Bộ Giáo dục và Đào tạo
Trường Đại học Kinh tế TP.HCM
Khoa Luật Kinh tế
Đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên :
Pháp luật về
Thương mại điện tử tại Việt Nam
_________________
7/2008
Pháp luật về
thương mại điện
tử tại Việt Nam
2008
Đại học Kinh tế Tp. HCM
Khoa Luật Kinh tế
7/19/2008
NHẬN XÉT CUẢ HỘI ĐỒNG ĐÁNH GIÁ
..................................................................................................................
...................................................
67 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1891 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Pháp luật về thương mại điện tử tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
...............................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
..................................................................................................................
MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU
Phần I : Những vấn đề về TMĐT ................................................... . .. 1
Chương I : Bối cảnh lịch sử .............................................................. 1
1) Thương mại điện tử trên trường quốc tế ..................................................... 1
2) Đặc điểm Thương mại điện tử tại Việt Nam ................................................ 5
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh
hoạt động thương mại điện tử .................................................................. 8
1) Các văn kiện quốc tế liên quan đến hoạt động thương mại điện tử .......... 8
1.1) Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử
(UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce) ................................... 8
1.1.1) Mục đích cuả Đạo luật mẫu
1.1.2) Phạm vi điều chỉnh cuả Đạo luật mẫu
1.1.3) Cấu trúc cuả Đạo luật mẫu
1.1.4) Một đạo luật “khung” (framework) được bổ sung
bởi các quy định kỹ thuật
1.1.5) Cách tiếp cận theo “tương đồng chức năng”
(“functional – equivalent” approach)
1.1.6) Mối quan hệ giưã thuộc tính chung và bắt buộc
1.2) Đạo luật mẫu về chữ ký điện tử
(UNCITRAL Model Law on Electronic Signature) ................................... 16
1.2.1) Mục đích cuả Đạo luật mẫu
1.2.2) Nguồn gốc pháp lý cuả Đạo luật mẫu
1.2.3) Mối tương quan với Đạo luật mẫu về
Thương mại điện tử 18
1.2.4) Một đạo luật khung được bổ sung bởi
các quy định kỹ thuật và điều khoản hợp đồng
1.2.5) Một số điều khoản bổ sung đối với
hiệu lực pháp lý cuả chữ lý điện tử
1.2.6) Các quy định cơ bản điều chỉnh hành vi cuả
các bên có liên quan
1.2.7) Một khung pháp lý “công bằng về kỹ thuật”
(technology – nuetral)
1.2.8) Nguyên tắc không phân biệt đối xử đối với
chữ ký điện tử có nguồn gốc nước ngoài
1.3) Công ước về việc sử dụng thông tin điện tử trong
hợp đồng quốc tế (United Nations Convention on the Use of
Electronic Communications in International Contracts) .......................... 26
1.3.1) Mục đích cuả Công ước
1.3.2) Phạm vi áp dụng cuả Công ước (điều 1 và 2)
1.3.2) Trụ sở cuả các bên và yêu cầu về thông tin (điều 6 và 7)
1.3.3) Nguyên tắc đối xử đối với hợp đồng (điều 8,11, 12 và 13)
1.3.4) Các yêu cầu về hình thức (điều 9)
1.3.5) Thời điểm và điạ điểm gửi, nhận thông tin điện tử
1.3.6) Mối quan hệ đối với các văn kiện quốc tế khác (điều 20)
2) So sánh và phân tích Luật giao dịch điện tử Việt Nam
trong mối tương quan với các quy định quốc tế .............................................. 32
2.1) Một số điểm tương đồng ................................................................ 32
2.1.1) Mục đích cuả Luật giao dịch điện tử
2.1.2) Phạm vi điều chỉnh cuả Luật giao dịch điện tử
2.1.3) Các nguyên tắc chung cuả Luật giao dịch điện tử
2.1.4) Sự thưà nhận chung đối với giá trị pháp lý cuả
thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử
2.2) Một số điểm khác biệt .................................................................... 34
2.3.1) Một số bất cập về khái niệm và tên gọi
2.3.2) Về nội dung và cấu trúc cuả Luật giao dịch điện tử 2005
và các văn bản có liên quan
2.3.3) Các vấn đề khác
Chương III : Vài nét về thương mại điện tử
trong hoạt động thanh toán .............................................................. 38
1) Hoạt động thanh toán quốc tế bằng tín dụng thư ....................................... 38
2) Hoạt động thanh toán điện tử trong nước ................................................... 41
2.1) Ngân hàng điện tử .......................................................................... 41
2.1.1) Khái quát về E – Banking Việt Nam
2.1.2) Banking Việt Nam 2007
2.1.3) Những vấn đề cần có giải pháp toàn diện và sâu rộng
2.2) Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn
2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 tại Việt Nam ............................ 44
Phần II : Giải pháp hoàn thiện khung pháp lý
về thương mại điện tử cuả Việt Nam ............................................. . ..46
1) Các điều khoản cần bổ sung vào Luật giao dịch điện tử 2005 ................... 46
2) Các mục cần sưả đổi ....................................................................................... 48
3) Các khuyến nghị khác .................................................................................... 49
Lời mở đầu
Nếu ở thế kỷ XIX, con người tự hào với việc phát minh ra những toà nhà khổng
lồ với ống khói chọc trời như một biểu tượng cho nền công nghiệp hiện đại, thì thế kỷ
XXI được nhắc đến dưới tên gọi “thời đại số hoá” (digital world), được tượng trưng
bằng những con số 0 và 1. Với sự phát minh trí tuệ nhân tạo, lần đầu tiên trong lịch sử
loài người đã có thể biến mọi điều không thể thành có thể, không những thế việc cho
ra đời những phát minh mới gắn kèm với sản phẩm trí tuệ đã ngày càng thay đổi cách
một người sinh hoạt và tận hưởng cuộc sống như theo cách Bill Gates nói : “Trong
thời gian mười năm nưã, con người sẽ sống trên mười đầu ngón tay” khi phát minh ra
hệ điều hành cuả riêng mình
Tận dụng thành quả cuả cuộc cách mạng “xám”, các công nghệ truyền thông
hiện đại đã và đang được đưa vào ứng dụng trong nhiều lĩnh vực cuộc sống, mà một
trong số đó là hoạt động thương mại. Việc sử dụng các công nghệ này đem lại một cơ
hội cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp, cũng như góp phần làm “phẳng hoá thế
giới”, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức cho hệ thống pháp luật các nước. Nhận thấy
tầm quan trọng, cũng như những thách thức mà việc áp dụng công nghệ điện tử một
cách rộng rãi sẽ phải đối mặt, UNCITRAL (Ủy ban Liên Hiệp Quốc về Thương mại
quốc tế) đã bắt tay vào nghiên cứu một nhóm các quy định nhằm giải toả các trở ngại
pháp lý hiện đang tồn tại không những trong hệ thống pháp luật các nước mà còn
trong cả các văn kiện quốc tế. Và cho đến nay, Uỷ ban này, dưới sự uỷ quyền cuả
Liên Hiệp Quốc, đã cho ra đời hai đạo luật mẫu (năm 1996 và 2001) và một công ước
(năm 2005) với mong muốn đưa ra phương thức mới để giải quyết những trở ngại,
cũng như mở đường cho việc sử dụng ngày càng nhiều hơn nưã công nghệ truyền
thông điện tử trong hoạt động thương mại quốc tế
Vì vậy, đây là thời điểm thích hợp để đưa ra những phân tích cũng như so sánh
