: “Trông giỏ bỏ thóc” được thể hiện khá rõ nét qua hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Khách hàng thường nhìn vào ngân hàng lớn (cả vốn kinh doanh và cơ sở vật chất cố định) để đầu tư vốn hay thực hiện các quan hệ làm ăn với các ngân hàng, nhiều vốn ngân hàng thu hút được nhiều khác hàng, điều đó trở lại càng làm tăng thêm uy tín của ngân hàng. Như vậy, tiềm lực vốn của ngân hàng không những tạo ra dịch vụ trực tiếp cho ngân hàng, tạo ra khách hàng và cả uy tín cho nó hoạt động.
Thứ năm : Về môi trường kinh doanh của ngân hàng.
Nếu có thể gọi tên môi trường kinh doanh của đa số các doanh nghiệp nói chung là môi trường kinh doanh “mở” thì môi trường kinh doanh của ngân hàng là môi trường kinh doanh “đóng” , bởi vì việc kinh doanh trên lĩnh vực khác thông thường chỉ phụ thuộc vào pháp lý ở hai điểm: thuế, luật doanh nghiệp và một số quy dịnh khác về môi trường, bảo hiểm … Nhưng hoạt động của các ngân hàng ngoài các quy định đó ra còn có hàng loạt các qui phạm pháp luật qui định các giới hạn hoạt động của chúng. Từ mức độ vốn ban đầu đến khối lượng vốn được huy động, từ dịch vụ đến lãi suất, từ khối lượng tín dụng đến cơ cấu đầu tư … Gần như mọi hoạt động của ngân hàng đều có qui phạm riêng của pháp luật qui định. Cần phải nói rằng phần lớn các qui phạm này nhằm hạn chế hoạt động tự do của ngân hàng. Rõ ràng hoạt động kinh doanh của ngân hàng “hẹp” hơn nhiều so với hoạt động kinh doanh của các ngành kinh tế khác do môi trường kinh tế “đóng” tạo ra.
Ngoài ra, ngân hàng còn nằm trong hệ thống tài chính quốc gia chung. Do đó, nó còn bị điều tiết trong chiến lược tiền tệ chung của Nhà nước. Ngân hàng phải thực hiện các chính sách khác của Chính phủ, nhiều khi không được đặt lợi nhuận lên trên hết như các doanh nghiệp thông thường khác mà phải đặt lợi ích xã hội lên trên lợi ích của ngân hàng (điều này đặc biệt đúng với các ngân hàng thương mại nhà nước)
Thứ sáu: Về nghiệp vụ và kỹ thuật nghiệp vụ
So với các ngành kinh tế khác thì ngành ngân hàng có nghiệp vụ khá bảo thủ. Từ vài trăm năm nay các nghiệp vụ ngân hàng gần như không thay đổi. Vẫn là nghiệp vụ cho vay, thu nợ trong hoạt động tín dụng. Với séc, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng trong thanh toán …. Nhưng ngược lại, về kỹ thuật nghiệp vụ hay còn gọi là công nghệ của ngân hàng lại luôn là vấn đề thời sự nóng bỏng trong sự mong muốn vươn lên của các ngân hàng thương mại. Thậm chí việc hiện đại hoá ngân hàng được xem như là điều sống còn của các ngân hàng thương mại trong quá trình tồn tại và phát triển. Điều đó làm cho các ngân hàng phải có chiến lược lâu dài trong việc hiện đại hoá công nghệ ngân hàng bởi hai lý do:
Công nghệ thường xuyên thay đổi. Có nhiều kỹ thuật mới có thể ứng dụng cùng một lúc.
Việc thay đổi công nghệ ngân hàng thường khá tốn kém nhiều khi vượt quá khả năng tài chính hiện có của mỗi ngân hàng thương mại.
Cho nên việc đưa công nghệ mới vào hoạt động ở các ngân hàng thương mại phải được xem xét trong một định hướng xuyên suốt, trong quá trình lâu dài, tránh tình trạng tuổi thọ của công nghệ được phát huy tác dụng ngắn, công nghệ áp dụng chưa thực sự tiên tiến và việc đổi mới công nghệ chưa thực sự phù hợp với khả năng tài chính của ngân hàng.
Việc nghiên cứu các đặc điểm của hoạt động ngân hàng cho phép chúng ta có cơ sở phân tích các vấn đề liên quan đến các hoạt động của chúng mà trước hết là các yếu tố liên quan đến khả năng cạnh tranh cũng như rủi ro của ngân hàng.
2. Cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
Về cảm quan bên ngoài hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại khá bình lặng, không thấy có sự cạnh tranh trực tiếp như các hoạt động kinh doanh của các ngành kinh tế khác. Nhiều người lầm tưởng hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại rất dễ chịu. Chỉ việc treo biển huy động vốn và lãi suất được thị trường ấn định là có thể hoạt động ngân hàng. Nhưng trong thực tế, đằng sau sự phẳng lặng đó là những đợt sóng ngầm có thể nhấn chìm ngay tức khắc các ngân hàng một khi họ không nhạy cảm hoặc không có những đối sách có hiệu quả trong môi trường cạnh tranh quyết liệt đó. Nếu như cạnh tranh của các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế thị trường mà những quy luật vận động của nó được mọi người biết đến như là lẽ đương nhiên của hoạt động trên thương trường thì kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng tính cạnh tranh còn được nhân lên gấp bội. Dưới đây là một số nhân tố làm tăng thêm tính cạnh tranh của các ngân hàng thương mại.
Sự cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh được chi phối bởi các đặc điểm hoạt động của các ngân hàng thương mại đã được nêu ở trên. Chúng ta biết rằng: “nguyên liệu” của hoạt động kinh doanh của ngân hàng là tiền. Đó là loại nguyên liệu có tín xã hội hoá cao và tính nhạy cảm cao, chỉ một biến động nhỏ của nó cũng có những ảnh hưởng cô cùng to lớn đến hoạt động của toàn xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nói riêng. Từ đặc điểm này, chúng ta thấy sự cạnh tranh giữa các ngân hàng càng trở lên quyết liệt. Ở các ngành kinh tế khác, nếu cùng kinh doanh một loại sản phẩm như nhau, giá cả của sản phẩm thuộc doanh nghiệp đang được xã hội thừa nhận ở một mức nào đó đang được tiêu thụ mạnh. Nếu như doanh nghiệp khác muốn cạnh tranh bằng cách hạ thấp giá bán với doanh nghiệp đó thì biệc hạ giá này đương nhiên có ảnh hưởng đến mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, nhưng không phải ngay lập tức mà trong một thời gian nhất định để xã hội kiểm chứng trước hết về mặt chất lượng sau đó mới là quá trình thâm nhập dẫn đến thay thế sản phẩm của doanh nghiệp đã được xã hội thừa nhận trước đó. Nhưng trong hoạt động của ngân hàng thương mại, chỉ cần có một chút thay đổi về lãi suất là khách hàng có thể lập tức thay đổi quan hệ giữa ngân hàng này chuyển qua ngân hàng khác.
Nếu “nguyên liệu” của ngân hàng làm tăng tính cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì đặc điểm về dịch vụ của nó cũng làm cho tính cạnh tranh giữa các ngân hàng càng được thể hiện rõ nét hơn. Nếu các ngành kinh tế khác nói chung tạo ra được một sản phẩm mà xã hội thừa nhận đương nhiên họ có một khoảng thời gian tương đối dài để khai thác nó tạo ra một khoản lợi nhuận cho mình. Ngược lại, hoạt động của ngân hàng không được như vậy, nếu có một ngân hàng thương mại nào đó tạo ra được một dịch vụ được xã hội ưa chuộng, thì gần như ngay lập tức trong một khoảng thời gian rất ngắn các ngân hàng khác có thể thực hiện dịch vụ đó làm phân tán mức độ ưa chuộng của xã hội đối với dịch vụ, đồng thời với quá trình đó là việc làm phân tán lợi nhuận ngân hàng. Sự cạnh tranh này khá phổ biến và xảy ra thường xuyên giữa các ngân hàng thương mại do đặc điểm: dịch vụ của ngân hàng rất dễ bị bắt chước tạo nên.
Rõ ràng là tính nhạy cảm của “nguyên liệu”, tính dễ bắt chước của dịch vụ ngân hàng đã thúc đẩy mạnh mẽ hơn sự cạnh tranh của các hoạt động ngân hàng.
