LỜI NÓI ĐẦU
Sau ngày Đất nước hoàn toàn giải phóng, thống nhất hai miền Nam Bắc, thì trong suốt một thời gian dài chúng ta phải sống trong nền kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung, hoạt động kinh doanh hoàn toàn là của các cơ quan nhà nước, không có kinh tế tư nhân, và không có sự giao lưu với các nước bên ngoài. Đến năm 1986, nhận thấy những vấn đề bất cập, không còn phù hợp của nền kinh tế bao cấp, Đảng và Nhà nước đã quyết định “mở cửa nền kinh tế nước ta”, khuyến khích hoạt động ngoại t
82 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Pháp luật về nhập khẩu và Thực trạng áp dụng tại Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hương, tăng cường giao lưu với bạn bè thế giới trên mọi lĩnh vực, mà khởi đầu là giao lưu kinh tế.
Dưới sự tác động của xu thế phát triển nền kinh tế tri thức, Việt nam có cơ hội và điều kiện đón nhận những thành tựu khoa học của Thế giới vào phát triển kinh tế Quốc gia. Xuất phát từ điều kiện và trình độ phát triển kinh tế, để có thể tiến tới nền kinh tế tri thức, Việt nam tiến hành Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Thực chất, công nghiệp hóa nền kinh tế là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, gia tăng sản xuất và thu nhập từ công nghiệp trong nền kinh tế Quốc dân. Hiện đại hóa là quá trình chuyển cơ cấu kinh tế từ kinh tế vật chất sang kinh tế tri thức, bằng việc đầu tư phát triển các ngành kinh tế tri thức, các ngành sản xuất công nghệ cao, các ngành dịch vụ. Sự phát triển các ngành này là cơ sở cho sự phát triển một cách vững chắc nền kinh tế quốc dân.
Sự tác động của xu thế toàn cầu hóa tạo ra nhiều thuận lợi cho Việt Nam thực hiện chính sách kinh tế mở. Trong quá trình thực hiện, Việt nam đã đưa ra các quan điểm rất đúng đắn: đa phương hóa các quan hệ kinh tế thương mại (“muốn làm bạn với tất cả các nước trên Thế giới”), đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại. Những năm qua, hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam rất phát triển, Việt Nam đã có quan hệ với hơn 170 nước, tham gia vào các tổ chức Quốc tế Khu vực và Thế giới, vào các diễn đàn kinh tế Quốc tế. Hoạt động ngoại thương, hợp tác đầu tư nước ngoài, dịch vụ Quốc tế. Mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, Việt Nam có điều kiện lợi dụng những ưu thế bên ngoài (vốn và khoa học công nghệ), khai thác tiềm năng bên trong của nền kinh tế (tài nguyên và lao động), góp phần đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa Đất nước.
Thực hiện chiến lược, đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động nhập khẩu cũng được xác định là có vai trò hết sức quan trọng, hướng mục tiêu cho sự phát triển thị trường nội địa, cho sự nghiệp Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa Đất nước và nhanh chóng hội nhập với khu vực và Thế giới.
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ 20 cho đến nay, rất nhiều công ty đã được thành lập để hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đóng góp vào thành tựu chung của nền kinh tế nước nhà. Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi là một trong số các doanh nghiệp như thế. Thực tập tại công ty sẽ tạo cơ hội tiếp xúc được với thực tế của hoạt động xuất nhập khẩu cũng như những thuận lợi và những bất cập do những quy định của pháp luật tạo ra cho những hoạt động này.
Đứng trước một vấn đề mang tính thời sự như vậy, đề tài “Pháp luật về nhập khẩu và Thực trạng áp dụng tại Công ty Cổ Phần Thiết bị Thắng Lợi”, sẽ đề cập đến những quy định pháp luật chủ yếu áp dụng cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa vào Việt nam và thực tiễn thi hành tại công ty Thắng Lợi. Qua đó, đề tài cũng thu thập, đưa ra một vài kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật đó.