giưã các quy định cuả Việt Nam với hệ thống pháp luật quốc tế về thương mại điện
tử. Trong quá trình chuẩn bị và soạn thảo, nhóm đồng tác giả nhận thấy cho đến nay
vẫn chưa có bất kỳ một nghiên cứu chính thức nào để hiện đại hoá và hoàn chỉnh các
quy phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Đồng thời, xét thấy nhu cầu phát triển một
nền kinh tế dưạ trên việc ứng dụng các công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông
tin, đang ngày càng đa dạng và lớn mạnh, nhưng cũng tiềm ẩn trong đó nhiều rủi ro,
bài viết được xây dựng với mong muốn không chỉ cung cấp các kiến thức cần thiết mà
còn đưa ra giải pháp thật sự phù hợp cho vấn đề thương mại điện tử tại Việt Nam
Tuy nhiên, bài viết này không có ý định tiếp cận trên mọi góc độ cuả thương mại
điện tử, mà chỉ giới hạn trong việc giới thiệu, so sánh và phân tích các khung pháp lý
hiện đang được áp dụng tại Việt Nam. Dẫu vậy, nếu chỉ xem xét trên góc độ luật pháp
sẽ dễ dẫn đến hậu quả xa rời thực tế và có phần thiếu sót khi không đề cập đến những
sự kiện hiện đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên toàn quốc. Vì vậy, bài viết này đưa
ra một bố cục mở gồm hai phần : Phần I gồm ba chương với nội dung chính là xem
xét vấn đề thương mại điện tử một cách chung và bao quát nhất, và Phần II là những
giải pháp được cho là cần thiết để tái cấu trúc các quy định cuả Việt Nam về vấn đề
này một cách phù hợp với thực tiễn áp dụng, cũng như với thông lệ quốc tế
Vì lý do nội dung bài viết có sự giới hạn nên nhóm đồng tác giả quyết định tách
riêng các so sánh và phân tích cũng như nội dung khuyến nghị cụ thể thành một phụ
bản riêng, kèm theo là ba văn kiện quốc tế đã được đề cập và một ấn bản tập san cuả
các tổ chức quốc tế khảo sát về vấn đề thương mại điện tử. Do vậy, nhóm soạn thảo
mong điều này sẽ không tạo khó khăn trong việc theo dõi nội dung cuả bài viết
Nhóm đồng tác giả - Sinh viên Khoa luật Kinh tế, ĐH Kinh tế Tp. HCM
Tháng 7/2008
qwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmrtyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopasdfghjklzxcvbnmqwertyuiopas
PHẦN I
Những vấn đề về
Thương mại điện tử
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 1 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 1
Chương I : Bối cảnh lịch sử
1) Thương mại điện tử trên trường quốc tế :
“… Nhận thấy rằng số lượng giao dịch quốc tế bằng phương tiện trao đổi dữ liệu
điện tử cùng các phương tiện truyền thông khác (thường được nhắc đến dưới tên
gọi Thương mại điện tử - TMĐT) mà liên quan đến việc sử dụng các phương thức
thay thế cho giao dịch và lưu trữ thông tin bằng giấy viết ngày càng gia tăng…”
(trích Phần mở đầu Nghị quyết 51/162 ngày 16/12/1996 cuả UNCITRAL về TMĐT)
Phát triển từ những chiếc máy tính đầu tiên có kích thước bằng cả gian phòng với
mong muốn giảm nhẹ gánh nặng tính toán, khoa học kỹ thuật đã tiến thêm một bước
trong việc kết nối mạng nội bộ với nhau rồi mở dần sang một mạng lưới rộng hơn với
mong muốn xoá bỏ những cách trở về mặt điạ lý
Với sự ra đời đầu tiên cuả mô hình OSI (Open System Interconnection Model) 7
lớp cuả Tổ chức về các chuẩn mực quốc tế (International Standard Organization –
ISO) , và tiếp theo sau là sự cải tiến thành mô hình TCP/IP thì khả năng giao thương
ngày càng được mở rộng với những lợi ích thiết thực như : tiết kiệm thời gian, lưu
lượng thông tin đa chiều và giảm bớt gánh nặng chi phí so với các mô hình kinh tế
truyền thống
Theo nghiên cứu được trích lục từ tập san “Kế hoạch hành động toàn cầu cho nền
kinh tế điện tử” – A Global Action Plan for Electronic Business (tái bản lần 3, tháng
7/2002) do các tổ chức quốc tế như ICC, BIAC, AGB,… phát hành thì ở rất nhiều lĩnh
vực tồn tại chứng cứ rõ ràng rằng nền kinh tế đang thích ứng với một môi trường mới
bằng cách tạo ra một sự trong suốt và các biện pháp bảo vệ người tiêu dùng chưa từng
có từ trước đến nay. Trong khi một số kết quả từ các hoạt động kinh tế có thể dễ dàng
định lượng thì phần lớn được thể hiện dưới hình ảnh cuả sự bùng nổ TMĐT trên toàn
cầu
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 2 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 2
Ngày nay, việc các nền kinh tế hoạt động theo chiều hướng tự điều chỉnh không
còn là một hiện tượng mới. Xuyên suốt chiều dài lịch sử, nền kinh tế tự bản thân đã
hình thành các chuẩn mực và quy tắc mà biểu hiện bên ngoài là sự ra đời cuả rất nhiều
tổ chức quốc tế với các vai trò khác nhau nhằm giảm thiểu chi phí giao dịch, phòng
tránh và giải quyết tranh chấp, và nhằm chiếm được lòng tin từ người tiêu dùng
Tuy nhiên, tại những bước chuyển đổi và giai đoạn sơ khai cuả TMĐT thì rủi ro
ngày càng gia tăng khi xét đến sự nóng vội và can thiệp không cần thiết cuả Chính phủ
các nước. Điều này làm dấy lên ý thức trách nhiệm cuả từng doanh nghiệp trong việc
mở rộng, phát triển một môi trường tin cậy thông qua xu hướng tự điều chỉnh và đổi
mới công nghệ. Nền kinh tế tự bản thân có những động lực rất mạnh – xuất phát từ
cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường – để khuyến khích sự trao quyền cho người sử
dụng, nhưng sẽ chỉ cung cấp những nguồn đầu tư cần thiết nếu có thể thuyết phục
Chính phủ các nước công nhận và mở rộng sự lãnh đạo cuả nền kinh tế trong việc tạo
lập một môi trường TMĐT năng động
Cùng với xu hướng đó là sự vận động từ Liên Hiệp Quốc (LHQ) nhằm loại bỏ
những rào cản hiện có đối với việc sử dụng ngày càng nhiều hơn nưã các phương tiện
điện tử thay thế cho các phương thức giao dịch, lưu giữ bằng giấy viết truyền thống.
Bằng cách uỷ quyền cho Uỷ ban LHQ về Luật Thương mại quốc tế (TMQT) (United
Nations Commison on International Trade Law - UNCITRAL) – là cơ quan có nhiệm
vụ thúc đẩy tiến trình hoà hợp, thống nhất Luật TMQT và quan tâm đến lợi ích toàn xã
hội, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển, đối với việc phát triển TMQT một cách
toàn diện – thì lần đầu tiên đạo luật mẫu điều chỉnh trên phạm vi rộng ở cấp độ quốc tế
đã được ban hành vào ngày 16/12/1996, sau đó được bổ sung thêm điều 5 bis vào năm
1998, với tên gọi “Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử”
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 3 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 3
Đạo luật mẫu được ban hành với mục đích đóng vai trò như một chuẩn mực để
các quốc gia đánh giá và làm mới những quy phạm và thực tiễn áp dụng trong phạm vi
các mối quan hệ thương mại phát sinh từ việc sử dụng công nghệ điện tử và phương
tiện truyền thông hiện đại, cũng như để ban hành các quy định tương ứng
Một trong số các vấn đề được đề cập trong Đạo luật mẫu về TMĐT là vấn đề chữ
ký, mà theo đó việc sử dụng chữ ký điện tử thay cho một số chức năng cơ bản cuả chữ
ký truyền thống (ký tên, đóng dấu, dán tem, đục lỗ, v.v…) vẫn còn gặp nhiều trở ngại
pháp lý. Nhóm giúp việc cho LHQ (Working Group) mà đã tham gia soạn thảo Đạo
luật mẫu nay được giao nhiệm vụ tiếp tục tìm hiểu, xem xét tính khả thi cuả việc chuẩn
bị các quy định chung về chủ đề này. Các thành viên trong nhóm đều thống nhất rằng
những quy định được soạn thảo cần giải quyết các vấn đề sau đây :
_ Điều kiện pháp lý cơ bản để điều chỉnh việc sử dụng chứng thư điện tử