Nếu coi đặc điểm trên tạo nên tính cạnh tranh cao của ngân hàng có thể được coi là các yếu tố bên ngoài thì đặc điểm về môi trường kinh doanh và công nghệ của ngân hàng có thể được coi là những đặc điểm mang tính nội tại làm tăng thêm mức độ cạnh tranh của ngân hàng. Chúng ta biết rằng ngân hàng kinh doanh trong môi trường kinh tế “đóng”. Nó bị hạn chế nhiều so với các ngành kinh doanh khác. Nhiều ngân hàng phải nản lòng trước những quy định chặt chẽ của khuôn khổ pháp luật. Nếu các ngành kinh doanh khác được kinh doanh khá thoải mái bởi hành lang hoạt động động tương đối rộng, trong khi đó hoạt động của ngân hàng bị giới hạn đến mức nế ngân hàng không khéo xoay sở thì sẽ rất khó thực hiện công việc kinh doanh của mình. Trong một không gian “hẹp” đó các ngân hàng cùng phải hoạt động, vươn lên để tồn tại và phát triển thì sự cạnh tranh càng mang tính sống còn.
Công nghệ ngân hàng hiện đại đòi hỏi phải được đặt lên hàng đầu trong sự cạnh tranh khốc liệt trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nhưng nó còn căng thẳng hơn khi biết rằng việc đổi mới công nghệ đòi hởi một lượng vốn lớn, đầu tư cho nó. Việc thúc đẩy của xã hội với việc đổi mới kỹ thuật nghiệp vụ của ngân hàng trong một khả năng tài chính căng thẳng càng làm cho sự cạnh tranh trong kinh doanh của các ngân hàng được nhân lên gấp bội.
3. Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại
Rủi ro trong kinh doanh tồn tại trong mọi lĩnh vực kinh doanh. Tuy nhiên, rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngành ngân hàng có nhiều điểm khác biệt với các ngành kinh doanh khác cả về nguyên nhân cũng như về mức độ.
Rủi ro trong kinh doanh được hiểu là những thiệt hại trong kinh doanh có thể nằm ngoài khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Từ những khái niệm trên, chúng ta cần lưu ý một số điểm sau:
Thứ nhất: Không được coi tất cả các thiệt hại trong kinh doanh là rủi ro trong kinh doanh. Chỉ có những thiệt hại nằm ngoài khả năng kiểm soát trong quá trình kinh doanh mới có thể được coi là rủi ro trong kinh doanh. Có nhiều người trong thực tiễn rất hay đánh đồng khái niệm này với khái niệm thất thoát trong kinh doanh. Cần nhớ rằng hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau nhưng có thể cộng hai khái niệm này thành khái niệm về thiệt hại trong kinh doanh có nghĩa là:
Thiệt hại trong kinh doanh = Rủi ro trong kinh doanh + Thất thoát trong kinh doanh
Thứ hai: Mức độ rủi ro phụ thuộc vào trình độ quản lý thực có của đơn vị. Không thể coi rủi ro là những hoạt động bất khả kháng, coi rủi ro là điều không thể tránh khỏi và để nó tự vận động. Cũng có nghĩa là rủi ro không năm ngoài khae năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh. Rủi ro có thể hạn chế khi tăng cường khả năng kiểm soát của đơn vị kinh doanh mà điều này phụ thuộc vào khả năng quản lý của đơn vị.
Thứ ba: Rủi ro có nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, có rủi ro bất khả kháng và rủi ro tự nhiên, nhưng là loại rủi ro nào đều có khả năng phòng ngừa, tuy phương pháp có thể khác nhau.
Ngoài các rủi ro giong như các ngành kinh doanh khác gặp phải như: Thiên tai, địch hoạ, mất mát, nhần lẫn … Do đặc điểm riêng có của mình ngân hàng còn gặp những rủi ro sau:
Rủi ro về hoạt động kinh doanh tín dụng:
Nghiệp vụ tín dụng là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng, nó thường chiếm phần lớn trong các hoạt động kinh doanh của ngân hàng cả về khối lượng công việc cũng như về mức độ tạo doanh lợi. Tỷ lệ thuận với nó là mức độ thuận rủi ro trong nghiệp vụ thường chiếm phần lớn trong tổng mức rủi ro hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì các lý do sau:
1- Ngoài các rủi ro như các ngành kinh tế khác. Ngân hàng còn bị rủi ro ngay cả khi đơn vị kinh tế có quan hệ tín dụng với ngân hàng bị rủi ro dẫn đến làm ăn thua lỗ và không có khẳ năng trả nợ vốn vay cho ngân hàng. Như vậy, ngân hàng đã gặp rủi ro ngay cả khi khách hàng của mình bị rủi ro. Rõ ràng khả năng gặp rủi ro của ngân hàng đã được nhân lên gấp bội
2- Khi đầu tư tín dụng (cho vay) có nghĩa là ngân hàng đã trao quyền sử dụng tiền cho khách hàng mà khả năng kiểm soát quá trình sử dụng tiền của ngân hàng là rất khó khăn bởi tính phức tạp của việc sử dụng tiền vay. Lúc này hoạt động của ngân hàng như “đem con bỏ chợ”. Tiền trong “túi” mình mà có thể gặp rủi ro nữa là nó đã ra khỏi tay mịnh. Sự kiểm soát của ngân hàng chỉ có giới hạn nên yếu tố rủi ro luôn thường trực đối với nghiệp vụ này.