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG
NHẬP KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG NHẬP KHẨU
1.1. Khái niệm và đặc điểm của hoạt động nhập khẩu
1.1.1 Khái niệm hoạt động nhập khẩu
Sự phát triển của xã hội loài người gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất. Sản xuất phát triển, các mối quan hệ kinh tế giữa người sản xuất với người sản xuất, giữa người sản xuất với người tiêu dùng, và giữa những người tiêu dùng với nhau ngày càng phát triển và diễn ra ngày càng phức tạp. Khi sản xuất xã hội phát triển đến trình độ nhất định, các mối quan hệ kinh tế phát triển không chỉ trong phạm vi một Quốc gia mà còn vươn ra bên ngoài, hình thành các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và kinh tế Quốc tế.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được hiểu là quan hệ kinh tế của một nước với các nước khác và với các tổ chức Quốc tế được xem xét từ góc độ nền kinh tế của nước đó.
Quan hệ kinh tế quốc tế là quan hệ kinh tế lẫn nhau của hai hay nhiều nước, là tổng thể các mối quan hệ kinh tế đối ngoại của các nước.
Trong phạm vi kinh tế Thế giới, quan hệ kinh tế quốc tế ảnh hưởng trở lại đến sự phát triển lực lượng sản xuất của từng nước và sự phát triển của phân công lao động Quốc tế. Quan hệ thương mại hàng hóa Quốc tế chính là một hình thức của quan hệ kinh tế quốc tế.
Theo quy định của Luật Thương mại nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lời khác.
Pháp lệnh trọng tài thương mại Việt nam năm 2003 thì có quy định chi tiết hơn, theo đó: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện, đại lý thương mại; ký gửi; thuê, cho thuê, thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li-xăng; đầu tư; tài chính, ngân hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ; và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật.
Điều 28 Luật Thương mại 2005 đưa ra định nghĩa về hoạt động nhập khẩu: “Nhập khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ Việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật”.
1.1.2 Đặc điểm của hoạt động nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu là một hình thức của hoạt động Thương mại Quốc tế nên đương nhiên nó mang trong mình những đặc trưng của hoạt động thương mại Quốc tế rất riêng so với hoạt động mua bán hoàng hóa trong nước:
Về chủ thể của hoạt động thương mại Quốc tế:
Chủ thể của hoạt động thương mại Quốc tế là các thương nhân có trụ sở thương mại tại các Quốc gia khác nhau. Như vậy, khác với hoạt động thương mại trong nước chỉ giới hạn trong phạm vi một quốc gia thì hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế là những hoạt động thương mại vượt ra khỏi biên giới quốc gia, liên kết các nền kinh tế khác nhau trên thế giới.
Đối tượng của hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế hẹp hơn rất nhiều so với hoạt động mua bán hàng hóa trong nước. Có những mặt hàng được phép mua bán tự do trong nước nhưng tuyệt nhiên không được trở thành đối tượng của hoạt động ngoại thương có thể do rất nhiều nguyên nhân như vấn đề an ninh quốc gia, bảo hộ ngành sản xuất trong nước,… Vì thế khi tham gia vào hoạt động thương mại Quốc tế, các bên phải có sự dự liệu về những thay đổi có thể xảy ra trong việc Nhà nước quy định những loại hàng hóa được phép xuất nhập khẩu.
Luật điều chỉnh: vì xuất nhập khẩu là hoạt động diễn ra giữa các thương nhân có trụ sở ở các Quốc gia khác nhau, do đó các bên tham gia hoạt động xuất nhập khẩu chịu sự điều chỉnh của những hệ thống pháp luật khác nhau. Chính vì lí do này mà không có pháp luật của Quốc gia nào có giá trị bắt buộc đối với các bên, mà việc xác định luật điều chỉnh hoàn toàn do sự lựa chọn của các bên. Một điều đặc biệt nữa là nguồn luật để các bên lựa chọn không chỉ là hệ thống pháp luật của mỗi Quốc gia mà nó còn bao gồm các Điều ước Quốc tế, có thể là cả các Điều ước song phương và đa phương, các án lệ và tập quán quốc tế.