(certificate), bao gồm cả các khiá cạnh kỹ thuật phát sinh từ quá trình chứng thực
(certification progress) và bản thân các chứng thư điện tử được sử dụng
_ Khả năng áp dụng chứng thư điện tử
_ Phân chia rủi ro và nghiã vụ đối với các bên tham gia (người sử dụng – users, nhà
cung cấp dịch vụ chứng thực – certification service providers, và bên thứ ba – third
parties) trong phạm vi sử dụng các công nghệ chứng thư điện tử
_ Và các vấn đề khác có liên quan
Bắt đầu từ năm 1996 và chính thức hoàn thành vào năm 2001, UNCITRAL đã
ban hành “Đạo luật mẫu về chữ ký điện tử” , theo đó khuyến khích các quốc gia đã
chấp thuận Đạo luật mẫu về TMĐT nay tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các quy định
về chữ ký điện tử
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 4 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 4
Tiếp tục dựa trên những nền tảng được xây dựng trong Đạo luật mẫu về TMĐT
1996, LHQ đã cho ra đời công ước đầu tiên áp dụng việc sử dụng TMĐT khi giao kết
hợp đồng vào ngày 23/11/2005. Đối với một “đạo luật mẫu” thì việc áp dụng các quy
định này tại nước sở tại luôn mở ra một khả năng linh hoạt cao hơn thông qua việc cho
phép các quốc gia thay đổi hoặc bỏ qua một số điều luật theo nguyên tắc tự định đoạt
(State autonomy). Trong khi đối với một “công ước” thì quyền này đặc biệt bị hạn chế
và trong một số trường hợp cụ thể, các công ước về thương mại thường hoặc không
cho phép bất kỳ một sự bảo lưu nào, hoặc nếu có thì rất ít và rất cụ thể. Tuy nhiên, xét
theo một khiá cạnh khác thì một công ước tuy gây khó khăn nhiều hơn cho các nước
muốn tham gia – nhưng mong muốn có nhiều lựa chọn hơn trong việc thay đổi các quy
định này cho phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội cuả mình – thì khả năng áp dụng
một cách thống nhất lại cao hơn, tức đảm bảo mục tiêu ban đầu cuả bất kỳ một văn
kiện quốc tế nào là tạo ra sự thông suốt tuyệt đối trong quá trình áp dụng
Như vậy, bằng cách khởi xướng việc thành lập một đạo luật mẫu đầu tiên về
TMĐT – và sau này trở thành nguồn cơ bản cho các quy định khác điều chỉnh từng
lĩnh vực cụ thể – đã tạo ra một khung pháp lý chung cho các chủ thể tham gia vào một
phương thức kinh doanh mới tiện lợi, tiết kiệm và an toàn trên diện rộng. Không
những thế, với sự tham gia cuả hầu hết các nước thành viên LHQ đã mở ra một cơ hội
cho các doanh nghiệp nội điạ tiếp cận với những tiến bộ mới từ khoa học kỹ thuật, đặc
biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vưà (Small and Medium Enterprises – SMEs) mà theo
đánh giá cuả tập san “Kế hoạch toàn cầu cho nền kinh tế điện tử” sẽ là khu vực nòng
cốt trong việc phát triển hoạt động TMĐT
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 5 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 5
2) Đặc điểm Thương mại điện tử tại Việt Nam :
Đối với Việt Nam (VN) khái niệm TMĐT còn rất mới và chỉ thật sự tạo thành
một xu hướng vào giai đoạn đầu những năm 1998 – 2000, khi mà bắt đầu có sự xuất
hiện cuả hệ thống mạng internet, nhưng lại được chấp nhận đầu tiên từ khu vực kinh
doanh các trò chơi giải trí chứ không phải xuất phát từ khu vực các ngành công nghiệp,
là nơi sản sinh ra hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interexchange –
EDI). Nhắc lại sự xuất hiện lần đầu cuả trò chơi trực tuyến MU (Game Online – GO)
đã tạo ra một làn sóng lôi cuốn tầng lớp thanh thiếu niên với mục đích ban đầu là giải
trí đơn thuần, nhưng nhanh chóng mở ra một khó khăn mới cho giới làm luật về việc
xác định và giải quyết các vấn đề phát sinh từ “quyền sở hữu tài sản ảo”
Đến đầu năm 2000, khi mà “lên net” trở thành một phần không thể thiếu trong
sinh hoạt cuả giới trẻ thì cũng là lúc hàng loạt các trung tâm dạy nghề giới thiệu các
khoá học về TMĐT. Từ đó phản ánh một thực tế là xã hội đang dần chú ý vào sự có
mặt cuả việc kinh doanh trên mạng. Điều này càng được phản ánh rõ hơn nưã khi xuất
hiện các trang web cá nhân, mà thông dụng ở VN là Blog Yahoo! 360o, đã tạo cơ hội
cho các bạn trẻ với mong muốn trải nghiệm và thử sức mình tham gia vào một hoạt
động sơ khai nhất cuả nền kinh tế TMĐT là bán hàng qua mạng
Tuy nhiên, nếu xem xét vấn đề ở một góc nhìn cận cảnh thì khó có thể nói TMĐT
đã và đang tồn tại ở VN vì ba lý do sau đây :
_ Thứ nhất, như trên đã đề cập, khái niệm TMĐT và các biểu hiện cuả nó tại VN
không hình thành từ hoạt động công nghiệp, mà thay vào đó lại được chấp nhận trước
nhất từ giới trẻ và khu vực kinh doanh các trò chơi giải trí. Lý giải cho vấn đề này có
thể kể đến hai yếu tố. Trước nhất, công nghệ điện tử được áp dụng ban đầu nhằm phục
vục cho hoạt động hành chính hơn là tạo cơ hội cho mọi người dân tiếp cận, và do vậy
chưa được xã hội tiếp nhận một cách rộng rãi. Cụ thể là sự thất bại cuả “Đề án tin học
hoá quản lý hành chính Nhà nước giai đoạn 2001 – 2005” (hay thường gọi là Đề án
112). Nguyên nhân còn lại phát sinh từ chính đặc điểm xã hội VN : một nền kinh tế
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 6 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 6
nhỏ lẻ nhưng năng động và nhạy cảm. Xuất phát từ mong muốn tạo thêm thu nhập
trong khả năng có thể, bằng cách sử dụng công nghệ mạng để rao bán các sản phẩm
ban đầu đã mang lại một nguồn lợi không nhỏ và từ đó kích thích một làn sóng lan toả
đến từng ngóc ngách trong nền kinh tế. Cụ thể là sự ra đời cuả các “chợ điện tử” bao
gồm các trang web tự lập, các diễn đàn công cộng và sau cùng là sự góp mặt cuả các
doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực truyền thống. Tóm lại, việc sử dụng các
yếu tố kỹ thuật điện tử chỉ dừng ở mức độ tự phát, quy mô nhỏ lẻ và phục vụ cho mục
đích cá nhân (personal purpose) là chủ yếu thay vì các hoạt động kinh tế trên diện rộng
_ Thứ hai, VN nhìn chung còn đi theo hướng phát triển các ngành nghề truyền thống
và cơ bản (kể cả lĩnh vực công nghiệp) và hệ thống cơ sở mạng chưa phát triển đủ lớn
để phục vụ cho nhu cầu TMĐT. Bên cạnh đó, TMĐT theo cách hiểu rộng không chỉ
dừng lại ở việc mua bán các mặt hàng có giá trị nhỏ hoặc dùng cho mục đích sinh hoạt
cá nhân, mà còn bao gồm các lĩnh vực thương mại khác như giáo dục, tư vấn, cung cấp
các sản phẩm trí tuệ, và đặc biệt quan trọng là việc thay thế các chức năng cơ bản trong
thế giới giấy tờ và chữ viết (paper – based world). Cuối cùng là đi kèm với việc sử
dụng các công nghệ điện tử phục vụ cho hoạt động mua bán (theo nghiã hẹp) và
thương mại (theo nghiã rộng) phải có sự góp mặt cuả hệ thống thanh toán điện tử mà
chủ yếu là sự tham gia cuả các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong việc cung cấp
các dịch vụ thanh toán không sử dụng tiền mặt (một cách gọi khác là Ngân hàng điện
tử). Tuy nhiên, hiện ở VN, việc sử dụng các công cụ thanh toán hiện đại thay thế cho
tiền mặt chưa thực sự phát triển ở mức sâu do nhiều nguyên nhân khác nhau
_ Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến việc hình thành khung pháp lý phù hợp để
tạo lập một môi trường kinh doanh mới lành mạnh. Nếu nhìn ra bên ngoài thì khái
niệm về TMĐT không thực sự bắt nguồn từ hoạt động kinh tế tại VN mà mang thuộc
tính quốc tế nhiều hơn (sự ra đời cuả các đạo luật mẫu và công ước quốc tế về TMĐT).