3- Tiền là sản phẩm của ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng nhưng nó lại là mục đích của người vay khi đến ngân hàng vay vốn. Một số doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn khi vay được vốn là đã thực hiện được mục tiêu của mình, họ không những chỉ muốn sở hữu quyền sử dụng đồng tiền của ngân hàng giao cho mà còn muốn chiếm đoạt luôn quyền sở hữu chúng. Với loại doanh nghiệp này rủi ro phát sinh ngay từ khi ngân hàng bắt đàu thực hiện nghiệp vụ tín dụng đối với họ.
Rủi ro về lãi suất
Rủi ro về lãi suất là loại rủi ro mang tính xã hội. Không chỉ có ngân hàng mới gặp rủi ro này. Lãi suất trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng được xem như là laoij giá cae của hàng hoá - tiền. Cũng như mọi loại hàng hoá khác loại rủi ro về giá cả lên xuống bất thường trong việc kinh doanh theo cơ chế thị trường là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, rủi ro về lãi suất – giá cả trong hoạt động kinh doanh ngân hàng lại có nguy cơ sâu sắc hơn cả về mức độ và khả năng phòng ngừa bởi các nguyên nhân sau:
1- Do đặc điểm của hoạt động kinh doanh ngân hàng lấy tiền làm “nguyên liệu” chính và tiền cũng là sản phẩm chính của ngân hàng. TIền tệ là loại hàng hoá mang tính xã hội hoá rất cao – mà giá cả của hàng hoá tiền tệ của ngân hàng được thể hiện qua lãi suất. Nếu đồng tiền mất giá thông thường lãi suất ngân hàng cả vốn huy động và cho vay ra đều được ấn định ở mức cao và khi nền kinh tế ổn định hay nói cách khác là đồng tiền ổn định thì lãi suất được ấn định ở mức thấp. Chính yếu tố xã hội hoá cao của loại “nguyên liệu” - tiền của ngân hàng làm tăng mức độ rủi ro của ngân hàng vì rất khó kiểm soát được biến động lãi suất của dịch vụ ngân hàng.
2- Với các sản phẩm của ngành kinh doanh khác, việc tìm ra quy luật về biến phải lúc nào cũng tìm ra được quy luật biên sdodongj giá cả của dịch vụ ngân động giá cả của hàng hoá tương đối dễ. Còn trong lĩnh vực ngân hàng không hàng. Điều này làm cho rất khó quyết định mức giá phù hợp với hoạt động kinh doanh.
3- Thông thường các ngành kinh tế có thời gian thực hiện sản phẩm tương đối ngắn nên yếu tố biến động giá có thể điều chỉnh được ngay. Với dịch vụ của ngân hàng thì thời gian thực hiện thường là rất dài. Việc ấn định giá lại được thực hiện ngay từ đầu quá trình thực hiện dịch vụ đó. Do thời gian thực hiện dịch vụ ngân hàng kéo dài nên trong thời gian đó việc biến động giá là điều rất dễ xảy ra và nguy cơ về rủi ro cũng được nhân lên cùng với thời gian thực hiện dịch vụ.
Rủi ro tỷ giá
Giống như rủi ro lãi suất, rủi ro về tỷ giá cũng thuộc loại rủi ro mang tính xã hội hoá cao. Thậm chí còn cao hơn cả rủi ro về lãi suất thường mang tính “nội bộ” trong nước. Rủi ro về tỷ giá có nguyên nhân trong phạm vi rộng hơn, mức độ ảnh hưởng lớn hơn.
