Lời nói đầu
Trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ 20, loài người đã được chứng kiến những bước phát triển mang tính đột phá của nhiều nghành khoa học và công nghệ, trong đó có công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Cách đây hơn 10 năm, mạng Internet còn là một lĩnh vực bí ẩn của riêng các nhà vật lý thì nay nó đã trở thành cuốn bách khoa toàn thư bình thường của hàng triệu học sinh trên toàn thế giới. Các nhà khoa học và kinh tế đều khẳng định rằng, sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
99 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phát hành & thanh toán thẻ tại Vietcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mạnh thông tin được đánh dấu bằng sự ra đời của mạng internet, các phương tiện khác như Email, máy vi tính các thế hệ, tạp chí điện tử, là một bước tiến đáng kể, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của con người, nâng cao đáng kể năng suất lao động, làm cho thế giới ngày càng hẹp lại, chất lượng và tốc độ truyền tin ngày càng nhanh. Chính những phát triển đó đã góp phần tạo nên một nền kinh tế toàn cầu hóa, nền kinh tế mạng và nền kinh tế tri thức.
Đương nhiên, thừa hưởng thành tựu của công nghệ hiện đại và khoa học ngân hàng, thẻ thanh toán, một loại thanh toán an toàn, nhanh chóng, tiện lợi, gọn nhẹ mà không phải dùng tiền mặt đã ra đời, từng bước thay thế cho một số kiểu thanh toán cũ lỗi thời, không còn thích hợp ở những lúc và nơi có thể. Cùng với thời gian, các loại thẻ cứ lần lượt ra đời và được đưa vào sử dụng với quy mô ngày càng lớn, đặc biệt là trong hệ thống thanh toán toàn cầu trong mấy thập kỷ qua. Thậm chí ở nhiều nước những loại thẻ này không còn là phương tiện thanh toán độc tôn của ngân hàng mà nó đã trở thành phổ biến, quen thuộc với cả nhiều dân thường.
Là con chim đầu đàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giao dịch thanh toán quốc tế, được phép của Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã bắt đầu thực hiện chế độ thanh toán thẻ tín dụng quốc tế tù năm 1990. Không dừng ở đó, hơn 10 năm qua, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn phát hành thẻ tại Việt Nam.
Là người đi sau và còn ít kinh nghiệm, trong hơn 10 năm thực hiện chế độ thanh toán thẻ, Ngân hàng Ngoại thương không tránh khỏi những bỡ ngỡ, vấp váp, thậm chí cả thăng trầm. Ví như cơn bão tài chính tiền tệ Châu á năm 1997 đã làm giảm đáng kể doanh số thanh toán thẻ. Từ những vấp váp và thăng trầm ấy, điều cần thiết có ý nghĩa sống còn là tìm ra cho được những giải pháp thích ứng có hiệu quả để lấy lại được thế cân bằng, khôi phục và phát triển hình thức thanh toán này trong thời gian tới.
Với nhận thức đó, tôi mạnh dạn nghiên cứu qua tài liệu và thực tế hoạt động của Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian qua để đưa ra một số giải pháp trong chuyên đề tốt nghiệp của mình với tựa đề “Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam”. Khoá luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về thẻ thanh toán
Chương II: Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ chỉ bảo và hỗ trợ nhiệt tình , sự động viên khích lệ của những người thân gia đình, của các thầy cô, của các bộ Ngân hàng Ngoại thương.
Nhân dịp này , tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị Thu Thảo về sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình và có hiệu quả trong quá trình nghiên cứu, viết và hiệu chỉnh chuyên đề tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn cô Nguyễn Thị Tâm, Phó tổng Giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt nam, chú Hà Văn Hiểu- Trưởng phòng quản lý thẻ và các cán bộ khác của Ngân hàng Ngoại thương Việt nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong qua trình thực tập, nghiên cứu, cung cấp cho tôi tài liệu, số liệu và những thông tin cần thiết khác.
Hà Nội, ngày 27, tháng 4, năm 2003.
CHƯƠNG I
Lí LUậN CHUNG Về THẻ THANH TOáN
I.tổng quan về thẻ thanh toán
lịch sử ra đời và phát triển của thẻ thanh toán
Thẻ thanh toán là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt hiện đại và hữu ích. Thẻ ra đời vào năm 1949 do ông Frank Mc Namara, một doanh nhân người Mỹ sáng chế. Có một lần sau khi dùng bữa tối tại một nhà hàng, ông bỗng phát hiện ra mình không mang theo tiền mặt. Ông phải gọi điện cho vợ nhanh chóng mang tiền đến thanh toán. Tình trạng khó xử này đã khiến ông mày mò chế tạo một phương tiện chi trả tiền mặt trong những trường hợp tương tự như thế. Thế là lần đầu tiên Mc Namara cho ra đời loại thẻ mang tên “Diners Club”.
Theo chân “Diners Club”, hàng loạt thẻ mới ra đời như Trip Charge, Golden Key, Gourmet Club, Espire Club và đến năm 1995, Carte Blanche và American Express ra đời (1958) và thống lĩnh thị trường. Lúc đầu phần lớn thẻ chỉ dùng cho giới doanh nhân nhưng các ngân hàng đã thấy rằng giới bình dân mới là đối tượng sử dụng chủ yếu trong tương lai. Với sự thay đổi chiến lược khách hàng của mình, các ngân hàng nhanh chóng thâm nhập vào thị trường thẻ và coi đây là thị trường đầy tiềm năng.
Ngân hàng Mỹ quốc là nơi đầu tiên phát hành thẻ Bank Americard mà ngày nay là Visa Card. Năm 1966, Bank Americard bắt đầu liên kết với các liên bang khác để phát triển mạng lưới thẻ này.
Trong khi thẻ Bank Americard đang thành công rực rỡ thì các tổ chức phát hành thẻ khác cũng đang tìm kiếm khả năng cạnh tranh với loại thẻ này. năm 1966, một hiệp hội ngân hàng mới, trong đó gồm 14 ngân hàng của Mỹ đã xây dựng một hệ thống giao dịch tự động nối mạng trong thanh toán thẻ tín dụng. Ngay sau đó, năm 1967, có bốn ngân hàng bang Califonia có hiệp hội thẻ mang tên Wessten States Bank Card Association đã liên kết với hiệp hội ngân hàng Interbank phát hành thẻ Master Charge mà ngày nay có tên là Master Card. Năm 1979, tổ chức thẻ quốc tế Master Card được thành lập. Hiện nay hiệp hội có tới 29000 thành viên.
Bên cạnh Visa Card và Master Card, thẻ American Express (Amex) và JCB của Nhật Bản cũng vươn lên mạnh mẽ. Doanh thu của các loại thẻ này cũng lên tới hàng trăm tỷ USD với hàng chục triệu thẻ lưu hành.
Với sự phát triển của thẻ thanh toán, các hiệp hội đang cạnh tranh nhau quyết liệt nhằm dành phần lớn thị trường cho mình. Sự cạnh tranh này tạo điều kiện cho thẻ thanh toán có cơ hội phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu.
1.2. Khái niệm, đặc điểm cấu tạo và phân loại thẻ:
1.2.1 Khái niệm và đặc điểm cấu tạo của thẻ
Thẻ thanh toán là một phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt được cung cấp bởi ngân hàng hoặc các công ty lớn. Thẻ được dùng để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ mà không dùng tiền mặt. Thẻ cũng được dùng để rút tiền mặt tại các ngân hàng đại lý hoặc các máy rút tiền tự động. Số tiền thanh toán hay rút ra phải nằm trong phạm vi số dư trong tài khoản tiền gửi hoặc hạn mức tín dụng ngân hàng cho phép.
Kể từ khi ra đời, cấu tạo của thẻ luôn được cải tiến để phù hợp và thuận lợi cho việc sử dụng, thanh toán thẻ. Thẻ được chế tạo dựa trên những thành tựu to lớn của công nghệ thông tin điện tử. Thẻ được làm bằng nhựa cứng, hình chữ nhật với kích thước 9,6 cm x 5,4 cm x 0,076 cm. Mặt trước của thẻ có in huy hiệu là tên của tổ chức phát hành thẻ (Ví dụ: Viêtcombank), số thẻ, ngày hiệu lực của thẻ, họ và tên, ảnh của chủ thẻ, số mật mã của ngày phát hành, ngoài ra còn một đặc điểm không thể thiếu, đó là biểu tượng riêng của tổ chức thẻ quốc tế (Ví dụ: Tổ chức thẻ Master Card có biểu tượng là hai hình tròn giao nhau nằm ở góc dưới bên phải của thẻ. Hình tròn bên phải màu vàng cam, bên trái là màu đỏ, có chữ Master Card màu trắng chạy ngang giữa. Phía bên trên hai hình tròn này là hai nửa hình tròn giao nhau in chìm). Riêng số thẻ, ngày hiệu lực và tên số thẻ được in nổi, Mặt sau của thẻ là một dải băng từ có khả năng lưu giữ thông tin cần thiết. Phía dưới băng từ là dải ô chữ ký của chủ thẻ.
Trên thế giới hiện nay, có nhiều loại thẻ do các tổ chức khác nhau phát hành nhưng dù là loại thẻ nào thì về cơ bản cũng có đặc điểm nêu trên nhằm đảm bảo an toàn và thuận tiện cho các bên tham gia.
1.2.2 Phân loại thẻ
Phân loại theo công nghệ
Thẻ khắc chữ nổi: Đây là loại thẻ được làm dựa trên kỹ thuật khắc chữ nổi. Đó cũng là loại thẻ đầu tiên được sản xuất theo công nghệ tiên tiến này. Trên bề mặt thẻ những thông tin cần thiết được khắc nổi. Hiện nay người ta không dùng loại thẻ này nữa vì kỹ thuật sản xuất qua thô sơ, dễ bị làm giả.
Thẻ băng từ: Thẻ này được sản xuất dựa trên kỹ thuật thư tín với hai băng từ chứa thông tin ở mặt sau của thẻ. Thẻ loại này được sử dụng phổ biến trong vòng 20 năm trở lại đây nhưng đã bộc lộ một số điểm yếu: dễ bị lợi dụng do thông tin ghi trong thẻ không tự mã hoá được, có thể đọc thẻ dễ dàng nhờ thiết bị đọc gắn với máy vi tính; thẻ chỉ mang thông tin cố định; khu vực chứa tin hẹp, không áp dụng các kỹ thuật đảm baỏ an toàn.
Thẻ thông minh (Smart Card): Đây là thế hệ mới nhất của thẻ thanh toán. Thẻ thông minh được sản xuất dựa trên kỹ thuật vi xử lý tin học, nhờ gắn vào thẻ một chíp điện tử mà thẻ có cấu tạo giống như một máy tính hoàn hảo. Thẻ thông minh có nhiều nhóm với dung lượng nhớ khác nhau.
Hiện nay, thẻ thông minh đuợc sử dụng rất phổ biến trên thế giới vì có ưu điểm về mặt kỹ thuật độ an toàn cao, khó làm giả được, ngoài ra còn làm cho quá trình thanh toán thuận tiện, an toàn và nhanh chóng hơn.
Phân loại theo chủ thể phát hành
Thẻ do ngân hàng phát hành: Đây là loại thẻ do ngân hàng cung cấp cho khách hàng, giúp khách hàng sử dụng linh hoạt tài khoản của mình hoặc sử dụng số tiền do ngân hàng cấp tín dụng.
Thẻ này được phát triển rộng không chỉ trong phạm vi một quốc gia mà đã phát triển trên phạm vi toàn thế giới.
Thẻ do các tổ chức phi ngân hàng phát hành: Đây là thẻ du lịch, giải trí cho các tập đoàn kinh doanh lớn như Diners Club, Amex. Thẻ cũng được sử dụng trên phạm vi toàn cầu với các quy trình thanh toán không khác nhiều so với thẻ do ngân hàng phát hành.
Phân loại theo tính chất thanh toán của thẻ
Thẻ tín dụng: Đây là loại thẻ được sử dụng phổ biến hiện nay. Chủ thẻ được sử dụng một hạn mức tín dụng tuần hoàn không phải trả lãi để mua hàng hoá và dịch vụ. Cuối tháng, khách hàng sẽ nhận được một báng sao kê (sao kê là một bảng kê chi tiết các khoản chi tiêu và trả nợ của chủ thẻ cùng lãi và phí phát sinh trong một chu kỳ sử dụng thẻ. Sao kê được gửi cho chủ thẻ hàng tháng ngay sau ngày lập bảng sao kê) do ngân hàng gửi tới. Nếu khách hàng thanh toán được hết số tiền nợ thì sẽ không phải trả lãi. Còn nếu trả được một phần (hiện nay quy định thấp nhất là 20% số tiền nợ) thì chủ thẻ phải trả lãi, trả phí hoặc bị phạt theo quy định của ngân hàng trong từng thời kỳ.
Thẻ ghi nợ: Loại thẻ này có quan hệ trực tiếp và gắn liền với tài khoản tiền gửi hoặc tài khoản séc. Khi mua hàng hoá, dịch vụ, giá trị giao dịch sẽ được khấu trừ ngay lập tức vào tài khoản của chủ thẻ thông qua các thiết bị điện tử đặt tại nơi tiếp nhận thẻ.
Thẻ rút tiền mặt tự động: (Thẻ ATM) : Là loại thẻ ghi nợ cho phép chủ thẻ sử dụng thẻ để rút tiền mặt từ tài khoản của chủ thẻ tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc sử dụng các dịch vụ khác mà máy ATM cung ứng.
Phân loại theo phạm vi lãnh thổ:
Thẻ trong nước: Là lợi thẻ được sử dụng trong phạm vi một quốc gia, do vậy đồng tiền giao dịch là đồng bản tệ. Thẻ cũng có các đặc điểm như các loại thẻ khác, song điểm khác chủ yếu là phạm vi sử dụng.
Thẻ quốc tế: Là loại thẻ được chấp nhận thanh toán trên toàn cầu, sử dụng ngoại tệ mạnh để thanh toán. Thr này được khách hàng ưa chuộng do tính thuận lợi, an toàn. Các ngân hàng cũng có được lợi ích đáng kể với loại thẻ này như nhận được nhiều sự giúp đỡ trong nghiên cứu thị trường, chi phí xây dựng cơ sở chấp nhận thẻ thấp hơn so với tự hoạt động...