Tuy cho đến nay VN đã ban hành Luật giao dịch điện tử 2005 (trên cơ sở Đạo luật
mẫu về TMĐT 1996 và Đạo luật mẫu về chữ ký điện tử 2001 cuả UNCITRAL, do VN
hiện đã là thành viên cuả hai văn kiện này), Luật Công nghệ thông tin (CNTT) 2006
Phần I : Những vấn đề về TMĐT
Chương I : Bối cảnh lịch sử 2007 – 2008
– 7 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 7
(có hiệu lực ngày 1/1/2007) và các Nghị định hướng dẫn phát triển hoạt động CNTT
trong lĩnh vực Ngân hàng, nhưng xét về độ tuổi thì vẫn còn mới và chưa bao quát được
thực tế phát sinh cũng như đặc thù TMĐT tại VN. Ngoài ra, hiện các quy định này
chưa thực sự phản ánh đúng và đủ bản chất quốc tế mà vẫn còn tồn tại nhiều bó hẹp và
hạn chế đối với hoạt động TMĐT. Một ví dụ điển hình là sự thiếu sót quyền tự định
đoạt cuả các bên tham gia (party autonomy) trong Luật giao dịch điện tử 2005. Điều
này sẽ được phân tích rõ hơn trong Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh
hoạt động TMĐT
Qua các đánh giá trên có thể rút ra một số kết luận sau về đặc điểm cuả TMĐT tại
VN
_ Mô hình hoạt động nhỏ lẻ và không ổn định
_ Quá trình hình thành và phát triển chưa lâu nhưng biểu hiện thì vô cùng đa dạng và
phức tạp
_ Chưa tồn tại một khung pháp lý hoàn chỉnh xét theo hai góc độ : chính phủ – doanh
nghiệp (Government to Businnes – G2B) và doanh nghiệp – người tiêu dùng (Business
to Customer – B2C), hoặc doanh nghiệp – doanh nghiệp (Business to Business – B2B)
_ Hệ thống thanh toán điện tử theo sau các trào lưu TMĐT chưa phát triển và còn
phân mảnh, không thống nhất nhưng đang dần có xu hướng hợp nhất (thông qua việc
liên minh, liên kết giưã các tổ chức phát hành thẻ ATM)
_ Cơ sở hạ tầng mạng phát triển chưa đồng bộ và chi phí sử dụng còn cao
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 8 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 8
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh hoạt
động thương mại điện tử
1) Các văn kiện quốc tế liên quan đến hoạt động thương mại điện tử :
1.1) Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử (UNCITRAL Model Law on
Electronic Commerce) :
1.1.1) Mục đích cuả Đạo luật mẫu :
Việc sử dụng các phương tiện hiện đại trong truyền thông như thư điện tử
(electronic mail) và trao đổi thông điệp dữ liệu điện tử (EDI) để thực hiện giao dịch
TMQT đang phát triển một cách vũ bão và được mong đợi sẽ phát triển cùng với sự hỗ
trợ từ công nghệ cao như xa lộ thông tin (information highway) và internet – đang
ngày càng trở nên phổ biến với mức giá mỗi lúc một rẻ hơn. Tuy nhiên, việc trao đổi
thông tin một cách hợp pháp dưới dạng thông điệp phi giấy tờ (paperless messages) có
thể bị cản trở bởi các quy định bắt buộc đối với việc sử dụng các thông điệp dữ liệu
điện tử, hoặc do tính không ổn định đối với hiệu lực pháp lý dành cho các thông điệp
dữ liệu này. Do vậy, Đạo luật mẫu ra đời với mong muốn cung cấp cho các quốc gia
một nhóm các quy định hợp lý để loại bỏ các rào cản và tạo lập một môi trường pháp
lý an toàn hơn, được biết đến với tên gọi TMĐT. Các nguyên tắc cơ bản được trình
bày trong đạo luật này cũng dự định tiếp cận với hoạt động TMĐT trong khu vực tư
nhân và cá thể thông qua việc phác thảo một số giải pháp hợp đồng mà có thể cần đến
để vượt qua những trở ngại pháp lý, cũng như mở rộng việc sử dụng TMĐT
Để đáp lại thực tế là pháp luật hiện hành tại các quốc gia về hoạt động truyền
thông và lưu giữ thông tin không được đầy đủ hoặc lạc hậu vì không dự tính trước việc
sử dụng TMĐT trong nền kinh tế, UNCITRAL đã quyết định xây dựng các định chế
pháp lý đối với vấn đề này. Trong một số trường hợp cụ thể, các quy định nội điạ đang
ép buộc hoặc ngấm ngầm chưá đựng các hạn chế đối với việc sử dụng các phương
thức truyền thông hiện đại, ví dụ như quy định về việc sử dụng văn bản viết (written
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 9 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 9
documents), văn bản được ký (signed documents), hoặc văn bản gốc (original
documents). Trong khi một số ít các nước đã ban hành các quy định đối với một số
lĩnh vực cụ thể thì TMĐT vẫn chưa được xem xét dưới góc độ là một chỉnh thể thống
nhất. Đây có thể là nguồn gốc gây ra sự bất ổn định đối với thuộc tính pháp lý và giá
trị cuả thông tin chưá đựng trong một hình thức khác với hệ thống giấy tờ truyền
thống. Ngoài ra, khi việc sử dụng hệ thống EDI và thư điện tử ngày càng rộng rãi thì
yêu cầu cần có tương tự đối với hệ thống điện báo và fax cũng được nhiều quốc gia
quan tâm
Đạo luật mẫu cũng mong muốn dỡ bỏ những bất lợi phát sinh từ các quy định
không phù hợp ở cấp độ quốc gia đối với hoạt động TMQT mà cùng điều chỉnh việc
sử dụng công nghệ truyền thông điện tử là một nhân tố góp phần bó hẹp phạm vi tiếp
cận với thị trường quốc tế
Hơn thế nưã, xét trên góc độ rộng, Đạo luật mẫu có thể hữu ích trong một số tình
huống cụ thể với vai trò là một công cụ giải thích các công ước quốc tế hiện hành mà
hiện đang tồn tại các trở ngại pháp lý đối với hoạt động TMĐT, ví dụ như việc quy
định một số văn bản hoặc điều khoản hợp đồng phải thể hiện dưới dạng viết. Trong
mối quan hệ giưã các nước thành viên với các công ước này thì việc thông qua một
đạo luật mẫu như một quy định về giải nghiã sẽ cung cấp phương thức để thưà nhận
việc sử dụng TMĐT và hạn chế việc thương lượng lại các hiệp ước có liên quan
Đạo luật mẫu, với mục đích mở đầu và tạo điều kiện cho hoạt động TMĐT phát
triển cũng như đưa ra các chuẩn mực đối xử bình đẳng giưã việc sử dụng dữ liệu điện
tử và giấy viết, là cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế và tính hiệu quả trong TMQT. Bằng
cách kết hợp các phương thức nêu trong Đạo luật mẫu với các quy định hiện hành, các
nước thành viên sẽ tạo ra một môi trường trung gian bình đẳng (media – neutral
enviroment) khi các bên tham gia lựa chọn sử dụng phương tiện truyền thông điện tử
trong giao dịch
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 10 –
____________________._.___________________________________________________
______________
Trang 10
1.1.2) Phạm vi điều chỉnh cuả Đạo luật mẫu :
Tiêu đề cuả Đạo luật mẫu được nhắc đến dưới tên gọi TMĐT trong khi định
nghiã về EDI tại điều 2, Đạo luật mẫu không chỉ rõ như thế nào là một hoạt động
TMĐT. Trong quá trình chuẩn bị, Uỷ ban thống nhất cần phải xem xét khái niệm EDI
dưới góc độ rộng, bao gồm cả thực tiễn áp dụng rất đa dạng mà theo đó EDI được sử
dụng để đại diện cho hoạt động TMĐT, dù cho các thuật ngữ miêu tả khác được sử
dụng. Phương tiện truyền thông trong khái niệm TMĐT là các cách thức trao đổi dựa
trên việc sử dụng công nghệ điện tử : truyền thông bằng phương thức EDI theo nghiã
hẹp (sự trao đổi thông tin giưã các máy tính điện tử với nhau theo một định dạng
chuẩn); sự trao đổi dữ liệu điện tử liên quan đến việc sử dụng các chuẩn mở (còn gọi là
chuẩn công nghiệp – industrial standards) hoặc các chuẩn độc quyền; sự trao đổi cuả
các định dạng dữ liệu tự do bằng phương tiện điện tử như thông qua hệ thống internet.