Ngày nay không ai phủ nhận quan hệ quốc tế trong hoạt động kinh tế. Việc sử dụng đồng tiền nước ngoài trong quan hệ thanh toán quốc tế đã trở thành phổ biến, rộng khắp. Chính nguyên nhân kinh tế đã làm thay đổi giá trị đồng tiền của mỗi nước và là nguyên nhân chính dẫn đến tỷ giá giữa các đồng tiền bị thay dổi. Đặc biệt các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu bị ảnh hưởng trước sau đó mới lan truyền sang các ngành kinh tế khác. Trên hết là sự ảnh hưởng của tỷ giá tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng, vì ngân hàng là trung tâm thanh toán của toàn xã hội. Với một đơn vị kinh doanh bị rủi ro về tỷ giá đã là rất lớn trong khi ngân hàng thực hiện thanh toán cho rất nhiều đơn vị. Do vậy, mức độ rủi ro của ngân hàng cao hơn rất nhiều. Ngoài rủi ro về tỷ giá trong thanh toán ngân hàng còn chịu rủi ro về tỷ giá do một lượng vốn lớn của ngân hàng được dự trữ hoặc cho vay bằng ngoại tệ.
Rõ ràng rủi ro về tỷ giá là rất lớn, khó lường và hậu quả cũng là rất lớn. Muốn hạn chế loại rủi ro này không có cách nào khác là phải mở rộng tàm hiểu biết trong kinh doanh quốc tế, phân tích chính xác, nhanh nhạy các biến động trên thị trường tài chính quốc tế để có khả năng nhận rõ được xu hướng vận động của tỷ giá mới có khả năng hạn chế được loại rủi ro này.
Rủi ro về thừa, thiếu vốn thanh toán trong kinh doanh:
Rủi ro do thừa vốn thanh toán
Đối với các ngành kinh doanh khác thì việc thừa vốn thật dễ chịu, vốn của các doanh nghiệp thường là vốn tự có hoặc vốn vay. Nếu thừa vốn tự có thì chuyển qua tích luỹ vì đó là vốn của bản thân chủ sở hữu doanh nghiệp. Nếu thừa vốn mà doanh nghiệp đang vay thì đem trả cho người cho vay. Vấn đề rủi ro do thừa vốn đối với các doanh nghiệp ngoài ngân hàng thường khó xảy ra. Đối với các ngân hàng, vốn của ngân hàng chủ yếu là vốn đi vay để cho vay, việc huy động vốn nhiều mới tạo ra được quỹ cho vay lớn. Nếu ngân hàng không cho vay ra được thì tồn quỹ nghiệp vụ tăng lên, trong khi ngân hàng vẫn phải trả tiền gửi của khách hàng cả số tiền ở quỹ nghiệp vụ không cho vay ra được, dẫn đến thiệt hại trong kinh doanh. Rõ ràng rủi ro loại này có nguyên nhan chủ quan của ngân hàng trong biệc kế hoạch hoá hoạt động kinh doanh của mình. Xử lý vấn đề này không còn cách nào khác là phải tăng cường công tác kế hoạch hoá của ngân hàng. Phối kết hợp tốt giữa khâu huy động vốn và sử dụng vốn luôn đảm bảo cân đối mới mong hạn chế được loại rủi ro này.
Rủi ro do thiếu vốn thanh toán
Thừa vốn gây khó khăn cho ngân hàng thì việc thiếu vốn còn tệ hại hơn nhiều. Rủi ro thiếu vốn không thể lường hết mức độ do nó gây ra. Bởi vì, vốn của ngân hàng phần lớn là vốn huy động (vay) của xã hội để cho vay ra. Nếu thiếu vốn trong thanh toán, ngân hàng không thể thanh toán cho khách hàng khi họ có nhu cầu rút tiền. Nếu với các ngành kinh tế khác thì việc thanh toán chỉ là một phần vốn của đơn vị không khó khăn lắm trong việc khất nợ khách hàng (cho dù không nên kéo dài và thường xuyên). Nhưng với hoạt động ngân hàng, khi một khách hàng bị khất nợ sẽ kéo theo hàng loạt các khách hàng khác đổ xô đến ngân hàng để rút tiền. Điều gì sẽ xảy ra khi đó, khả năng cao nhất có thể xảy ra là tuyên bố mất khả năng thanh toán và phá sản. Như vậy, loại rủi ro này rất nguy hiểm, khó lường hết được hậu quả. Loại rủi ro này còn nguy hiểm hơn loại rủi ro bất khả kháng do thiên tai địch hoạ bởi lẽ các rủi ro đó ngân hàng còn có khả năng phục hồi còn với rủi ro thừa hoặc thiếu vốn trong thanh toán thì khả năng xấu nhất có thể xảy ra đối với doanh nghiệp.
Đó là những khó khăn mà ngành ngân hàng phải tìm cách vượt qua. Phát triển bền vững, nâng cao uy tín của ngân hàng là hướng phát triển tất yếu để có thể tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7352.doc