Như vậy, mặc dù có nhiều cách phân loại thẻ khác nhau nhưng các loại thẻ trên đều có đặc điểm chung là dùng để thanh toán hàng hóa và rút tiền mặt. Do vây, một cách tổng quát người ta gọi là thẻ thanh toán.
1.3 Quy trình phát hành và thanh toán thẻ
1.3.1 Một số khái niệm về các chủ thể tham gia vào công tác phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ
Ngân hàng phát hành (NHPH): là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ quốc tế, là ngân hàng tiến hành các thủ tục để in thẻ cho khách hàng. Ngân hàng phát hành có trách nhiệm: xem xét việc phát hành thẻ, hướng dẫn chủ thẻ sử dụng và thực hiện các quy định cần thiết khi sử dụng thẻ, thanh toán số tiền trên hoá đơn do ngân hàng đại lý chuyển đến, cấp phép cho các thương vụ vượt hạn mức. Từng định kỳ, ngân hàng phát hành phải lập sao kê ghi rõ và đầy đủ các giao dịch phát sinh và yêu cầu thanh toán đối với chủ thẻ tín dụng hoặc khấu trừ trục tiếp vào tài khoản của chủ thẻ đối với thẻ ghi nợ.
Chủ thẻ: là người có tên ghi trên thẻ, được dùng thẻ để thanh toán hàng hoá, dịch vụ thay tiền mặt. Do vậy không áp dụng chế độ uỷ quyền sử dụng thẻ cho người thứ hai. Chỉ có chủ thẻ mới có quyền sử dụng thẻ. Mỗi khi thanh tóan cho cơ sở chấp nhận thẻ, chủ thẻ xuất trình thẻ để cơ sở kiểm tra theo quy định và lập biên lai thanh toán. Ngoài ra chủ thẻ có thể sử dụng thẻ để rút tiền mặt tại các máy rút tiền tự động hoặc tại các ngân hàng đại lý.
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT): là đơn vị bán hàng hóa, dịch vụ có ký kết với ngân hàng thanh toán về việc chấp nhận thanh toán thẻ như: cửa hàng, khách sạn, nhà hàng...Thông thừờng các đơn vị này được ngân hàng trang bị máy móc kỹ thuật để chấp nhận thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ bằng thẻ.
Ngân hàng thanh toán (NHTT): là ngân hàng trực tiếp ký hợp đồng với ĐVCNT và thanh toán các chứng từ giao dịch do ĐVCNT xuất trình. Đối với thẻ Visa Card và Master Card thì ngân hàng thanh toán phải là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế đó. Một ngân hàng vừa có thể đóng vai trò là ngân hàng thanh toán vừa đóng vai trò là ngân hàng phát hành.
Tổ chức thẻ quốc tế: là tổ chức cho phép ngân hàng phát hành thẻ và làm trung tâm xử lý, cấp phép, thông tin giao dịch, thanh toán của các ngân hàng thành viên trên toàn thế giới. Mỗi tổ chức thẻ quốc tế đều có tên trên sản phẩm của mình. Khác với ngân hàng thành viên, tổ chức thẻ quốc tế không có quan hệ trực tiếp với chủ thẻ hay đơn vị chấp nhận thẻ, mà chỉ cung cấp một mạng lưới viễn thông toàn cầu phục vụ cho quy trình thanh toán, cấp phép cho ngân hàng thành viên một cách nhanh chóng.
* Một số khái niệm khác
-Danh sách Buletin: là danh sách báo động khẩn cấp, liệt kê những thẻ không được cấp phép, thanh toán. Đó là những thẻ chi tiêu quá hạn mức, thẻ giả đang lưu hành, thẻ bị lộ mật mã cá nhân, thẻ bị mất cắp, thất lạc...
-Số PIN: là mã số cá nhân riêng chỉ dành cho chủ thẻ nhằm mục đích thực hiện các giao dịch rút tiền tại các máy rút tiền tự động. Mã số này do ngân hàng phát hành cung cấp cho chủ thẻ nên chỉ một mình chủ thẻ được biết...
Phát hành thẻ
Khi muốn sử dụng thẻ, khách hàng phải đến ngân hàng để làm một số thủ tục cần thiết như điền vào giấy xin phát hành thẻ. Khi đến ngân hàng để xin phát hành thẻ, chủ thẻ cần xuất trình các giấy tờ tuỳ thân như chứng minh thư nhân dân hoặc quân đội hoặc hộ chiếu. Ngoài ra còn phải xuất trình một số giấy tờ khác như: giấy thông hành, biên lai trả lương, nộp thuế thu nhập...
Khi nhận đủ hồ sơ, ngân hàng tiến hành thẩm định lại. Thông thường ngân hàng xem xét tính chính xác của hồ sơ, tình hình tài chính (nếu khách hàng là công ty), hay các khoản thu nhập thường xuyên của khách hàng (nếu là cá nhân) hoặc số dư trên tài khoản tiền gửi của khách hàng, mối quan hệ tín dụng trước đây (nếu có).
Nếu hồ sơ xin phát hành thẻ đã phù hợp thì ngân hàng sẽ tiến hành phân loại khách hàng. Đối với thẻ ghi nợ, việc phát hành thẻ đơn giản vì khách hàng đã có tài khoản tại ngân hàng. Còn đối với thẻ tín tụng, ngân hàng phải tiến hành phân loại khách hàng để có một chính sách tín dụng riêng. Thông thường có hai loại hạn mức tín dụng:
+ Hạn mức theo thẻ vàng: Thường cấp cho nhân vật quan trọng, có quan hệ tốt với ngân hàng hoặc có thu nhập cao và ổn định. Hạn mực tín dụng theo thẻ vàng thường cao hơn nhiều so với thẻ chuẩn (hiện nay quy định tối đa là 90.000.000 VND, tối thiểu là 50.000.000 VND).
+ Theo hạn mức chuẩn: Hạn mức tín dụng theo thẻ chuẩn thấp hơn so với thẻ vàng, chủ yếu cung cấp cho giới bình dân nhưng khách hàng ở đây cũng phải đủ tiêu chuẩn, điều kiện để nhận thẻ tín dụng (quy định từ 50.000.000 VND và tối thiểu là 10.000.000 VND).
Sau khi thẩm định và phân loại khách hàng, nếu khách hàng đáp ứng đủ điều kiện thì ngân hàng tiến hành in thẻ cho khách hàng. Trước khi phát hành thẻ, ngân hàng yêu cầu chủ thẻ ký tên và đăng ký chữ ký mẫu ở ngân hàng. Sau đó bằng kỹ thuật riêng của từng ngân hàng phát hành, ngân hàng tiến hành đưa những thông tin cần thiết lên thẻ, đồng thời mã hoá và ấn định mã số các nhân (PIN) cho chủ thẻ, nhập các thông tin, dữ liệu cần thiết để quản lý sau này.
Khi ngân hàng giao thẻ cho khách hàng thì giao luôn số PIN, yêu cầu chủ thẻ giữ bí mật. Nếu để lộ số PIN thì mọi rủi ro gây nên chủ thẻ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Sau khi giao thẻ cho khách hàng, coi như nghiệp vụ phát hành thẻ đã kết thúc.
Thời gian kể từ khi khách hàng đề nghị mua thẻ đến khi nhận được thẻ thông thường không qua 5 ngày.
1.3.3. Thanh toán thẻ
Sơ đồ quy trình thanh toán thẻ
Chủ thẻ
Ngân hàng phát hành
Đơn vị chấp nhận thẻ
Ngân hàng thanh toán
Tổ chức thẻ quốc tế
+ Chấp nhận thẻ
Khách hàng sau khi mua thẻ có thể sử dụng ngay thẻ đó để mua hàng hoá, dịch vụ tại các ĐVCNT. Khách hàng xuất trình thẻ, ĐVCNT sẽ tiến hành kiểm tra tính hợp lệ của thẻ. Sau khi kiểm tra xong, ĐVCNT sẽ lập hóa đơn thanh toán và yêu cầu chủ thẻ ký vào đó. ĐVCNT sẽ so sánh chữ ký đó với chữ ký mẫu trên thẻ. Hoá đơn thường được lập thành 4 liên, khách hàng giữ 1 liên, ĐVCNT giữu 1 liên , còn lại 2 liên sẽ được nộp lại cho ngân hàng. Sau một khoảng thời gian nhất định (thường là một tuần) các ĐVCNT sẽ lập bản kê cho từng loại thẻ để nộp ngân hàng đề nghị thanh toán.
+ Xin cấp phép
Trường hợp giá trị giao dịch bằng hoặc vượt mức thanh toán, ĐVCNT phải liên hệ với ngân hàng phát hành thông qua ngân hàng thanh toán và trung tâm xử lý số liệu thuộc tổ chức thẻ quốc tế để xin cấp phép. Ngân hàng phát hành sau khi kiểm tra hạn mức tín dụng sẽ trả lời cấp phép cho ĐVCNT thông qua trung tâm và ngân hàng thanh toán.
Ngân hàng phát hành
Ngân hàng thanh toán
Trung tâm xử lý số liệu
Đơn vị chấp nhận thẻ
Sơ đồ tổng quát về cấp phép
+Thanh toán
Tại ngân hàng thanh toán: khi tiếp nhận hoá đơn và bảng kê, ngân hàng phải tiến hành tính hợp lệ của các thông tin trên hoá đơn. Nếu không có vấn đề gì thì ngân hàng tiến hành ghi nợ vào tài khoản của mình và ghi có vào tài khoản của ĐVCNT. Việc ghi sổ này phải tiến hành ngay trong ngày nhận được hoá đơn và chứng từ của ĐVCNT.
Sau đó ngân hàng thanh toán tổng hợp dữ liệu gửi đến trung tâm xử lý dữ liệu (trường hợp nối mạng trực tiếp). Nếu ngân hàng thanh toán không được nối mạng trực tiếp thì gửi hoá đơn, chứng từ đến ngân hàng mà mình làm đại lý thanh toán
Trung tâm sẽ tiến hành chọn lọc dữ liệu, phân loại để bù trừ giữa các ngân hàng thanh toán và ngân hàng phát hành, đồng thời thực hiện báo có và báo nợ trực tiếp cho các ngân hàng thành viên. Việc xử lý bù trừ, thanh toán được thực hiện thông qua ngân hàng thanh toán và ngân hàng bù trừ.
Ngân hàng phát hành khi nhận thông tin, dữ liệu sẽ tiến hành thanh toán. Định kỳ trong tháng, ngân hàng phát hành lập bảng sao kê báo cho chủ thẻ các khoản chủ thẻ đã sử dụng và yêu cầu chủ thẻ thanh toán (đối với thẻ tín dụng).
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát hành và thanh toán thẻ
1.4.1 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát hành của thẻ
* Trình độ dân trí và sự phát triển của nền kinh tế
Trình độ nhận thức của người dân là yếu tố quan trọng để đánh giá sự phát triển của một xã hội. Trình độ dân trí cao cũng đồng nghĩa với một nền kinh tế phát triển về mọi mặt, tiếp cận được với nền văn minh thế giới, ứng dụng được những thành tựu khoa học kỹ thuật hiện đại nhất phục vụ nhu cầu cần thiết của con người. Vì vậy, khi trình độ dân trí của một nước phát triển chắc chắn người ta sẽ tiếp cận với một phương tiện thanh toán nhanh chóng, hiệu quả và an toàn nhất, đó là thẻ- một phương tiện thanh toán đa tiện ích, cùng với sự phát triển này thì tất yếu doanh số phát hành thẻ lúc này sẽ tăng cao.
* Quy mô và phạm vi hoạt động của ngân hàng
Ngân hàng phát hành phải có một quy mô hoạt động rộng và uy tín cao không những tại thị trường trong nước mà trên cả thị trường quốc tế. Có mối quan hệ với tư cách là thành viên chính thức của các tổ chức thẻ Quốc tế nổi tiềng nhất trên thế giới, có một hệ thống các phương tiện cập nhật nhanh chóng, hiện đại, an toàn. Có như vậy mới có thể cạnh tranh được trên thị trường một cách mạnh mẽ.
* Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý được xem là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thẻ. Một môi trường pháp lý hoàn thiện, chặt chẽ, đầy đủ, hiệu lực mới có thể đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các bên tham gia vào quá trình phát hành thẻ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự thanh toán thẻ
* Thu nhập của người dùng thẻ
Thu nhập cao đồng nghĩa với mức sống cao hơn. khi đó, nhu cầu của con người không chỉ đơn thuần là mua được hàng hoá mà họ yêu cầu phải mua hàng hoá đó với một đọ thoả dụng tối đa. Thẻ thanh toán sẽ đáp ứng được nhu cầu của họ. Khi mức sống được nâng cao, nhu cầu du lịch, giải trí của con người cũng cao hơn. Khi ấy thẻ thanh toán là phương tiện hữu hiệu nhất đáp ứng nhu cầu này của họ. Vì vậy, thu nhập của người dùng thẻ càng cao thì nhu cầu thanh toán bằng thẻ càng nhiều.
* Trình độ kỹ thuật công nghệ của ngân hàng
Thanh toán thẻ gắn liền với các máy móc thiết bị hiện đại. Nếu hệ thống máy móc này có trục trặc thì sẽ gây ra ách tắc trong toàn hệ thống. Vì vậy, đã đưa ra dịch vụ thẻ thì ngân hàng phải đảm bảo một công nghệ thanh toán hiện đại theo kịp công nghệ của thế giới.
Hơn nữa, chỉ có trình độ kỹ thuật cao thì việc vận hành, bảo sưỡng và duy trì hệ thống máy móc phục vụ cho phát hành và thanh toán thẻ mới có hiệu quả cao, giảm được giá thành phục vụ, từ đó thu hút thêm được người sử dụng nó.
* Thói quen tiêu dùng của người dân
Đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của thẻ. Thói quen tiêu dùng của người dân sẽ tạo ra một môi trường thanh toán cho thanh toán thẻ. Nếu như một thị trường mà người dân chỉ có thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt sẽ không thể là một môi trường tốt để phát triển thị trường thẻ, chỉ khi mà việc thanh toán được thực hiện chủ yếu qua hệ thống ngân hàng thì thẻ thanh toán mới thực sự phát huy hết hiệu quả của nó.