Uỷ ban cũng lưu ý rằng, trong một số trường hợp cụ thể, khái niệm TMĐT cần bao
quát việc sử dụng các công nghệ khác như thư tín và fax
Cần lưu ý rằng, trong khi Đạo luật mẫu được soạn thảo với việc tham khảo nhiều
công nghệ truyền thông hiện đại, như EDI và thư điện tử, thì các nguyên tắc cơ bản mà
Đạo luật mẫu, cũng như toàn bộ các điều khoản, lấy làm cơ sở cũng dự định áp dụng
cho các công nghệ cũ hơn, ví dụ như fax. Cũng có những trường hợp tại một số thời
điểm trong quá trình giao tiếp giưã người khởi tạo và người tiếp nhận, mà dữ liệu được
số hoá (digitalized information), ban đầu chuyển đi dưới định dạng theo chuẩn EDI có
thể được chuyển tiếp trong định dạng thư tín được tạo bởi máy tính (computer –
generated telex) hoặc bản in dưới dạng fax (telecopy of a computer print – out). Một ví
dụ khác là một thông điệp dữ liệu có thể được khởi tạo bằng giọng nói và kết thúc
bằng định dạng EDI. Một đặc trưng cuả TMĐT là sự bao hàm những khác biệt cơ bản
giưã các định dạng thông điệp dữ liệu và các phương thức sử dụng giấy viết truyền
thống. Các trường hợp này dự định được bao hàm trong Đạo luật mẫu dựa trên mối
quan hệ với nhu cầu cuả người sử dụng về một nhóm quy định điều chỉnh các công
nghệ đa dạng mà được dùng để trao đổi với nhau. Một cách tổng quát, như một nguyên
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 11 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 11
tắc cơ bản, không một công nghệ truyền thông nào được loại trừ khỏi phạm vi điều
chỉnh cuả Đạo luật mẫu do cũng cần phải tính đến sự phát triển cuả các công nghệ mới
trong tương lai
Mục đích cuả Đạo luật mẫu là tạo ra khả năng áp dụng trên diện rộng các quy
định này. Do vậy, tuy tồn tại điều khoản cho phép sự loại trừ trong một số trường hợp
cụ thể thuộc phạm vi các điều 6, 7, 8, 11, 12, 15 và 17, các nước thành viên nên quyết
định không đưa vào các hạn chế đối với phạm vi áp dụng cuả Đạo luật mẫu
Đạo luật mẫu nên được xem xét như một nhóm các quy định cân đối và riêng
biệt, mà theo đó được khuyến nghị nên ban hành thành một quy định độc lập và duy
nhất trong hệ thống pháp luật nội điạ. Nhưng tuỳ theo đặc điểm cuả mỗi quốc gia, Đạo
luật mẫu có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau : hoặc là một quy phạm
độc lập, hoặc tồn tại trong nhiều văn bản khác nhau
1.1.3) Cấu trúc cuả Đạo luật mẫu :
Đạo luật mẫu được chia thành hai phần. Một giải quyết các vấn đề chung cuả
TMĐT và một xem xét trong một số lĩnh vực cụ thể. Cần lưu ý rằng, phần hai cuả Đạo
luật mẫu chỉ cấu thành từ chương I cuả phần này và chỉ áp dụng đối với hoạt động vận
chuyển hàng hoá. Đạo luật mẫu được xây dựng theo cấu trúc mở (open – ended
instrument) nên các vấn đề khác cuả TMĐT sẽ được đưa ra và bổ sung trong tương lai
UNCITRAL dự định sẽ tiếp tục quan sát sự phát triển về công nghệ, hoạt động
thương mại và quá trình lập pháp được điều chỉnh bởi đạo luật này và sẽ quyết định
việc đưa vào các điều khoản mới mang tính định khung hoặc sưả đổi các điều khoản
hiện tại
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 12 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 12
1.1.4) Một đạo luật “khung” (framework) được bổ sung bởi các quy định
kỹ thuật :
Đạo luật mẫu dự định sẽ đưa ra các chuẩn mực và nguyên tắc cơ bản để phát triển
việc sử dụng công nghệ hiện đại trong quá trình lưu giữ và trao đổi thông tin ở nhiều
tình huống khác nhau. Tuy nhiên, với vai trò định khung, Đạo luật mẫu không đưa ra
tất cả các quy định mà có thể xét thấy là cần thiết để quản lý các loại công nghệ này tại
các nước thành viên. Ngoài ra, Đạo luật mẫu cũng không có ý định bao quát mọi
trường hợp sử dụng TMĐT. Vì vậy, các quốc gia cần ban hành các quy định phù hợp
để bổ sung các yêu cầu chi tiết nhưng không đi ngược lại tinh thần cuả Đạo luật mẫu,
cũng như xem xét từng trường hợp cụ thể mà không làm thay đổi mục đích cuả Đạo
luật mẫu. Uỷ ban khuyến nghị các nước thành viên nên đặc biệt quan tâm đến mong
muốn duy trì ưu điểm linh hoạt cuả các điều khoản được xây dựng Đạo luật mẫu
Cần lưu ý rằng các công nghệ được đưa vào xem xét có thể làm phát sinh các vấn
đề pháp lý mà không được tìm thấy trong Đạo luật mẫu nhưng thay vào đó lại tồn tại
trong các định chế khác như Luật Hành chính, Luật Hình sự , các quy định về hợp
đồng, v.v… Do Đạo luật mẫu không có ý định giải quyết các trường hợp nêu trên
1.1.5) Cách tiếp cận theo “tương đồng chức năng” (“functional –
equivalent” approach) :
Đạo luật mẫu dựa trên sự thưà nhận từ các yêu cầu bắt buộc về việc sử dụng các
phương thức giấy tờ truyền thống (traditional paper – based documentation) mà hiện
đang gây ra trở ngại cho sự phát triển cuả các phương tiện truyền thông hiện đại.
Trong quá trình chuẩn bị, nhóm soạn thảo đưa ra xem xét khả năng phải đối mặt với
một số trở lực từ các quy định trong luật nội điạ, như việc mở rộng phạm vi cuả các
khái niệm về “văn bản viết” (writing), “chữ ký” (signature) và “bản gốc” (original), và
đối với các khái niệm về công nghệ máy tính. Những cách tiếp cận trên (theo hướng
kết hợp các thông điệp dữ liệu điện tử vào các quy định có sẵn đối với văn bản viết)
thường được sử dụng trong các hiệp ước quốc tế, như điều 7 Đạo luật mẫu về trọng tài
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 13 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 13
TMQT và điều 13 cuả Công ước Viena 1980 – CISG 1980. Nhóm soạn thảo thống
nhất rằng Đạo luật mẫu nên cho phép các quốc gia điều chỉnh các quy định hiện hành
theo hướng tiếp cận với sự phát triển cuả công nghệ phù hợp với Luật Thương mại mà
không buộc phải huỷ bỏ toàn bộ các yêu cầu về giấy viết hoặc làm xáo trộn các khái
niệm pháp lý và các cách tiếp cận đi theo các yêu cầu này
Đồng thời, nhóm soạn thảo cho rằng việc buộc các dữ liệu điện tử thoả mãn các
yêu cầu về “văn bản viết” trong một số trường hợp cần phải đạt được sự phát triển nhất
định trong quá trình lập pháp, vì một trong những khác biệt cơ bản giưã thông điệp dữ
liệu điện tử và văn bản viết là dữ liệu điện tử không có khả năng đọc trừ khi được
chuyển đổi sang các định dạng khác (như in ra giấy) hoặc trình chiếu trên màn hình,
trong khi văn bản viết có thể được đọc bằng mắt thường
Đạo luật mẫu do vậy đưa ra một cách tiếp cận mới, đôi khi được nhìn nhận dưới
hình thức “cách tiếp cận theo tương đồng chức năng”, mà dựa trên sự phân tích mục
đích và chức năng cuả giấy tờ truyền thống để xác định bằng cách nào công nghệ
TMĐT có thể thoả mãn các mục đích và chức năng này. Một trong số các chức năng
thường thấy là
Khả năng dễ đọc
Đảm bảo nội dung không bị thay đổi qua thời gian
Cho phép việc sao chép được thực hiện dễ dàng để các bên có thể giữ
một bản sao đối với cùng một dữ liệu
Cho phép việc chứng thực dữ liệu thông qua chữ ký
Và cho phép thông tin được lưu giữ ở định dạng phù hợp với yêu cầu
cuả các cơ quan chức năng và Toà án
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 14 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 14
Cần lưu ý rằng đối với tất cả các chứng năng kể trên, thông tin điện tử có thể đáp
ứng với cùng một mức độ an toàn như văn bản viết, và trong đa số trường hợp có mức
độ tin cậy và tốc độ xử lý cao hơn, đặc biệt trong trường hợp xác định nguồn gốc và
nội dung dữ liệu, với điều kiện các yếu tố công nghệ và pháp lý tương đồng với nhau.
Tuy nhiên, việc thông qua cách tiếp cận theo “tương đồng chức năng” không có nghiã
là ép buộc người dùng trong hoạt động TMĐT phải sử dụng các chuẩn mực bảo mật
chặt chẽ hơn (mà đi kèm là vấn đề chi phí) so với môi trường giấy viết thông thường.
Lấy ví dụ như quy định rằng dữ liệu được trình bày dưới dạng viết (mà cấu thành một
“tiền đề bắt buộc” – threshold requirement) thì không được hiểu như cho phép các
nước quy định khắt khe hơn, ví dụ là “văn bản viết có chữ ký” (signed writing), “văn
bản gốc có chữ ký” (signed original) hay “các hành vi pháp lý được cho phép”
(authenticated legal acts)
Đạo luật mẫu không cố gắng định nghiã sự tương đồng dựa trên chức năng điện
toán (computer – based equivalent) đối với mọi loại hình văn bản viết. Thay vào đó,
Đạo luật mẫu chỉ đơn thuần đưa ra các yêu cầu tương ứng với giấy viết về các chức
năng cơ bản, bằng cách đưa ra các khái niệm mới về tiêu chuẩn, mà theo đó một khi
các yêu cầu này được đáp ứng bởi thông điệp dữ liệu điện tử thì cho phép chúng được
huởng cùng một mức độ thưà nhận về mặt pháp lý cuả cùng một loại văn bản có các
chức năng tương tự. Cần lưu ý rằng, cách tiếp cận theo tương đồng chức năng đã được
đưa vào từ điều 6 đến điều 8 cuả Đạo luật mẫu, theo đó lần lượt ứng với các khái niệm
về “văn bản viết”, “chữ ký” và “văn bản gốc”, nhưng không đề cập đến các khái niệm
khác, ví dụ như điều 10 không có ý định đưa ra yêu cầu về tương đồng chức năng đới
với các quy định hiện hành về lưu trữ thông tin
1.1.6) Mối quan hệ giưã thuộc tính chung và bắt buộc :
Quyết định soạn thảo một Đạo luật mẫu về TMĐT được dựa trên sự công nhận
rằng hầu hết giải pháp đối với các trở ngại pháp lý làm cản trở việc sử dụng các công
nghệ truyền thông hiện đại đều được tìm thấy trong các mối quan hệ phát sinh từ hợp
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 15 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 15
đồng. Do vậy Đạo luật mẫu đưa ra một nguyên tắc cơ bản về quyền tự định đoạt cuả
các bên (party autonomy) mà được thể hiện tại điều 4 và cũng được tiếp tục duy trì
trong Phần I, Chương III. Các quy định tại đây bao gồm một nhóm các điều khoản cơ
bản mà thường thấy trong thoả thuận giưã các bên như các thoả thuận trao đổi qua lại
(interexchange agreements) hoặc quy định hệ thống (system rules). Cần lưu ý rằng
khái niệm “quy định hệ thống” có thể bao gồm hai phạm trù khác nhau : các quy định
chung được đưa ra khi vận hành hệ thống mạng và các điều khoản riêng mà có thể
được chưá đựng trong các điều khoản chung xét trong mối quan hệ song phương giưã
người khởi phát (originator) và người tiếp nhận (addressee) một thông điệp dữ liệu.
Điều 4, và khái niệm “thoả thuận” được nêu trong đó, có hàm ý bao gồm cả hai hệ
thống quy phạm trên
Các bên có thể sử dụng các quy định tại Phần I, Chương III như một yếu tố cơ
bản để đi đến thống nhất chung và ký kết hợp đồng. Các quy định này có thể được
dùng để bổ sung vào thoả thuận khi có thiếu sót trong hợp đồng. Ngoài ra, còn có thể
được xem như một chuẩn mực chung trong trường hợp mà thông điệp dữ liệu điện tử
được trao đổi nhưng không có thoả thuận trước giưã các bên tham gia, ví dụ khi sử
dụng các hệ thống thông tin mở (open – network communications)
Các điều khoản tại Phần I, Chương II thì mang các đặc điểm có phần khác biệt.
Một trong số các mục đích chính cuả Đạo luật mẫu là khuyến khích việc sử dụng và
đảm bảo tính ổn định đối với các công nghệ truyền thông hiện đại mà các trở ngại pháp
lý bắt nguồn từ các quy định mang tính bắt buộc không thể được khắc phục bằng cách
thoả thuận trong hợp đồng. Vì vậy các điều khoản trong Chương II nên được xem như
đưa ra các quy định khung tối thiểu và mang tính bắt buộc về mặt pháp lý, trừ khi được
quy định khác một cách rõ ràng trong các điều khoản này. Tuy nhiên, việc xác nhận
rằng các yêu cầu trên được xem như các quy định khung tối thiểu không có nghiã là
cho phép các quốc gia thành viên đưa ra các yêu cầu khắt khe hơn so với các yêu cầu
đã được định sẵn trong Đạo luật mẫu
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 16 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 16
1.2) Đạo luật mẫu về chữ ký điện tử (UNCITRAL Model Law on Electronic
Signature) :
1.2.1) Mục đích cuả Đạo luật mẫu :
Việc sử dụng các công nghệ chứng thực điện tử ngày càng gia tăng như một lựa
chọn thay thế cho chữ ký tay và các phương thức chứng thực truyền thống khác đã
phản ánh sự cần thiết cuả một quy định chung để giảm thiểu tính không ổn định đối
với hiệu lực pháp lý phát sinh từ việc sử dụng các công nghệ này (thường được nhắc
đến dưới tên gọi “chữ ký điện tử” – electronic signatures). Rủi ro xuất phát từ nhiều
cách tiếp cận pháp lý tại các quốc gia khác nhau đối với chữ ký điện tử làm dấy lên
mong muốn tồn tại một nhóm các chuẩn mực pháp lý thống nhất mà hiện đang là một
hiện tượng toàn cầu, theo đó sự hài hoà giưã pháp luật và các tính năng cuả khoa học
kỹ thuật là một nhu cầu thiết thực
Được xây dựng trên nền tảng cuả điều 7, Đạo luật mẫu về TMĐT (sau đây sẽ
được nhắc đến dưới tên gọi đầy đủ để tránh gây nhầm lẫn) liên quan đến việc thoả mãn
các chức năng cuả chữ ký trong môi trường điện tử, Đạo luật mẫu được thiết kế nhằm
hỗ trợ các quốc gia ban hành một chuẩn mực các quy phạm hiện đại, hài hoà và công
bằng để giải quyết các vấn đề phát sinh một cách có hiệu quả. Tuy chỉ là một trong các
bộ phận cuả TMĐT nói chung, nhưng với vai trò bổ sung cho Đạo luật mẫu về TMĐT,
Đạo luật mẫu đưa ra các nguyên tắc thực hành mà theo đó độ tin cậy cuả chữ ký điện
tử, xét theo góc độ kỹ thuật, có thể được định lượng. Ngoài ra, Đạo luật mẫu còn chỉ ra
mối liên kết giưã độ tin cậy và hiệu lực pháp lý được trao cho chữ ký điện tử. Để bổ
sung vào Đạo luật mẫu về TMĐT, Đạo luật mẫu đưa ra cách tiếp cận mà hiệu lực pháp
lý cuả một công nghệ chữ ký điện tử có thể được định trước (hoặc đánh giá trước khi
thực sự dùng đến). Do vậy, Đạo luật mẫu có thể thúc đẩy khả năng nhận thức và sự tin
cậy vào các công nghệ chữ ký điện tử cụ thể được sử dụng trong các giao dịch quan
trọng một cách hợp pháp. Hơn thế nưã, bằng cách đưa ra một nhóm các quy định cơ
bản mang tính linh hoạt điều chỉnh hành vi cuả các bên có liên quan đến việc sử dụng
chữ ký điện tử, như người ký (signatories), bên chấp nhận chữ ký (relying parties) và
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 17 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 17
nhà cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử (third – party certification service
providers), Đạo luật mẫu có thể hỗ trợ các quốc gia trong việc đặt ra các chuẩn mực
thương mại hợp lý hơn đối với các vấn đề CNTT
Đạo luật mẫu, với mục đích mở đầu và phát triển việc sử dụng chữ ký điện tử
cũng như đưa ra các chuẩn mực đối xử bình đẳng giưã các bên tham gia lưạ chọn việc