* Số lượng các đơn vị chấp nhận thẻ
Số các đơn vị chấp nhận thẻ đóng vai trò rát quan trọng trong nghiệp vụ thanh toán thẻ, là cầu nối của hoạt động thanh toán giữa ngân hàng và chủ thẻ. Nếu trong một môi trường không tồn tại một mạng lưới ĐVCNT đa dạng, chất lượng thì sẽ không thể đảm bảo “lượng cung” để kích thích dân chúng trong và ngoài nước sử dụng thẻ. Vì vậy, một môi trường với một mạng lưới cơ sở chấp nhận thẻ dày đặc sẽ là điều kiện để hoạt động thanh toán thẻ phát triển mạnh mẽ.
* Các chính sách, biện pháp của nhà nước
Trong khi thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của mình nhà nước luôn có những chính sách cụ thể can thiệp như tăng thuế, hay có những biện pháp cứng rắn đối với các nghành hay đối với từng người dân nhằm duy trì một mặt bằng kinh tế chính trị của toàn xã hội.
Một số tiện ích của thẻ thanh toán
Đối với chủ thẻ (Cardholder)
Thẻ tín dụng là hình thức chi tiêu trước, trả tiền sau. Khác với cho vay thông thường, thẻ cho phép khách hàng sử dụng tín dụng của ngân hàng mà không phải đến ngân hàng xin vay.
Khác với cho vay thông thường khi đến hạn khách hàng phải thanh toán hết một lần thì thẻ tín dụng cho phép khách hàng có thể thanh toán một lượng tối thiểu (hiện nay khoảng 20%) hoặc có thể trả hơn hạn mức này mà không phải chịu một khoản phạt nào từ ngân hàng. Thông thường khách hàng không trả hết ngay một lần mặc dù họ có đủ tiền thanh toán. Theo thống kê, khoản 70% khách hàng không trả ngay toàn bộ số tiền thanh toán.
Xét về khía cạnh an toàn, việc thẻ bị rơi hoặc mất cắp chưa chắc đã bị rủi ro mất tiền. Điều này khác với tiền mặt khi mất nghĩa là khả năng mất tiền là chắc chắn.
Khi sử dụng thẻ tín dụng, khách hàng không phải mang theo một lượng tiền mặt lớn dễ gây rủi ro bị mất cũng như việc bảo quản cũng rất phức tạp. Chưa kể đến việc rất bất tiện khi sử dụng tiền mặt khi tiêu ở các nước khác nhau. Việc dùng thẻ tín dụng hoặc thẻ thanh toán đảm bảo khả năng chi tiếu đa ngoại tệ, không bị lệ thuộc vào ngoại tệ của nước nào.
Với việc ra đời Internet và các dịch vụ toàn cầu khác, thẻ tín dụng đóng vai trò rất lớn trong việc cho phép người mua hàng có thể đặt mua hàng qua Internet. Có thể nói thương mại điện tử phát triển dựa vào rất nhiều khả năng sử dụng tiền điện tử, đặc biệt là thẻ thanh toán.
Đối với ngưòi bán hàng (ĐVCNT) (Merchant hay Retailer)
Việc sử dụng thẻ làm công cụ thanh toán làm cho người tiêu dùng thuận tiện và dễ dàng hơn trong việc mua hàng. Điều này tạo điều kiện cho người bán hàng có cơ hội tăng doanh số bán hàng của mình.
Tạo cơ hội mở rộng thị trường bán hàng cho người bán. Thị trướng sẽ trở thành toàn cầu đối với họ một khi cho phép người tiếu dùng mua bán hàng hoá trên Internet hoặc trong kinh doanh thương mại điện tử.
Với việc chấp nhận thẻ thanh toán, người bán hàng có khả năng giảm thiểu các chi phí về quản lý tiền mặt như bảo quản, kiểm đếm nộp vào tài khoản ở ngân hàng...Ngoài ra, việc thanh toán giữa người mua và người bán được ngân hàng bảo đảm vừa nhanh chóng, thuận tiện và chính xác.
Đối với ngân hàng
Thẻ tín dụng là một cách dễ nhất cho ngân hàng mở rộng tín dụng và cũng là một phương thức tạo thuận tiện cho khách hàng muốn vay ngân hàng. Do hạn mức tín dụng là tuần hoàn nên khách hàng có thể vay tiền, hoàn trả và vay lại tiếp mà không phải đến ngân hàng xin khoản vay mới. Một khi khách hàng đã thanh toán, hạn mức tín dụng tự động được tăng lên. Điều này đồng nghĩa với việc khách hàng đã được ngân hàng chấp nhận một khoản vay mới (hạn mức tín dụng mới).
Việc sử dụng thẻ thanh toán tạo điều kiện cho các ngân hàng có thể mở rộng thị trường và tăng thêm khách hàng mà không cần phải mở thêm nhiều chi nhánh. Ngoài ra, một cách gián tiếp, lượng tiền gửi của khách hàng xét trên cả hai đối tượng: chủ thẻ (người mua) và người bán sẽ tăng lên vì cả hai đối tượng này đều được những lợi ích nhất định khi chấp nhận sử dụng thẻ thanh toán.
Việc thanh toán bằng thẻ tạo điều kiện huy động vốn cho ngân hàng, bổ sung nguồn vốn cho ngân hàng. Ngân hàng có thể sử dụng tốt nguồn vốn thanh toán này để phục vụ hoạt động sản xuất doanh. Đây là một nguồn vốn rất lớn cần được khai thác.
Một số rủi ro trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ
Như phần trên đã trình bày, thẻ thanh toán có rất nhiều ưu điểm. Chính nhờ có những ưu điểm đó mà hiện nay trên thế giới, dịch vụ thẻ thanh toán rất phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn xuất hiện một số rủi ro và nguy cơ rủi ro cần quan tâm. Về cơ bản có tám loại rủi ro chính. Những rủi ro này đều có thể xảy đến với một hoặc nhiều bên tham gia.
- Loại rủi ro thứ nhất: Đơn phát hành với các thông tin giả mạo: Ngân hàng có thể phát hành thẻ cho khách hàng có đơn xinh phát hành với các thông tin giả mạo do không thẩm định kỹ các thông tin mà khách hàng đưa đến. Trường hợp này có thể dẫn đến những rủi ro về tín dụng cho ngân hàng phát hành khi chủ thẻ sử dụng thẻ hoặc không có khả năng thanh toán.
- Loại rủi ro thứ hai: Thẻ giả: Thẻ do các tổ chức tội phạm hoặc các cá nhân làm giả với các thông tin có được từ các chứng từ giao dịch hoặc thẻ bị mất cắp, thất lạc. Thẻ giả được sử dụng tạo ra các giao dịch giả mạo gây tổn thất cho ngân hàng phát hành bởi theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế, ngân hàng phát hành phải chịu hoàn toàn trách nhiệm với mọi giao dịch sử dụng thẻ giả có mã số (PIN) của ngân hàng phát hành. Đây là rủi ro đặc biệt nguy hiểm khó quản lý vì nằm ngoài sự tiên liệu của ngân hàng phát hành.
- Loại rủi ro thứ ba: Thẻ bị mất cắp, thất lạc: Chủ thẻ bị mất cắp, thất lạc thẻ và bị người khác sử dụng trước khi chủ thẻ kịp thông báo cho ngân hàng phát hành để có biện pháp hạn sử dụng thẻ hoặc thu hồi thẻ. Các tổ chức tội phạm có thể in nổi và mã hoá lại các thẻ để thực hiện các giao dịch giả. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ hoặc ngân hàng phát hành. Loại rủi ro này chiếm tỷ lệ lớn trong các loại, xấp xỉ 49%.
- Loại rủi ro thứ tư: Chủ thẻ không nhận được thẻ do ngân hàng phát hành gửi đến: Ngân hàng phát hành gửi thẻ cho chủ thẻ bàng đường bưu điện nhưng thẻ bị đánh cắp trên đường gửi. Thẻ bị sử dụng trong khi chủ thẻ chính thức không biết gì về việc thẻ đã được gửi cho mình. Nếu không có biện pháp gì quản lý đảm bảo, ngân hàng phát hành chịu mọi rủi ro đối với các giao dịch trong trường hợp này.
- Loại rủi ro thứ năm: Thanh toán hàng hoá, dịch vụ qua thư, điện thoại: Cơ sở chấp nhận thẻ cung cấp hàng hoá, dịch vụ qua thư, điện thoại trên sơ sở thông tin về thẻ như: loại thẻ, số thẻ, ngày hiệu lực, tên chủ thẻ. Trong trường hợp chủ thẻ chính thức không phải là người đặt mua hàng thì giao dịch đó cơ sở chấp nhận thẻ bị ngân hàng thanh toán từ chối thanh toán. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho cơ sở chấp nhận thẻ hoặc ngân hàng thanh toán.
- Loại rủi ro thứ sáu: Tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng: Đến kì phát hành lại thẻ, ngân hàng phát hành nhận được thông báo thay đối địa chỉ của chủ thẻ và được yêu cầu gửi về địa chỉ mới. Do không kiểm tra tính xác thực của thông báo đó nên ngân hàng phát hành đã gửi thẻ về địa chỉ theo yêu cầu nhưng thực ra đây không phải là yêu cầu của chủ thẻ đích thực. Tài khoản của chủ thẻ đã bị người khác sử dụng và chỉ được phát hiện khi chủ thẻ không nhận được thẻ nên liên lạc với ngân hàng phát hành hoặc khi ngân hàng yêu cầu chủ thẻ thanh toán sao kê. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho chủ thẻ hoặc ngân hàng phát hành.
- Loại rủi ro thứ bảy: Nhân viên cơ sở chấp nhận thẻ in nhiều hoá đơn thanh toán của chủ thẻ. Khi thực hiện giao dịch, nhân viên cơ sở chấp nhận thẻ đã cố tình in nhiều bộ hoá đơn thanh toán thẻ nhưng chỉ giao một bộ hoá đơn cho chủ thẻ ký để hoàn thành giao dịch. Sau đó nhân viên cơ sở chấp nhận thẻ mạo chữ ký thật của chủ thẻ để nộp hoá đơn thanh toán cho ngân hàng thanh toán. Trường hợp này dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng phát hành hoặc cơ sở chấp nhận thẻ.
- Loại rủi ro thứ tám:Tạo băng từ giả: Là loại giao dịch thẻ sử dụng kỹ thuật công nghệ cao, trên cơ sở thu thập các thông tin trên băng từ của thẻ thật thanh toán tại cơ sở chấp nhạn thẻ, các tổ chức tội phạm làm thẻ giả đã sử dụng phần mềm riêng để mã hoá và in tạo ra các băng từ trên thẻ giả. Sau đó chúng thực hiện giao dịch giả mạo thẻ. Loại giả mạo này đang tăng nhanh ở các nước tiên tiến.
Tóm lại, song song với những lợi._. ích mà dịch vụ thẻ mang lại cho chủ thẻ, cho ngân hàng...vẫn còn có những rủi ro và nguy cơ rủi ro đối với họ. Tuy nhiên, nếu các bên liên quan cùng phối hợp thông tin cho nhau, có các biện pháp phòng ngừa tốt thì vẫn có thể tránh được những rủi ro trên.
II. kinh nghiệm và xu thế phát triển của công tác phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ trên thế giới
Kinh nghiệm của tổ chức thẻ American Express
Mỹ là nơi sinh ra thẻ đồng thời cũng là nơi phát triển nhất của các loại thẻ. Khu vực này dường như đã bão hoà về thẻ tín dụng, do đó sự cạnh tranh và phân chia thị trường rất khốc liệt. Do vậy, việc học hỏi kinh nghiệm của những tổ chức thẻ của Mỹ là không thể không thể nói tới. ở đây em xin trình bày những chiến lược kinh doanh thẻ nổi bật của tổ chức thẻ American express đã làm cho tổ chức thẻ du lịch và giải trí của Mỹ này trở thành một tập đoàn kinh doanh thẻ lớn trên thế giới:
Ngay từ khi chiếc thẻ Amex ra đời lần đầu tiên vào năm 1958, Tổ chức này đã xác định cho mình thị trường chủ yếu đó là giới bình dân. Họ cho rằng đây mới là đối tượng sử dụng thẻ chủ yếu.
Để cạnh tranh với các tổ chức lớn như Visa Card và Master Card, tổ chức này đã không ngừng nghiên cứu phát hành các loại thẻ mới nhằm đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của thị trường. Năm 1987, American express cho ra đời loại thẻ tín dụng mới có khả năng cung cấp tín dụng tuần hoàn cho khách hàng có tên là Optima Card để cạnh tranh với Visa và Master Card.
American Express không ngừng mở rộng thị trường bằng nhiều hình thức quảng cáo, khuyến mại. Tháng 11 năm 1998, khi American Express tung ra thị trường thẻ ấn Độ các thẻ tín dụng của mình, họ đã gặp rất nhiều khó khăn như: thu nhập có thể dùng để chi tiêu của dân nước này không cao, trong đó có 30 triệu người lớn có thể sử dụng thẻ tín dụng. Ngoài ra người ấn Độ thích sử dụng tiền mặt và hầu hết người sử dụng thẻ tín dụng đều thanh toán các hoá đơn thanh toán của họ trước khi chúng bắt đầu phát sinh các khoản lãi phải trả ngân hàng. Đứng trước thách thức này, American Express đã quyết tâm tập trung vào những người đang sử dụng thẻ tín dụng bằng cách cung cấp cho họ những khoản tín dụng rẻ hơn.
Khi mới xâm nhập vào thị trường Canada, American Express thấy khách hàng ở đây khá trung thành với ngân hàng của họ nên họ chỉ chấp nhận thẻ của hiệp hội Visa và Master đã hoạt động lâu đời ở đây. Đánh giá được thuận lợi của đối thủ, American Express đã tạm thời hướng vào mục tiêu chính là người du lịch Canada và nghành hàng không nước này.
Với một số những giải pháp đã thực hiện, American Express hiện nay đã thực sự trở thành một tổ chức thẻ lớn trên thế giới.