sử dụng văn bản viết hoặc CNTT, là cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế và tính hiệu quả
trong TMQT. Bằng cách kết hợp các phương thức, cũng như các điều khoản trong Đạo
luật mẫu về TMĐT vào các điều luật nội điạ, các quốc gia thành viên sẽ tạo ra một môi
trường trung gian bình đẳng đối với các trường hợp mà các bên lưạ chọn việc sử dụng
công nghệ truyền thông điện tử. Cách tiếp cận “trung gian bình đẳng” cũng được sử
dụng trong Đạo luật mẫu về TMĐT với mục đích đưa ra các nguyên tắc cơ bản có thể
bao quát mọi tình huống thực tế phát sinh khi thông tin được khởi tạo, lưu giữ và trao
đổi, bất kể môi trường mà các thông tin này gắn liền. Cụm từ “một môi trường trung
gian bình đẳng” (a media – neutral enviroment) được sử dụng trong Đạo luật mẫu về
TMĐT phản ánh nguyên tắc không phân biệt đối xử giưã thông tin được tạo lập từ môi
trường giấy viết và môi trường điện tử. Đạo luật mẫu khẳng định nguyên tắc không
cho phép bất kỳ một sự phân biệt nào giưã các công nghệ khác nhau tham gia vào việc
trao đổi hoặc lưu giữ thông tin điện tử, một nguyên tắc thường được nhắc đến dưới tên
gọi “bình đẳng công nghệ” (technology neutral)
1.2.2) Nguồn gốc pháp lý cuả Đạo luật mẫu :
Đạo luật mẫu được soạn thảo trên cơ sở kế thưà điều 7, Đạo luật mẫu về TMĐT
và được xem xét như một phương thức cung cấp thông tin chi tiết về khái niệm mức độ
tin cậy trong việc “ sử dụng các biện pháp nhận dạng” (method used to identify) một
người và “xác định sự chấp thuận cuả người đó” (to indicate that person’s approval)
đối với nội dung bên trong một thông điệp dữ liệu
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 18 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 18
Các vấn đề về hình thức và tầm quan trọng cuả mối quan hệ giưã hình thức với
nội dung cuả Đạo luật mẫu cũng được đưa ra để thảo luận : là một quy phạm mang
tính pháp lý bắt buộc, bao gồm cả các điều khoản trong hợp đồng; hay là một hướng
dẫn để các quốc gia xem xét và điều chỉnh đối với chữ ký điện tử. Tuy nhiên, các
thành viên đã thống nhất rằng Đạo luật mẫu nên được soạn thảo như một nhóm các
quy định với lời chú thích và không chỉ đơn thuần là một hướng dẫn. Cuối cùng, văn
kiện này được thông qua dưới dạng một đạo luật mẫu
1.2.3) Mối tương quan với Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử :
Tính độc lập : trong quá trình soạn thảo tồn tại quan điểm các điều khoản mới
có thể được kết hợp trong một phiên bản mở rộng cuả Đạo luật mẫu về TMĐT, ví dụ
như bổ sung thêm Phần III vào Đạo luật mẫu về TMĐT. Tuy nhiên, quan điểm chung
cuả các nước thành viên là Đạo luật mẫu có thể được ban hành một cách độc lập hoặc
kết hợp với Đạo luật mẫu về TMĐT, và cuối cùng đã đi đến thống nhất là Đạo luật
mẫu nên được soạn thảo như một phần độc lập. Quyết định này hình thành chủ yếu do
tại thời điểm Đạo luật mẫu hoàn thành, Đạo luật mẫu về TMĐT đã thực sự thành công
khi được thực thi tại phần lớn các quốc gia thành viên và hiện đang được các quốc gia
còn lại xem xét thông qua. Bằng cách sưả đổi Đạo luật mẫu về TMĐT như một sự
nâng cấp (tức bổ sung thêm các điều khoản mới), quá trình chuẩn bị cho một phiên bản
mở rộng có thể gây hại đến thành quả cuả phiên bản gốc. Ngoài ra, việc nâng cấp này
có thể làm phát sinh những sai sót, xáo trộn ở các nước đã thông qua Đạo luật về
TMĐT
Tính nhất quán và kế thưà :
Trong quá trình phác thảo Đạo luật mẫu, mọi nỗ lực được thực hiện
nhằm đảm bảo tính nhất quán về nội dung và thuật ngữ đã được sử
dụng trong Đạo luật mẫu về TMĐT. Các điều khoản chung cuả Đạo
luật mẫu về TMĐT tiếp tục được sử dụng lại, ví dụ như điều 1 (phạm
vi điều chỉnh); điều 2a, c, d (các định nghiã về thông điệp dữ liệu điện
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 19 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 19
tử, người khởi phát và người tiếp nhận); điều 3 (điều khoản về giải
nghiã); điều 4 (quyền thay đổi theo thoả thuận) và điều 7 (chữ ký điện
tử)
Dựa trên Đạo luật mẫu về TMĐT, Đạo luật mẫu có ý định phản ánh
một số vấn đề cụ thể như : nguyên tắc bình đẳng công nghệ, cách tiếp
cận theo tương đồng chức năng đối với các khái niệm truyền thống
được sử dụng bằng văn bản viết cũng như không phân biệt đối xử trong
thực tiễn áp dụng, và tính bao quát dựa trên quyền tự định đoạt cuả các
bên tham gia. Đạo luật mẫu cũng chủ định áp dụng cho cả các tiêu
chuẩn tối thiểu trong môi trường mở – open enviroment (ví dụ khi các
bên giao tiếp mà không có thoả thuận trước) và các điều khoản hợp
đồng mẫu hoặc các quy định mặc định trong môi trường đóng – close
enviroment (ví dụ khi các bên bị ràng buộc bởi các hợp đồng trước đó,
hoặc phải tuân theo các điều kiện sử dụng khi giao tiếp bằng phương
tiện truyền thông điện tử)
Mối tương quan với điều 7 Đạo luật mẫu về Thương mại điện tử : trong quá
trình soạn thảo tồn tại quan điểm : khi tham chiếu giưã điều 7, Đạo luật mẫu về TMĐT
và phạm vi điều 6, Đạo luật mẫu, các quy định cuả Đạo luật mẫu cần được giới hạn
trong phạm vi các trường hợp mà chữ ký điện tử chỉ được dùng để đáp ứng các yêu
cầu pháp lý bắt buộc đối với một số văn bản cụ thể phải được ký nhằm đảm bảo giá trị
hiệu lực. Theo quan điểm này, vì pháp luật cuả hầu hết các nước chưá đựng rất ít các
yêu cầu nêu trên đối với các văn bản được sử dụng trong hoạt động thương mại, nên
phạm vi cuả Đạo luật mẫu cần phải hẹp hơn. Đáp lại quan điểm này thì đa số các thành
viên nhìn chung cho rằng cách giải thích này về điều 6, Đạo luật mẫu (và điều 7, Đạo
luật mẫu về TMĐT) sẽ mâu thuẫn với cách hiểu về từ “luật” (the law) trong đoạn 68
cuả Hướng dẫn thi hành Đạo luật mẫu về TMĐT, mà đã được Uỷ ban thông qua, theo
đó “khái niệm ‘luật’ cần được hiểu bao gồm không chỉ các quy phạm hoặc án lệ mà
còn cả các nguồn pháp luật khác”. Và thực tế phạm vi cuả điều 7, Đạo luật mẫu về
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 20 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 20
TMĐT và điều 6, Đạo luật mẫu thì đặc biệt rộng do hầu hết các văn bản sử dụng trong
hoạt động thương mại luôn phải đối mặt với các yêu cầu pháp lý về chứng cứ để chứng
minh như khi dùng văn bản viết
1.2.4) Một đạo luật khung được bổ sung bởi các quy định kỹ thuật và
điều khoản hợp đồng :
Là phần bổ sung vào Đạo luật mẫu về TMĐT, Đạo luật mẫu dự định đưa ra các
nguyên tắc quan trọng để phát triển việc sử dụng chữ ký điện tử. Tuy nhiên, với vai trò
định khung, bản thân Đạo luật mẫu không trình bày tất cả các quy định mà có thể xét
thấy là cần thiết (ví dụ như bổ sung vào thoả thuận giưã các bên) để quản lý các loại
công nghệ này tại các nước thành viên. Ngoài ra, Đạo luật mẫu không có ý định bao
quát mọi trường hợp sử dụng chữ ký điện tử. Vì vậy, các quốc gia cần ban hành các
quy định phù hợp để bổ sung các yêu cầu chi tiết nhưng không đi ngược lại tinh thần
cuả Đạo luật mẫu, cũng như xem xét các trường hợp cụ thể mà không làm thay đổi
mục đích cuả Đạo luật mẫu. Uỷ ban khuyến nghị các nước thành viên nên đặc biệt
quan tâm đến mong muốn duy trì tính linh hoạt khi sử dụng hệ thống chữ ký điện tử
Hoạt động thương mại trên thực tế có khả năng tồn tại lâu dài là nhờ vào sự phát
triển cuả các chuẩn công nghệ mở, các công nghệ này đã hình thành các đặc điểm kỹ
thuật cơ bản, các tiêu chuẩn thiết kế và lắp đặt, cũng như sự thống nhất trong hoạt
động nghiên cứu và phát triển (Research and Development – R&D) đối với các sản
phẩm trong tương lai. Để đảm bảo tính linh hoạt mà thực tiễn thương mại lấy làm cơ
sở cần phát triển các chuẩn mở với quan điểm đẩy mạnh khả năng tương tác giưã các
thế hệ và giưã các chủng loại sản phẩm với nhau, và cần hỗ trợ mục tiêu “thống nhất
không biên giới” (objective of cross- border regconitions) thì các quốc gia phải quan
tâm đúng mức mối quan hệ giưã bất kỳ một hệ thống các nguyên tắc kỹ thuật được cấp
phép nào với các chuẩn mực kỹ thuật mở hiện đang tồn tại
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 21 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 21
Cần lưu ý rằng công nghệ chữ ký điện tử được xem xét trong Đạo luật mẫu có thể
làm phát sinh các vấn đề pháp lý mà không được tìm thấy trong Đạo luật mẫu nhưng
thay vào đó lại tồn tại trong các định chế khác như Luật Hành chính, Luật Hình sự, các
quy định về hợp đồng, v.v… Do Đạo luật mẫu không có ý định giải quyết các trường
hợp nêu trên
1.2.5) Một số điều khoản bổ sung đối với hiệu lực pháp lý cuả chữ lý điện
tử :
Một trong số các tính năng cuả Đạo luật mẫu là bổ sung vào các tiêu chuẩn được
quy định tại điều 7, Đạo luật mẫu về TMĐT để thưà nhận chữ ký điện tử cũng có thể
thoả mãn các chức năng tương tự như chữ ký tay
Điều 7 dựa trên sự công nhận chức năng cuả chữ ký trong môi trường giấy viết
như xác định một người; đảm bảo tính xác thực giưã người ký và chữ ký; ràng buộc
người ký vào nội dung cuả văn bản đã ký. Ngoài ra, chữ ký có thể dùng để thực hiện
các chức năng khác tuỳ thuộc vào tính chất cuả văn bản, như khả năng chứng thực ý
chí cuả một bên mong muốn được ràng buộc bởi các điều khoản hợp đồng đã ký
Để đảm bảo một thông điệp (message) được yêu cầu chứng thực không bị từ chối
giá trị pháp lý chỉ bởi lý do thông điệp này không được chứng thực theo cách riêng có
cuả văn bản viết, điều 7 đã đưa ra một cách tiếp cận toàn diện cho vấn đề này bằng
cách quy định các điều kiện chung mà khi được thoả mãn thì thông điệp dữ liệu điện tử
sẽ được xem như đã được chứng thực với mức độ tin cậy tương ứng và sẽ có giá trị
pháp lý thi hành như văn bản viết. Với cách tiếp cận này sẽ góp phần loại bỏ các rào
cản hiện có đối với hoạt động TMĐT. Điều 7 tập trung vào hai chức năng cơ bản cuả
một chữ ký là xác định tác giả cuả văn bản và xác nhận người này đã chấp thuận nội
dung cuả văn bản đó. Khoản 1a nêu ra các nguyên tắc trong môi trường điện tử và các
chức năng pháp lý cơ bản cuả một chữ ký được thực hiện bằng cách xác định người
khởi tạo một thông điệp dữ liệu điện tử và xác nhận sự đồng ý với nội dung dữ liệu cuả
người này
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 22 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 22
Khoản 1b đưa ra cách tiếp cận linh hoạt về mức độ bảo mật mà có thể thoả mãn
các tiêu chuẩn nêu tại khoản 1a. Phương thức sử dụng trong khoản 1a cần phải đủ tin
cậy và phù hợp với mục đích theo đó dữ liệu điện tử được khởi tạo hoặc trao đổi, có
xem xét đến tất cả các tình huống liên quan, kể cả bất kỳ thoả thuận nào giưã người
khởi phát và người tiếp nhận một thông điệp dữ liệu điện tử
Để xác định liệu phương thức được sử dụng tại khoản 1 có phù hợp hay không,
hợp pháp và thoả mãn các yếu tố kỹ thuật và thương mại hay không cần xét đến các
vấn đề sau :
Tính phức tạp cuả thiết bị được các bên sử dụng
Tính chất quan hệ giưã các bên
Mức độ thường xuyên mà giao dịch được các bên thực hiện
Chủng loại và khối lượng giao dịch
Các yêu cầu pháp lý và quy định khác liên quan đến chức năng cuả chữ
ký
Khả năng vận hành cuả hệ thống CNTT
Tính tương thích với quá trình chứng thực được đưa ra bởi người trung
gian
Tính tương thích với tập quán thương mại và thực tế áp dụng
Mức độ phân hạng tương ứng đối với quá trình chứng thực được cung
cấp bởi người trung gian
Phương thức hiện hành để xử lý các thông điệp dữ liệu bất hợp pháp
Tầm quan trọng và giá trị cuả thông tin được chưá đựng trong thông
điệp dữ liệu điện tử
Phần I : Những vấn đề về thương mại điện tử
Chương II : Khung pháp lý chung điều chỉnh 2007 – 2008
hoạt động thương mại điện tử
– 23 –
_______________________________________________________________________
______________
Trang 23
Khả năng sử dụng các phương thức xác nhận thay thế (availability of
alternative methods of identification) và chi phí để thực hiện
Mức độ chấp nhận hoặc không chấp nhận đối với phương thức xác
nhận tương thích với các chuẩn công nghiệp tại thời điểm thoả thuận và
khi thông điệp dữ liệu điện tử được trao đổi
Bất kỳ một yếu tố phù hợp nào khác
Xây dựng trên các tiêu chuẩn linh hoạt quy định tại điều 7, khoản 1b, Đạo luật
mẫu về TMĐT, điều 6 và 7, Đạo luật mẫu đưa ra một phương thức theo đó chữ ký điện
tử mà đáp ứng các tiêu chuẩn khách quan về độ tin cậy cuả công nghệ sử dụng có thể
được hưởng lợi từ các quy định cũ đối với hiệu lực pháp lý cuả các chữ ký điện tử này.
Đạo luật mẫu đưa ra hai khái niệm tách biệt tuỳ vào thời gian thưà nhận chức năng
tương tự cuả chữ ký điện tữ so với chữ ký tay. Khái niệm đầu tiên, và có phạm vi rộng
hơn, là khái niệm được đề cập tại điều 7, Đạo luật mẫu về TMĐT. Khái niệm này thưà
nhận bất kỳ một “phương thức” nào (method) cũng có thể được sử dụng để thoả mãn
các yêu cầu pháp lý và khả năng chấp nhận phụ thộc vào việc chứng minh mức độ tin
cậy cuả phương thức này trước cơ quan có thẩm quyền. Khái niệm thứ hai, và có phạm
vi hẹp hơn, được đưa ra bởi Đạo luật mẫu, theo đó định trước các phương thức mà có
thể được thưà nhận bởi chính quyền các nước thành viên, pháp nhân hoặc giưã các bên
với nhau, nếu đáp ứng các tiêu chuẩn về độ tin cậy cuả công nghệ trình bày trong Đạo
luật mẫu. Ưu điểm cuả sự thưà nhận này là khả năng đảm bảo cho người dùng tính ổn
định trước khi họ thực sự dùng đến các công nghệ này
1.2.6) Các quy định cơ bản điều chỉnh hành vi cuả các bên có liên quan :
Đạo luật mẫu không đi vào chi tiết để giải quyết các vấn đề về nghiã vụ và trách
nhiệm cuả các bên trong quá trình vận hành hệ thống chữ ký điện tử. Các tình huống
phát sinh sẽ được ._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phap luat ve thuong mai dien tu tai VN - Bai viet.pdf
- Phap luat ve thuong mai dien tu tai VN - Phu luc.pdf