2.2 Xu thế phát triển thẻ tín dụng tại một số khu vực trên thế giới
Với tốc độ phát triển nhanh chóng như hiện nay, trong tương lai thẻ thanh toán vẫn sẽ là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt được ưa chuộng, nhất là trong tầng lớp dân cư. Số lượng thẻ sẽ tiếp tục tăng ở các thị trường trên thế giới. Nhưng tốc độ phát triển của thẻ tại các khu vực cụ thể sẽ có những thay đổi rõ rệt. Điều này được thể hiện rõ qua bảng tổng kết và dự báo sau:
Bảng 1: Bảng tổng kết và dự báo các thị trường thẻ trên thế giới
Thị trường
Năm 1995
Năm 2000
Năm 2005
DS thanh toán (tỷ USD)
Tỷ lệ (%)
DS thanh toán (tỷ USD)
Tỷ lệ (%)
DS thanh toán (tỷ USD)
Tỷ lệ (%)
Mỹ
547,53
6
1246,1
44
2200,79
39
Châu âu
352,85
8
728,16
6
1420,73
26
Châu á-TBD
206,52
7
594,84
1
1407,33
25
Canada
50,85
4
81,21
3
121,54
2
Mỹ la tinh
41,23
3
109,36
4
283,57
5
Trung đông
Châu phi
19,65
2
55,2
2
144,51
3
Tổng cộng
1245,67
00
2815,41
100
5585,47
100
Nguồn: Vietcombank
Theo bảng tổng kết dự báo trên, trong thời gian tới, Mỹ vẫn là nước có doanh số thanh toán thẻ lớn nhất trên thế giới, mỗi năm doanh số này vẫn tăng 20%. Điều này dễ hiểu bởi Mỹ là quê hương của thẻ thanh toán. Trong năm 1995, Mỹ là nước có doanh số thanh toán thẻ lớn nhất trên thế giới (chiếm 46%). Tuy năm 2000, doanh số có tăng nhiều so với năm 1995 nhưng tỷ trọng lại giảm xuống còn 44%, chứng tỏ thị phần của Mỹ có xu hướng giảm và dự kiến đến năm 2005 giảm xuống còn 39%. Nguyên nhân là do sự vươn lên của các thị trường mới khác.
Châu âu là thị trường lý tưởng cho các tổ chức thẻ hoạt động và phát triển. Người dân ở đây sử dụng thẻ do sự tiện lợi nhiều hơn là được cấp tín dụng và thẻ được xem như là một phương thức thanh toán của tầng lớp thượng lưu. Vì vậy thẻ vẫn là một phương tiện thanh toán được ưa chuộng. Doanh số thanh toán thẻ trong năm năm từ 2000 đến 2005 tăng khoảng 195% (từ 728,16 tỷ USD năm 2000 lên đến 1420,73 tỷ USD năm 2005). Nhưng giống như thị trường Mỹ thị phần của nó cũng giảm đi để nhường chỗ cho những thị trường tiềm năng khác.
Khu vực Châu á -TBD là một khu vực rộng lớn với khoảng 41 quốc gia. Đây chính là mảnh đất tiềm năng đối với thị trường thẻ bởi sự chuyển mình vươn lên về mặt kinh tée của nhiều nước trong khu vực như Triều Tiên, Trung Quốc... Thẻ hiện nay chủ yếu được sử dụng ở một số nước như Nhật Bản, Singapo... nên doanh số thanh toán còn thấp so với thị trường khác. Nhưng với nhịp độ phát triển kinh tế như hiện nay, thị trường thẻ khu vực sẽ đuổi kịp và vượt Mỹ và Châu âu trong thời gian không xa.
Châu Mỹ La Tinh là châu lục có sự phát triển kinh tế không đồng đều. Cho đến đầu thập niên 90, kinh tế ở đây mới bắt đầu ổn định và có đầu tư nước ngoài. Điều này mở ra một thị trường mới đầy hấp dẫn cho dịch vụ thẻ. Thẻ ở đây vẫn còn tương đối xa lạ nhưng với việc ổn định kinh tế như hiện nay, trong tương lai sẽ trở thành một phương tiện thanh toán chủ yếu. Doanh số thanh toán thẻ sẽ tăng mạnh, năm 1995 con số này ở mức 41,23 tỷ USD nhưng đến năm 2005 sẽ là 238,57 tỷ USD với tốc độ tăng 259%. Đây là thị trường có tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong thời gian tới.
Trung Đông và Châu Phi là hai vùng nổi tiếng về du lịch, ở đây thu hút phần lớn khách du lịch là Châu âu, là thị trường tốt để dịch vụ thẻ phát triển. Doanh số thanh toán thẻ trong những năm qua tăng mạnh và trong thời gian tới (trong vòng 5 năm tăng khoảng 3 lần) chủ yếu là do lượng khách nước ngoài ra vào nhiều. Việc sử dụng thẻ trong dân cư còn rất hạnh chế do điều kiện và kinh tế tôn giáo... Trong những năm tới, thanh toán thẻ ở đây vẫn còn là thị trường khiêm tốn nhất, chưa xứng với tiềm năng của nó.
Như vậy, trên thế giới, doanh số ngày càng tăng lên từ 1245,67 tỷ USD (1995) lên 2815,41 (2000) và dự kiến sẽ còn tăng lên đến 5585,47 tỷ USD (2005). Do đó, dịch vụ thẻ có xu hướng phát triển rất mạnh trên thế giới trong những năm qua và những năm sắp tới.
Triển vọng phát triển công nghệ thẻ ở Việt Nam
Với xu hướng phát triển chung của thế giới, Việt Nam không thể tách mình ra khỏi xu hướng này nếu muốn phát triển nghành ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung. Do đó, từ năm 1993, khi NHNT VN lần đầu tiên đưa công nghệ thẻ vào Việt Nam với mục đích thay thế các công cụ thanh toán truyền thống, thì hàng loạt thẻ thanh toán đã xuất hiện với tư cách là phương tiện thanh toán mới trong hệ thống ngân hàng Việt Nam như thẻ Master Card năm 1996 và thẻ Visa Card năm 1997, thẻ tín dụng nội địa cả ACB và chắc chắn sau này sẽ có nhiều loại thẻ thanh toán khác sẽ lần lượt ra đời, tạo thuận lợi và an toàn nhất cho các bên tham gia. Nếu chỉ dựa thuần tuý vào con số thống kê về số người sử dụng thẻ thì có thể chưa thấy hết được tiềm năng phát triển ứng dụng công nghệ thẻ thanh toán ở Việt Nam. Nhưng nếu xét từ xu hướng phát triển, yêu cầu hội nhập và đặc biệt là từ góc độ của nhà kinh doanh ngân hàng, thị trường thẻ ở Việt Nam lại có tiềm năng rất lớn trong việc ứng dụng công nghệ thẻ thanh toán. Các ngân hàng Việt Nam đang tận dụng lợi thế của người đi sau đang tiến hành hiện đại hoá ngân hàng, tiêu chuẩn hoá các nghiệp vụ và từng bước đa dạng hoá và hiện đại hoá các dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là các dịch vụ ngân hàng được công nghệ hoá cao, trong đó hầu hết là các dịch vụ thẻ thanh toán như ATM, thẻ tín dụng, tiền ghi nợ kết hợp với thẻ tín dụng hoặc tiền điện tử, thương mại điện tử, Internet Banking...
Đây là những yêu cầu mới đang đặt ra mà các ngân hàng thương mại sớm phải thực hiện trong quá trình hội nhập. Như vậy, có thể khẳng định Ngân hàng- một trong ba thành phần chính tham gia vào quá trình thực hiện các giao dịch bằng thẻ thanh toán- luôn phải sẵn sàng và tạo điều kiện để phát triển các dịch vụ này. Đối với hai thành phần còn lại, người sử dụng thẻ- người tiêu dùng và người chấp nhận thẻ hay người bán hàng cũng cần làm quen với phương thức thanh toán mới, hiện đại. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Việt nam- những nhà sản xuất đang có xu hướng muốn đưa hàng của mình vượt ra khỏi ngoài biên giới quốc gia, ngoài các yếu tố về chất lượng hàng hoá, chính sách giá cả cũng như các chính sách hậu mãi (sau bán hàng), họ cũng phải quan tâm đến các phương thức thanh toán mới đang thịnh hành trên thị trường thế giới. Do vậy, các đơn vị chấp nhận thẻ thanh toán sẽ tăng lên rất nhanh về số lượng trong thời gian tới nếu như Việt Nam tham gia vào các hoạt động thương mại quốc tế được toàn cầu hoá cao. Vì vậy, điều cơ bản là tiềm năng hay khả năng phát triển thẻ thanh toán ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là dựa vào người sử dụng thẻ. Rõ ràng là cùng với xu hướng hội nhập, những dịch vụ ngân hàng hiện đại được phổ biến, đời sống đã và đang ngày đuợc tăng lên, việc chấp nhận thẻ đã trở nên phổ biến. Việc mở tài khoản tại ngân hàng phục vụ không chỉ đơn thuần cho việc đầu tư lấy lãi mà còn phục vụ cho việc thanh toán hoặc cho các mục đích đầu tư khác. Khi những chi phí chi việc bảo quản, sử dụng tiền mặt truyền thống và tính bất tiện, không an toàn của chúng ngày càng được nhận rõ thì những tập quán này sẽ sớm được thay thế bằng các phương thức thanh toán hiện đại, trong đó có thẻ thanh toán.
Chương ii
Thực trạng của công tác phát hành và Thanh toán thẻ tại ngân hàng ngoại thương việt nam
I. tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thẻ ở ngân hàng ngoại thương việt nam
Như trên đã nêu, với xu hướng phát triển chung của thế giới và triển vọng rất lớn trong việc phát triển dịch vụ thẻ ở Việt Nam, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) - một trong những ngân hàng lớn của Việt Nam- muốn phát triển theo hướng chung đó thì phải cần ứng dụng công nghệ thẻ vào hoạt động kinh doanh của mình.
NHNT như đã biết là một ngân hàng lớn có nhiều kinh nghiệm trong công tác thanh toán, đặc biệt là thanh toán quốc tế. NHNT trong nhiều năm qua luôn đi đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế. Qua thực tế hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực này, NHNT đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, đồng thời tạo được nhiều mối quan hệ kinh doanh với các ngân hàng và tổ chức tài chính , tín dụng, kinh tế lớn trong và ngoài nước. Do có những mối quan hệ rộng rãi này và nhờ vào bề dày trong thanh toán quốc tế, NHNT cần phải ứng dụng công nghệ mới vào hoạt động của mình nếu ngân hàng không muốn bị tụt hậu so với thế giới. Đó cũng là một tất yếu đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng Việt nam nói chung.
Thẻ ra đời trên cơ sở những thành tựu của công nghệ thông tin. ở Việt Nam hiện nay công nghệ thông tin cũng như hệ thống thông tin liên lạc đang đạt được những bước tiến vượt bậc, ví dụ như Việt Nam đã tạo ra nhiều mạng nội bộ ngoài dịch vụ Internet có chất lượng tốt. Như vậy có hệ thống thông tin tốt, NHNT ứng dụng công nghệ thẻ nhằm mở rộng hệ thống dịch vụ của mình để đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng nhằm đạt hiệu quả cao trong dịch vụ thanh toán.
Như đã trình bày ở phần trên (chương I, phần II, 4), thẻ có rất nhiều tiện ích không chỉ đối với khách hàng mà còn đối với cả ngân hàng như thanh toán gọn nhẹ, nhanh chóng, an toàn thuận tiện... Do vậy, việc ứng dụng công nghệ thẻ là rất cần thiết vì nhờ có ứng dụng công nghệ này, hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng vừa có thể tranh được tụt hậu với ngân hàng khác, vừa có thể tiếp cận và giao dịch được với các ngân hàng nước ngoài thì hệ thống Ngân hàng Việt Nam mới phát triển được, từ đó giúp cho việc ổn định và phát triển kinh tế dẫn đến ổn định về chính trị.
Vì thẻ có rất nhiều tiện ích nên các ngân hàng trên thế giới áp dụng nhiều dẫn đến việc phát triển mạnh của dịch vụ thẻ, đồng thời dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng nhằm dành được thị phần lớn cho mình. Như vậy phát triển dịch vụ thẻ là một xu thế khách quan nên buộc NHNT phải quan tâm, nếu không sẽ bị giảm sức cạnh tranh, không tiến kịp với tốc đọ phát triển của thế giới.
Việt Nam đang mở cửa, do vậy đầu tư nước ngoài sẽ ồ ạt tràn vào thị trường Việt Nam nhằm khai thác thị trường mới này. Là một ngân hàng trong nước, lại có bề dày kinh nghiệm về thanh toán quốc tế, NHNT không thể không tăng cường áp dụng những dịch vụ mới nhằm đáp ứng tốt nhu cầu trong nước để tranh thủ dành thị phần trong sự cạnh tranh khốc liệt với các ngân hàng nước ngoài khác.
Như vậy, vì những lợi thế và nguyên nhân trên, NHNT không thể không áp dụng thanh toán thẻ vào hoạt động kinh doanh của mình. Đây là một xu thế phát triển chung của tất cả các ngân hàng.
II.thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại NHNT VN
Công tác phát hành thẻ ở NHNT VN
2.1.1 Quy trình phát hành thẻ tại NHNT VN
NHNT VN hiện nay chỉ phát hành 2 loại thẻ tín dụng quốc tế là Visa Card và Master Card. Thẻ tín dụng do NHNT phát hành là một phương tiện thanh toán với hạn mức chi tiêu nhất định mà ngân hàng cung cấp căn cứ vào khả năng tài chính, số tiền ký quỹ, tài sản thế chấp của khách hàng. Khách hàng có thể dùng thẻ để mua sắm hàng hoá, dịch vụ tại 14 triệu điểm thanh toán, rút tiền mặt tại các ngân hàng và các máy rút tiền ở Việt Nam cũng như ở các nước trên khắp thế giới. Đây là một hình thức chi tiêu trước, trả tiền sau với thời hạn ưu đãi không thu lãi từ 10 đến 45 ngày. Khách hàng có thể thanh toán một phần hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng.
Thẻ phát hành bao gồm hai loại: thẻ cá nhân và thẻ cá nhân do công ty uỷ quyền sử dụng.
Thẻ công ty (do cá nhân được uỷ quyền sử dụng) là loại thẻ do các tổ chức làm đơn xin sử dụng thẻ và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của mình.
Thẻ cá nhân: là thẻ do cá nhân sử dụng và chịu trách nhiệm thanh toán bằng nguồn tiền của mình.
Mỗi loại thẻ được chia làm hai hạng: thẻ vàng và thẻ chuẩn.Thẻ vàng có hạn mức chi tiêu tối thiểu là 50 triệu VND, tối đa là 90 triệu VND.
Thẻ chuẩn có hạn mức tín dụng thấp hơn hạn mức tối thiểu của thẻ vàng, 50 triệu VND và có số tiền tối thiểu là 10 triệu VND.
* Đối tượng phát hành và sử dụng thẻ:
Các các nhân được các tổ chức, công ty sau đây uỷ quyền (là đại diện hợp pháp) xin phát hành và sử dụng thẻ: các cơ quan Nhà nước, đoàn thể; các doanh nghiệp (bao gồm cả doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài); các tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao và các tổ chức nước ngoài khác tại Việt Nam.
Các cá nhân đủ 18 tuổi trở lên, không mất trí, không phải là người đang chấp hành án hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp dưới 18 tuổi thì cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và có bảo lãnh của một người thứ ba (bố, mẹ, người đỡ đầu) theo pháp luật của Việt Nam.
Người nước ngoài: Ngoài yêu cầu trên phải có thời hạn cư trú và làm việc tại Việt Nam bằng thời hạn phát hành thẻ + 40 ngày.
Các tổ chức, cá nhân nêu trên có thể mở tài khoản tiền gửi tại NHNT hoặc tại các ngân hàng thương mại khác nhưng các tổ chức, cá nhân đó phải có năng lực tài chính lành mạnh ( như đối với tổ chức thì cần phải có khả năng trả nợ, không có nợ qua hạn đối với NHNT; đối với cá nhân thì có thu nhập ổn định, có uy tín). Trong trường hợp không có những điều kiện nêu trên thì họ có thể thế chấp, cầm cố hoặc ký quỹ.
(4)
(1)
Chủ thẻ
Chi nhánh phát hành
Trung tâm thẻ
(5)
(2)
(3)
* Các bước phát hành thẻ tín dụng tại NHNT
Chủ thẻ đến ngân hàng làm thủ tục xin phát hành thẻ
Nhận được hồ sơ yêu cầu sử dụng thẻ, chi nhánh kiểm tra theo quy chế về việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của Tổng Giám đốc NHNT. Nếu có sai sót hoặc chưa đầy đủ, chi nhánh yêu cầu khách hàng chỉnh sử bổ sung.
Trong vòng 4 ngày kể từ ngày nhận được bộ hồ sơ đầy đủ, chi nhánh có trách nhiệm thẩm định bộ hồ sơ và quyết định chấp nhận hay từ chối phát hành thẻ. Trường hợp chấp nhận, chi nhánh có trách nhiệm phân loại khách hàng để làm rõ các yếu tố sau: hạng thẻ vàng hay thẻ thường, hạn mức tín dụng, thời hạn thẻ.
Sau khi duyệt hồ sơ và xác định các yếu tố trên, chi nhánh điện cho Trung ương (Trung tâm thẻ) qua mạng nội bộ yêu cầu phát hành ngay trong ngày làm việc, đồng thời mở hồ sơ khách hàng để theo dõi những thông tin cần thiết.
Điện yêu cầu phát hành thẻ phải được trưởng phòng duyệt. Đồng thời chi nhánh gửi Fax cho trung tâm thẻ giấy yêu cầu phát hành thẻ đã được giám đốc chi nhánh duyệt.
Nhận được điện yêu cầu và giấy yêu cầu sử dụng thẻ của khách hàng, trung tâm thẻ tiến hành các bước sau:
+ Kiểm tra đối chiếu các thông tin trên file với các thông tin nhận qua Fax, sau đó cập nhật thông tin và tạo hồ sơ khách hàng tại trung tâm thẻ.
+ In thẻ bằng máy chuyên dụng.
+ Xác định mã số các nhân của chủ thẻ (trường hợp thẻ được dùng để rút tiền mặt tại các máy ATM).
+ Tạo hồ sơ quản lý thẻ với các thông tin cần thiết theo quy định.
Nhận được yêu cầu của chi nhánh, trung tâm thẻ hoàn thiện việc cá nhân hoá thẻ và gửi thẻ về chi nhánh giao cho khách hàng trong vòng 3 ngày làm việc kể từ khi nhận được đủ hồ sơ từ chi nhánh phát hành thẻ. Thẻ được gửi trong thư bì kín bằng thư bảo đảm, mã số cá nhân phải được gửi bảo đảm bằng phong bì tách riêng với thẻ.
Tại chi nhánh phát hành, sau khi nhận được thẻ đã cá nhân hoá và mã cá nhân thì thông báo cho khách hàng đến nhận.
Trước khi giao thẻ cho khách hàng, chi nhánh yêu cầu chủ thẻ ký vào mặt sau của thẻ. Sau đó, chủ thẻ có thể hoàn toàn sử dụng thẻ cho hoạt động thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hay rút tiền mặt.
Cuối mỗi tháng, chi nhánh phát hành sẽ nhận sao kê chi tiết những khoản khách hàng đã tiêu trong tháng được gửi đến từ trung tâm thẻ và gửi cho khách hàng để yêu cầu chủ thẻ thanh toán.
2.1.2 Phân tích và đánh giá kết quả công tác phát hành thẻ tại NHNT
Cho đến nay, NHNT đã tiến hành Master Card đã được gần 10 năm và Visa Card được gần 5 năm. Khoảng thời gian từ 1995 trở về trước, trong những bước đi chập chững ban đầu, NHNT chỉ phát hành được 302 thẻ trong vòng gần 3 năm. Bắt đầu từ năm 1996, cùng với sự khởi sắc của thị trường thẻ Việt Nam, tình hình phát triển thẻ tại NHNT đã có những bước tiến rõ rệt thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Tình hình phát hành thẻ Master Card qua các năm
(1996- 2002)
Chi tiêu
Năm
Số thẻ phát hành
Doanh số sử dụng
Số thẻ (cái)
Tỷ lệ tăng (giảm) hàng năm
Doanh số (triệu VND)
Tỷ lệ tăng (giảm) hàng năm
1996
389
-
17.065
-
1997
419
+ 7,7%
17.722
+ 3,8%
1998
340
- 0,19%
31.000
+ 74,9%
1999
650
+ 91%
29.000
- 6,5%
2000
184
- 71,7%
29.658
+ 2,3%
2001
626
+ 240,2%
32.933
+ 11,1%
2002
1060
+ 69.3%
50.200
+52,4%
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT - năm 2002)
Bảng 2: Tình hình phát hành Visa Card
Đơn vị: Triệu VND
Chi tiêu
Năm
Số thẻ phát hành
Doanh số sử dụng
Số thẻ (cái)
Tỷ lệ tăng (giảm) hàng năm
Doanh số (triệu VND)
Tỷ lệ tăng
(giảm) hàng năm
1998
1305
-
17.000
-
1999
720
- 41,8%
36.000
+ 111,8%
2000
1.143
+ 58,8%
39.683
+10,2%
2001
2.431
+ 112,7%
92.227
+132,45
2002
6.650
173,5%
204.530
+121,8%
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT –năm 2002)
Nhìn vào bảng tổng kết trên ta thấy trong năm 1996 có sự tăng vọt về số lượng Master Card phát hành so với các năm trước, bất chấp sự cạnh tranh trong hoạt động phát hành từ phía ngân hàng cổ phần Châu á. Số thẻ phát hành năm 1996 cao hơn tổng số thẻ đã phát hành 3 năm trước (1996 là 389 thẻ còn tổng số thẻ 3 năm trước là 302 thẻ). Sự khởi săc này một phần bắt nguồn từ sự ổn định về kinh tế và tiền tệ trong nước. Trong năm 1996, nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng ổn định, đầu tư nước ngoài tăng mạnh, thương mại quốc tế cũng đạt được những kết quả đáng kể, từ đó thu hút được lượng lớn khách nước ngoài tới Việt Nam. Chính sự ổn dịnh về kinh tế và tiền tệ đã ảnh hưởng tích cực tới công tác phát hành thẻ tại NHNT. Ngoài những nguyên nhân trên còn có những nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân ngân hàng. Trong hai năm 1995, 1996, NHNT lần lượt trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ quốc tế lớn nhất đó là Visa và Master Card. Với việc trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ lớn này, NHNT đã củng cố được lòng tin của khách hàng và vị thế của mình trên thị trường thẻ Việt Nam. Đây chính là tiền đề quan trọng giúp ngân hàng đạt được kết quả như vậy.
Sang đến năm 1997, số lượng Master Card phát hành tiếp tục tăng nhưng với tốc độ chậm chạp. Cả năm 1997 ngân hàng phát hành được 419 thẻ , tăng 30 thẻ (tăng 7,7%) so với năm 1996. Tuy nhiên doanh số sử dụng thẻ tăng không nhiều (từ 17.065 triệu VND lên17.722 triệu VND), tăng 3,8% so với năm 1996. Sự giảm sút phát hành thẻ chủ yếu là do khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu nổ ra ở một số nước Châu á vào tháng 7. Số thẻ được phát hành chủ yếu tập trung vào thời gian đầu của năm 1997. Trong nửa cuối của năm, mặc dù đồng Việt Nam vẫn tương đối ổn định, nhưng do tâm lý lo sợ khủng hoảng sẽ lan tới Việt Nam nên tiến độ phát hành thẻ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Trong năm 1998, tình hình kinh tế của Việt Nam không có dấu hiệu khả quan hơn, thêm vào đó là hai lần điều chỉnh tỷ giá của Ngân hàng Nhà Nước tạo ra những cơn sốt đô la trên thị trường tư nhân đã ảnh hưởng không tốt tới công tác phát hành thẻ tại NHNT. Tổng số thẻ Master Card phát hành trong năm chỉ đạt 340 thẻ với doanh số sử dụng là 31.000 triệu VND. Tuy doanh số sử dụng có tăng hơn so với năm 1997 nhưng có cũng không cho ta thấy những dấu hiệu tích cực vì số thẻ giảm qúa nhiều so với năm 1997: giảm 97 thẻ, giảm 0,19%. Nguyên nhân chủ yếu là do sự mất giá của đồng Việt Nam. Số thẻ phát hành đa phần được sử dụng ở nước ngoài bằng USD vì vậy khi quy về đồng Việt Nam có sự tăng trưởng về số lượng.
Cũng trong năm này, NHNT bắt đầu phát hành thẻ Visa Card. Sự xuất hiện của Visa Card cũng là một nguyên nhân làm giảm số lượng Master Card phát hành. Visa Card là một loại thẻ nổi tiếng trên thế giới, với số ĐVCNT không thua kém Master Card. Bản thân ngân hàng đã gia nhập tổ chức thẻ quốc tế Visa Card từ năm 1996, với hai năm chuẩn bị để phát hành Visa Card, cùng với những kinh nghiệm đã thu được từ hoạt động phát hành Master Card nên ngay trong năm đầu tiên phát hành Visa Card, NHNT đã phát hành được 1305 thẻ với doanh số sử dụng thẻ là 17.000 triệu VND. Ta thấy rằng tuy số lượng thẻ được phát hành nhiều nhưng doanh số sử dụng lại không cao lắm. Nguyên nhân là do thẻ Visa Card đến tháng 4/1998 mới được phát hành. Tuy nhiên trong năm đầu tiên số lượng phát hành thẻ như vậy là rất khả quan.
Năm 1999, việc phát hành Visa Card bị chậm lại đáng kể. Số thẻ phát hành trong năm chỉ còn hơn một nửa so với năm trước (năm 1998 là 1305 thẻ còn năm 1999 giảm xuống chỉ còn720 thẻ, giảm 585 thẻ với tỷ lệ giảm 41,8%). Nguyên nhân chủ yếu là do máy in thẻ Visa Card bị hỏng không khắc phục được trong hai tháng cuôí quý 3 mà lại không có máy dự phòng nên buộc khách hàng phải chuyển sang dùng Master Card hoặc sang ngân hàng khác. Tuy nhiên, doanh số sử dụng lại tăng lên do khách hàng đã bắt đầu quen sử dụng Visa Card (từ 17.000 triệu VND của năm 1998 lên 36.000 triệu năm 1999, tăng 111,8%.
Trong khi Visa Card phát hành giảm mạnh thì Master Card tăng lên đáng kể. Việc Master Card phát hành năm 1999 tăng lên 650 thẻ, tăng thêm 310 thẻ với tỷ lệ tăng 91%so với năm 1998 một phần do khách hàng sử dụng Visa Card chuyển sang. Tuy nhiên phải tính đến khâu tiếp thị của NHNT. Trong năm 1999, NHNT đã đẩy mạnh mở rộng số cơ sở chấp nhận thẻ, tích cực giới thiệu và quảng cáo cho thẻ Master Card. Bên cạnh đó, tình hình kinh tế xã hội có những cguyển biến tích cực. Tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đô la Mỹ khá ổn định. Trong cả năm 1999, không có lần sốt giá USD nào. Giá USD bình quân ở mức 14.060 VND. Sự ổn định tiền tệ đã tạo thêm động lực cho khách hàng sử dụng thẻ tín dụng do Việt Nam phát hành nói chung và NHNT phát hành nói riêng.
Tuy số Master Card phát hành tăng lên rõ rệt nhưng doanh số sử dụng lại không tăng nhanh chứng tỏ việc sử dụng loại thẻ này vẫn còn tương đối ít. Sở dĩ như vậy là do trong năm 1999, chính phủ đã đưa ra chính sách kích cầu nên đã làm giảm giá của một số mặt hàng tiêu dùng trong nước. Hoạt động kinh doanh nhà hàng khách sạn, du lịch có chiều hướng giảm (có nơi giá khách sạn giảm xuống tới 30%). Thẻ tín dụng của NHNT có một phần sử dụng trong nước nên doanh số sử dụng giảm xuống.
Sang đến năm 2000, tình hình phát hành 2 loại thẻ này tuy có tăng nhưng còn chậm. Trong năm nay lại xảy ra sự chênh lệch số thẻ phát hành giữa Visa Card và Master Card. Số lượng thẻ Master Card giảm nhiều, khoảng 466 thẻ (giảm 71,7%) so với năm 1999. Nguyên nhân của tình trạng này một phần là do thói quen sử dụng thẻ Visa Card, một phần là vì thời gian đầu máy in thẻ của NHNT không in được do loại thẻ Master Card có độ kháng từ cao nên buộc phải nâng cấp, buộc các chủ thẻ phải chuyển sang dùng thẻ Visa. Tuy nhiên, doanh số sử dụng thẻ Master Card lại không giảm mà lại tăng chút ít so với 1999, tăng 2,3%. Như vậy chứng tỏ khách hàng cũng đã dần quen thuộc với sử dụng thẻ Master Card.
Ngược lại so với Master Card, năm 2000 số lượng thẻ Visa đã tăng lên đáng kể, lớn nhất trong 3 năm gần đây, với số lượng 1.143 thẻ, tăng 523 thẻ, với tỷ lệ tăng 58,8% so với năm 1999. Đạt được thành tích như vậy, một phần là do sự nỗ lực của cán bộ phòng thẻ trong việc nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng, tăng cường việc khuếch trương quảng cáo cho sản phẩm dịch vụ này, một phần là do máy in thẻ Visa Card đã được sửa chữa, ít trục trặc như những năm trước, do đó đã không gây ấn tượng khó chịu cho chủ thẻ. Qua đây có thể nhận thấy rằng khả năng việc mở rộng phát hành Visa Card là rất triển vọng. Vì vậy NHNT cần chú ý đến hoạt động phát hành Visa Card.
Tổng chi tiêu của chủ thẻ đối với hai loại thẻ năm 2000 đã tăng lên nhiều hơn so với năm 1999 là 15% (từ 61.000 triệu VND năm 1999 lên 69.340 triệu VND năm 2000) chứng tỏ việc sử dụng thẻ của khách hàng đã trở nên quen thuộc và đã có sự tự tin về thẻ do NHNT phát hành hơn.
Sang năm 2001, hoà cùng với xu thế đi lên của nền kinh tế đất nước trong năm đầu của thế kỷ 21, doanh số phát hành thẻ tại NHNT VN cũng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc. So với năm 2000, tổng số thẻ phát hành cho cả hai loại thẻ là Visa và Master Card là 3.057 thẻ, tăng 131,7%, đưa tổng số thẻ từ khi phát hành đến nay là hơn 9000 thẻ. Số thẻ phát hành tăng nhiều như vậy là so NGNT đã tìm nhiều biện pháp khắc phục để hạn chế những nguyên nhân yếu kém trước đây. Cụ thể là NHNT đã cải tiến công nghệ , đầu tư nhân lực, trí tuệ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, nhằm mục tiêu đem đến cho khách hàng một chất lượng dịch vụ cao hơn. Vì vậy, cho tới nay máy in thẻ rất ít khi bị hoảng vặt, chất lượng in thẻ bảo đảm hơn, đẹp hơn, không còn tình trạng ảnh của chủ thẻ bị hỏng, phai mờ như trước đây, cho phép NHNT tăng thời hạn hiệu lực của thẻ lên 2 năm, theo nguyện vọng của các chủ thẻ.
Tuy nhiên, máy in thẻ dự phòng cho tới nay vẫn chưa được trang bị một cách đồng bộ, còn chắp vá, chưa có một hệ thống sự phòng về máy in thẻ. Sang năm 2002, khi triển khai phát hành thẻ ATM, khối lượng thẻ sẽ là rất lớn. Nếu không kịp trang bị máy dự phòng, thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng thẻ để chi tiêu hoặc đi công tác xa, ngân hàng sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu một cách kịp thời, dễ xảy ra sự mất tín nhiệm của khách hàng.
Mặc dù NHNT đã thực hiện phát hành khuyến mại một tháng miễn phí thường niên cho thẻ Master, nhưng số lượng thẻ của cả hai loại thẻ do NHNT phát hành vẫn còn chưa cân đối. Tuy trong 2001, số lượng phát hành thẻ của cả hai loại thẻ đều tăng lên rõ rệt. Tuy thẻ Visa có số lượng phát hành cao hơn hẳn so với thẻ Master Card, nhưng nếu tính về sự tăng trưởng phần trăm của từng loại thẻ qua một năm thì thẻ Master lại có độ tăng trưỏng cao hơn. Thẻ Visa phát hành được 2.413 thẻ, trong khi đó số thẻ được phát hành của Master Card là 626 thẻ. Với con số này, so với số lượng thẻ phát hành năm 2000 thì năm 2001 thẻ Visa Card tăng 112,7% và thẻ Master Card tăng 240%. Đây là một kết quả thực sự khả quan cho sự phát triển thẻ ở Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, nhất là trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế đất nước hiện nay.
Biểu đồ 1: Biểu đồ tình hình phát hành thẻ Visa và Master Card tại NHNT VN (1996- 2000)
Từ biểu đồ 1 ta thấy mặc dù phát hành sau nhưng số lượng thẻ Visa Card là lớn hơn rất nhiều so với Master Card. Điều này chứng tỏ thẻ Visa Card có uy tín với khách hàng nhiều hơn. Tuy nhiên do có sự chênh lệch qua nhiều giữa hai loại thẻ nên NHNT bên cạnh việc tăng số lượng Visa Card cũng cần có những chính sách thích hợp để cả hai loại thẻ được phát triển đồng đều.
Biểu đồ 2: Tình hình chung về phát hành thẻ ở NHNT VN
(1996-2002)
Biểu đồ 2 cho thấy trong 2 năm 1996, 1997 chưa phát hành thẻ Visa Card, số thẻ Master Card chênh lệch nhau không đáng kể. Ba năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 phát hành thêm Visa Card, tổng số thẻ tăng lên nhiều nhưng số lượng thẻ trong 3 năm này cũng xấp xỉ nhau. Điều này chứng tỏ hoạt động thẻ nhìn chung là ít có biến chuyển lớn. Nguyên nhân chủ yếu của hiện này là do NHNT có nhiều đối thủ cạnh tranh nên việc tăng thêm thị phần là rất khó. Ngoài ra, đối tượng sử dụng thẻ chỉ hạn chế ở những đối tượng đi nước ngoài làm việc hoặc đi du lịch, công tác chứ trong đại đa số tầng lớp dân cư vẫn chưa sử dụng thẻ.
Nhìn vào doanh số sử dụng thẻ, có thể thấy doanh số sử dụng thẻ do NHNT phát hành tăng dần theo các năm. Năm 1998, doanh số sử dụng thẻ mới chỉ là 48 tỷ VND thì đến năm 1999 là 65 tỷ (tăng 35%). Tới năm 2000, doanh số sử dụng thẻ lại tăng lên tới 69,3 tỷ VND (tăng 7%) so với năm 1999 và đến năm 2002 con số này đã tăng đột biến lên tới gần 300 tỷ. Điều này chứng tỏ thẻ tín dụng ngày càng được sử dụng rộng rãi và có một tiềm năng phát triển mạnh.
Nếu xét riêng cho từng loại thẻ, có thể thấy được tuy số lượng thẻ Master Card ._. tại ngân hàng hiện có của chủ thẻ chứ không theo hạn mức tín dụng. Nếu được như vậy, một người dân Việt Nam không có đủ 10 triệu đồng (hạn mức tối thiểu của thẻ chuẩn hiện nay là 10 triệu đồng) vẫn có thể sử dụng thẻ để thanh toán hàng hoá dịch vụ. Mỗi khi khách hàng chi tiêu, hoặc rút tiền mặt, các thông tin sẽ được chuyển về trung tâm để cấp phép đồng thời khấu trừ luôn số tiền vào tài khoản của khách hàng. Có thể nói đây là một hình thức đa dạng hoá các sản phẩm thẻ tạo ra một lượng tăng trong phát hành thẻ mà lại hạn chế được rủi ro do khách hàng không thanh toán.
2.1.6. Tăng cường thiết lập mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế để mở rộng phạm vi phát hành và sử dụng thẻ
Trên cơ sở mối quan hệ sẵn có, Vietcombank phải thường xuyên củng cố và tạo lập hơn nữa mối quan hệ với các tổ chức thẻ quốc tế, trọng tài quốc tế, các ngân hàng trong và ngoài nước. Mối quan hệ này sẽ giúp cho Vietcombank có được một quy mô hoạt động lớn và uy tín trên thương trường, các sản phẩm thẻ phát hành của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã được mở rộng với đa chủng loại từ các tổ chức thẻ quốc tế, từ đây Ngân hàng Ngoại thương sẽ ngày càng trở thành thành viên chính thức của các tổ chức thẻ lón nhất trên thế giới. Đồng thời, các sản phẩm thẻ của Vietcombank cũng sẽ có điều kiện thanh toán dễ dàng, thuận lợi cho người sử dụng thẻ khi ngân hàng có mối quan hệ rộng rãi. Ngoài ra, các chi phí thanh toán cũng sẽ giảm thiểu do mối quan hệ trực tiếp của Ngân hàng Ngoại thương với các ngân hàng trong và ngoài nước. Là yếu tố trực tiếp nâng cao doanh số sử dụng thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Với một mối quan hệ rộng lớn và chặt chẽ như vậy sẽ là điều kiện để Vietcombank có được thông tin thường xuyên, cập nhật liên quan đến phát hành và thanh toán thẻ để ngày càng hoàn thiện hoạt động phát hành của mình, theo kịp sự tiến bộ của thế giới.
Giải pháp cho việc thanh toán thẻ tại Vietcombank
Mở rộng mạng lưới các ĐVCNT
ĐVCNT là một chủ thể không thể thiếu được trong quá trình chấp nhận thẻ. Số lượng ĐVCNT là một trong những yếu tố quan trọng đẩy mạnh doanh số thanh toán của thẻ. Do vậy, yếu tố đầu tiên để đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thanh toán thẻ là mở rộng mạng lưới ĐVCNT.
Tính đến nay, tổng số các ĐVCNT của Ngân hàng Ngoại thương hiện có trong cả nước là3.052 đơn vị (trong đó có khoảng hơn 1.000 đơn vị được lắp máy thanh toán thẻ tự động EDC). Với một mạng lưới ĐVCNT như vậy, có thể nói là còn rất mỏng, chưa thể đáp ứng được yêu cầu thực tế trên thị trường thẻ Việt Nam như hiệ nay. Đại đa số khách hàng của Ngân hàng Ngoại thương là khách hàng truyền thống, là các doanh nghiệp. Tuy nhiên, các khách hàng hoàn toàn có quyền lựa chọn một ngân hàng tốt nhất phục vụ cho việc kinh doanh của mình. Vì vậy, Ngân hàng Ngoại thương đã quán triệt một tinh thần là đơn vị nào đã ký hợp đồng chấp nhận thẻ với Ngân hàng Ngoại thương là bằng mọi biện pháp sẽ giữ chân khách hàng, không để họ đến với các ngân hàng khác. Bên cạnh đó, các ĐVCNT của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hiện nay tập trung nhiều nhất ở Thành phố Hồ Chí Minh, tiếp đến là Hà Nội, An Giang, Vũng Tàu... với mạng lưới ĐVCNT phân bố không đồng đều như vậy thì chưa thể đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng thẻ.
Trong thời gian vừa qua, NHNT VN cũng đã và đang sử dụng một số biện pháp nhằm mở rộng các ĐVCNT như lắp đặt các máy đọc thẻ miễn phí tại các điểm chấp nhận thẻ này. Giải pháp này chỉ có tính tạm thời và không thể là giải pháp lâu dài vì một số nguyên nhân sau: Thứ nhất, chi phí cho mỗi máy là khá cao nên để có nhiều ĐVCNT thì chi phí đầu tư là quá lớn; Thứ hai, vì là trang thiết bị miễn phí nên nhiều ĐVCNT còn chưa và không có ý thức giứ gìn, bảo quản đặc biệt là ở Việt Nam. Nên thực tế hiện nay, ngân hàng cần ĐVCNT hơn là ĐVCNT cần ngân hàng. Vậy ngân hàng cần có hướng giải quyết như thế nào để ĐVCNT cần ngân hàng và ngân hàng có thể mở rộng số lượng các ĐVCNT. Để thực hiện giải pháp này, ngân hàng nên: tập trung tăng cường công tác tiếp thị đến nhiều cửa hàng có doanh số tiêu thụ cao, nhiều khu vui chơi giải trí lớn để khuyến khích các nơi này làm ĐVCNT. Trong tương lai nên chú ý mở rộng mạng lưới ĐVCNT đến cả những điểm kinh doanh nhỏ, nhà hàng nhỏ, khu nhà trọ,... Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần phải tăng cường hoạt động tiếp thị đối với các ĐVCNT, phải cho họ thấy rõ được lợi ích của việc thanh toán thẻ. Cũng có thể khi phát hành thẻ cho chủ thẻ, Ngân hàng Ngoại thương thực hiện luôn công việc quảng cáo cho ĐVCNT. Việc này không những tạo ra cho các ĐVCNT mở rộng được một thị trường khách hàng đa dạng, mà một khi họ được Ngân hàng Ngoại thương- một ngân hàng tầm cỡ đứng ra quản cáo thì tên tuổi của doanh nghiệp và vị thế của những đơn vị này được nâng gia trị thêm lên trên thương trường. Khi đó có rất nhiều các doanh nghiệp, các cơ sở kinh doanh, bán hàng đều muốn tham gia vào mạng lưới ĐVCNT của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Một giải pháp khác là Ngân hàng Ngoại thương nên hạ mức phí mà ngân hàng áp dụng cho các ĐVCNT. Mức phí hiện nay được quy định là từ 2,5- 3,6% tuỳ theo từng loại thẻ.
Một khoản bằng 3% giá trị thì có vẻ nhỏ nhưng nếu so sánh với lợi nhuận của các ĐVCNT thì khoản tiền trên không bé chút nào. Như vậy, khi bán cho khách hàng sử dụng thẻ thì lợi nhuận của các ĐVCNT sẽ bị giảm đi một khoản đáng kể. Hơn nữa, việc chấp nhận thẻ hiện nay cũng chưa thu hút thêm một lượng khách hàng đáng kể cho cửa hàng. Do đó các ĐVCNT không mặn mà lắm với việc chấp nhận chấp nhận thanh toán bằng thẻ. Từ đó ta thấy được việc hạ mức phí áp dụng cho các ĐVCNT trước mắt có thể làm giảm lợi nhuận của ngân hàng đối với từng giao dịch nhưng như thế sẽ kích thích được các ĐVCNT nhận thanh toán bằng thẻ. Việc giảm chi phí đối với các ĐVCNT còn tạo ra sự kích thích đối với các điểm bán hàng khác tham gia vào mạng này.
Tăng cường chiến lược Marketing
Chiến lược Marketing trong thanh toán thẻ cũng gắn chặt với chiến lược Marketing trong phát hành thẻ. Tiến hành Marketing thẻ là tiến hành quảng cáo, xúc tiến sử dụng cho cả việc phát hành và thanh toán thẻ. Vì vậy, để hoàn thiện hơn công tác Marketing, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngoài các chiến lược Marketing nhằm nâng cao doanh số phát hành và sử dụng thẻ thì không thể không quan tâm đến việc xúc tiến một chiến lược Marketing cho hoạt động thanh toán thẻ.
ở Việt Nam hiện nay, hoạt động thanh toán thẻ ngoài việc mạng lưới ĐVCNT còn mỏng thì còn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi một yếu tố khách quan nữa là thói quen tiêu dùng của người dân. Nếu như một thị trường mà người dân chỉ có thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt sẽ không thể là thị trường tốt để phát triển thị trường thẻ nói chung và hoạt động thanh toán thẻ nói riêng. Sở dĩ có tồn tại này là do một phần nền kinh tế Việt Nam so với các nước khác chưa thực sự phát triển, thu nhập của người dân còn thấp, trình độ dân trí không cao. Vì vậy, số người dân sử dụng thẻ thanh toán rất ít. Theo quy luật của nền kinh tế, cung chỉ nhiều khi có cầu nhiều. Do vậy, hiện tượng trên ảnh hưởng nhiều đến tâm lý các ĐVCNT. Có thể nói, nhiệm vụ của chiến lược Marketing trong công tác thanh toán thẻ chính là ở chỗ cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước thì phải làm sao cho người dân tiếp xúc được trực tiếp và biết đến những tiện ích của việc thanh toán thẻ một cách thực sự, giảm đi thói quen tiêu dùng bằn tiền mặt của người dân. Và lúc này khi nhu cầu thanh toán thẻ của người dân lên cao thì tất nhiên các điểm cung ứng tiền mặt, các ĐVCNT sẽ mọc lên như nấm. Các biện pháp có thể áp dụng là quảng cáo các loại thẻ do Vietcombank thanh toán và các ĐVCNT cuả Vietcombank trên báo chí, truyền hình,... khuyến khích người dân sử dụng và thanh toán thẻ bằng các chương trình tiếp thị, khuyến mại rộng rãi. Ngoài ra cũng cần ngày càng cung cấp cả về số lượng lẫn chất lượng cung ứng của các ĐVCNT.
2.3 Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng tham gia thanh toán thẻ
Thường xuyên giữ mối quan hệ với các ngân hàng thanh toán thẻ để cùng nhau trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong việc thanh toán thẻ. Đặc biệt, khi đã có Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt Nam thì việc giữ mối quan hệ này là rất thuận lợi. Nhờ có Hiệp hội, các ngân hàng trong nước có thể liên kết với nhau, đề ra đường lối, chính sách chung về phí, quy trình thanh toán nhằm chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh từ các ngân hàng nước ngoài, đồng thời tạo ra sự thống nhất trong hoạt động kinh doanh thẻ tại Việt Nam.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng thanh toán thẻ ở Việt Nam đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán thẻ của từng ngân hàng thành viên và của Việt Nam nói chung. Điều này làm cho uy tín của các NHTM Việt Nam tăng lên trên thương trường quốc tế, tăng sự tin tưởng của các tổ chức thẻ quốc tế cũng như của khách hàng.
Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ bằng mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên đã đề ra được nhiều quyết sách chung cho hoạt động của mình và trình lên ngân hàng Nhà Nước, trình lên chính phủ góp phần làm cho hoạt động thanh toán thẻ ở Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn.
Ngân hàng cần xây dựng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ kỹ thuật và trang bị các phương tiện kỹ thuật phục vụ thanh toán thẻ
Trong năm vừa qua, tại phòng quản lý thẻ đã tổ chức hội nghị tập huấn về thẻ cho toàn hệ thống. Đây là một hội nghị được chuẩn bị rất công phu, có sự đầu tư về thời gian, về soạn thảo văn bản hướng dẫn, in ấn, báo cáo, soạn thảo tài liệu phục vụ đại biểu,... và về tổ chức hội nghị. Các báo cáo viên thuyết trình đều được chuẩn bị kỹ nên các báo cáo về nghiệp vụ thẻ đều được đánh giá thành công. Nhờ đó mà các cán bộ nghiệp vụ thẻ trong toàn hệ thống có thể nắm bắt được quy trình nghiệp vụ phát hành, thu nợ và thanh toán thẻ một cách có hệ thống và tự tin hơn. Hội nghị tập huấn lần này có thể nói là đã thành công tốt đẹp. Ngân hàng đã được đánh giá các ưu, khuyết điểm trong nghiệp vụ thẻ, những vướng mắc cần được tháo gỡ và sau hội nghị thì một số bất cập đã được khắc phục.
Cũng trong năm 2002 vừa qua, cùng với sự phát triển của hoạt động kinh doanh thẻ, phòng quản lý thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương đã có ba cán bộ tin học nhằm quản lý một cách chặt chẽ hơn nghiệp vụ thẻ.
Nhưng hiện nay, so với công việc của phòng thẻ thì số lượng nhân viên còn thiếu. Do đó, trong thời gian tới ngân hàng cần có chiến lược đào tạo cán bộ nhân viên để phù hợp với yêu cầu. Đồng thời, ngân hàng phải kết hợp với các tổ chức thẻ quốc tế để tổ chức tập huấn nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các cán bộ nhân viên kinh doanh thẻ. Cán bộ nhân viên phải luôn luôn được trau dồi kiến thức nghiệp vụ và cách nắm bắt được tâm lý khách hàng sao cho không bị thụt lùi với trình độ của nhân viên ngân hàng bạn và trình độ của cán bộ thẻ trên khu vực và trên thế giới.
Hoạt động kinh doanh thẻ luôn gắn liền với máy móc trang thiết bị hiện đại. Do đó, ngân hàng phải đào tạo một lực lượng nhân viên kỹ thuật có tay nghề cao trong bảo dưỡng, lắp đặt máy móc thiết bị của nghiệp vụ thẻ. Đội ngũ này nên được tổ chức riêng biệt so với đội ngũ kỹ thuật của ngân hàng để khi cần thiết thì luôn có nhân viên kỹ thuật kịp thời xử lý. Lực lượng này phải có kiến thức chuyên sâu về trang thiết bị máy móc thanh toán thẻ. Có như vậy mới có thể giải quyết được các sự cố bất ngờ xảy ra (máyin thẻ bị hỏng, việc nối mạng bị trục trặc,...) để không làm giảm doanh số kinh doanh thẻ của ngân hàng.
Cùng với công tác nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ nghiệp vụ và nhân viên kỹ thuật, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải luôn nâng cao chất lượng các trang thiết bị kỹ thuật.
Trang bị kỹ thuật phục vụ hoạt động thanh toán thẻ đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trình độ kỹ thuật công nghệ là yếu tô quyết định chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ và thành bại trong cạnh tranh. Do vậy, một trong những định hướng lớn trong hoạt động vủa Vietcombank nói chung và quản lý thẻ của Vietcombank nói riêng là tăng cường đầu tư vào công nghệ thanh toán thẻ cả về phần cứng và phần mềm.
Thực tế hiện nay, để phát triển nghiệp vụ thanh toán thì ngoài việc tăng về số lượng và chất lượng thanh toán cho các ĐVCNT thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên cho phép các ĐVCNT ứng tiền mặt cho khách hàng để chủ thẻ có thẻ rút tiền mặt tại các ĐVCNT chứ không chỉ ứng tiền mặt được tại các chi nhánh hay ngân hàng đại lý thanh toán tại ngân hàng. Hoàn thiện và luôn nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ , phương tiện kỹ thuật, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ giữ vững được vị trí xứng đáng trong hoạt động kinh doanh thẻ tại thị truờng Việt Nam- một thị trường bỏ ngỏ.
Phát huy vai trò là một ngân hàng thanh toán
Vietcombank thu được lợi nhuận không nhỏ từ việc thanh toán thẻ Visa, Master, JCB, Amex. Do vậy, trong lĩnh vực nàyVietcombank cần phát huy vai trò của mình để thành công hơn nữa trong nghiệp vụ thanh toán thẻ. Cụ thể là:
Chấp hành tốt các quy định nghiêm ngặt trong quy trình thanh toán thẻ đối với mỗi loại thẻ theo đúng quy định quốc tế để không xảy tranh chấp làm mất thời gian, công sức, tiền bạc và giảm uy tín của ngân hàng.
Khuyến khích các ĐVCNT của Vietcombank làm tốt việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng và tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng thanh toán bằng thẻ hài lòng hơn.
Tiếp tục phối hợp với các ĐVCNT, cơ quan công an... để kịp thời phát hiện các trường hợp giả mạo về thẻ hay các thẻ có vấn đề mà không làm ảnh hưởng đến khách hàng, làm cho các khách hàng trung thực không cảm thấy bị xúc phạm.
Vai trò thanh toán thẻ của ngân hàng tăng lên cũng đồng nghĩa với uy tín của Vietcombank tăng lên. Từ đây có điều kiện để ngân hàng có những chính sách phát triển riêng của mình nhằm tăng lợi nhuận bằng cách tăng số loại thẻ thanh toán và phạm vi thanh toán của thẻ.
2.3. Phòng chống rủi ro trong phát hành và thanh toán thẻ
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào cũng có rủi ro, và vấn đề rủi ro là khó tránh khỏi trong hoạt động kinh doanh thẻ. Ngân hàng phải làm gì để phòng chống rủi ro là một câu hỏi lớn đặt ra. Ngân hàng Ngoại thương nói riêng và các ngân hàng kinh doanh thẻ nói chung phải không ngừng nghiên cứu, phân tích, học hỏi và phối hợp với nhau để tìm ra cách phòng chống rủi ro hiệu quả nhất. Rủi ro không loại trừ bất cứ một khâu nào trong hoạt động kinh doanh thẻ. Với những rủi ro thường gặp trong phát hành và thanh toán thẻ tín dụng (đã nêu ở chương I), để ngăn ngừa, phòng chống rủi ro này, Ngân hàng Ngoại thương nên:
Kiểm tra xác minh các thông tin trong hồ sơ khi phát hành thẻ trước khi xét duyệt phát hành cho khách hàng. Và để thuận lợi cho khách hàng ở xa, ngân hàng có thể giao thẻ cho khách hàng qua đường bưu điện, để phòng chống rủi ro trong khâu này, chi nhánh phải theo rõi sát việc nhận thẻ của khách hàng và thông báo kịp thời lên Trung tâm thẻ mở khoá cho phép khách hàng sử dụng thẻ. Thẻ phải được gửi bằng thư bảo đảm. Để xác định thẻ được gửi đến đúng địa chỉ, trước khi gửi thẻ cho chủ thẻ, ngân hàng nên gọi điện thông báo cho chủ thẻ và giao cho chủ thẻ một mật mã nhận thẻ, đề nghị chủ thẻ thông báo ngay cho ngân hàng khi nhận được thẻ qua đường bưu điện. Ngân hàng đề nghị chủ thẻ cho biết mật mã. Nếu khớp đúng, ngân hàng mới mở khoá cho phép khách hàng sử dụng thẻ.
Mặt khác, để ngăn chặn việc sử dụng thẻ của nguời khác, ngân hàng nên áp dụng cho các loại thẻ đều có ảnh của chủ thẻ trên bề mặt thẻ.
Điều này sẽ giúp cho các ĐVCNT an tâm hơn trong việc kiểm tra thẻ. Nếu ngân hàng nhậ được những thông báo thay đổi của chủ thẻ, ngân hàng chỉ chấp nhận những thông báo được xác minh là xác thực.
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phải thường xuyên liên hệ với tổ chức thẻ quốc tế và các thành vieen khác để có điều kiện cập nhật kịp thời và liên tục các thông tin về quản lý rủi ro, thẻ cấm lưu hành trên các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức thẻ quốc tế như MATCH, SAFE của Master Card, hay NMAS của Visa và thông báo kịp thời cho các chi nhánh, ĐVCNT.
Ngân hàng Ngoại thương trước khi ký kết hợp đồng thanh toán thẻ với ĐVCNT phải tìm hiểu kỹ, đặc biệt là về tư cách, hoạt động kinh doanh, khả năng tài chính của ĐVCNT. Thường xuyên tổ chức tập huấn và cung cấp tài liệu về chấp nhận thanh toán thẻ cho các ĐVCNT, hướng dẫn họ sử dụng và bảo quản thiết bị thanh toán thẻ. Mọi hỏng hóc phải thông báo kịp thời cho Ngân hàng và chỉ có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam hoặc đại lý (được chỉ định) mới được sử chữa các hỏng hóc đó. Ngân hàng phải thường xuyên đến và kiểm tra hoạt động kinh doanh thẻ của ĐVCNT để tránh tình trạng nhân viên các ĐVCNT làm sai quy trình thanh toán thẻ.
Thêm vào đó, trong kinh doanh thẻ để hạn chế được rủi ro và giảm chi phí trong quản lý rủi ro, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nên kết hợp với các ngân hàng kinh doanh thẻ tại Việt Nam để cùng nhau tìm ra các biện pháp phòng chống hữu hiệu nhất. Ví dụ như chỉ cần một ngân hàng lập danh sách các loại thẻ cấm lưu hành, sau đó in ấn gửi cho các ĐVCNT của ngân hàng, chi phí sẽ do các ngân hàng đống góp theo tỷ lệ số lượng các ĐVCNT của ngân hàng mình. Trên thực tế biện pháp liên kết luôn tỏ ra hữu hiệu trong mọi hoạt động.
Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng cần phải trích lập một quỹ dự phòng riêng để bù đắp cho các rủi ro phát sinh từ nghiệp vụ thẻ.
Để thúc đẩy quá trình giao dịch, giảm chi phí cũng như rủi ro trong việc tra soát, khiếu nại bồi hoàn, các ngân hàng kinh doanh thẻ cần có những biện pháp hữu hiệu để có thể liên lạc và giải quyết với nhau trước khi thực hiện theo quy định của tổ chức thẻ quốc tế. Làm như vậy vừa có thể tạo hoà khí giữa các bên tham gia lại không tốn một khoản chi phí không cần thiết.
Như vậy, trước mắt để hạn chế và phòng chống rủi ro, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần phải thực hiện tốt nhất các quy định của tổ chức thẻ quốc tế cũng như các quy định của Ngân hàng Nhà Nước về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ, đồng thời cũng yêu cầu các ĐVCNT thực hiện tốt mọi quy định về thanh toán thẻ.
iii.một số kiến nghị
3.1. Dành một số ưu tiên đối với những hoạt động liên quan đến thẻ
Công nghệ thẻ là một công nghệ hoàn toàn mới ở Việt Nam. Máy móc thiết bị đều là những loại máy hiện đại mà Việt Nam chưa thể sản xuất được, thậm chí ngay cả những linh kiện thay thế cũng chưa có tại Việt Nam. Việc giao nhận sửa chữa thiết bị hiện nay chưa được miễn thuế hay tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng buộc các ngân hàng phải tăng phí mua sắm thiết bị. Vì vậy, nhà nước cần xem xét giảm thuế nhập khẩu cho những máy móc phục vụ cho công nghệ thẻ ở Việt Nam hay ít ra cũng có thể tạo điều kiện cho hoạt động nhập khẩu này. Việc này sẽ giúp ngân hàng giảm được chi phí đầu tư hay thời gian trong công tác phát hành và thanh toán thẻ.
Thanh toán thẻ là một hình thức thanh toán rất hữu ích. Nó làm giảm lượng tiền trong lưu thông. Đối với các mặt hàng khác khi muốn khuyến khích phát triển, Nhà nước thường xuyên giảm thuế cho mặt hàng đó. Vậy thanh toán thẻ cũng là một hình thức thanh toán mới rất hữu ích. Hiện nay mức thuế Nhà nước áp dụng cho thanh toán thẻ là 10% (GTGT). Đây là mức thuế bình thường áp dụng cho các loại hình dịch vụ khác. Để khuyến khích, Nhà nước nên giảm xuống còn khoảng 5% là hợp lý. Tuy nhiên, bởi vì giá trang thiết bị của hình thức này là rất đắt, nếu đánh thuế cao sẽ làm tăng giá thành, từ đó không khuyến khích được thanh toán thẻ phát triển.
3.2. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ
Hiện nay, một số tội phạm có liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. ở Việt Nam, hành lang pháp luật còn chưa được đồng bộ và có nhiều sơ hở, hơn nữa trang bị kỹ thuật còn thiếu. Đây là điều kiện thuận lợi cho bọn tội phạm hoạt động. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh để xây dựng một hành lang pháp luật đồng bộ, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành, đưa ra các khung hình phạt cụ thể cho những tội phạm có liên quan về thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số,... Nhất là trong năm 2002, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đưa máy ATM vào hoạt động. Máy này thường được đặt ở những nới công cộng. Nhưng xét về một mặt nào đó thì việc tự giác thi hành pháp luật của người dân Việt Nam còn thấp và chưa có một khung hình phạt cụ thể. Do đó, nếu đặt máy ATM ở nới công cộng sợ rằng chi phí bỏ ra để bảo vệ máy ATM có thể cao hơn lợi nhuận thu được từ máy đó. Vì vậy, Nhà nước cần cần nhanh chóng hoàn thiện một hành lang pháp lý hoàn chỉnh nhằm giúp người dân có ý thức tuân thủ luật pháp và tạo điều kiện cho hoạt động kinh doanh thẻ phát triển hơn.
3.3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
Việc đầu tư xây dựng sơ sở hạ tầng, trang thiết bị để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không là vấn đề của riêng nghành ngân hàng mà của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy, Nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng.
Riêng đối với lĩnh vực thẻ, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ mà nếu chỉ có nghành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi.
3.4. Ngân hàng Nhà nước cần tạo tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát hành , sử dụng và thanh toán thẻ
Hiện nay, hoạt động thanh toán thẻ còn rời rạc, chưa thống nhất trên toàn quốc. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần xem xét đến việc xây dựng một hệ thống thanh toán thẻ toàn quốc bao gồm một trung tâm xử lý thanh toán được kết nối với tất cả ngân hàng thành viên tham gia nhằm mở rộng phát hành, thanh toán thẻ nội địa cũng như quốc tế. Hệ thống này có ý nghĩa bao trùm trên cả hai mặt: kinh tế va quản lý. Một mặt chúng ta có thể tiết kiệm được chi phí đầu tư cho các ngân hàng, có được hệ thống thanh toán liên hàng, đồng thời mở rộng được phạm vi sử dụng thẻ của khách hàng. Mặt khác, Nhà nước sẽ tăng cường được việc thanh tra, kiểm tra, kiểm soát tình hình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ.
Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ
Hoàn chỉnh môi trường pháp lý là vấn đề cần thiết để thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong xã hội. Thẻ do Vietconbank phát hành hiện nay chịu sự quy định chặt chẽ của Hiệp hội thẻ quốc tế. Nhưng chỉ như vậy là chưa đủ. Cần có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện, đầy đủ cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có duy nhất một Quy chế của Ngân hàng Nhà nước về phát minh, sử dụng và thanh toán thẻ (ban hành ngày 19/10/1999). Đó chỉ là một vản bản có tính chất hướng dẫn chung còn về quy trình cụ thể thì do từng ngân hàng tự đề ra, chứ không có sự thống nhất chung. Một khi thẻ đã được sử dụng phổ biến và trở thành phương tiện thanh toán hữu hiệu thì rất cần có một pháp lệnh về thẻ thanh toán với những điều khoản chặt chẽ, thống nhất với các văn bản có liên quan đến quản lý ngoại hối, tín dụng chung.
Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các ĐVCNT nhưng chưa có phần đề cập đến hạn mức thanh toán và tín dụng của thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Chính sách quản lý ngoại hối cần phải có quy định riêng cho thẻ thanh toán, nhất là thẻ tín dụng quốc tế nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ nhưng vừa phải tạo điều kiện cho phát hành thẻ của ngân hàng và sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế ở mức độ nào đó.
Chính sách tín dụng phải có quy định riêng cho thẻ tín dụng- một loại hình tín dụng mới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, đảm bảo tín dụng cho khách hàng của mình, giảm khó khăn, phiền hà cho khách hàng để tăng lượng khách hàng sử dụng thẻ. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng chủ thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản vay thông thường mà có thể nới rộng hơn và lưu tâm hơn đến khả năng thanh toán của khách hàng căn cứ vào tính ổn định thường xuyên của thu nhập. Ngoài ra, cũng cần quy định rõ vấn đề liên quan đến dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro cho chủ thẻ và ngân hàng.
3.6. Nâng cao ý thức và trình độ của người dân
Đây là một khâu quan trọng không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế phục vụ cho lưu thông hàng hoá hàng hóa dịch vụ mà còn đóng góp để có được một xã hội văn minh, lịch sự, tiên tiến. Hiện nay, ở Việt Nam còn rất nhiều người còn không biết đến dịch vụ thẻ là gì. Vì vậy, cần có những phương pháp giáo dục cần thiết ngay từ bậc học phổ thông như nâng cao trình độ tin học của học sinh từ cấp phổ thông cơ sở để chúng có thể nắm được những khái niệm, nguyên tắc cơ bản về việc ứng dụng tin học. Từ đó chúng sẽ tiếp cận được với dịch vụ thẻ của ngân hàng. Ngoài ra cần tạo ra cho chúng những ý thức bảo vệ của công, như trong việc bảo vệ các thiết bị, máy móc đặt ở những nơi công cộng. Đây là những nền tảng vũng chắc không chỉ đề phát triển dịch vụ thẻ mà còn xây dựng một xã hội Việt Nam văn minh, lịch sự và phát triển.
Kết luận
Phát triển nghiệp vụ thanh toán thẻ là một định hướng về đổi mới hoạt động của hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Cho đến nay công tác phát hành và thanh toán thẻ đã được thực hiện ở NHNT hơn 10 năm. Thời gian đó chưa phải là dài nhưng cũng đủ để ta nhìn nhận và đánh giá về nó. Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ của NHNT đã có những thay đổi đáng kể, từ chỗ chỉ làm đại lý thanh toán cho các tổ chức thẻ quốc tế thì nay đã tự phát hành thẻ. Doanh số thanh toán có thời kỳ tăng trưởng hơn 200%. Tuy nhiên, những kết quả đạt đựơc chưa phải là nhiều. Mặc dù NHNT đã có những cố gắng nhưng hoạt động phát hành và thanh toán thẻ ở NHNT thực sự chưa phát triển lắm. NHNT còn gặp phải những khó khăn, vướng mắc chưa giải quyết được trong việc phát hành và thanh toán thẻ. Những khó khăn, vướng mắc xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, trong đó nguyên nhân quan trọng nhất là công tác phát hành và thanh toán thẻ tại ngân hàng còn phụ thuộc nhiều vào bên ngoài, chưa tìm được khách hàng ở thị trường trong nước- Đây là một thị trường đầy tiềm năng.
Xác định được nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc trong phát hành và thanh toán thẻ, NHNT có thể chưa khắc phục và thay đổi ngay được vi chúng đòi hỏi phải có qúa trình, tốn nhiều thời gian và nỗ lực. Song cùng với sự chỉ đạo thường xuyên của Ngân hàng Nhà nước, sự hỗ trợ tích cực của Nhà nước và sự cố gắng của toàn NHNT trong xu thế phát triển chung của thế giới, tôi hy vọng rằng những giải pháp được đưa ra trong chuyên đề này sẽ đóng góp phần nào vào quá trình phát triển dịch vụ thẻ thanh toán ở NHNT nói riêng và Việt Nam nói chung.
Tài liệu tham khảo
Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính, Minskin, NXB khoa học kỹ thuật năm 1995.
Thẻ thanh toán quốc tế và việc ứng dụng thẻ vào Việt Nam, Lê Văn Tề, NXB trẻ năm 1999.
Phạm Ngọc Trung (chủ biên), Marketing trong ngân hàng, NXB Thống kê, năm 1996.
Văn kiện đại hội Đảng VIII, NXB Sự thật, năm 1998.
Quyết định 22/QĐ NH1 ngày 21/02/1994 về quy chế phát hành và sử dụng séc.
Nghị định số 30/CP ngày 09/05/1996 về hướng dẫn thực hiện phát hành và sử dụng séc.
Quyết định số 94/QĐ/NHNT/HĐQT về biểu phí phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ quốc tế.
Quy chế về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ quốc tế của NHNT VN.
Tờ trình của phòng quản lý thẻ NHNTVN lên ban lãnh đạo.
Báo cáo thường niên NHNT từ năm 1996 đến năm 2002.
Thị trường tài chính số 6 năm 2002.
Tạp chí ngân hàng số chuyên đề tháng 11-1998.
Thông tin NHNT.
Tài liệu tập huấn thanh toán thẻ NHNT.
Thông tư số 07/TT/NH1 về hướng dẫn thực hiện việc phát hành, sử dụng và thanh toán séc.
Hướng dẫn thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của NHNT VN.
Cẩm nang thực hiện dịch vụ American express của NHNT VN
American express Card Acceptance Common Questions
Mục lục
Lời nói đầu 1
Chương I: Lý luận chung về thẻ thanh toán 4
I. Tổng quan về thẻ thanh toán 4
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của thẻ thanh toán 4
1.2. Khái niệm, đặc điểm cấu tạo phân loại thẻ 5
1.3. Quy trình phát hành và thanh toán thẻ 9
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát hành và thanh toán thẻ 14
1.5. Một số tiện ích của thẻ thanh toán 17
1.6. Một số rủi ro trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ 19
II. Kinh nghiệm và xu thế phát triển của công tác phát hành, xử dụng và thanh toán thẻ trên thế giới 21
2.1. Kinh nghiệm của tổ chức thẻ American Express 21
2.2. Xu thế phát triển thẻ tín dụng tại một số khu vực trên thế giới 23
2.3. Triển vọng phát triển của công nghệ thẻ ở Việt Nam 25
Chương II: Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28
I. Tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thẻ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28
II. Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 30
2.1. Công tác phát hành thẻ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 30
2.2. Công tác thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 44
III. Một số hạn chế, khó khăn cần giải quyết trong công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 56
3.1. Đối tượng sử dụng thẻ còn hạn chế 57
3.2. Môi trường thanh toán thẻ nhỏ 58
3.3. Công nghệ thẻ chưa đáp ứng được yêu cầu 59
3.4. Rủi ro phát sinh trong phát hành và thanh toán thẻ 60
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 62
I. Định hướng phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 62
1.1. Định hướng phát triển thẻ thanh toán trong hệ thống ngân hàng Việt Nam 62
1.2. Định hướng phát triển của NHNT trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ 63
II. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 66
2.1. Giải pháp cho việc phát hành thẻ tại Vietcombank 66
2.2. Giải pháp cho việc thanh toán thẻ tại Vietcombank 75
2.3. Phòng chống rủi ro trong phát hành và thanh toán thẻ 81
III. Một số kiến nghị 85
3.1. Dành một số ưu tiên đối với những hoạt động liên quan đến thẻ 85
3.2. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ 86
3.3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 86
3.4. Ngân hàng Nhà nước cần tạo tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. 87
3.5. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ 87
3.6. Nâng cao ý thức và trình độ của người dân 88
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0552.doc