Giá cả và phương thức thanh toán: khác với mua bán hàng hóa trong nước, giá cả thanh toán trong mua bán hàng hóa Quốc tế là đồng ngoại tệ của ít nhất một bên tham gia nên có thêm vấn đề về chuyển đổi ngoại tệ, và việc thanh toán cũng thực hiện qua biên giới Quốc gia nên thường phải tiến hành thông qua dịch vụ thanh toán của Ngân hàng.
Thủ tục hải quan: cũng xuất phát từ lí do các bên có trụ sở thương mại ở các Quốc gia khác nhau nên hàng hóa trong hoạt động thương mại quốc tế phải được chuyên chở qua biên giới các quốc gia, có thể chỉ là giữa biên giới Quốc gia của các bên mà cũng có thể là phải qua biên giới của nhiều Quốc gia khác. Vì thế các bên cần thỏa thuận để phân chia trách nhiệm trong việc thực hiện các thủ tục thông quan và việc chi trả các khoản lệ phí có liên quan.
Mối quan hệ mật thiết với một số hoạt động khác: biểu hiện rõ ràng nhất là hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế không thể tách rời các hoạt động dịch vụ Quốc tế như chuyên chở, bảo hiểm, vay tín dụng ,… Mỗi hoạt động này lại có chủ thể, đối tượng, điều kiện,luật áp dụng riêng. Vì thế để đảm bảo thực hiện có hiệu quả thì cần có sự thống nhất đồng bộ các hoạt động này.
1.2. Tính tất yếu và vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và nhập khẩu nói riêng đối với nền kinh tế Việt Nam:
Xu thế toàn cầu hóa:
Vài thập niên gần đây, thuật ngữ toàn cầu hóa được nhắc nhiều trên sách báo, trên các diễn đàn kinh tế Quốc tế và khu vực, và ngay cả trong các cuộc gặp gỡ cấp cao giữa các nguyên thủ Quốc gia.
Xu thế toàn cầu hóa xuất hiện và phát triển như một tất yếu khách quan do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, sự đổi mới nhanh chóng về công nghệ, công cụ sản xuất và năng suất lao động tăng ngày càng cao hơn. Sự phát triển đó đã phá vỡ khuôn khổ chật hẹp của nền sản xuất khép kín trong phạm vi từng vùng, từng nước, làm cho sản xuất và tiêu dùng của các nước mang tính chất Quốc tế.
Khoa học công nghệ phát triển nhanh chóng không chỉ tác động mạnh mẽ đến sản xuất Thế giới mà còn tạo sự chuyển biến sâu sắc và căn bản trong công nghệ, trong kinh tế, trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự xuất hiện nhiều vấn đề có tính chất toàn cầu như: chiến tranh – hòa bình, phát triển kinh tế, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường, chống dịch bệnh… không chỉ giải quyết trong phạm vi từng Quốc gia, mà phải giải quyết trên phạm vi Thế giới. Thế giới ngày nay là ngôi nhà chung, đòi hỏi các Quốc gia phải hợp tác với nhau cùng giải quyết và lợi ích của các Quốc gia gắn liền với nhau.
Lợi thế so sánh:
Cơ sở khách quan của hoạt động xuất nhập khẩu là chuyên môn hóa và trao đổi giữa các quốc gia dựa trên sự khác nhau về các nguồn lực, lợi thế kinh tế nhờ quy mô, sở thích của người tiêu dùng và một số cơ sở kinh tế khác. Những nguồn lực hay các yếu tố sản xuất từ nguồn cung có sẵn như tài nguyên thiên nhiên, lực lượng lao động phổ thông dồi dào (do dân số đông), hay những tiến bộ không đồng đều về khoa học công nghệ có thể tạo nên những lợi thế và làm nảy sinh ra Thương mại Quốc tế được gọi là những lợi thế so sánh.
Lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với hoạt động lao động sáng tạo- lao động trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ ngày càng phát triển và được ứng dụng vào sản xuất đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, và trở thành một yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, ở các Quốc gia khác nhau, sự phát triển khoa học công nghệ có khác nhau. Một số Quốc gia có nền khoa học công nghệ phát triển, ứng dụng được những thành tựu khoa học công nghệ vào đời sống kinh tế xã hội, nền kinh tế phát triển cao. Còn một số Quốc gia lại có nền khoa học công nghệ kém phát triển, có nhiều khó khăn trong việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào phát triển kinh tế, nền kinh tế chậm phát triển. Sự khác nhau về khoa học công nghệ giữa các Quốc gia là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự phát triển và khả năng tích lũy các điều kiện tái sản xuất của các Quốc gia là khác nhau. Hoạt động Thương mại Quốc tế nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu nói riêng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt Nam, là do sự khác nhau về những điều kiện tái sản xuất: vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lí. Do đó đòi hỏi các Quốc gia cần có sự trao đổi các yếu tố sản xuất.
Phân công lao động Quốc tế:
Ngày nay, trên Thế giới, tất cả các nước đều lựa chọn mô hình kinh tế thị trường. Có nhiều loại mô hình kinh tế thị trường như: kinh tế thị trường tự do (mô hình kinh tế Mỹ), kinh tế thị trường xã hội (mô hình kinh tế Đức, Thụy Điển), kinh tế thi trường hỗn hợp, và kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa. Mô hình kinh tế các nước lựa chọn có thể khác nhau, song đặc điểm chung nhất của mô hình kinh tế thị trường là nền kinh tế phát triển gắn liền với sự phát triển thị trường trong nước và thị trường ngoài nước. Để phát triển kinh tế, các nước cần khai thác được nguồn lực cả trong và ngoài nước, tham gia vào quá trình phân công lao động và trao đổi Quốc tế.
Ngày nay, hoạt động sản xuất của một Quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các nguồn lực trong nước mà còn phụ thuộc vào các nguồn lực ngoài nước. Để phát triển nền kinh tế Quốc dân, một Quốc gia cần có 4 yếu tố kinh tế cơ bản: điều kiện tự nhiên (tài nguyên), lao động, vốn và khoa học công nghệ. Trên Thế giới, không có Quốc gia nào có đủ lợi thế hoàn toàn cả 4 yếu tố kinh tế này. Vì thế, muốn phát triển kinh tế, các nước cần biết khai thác lợi thế bên ngoài để khắc phục những hạn chế của nền kinh tế. Điều đó đòi hỏi các nước cần thiết tham gia trao đổi Quốc tế.
Sự hình thành các Tổ chức Quốc tế:
Trong vài chục năm trở lại đây, các Tổ chức quốc tế phát triển nhanh về số lượng và đa dạng về hình thức. Các tổ chức Quốc tế được hình thành trên cấp độ toàn cầu hay khu vực, hoạt động trên nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa xã hội… mà nhiều nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Hoạt động của các tổ chức Quốc tế nhằm phối hợp các nước giải quyết các vấn đề Quốc tế, làm gia tăng các mối quan hệ kinh tế Quốc tế. Điển hình như những hoạt động của Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế ISO với mục đích thúc đẩy phát triển tiêu chuẩn hóa và các hoạt động có liên quan, tạo điều kiện cho trao đổi hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy hợp tác trong các hoạt động trí tuệ, khoa học và kinh tế.
Sự phát triển liên minh kinh tế các nước như Liên Minh Châu Âu EU, Thị trường chung Bắc Mỹ NAFTA, khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á AFTA, các tam giác, tứ giác kinh tế phát triển… Đặc biệt là sự ra đời của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Sự hình thành thể chế Thương mại Quốc tế nhiều bên đánh dấu sự hình thành khuôn khổ Thương mại quốc tế mới, lấy tự do hóa thương mại Quốc tế làm trung tâm. Chế độ bảo hộ thương mại nhường chỗ cho chế độ tự do hóa thương mại và mở cửa nền kinh tế.
Từ tất cả các nguyên nhân trên, có thể khẳng định Xuất nhập khẩu là một vấn đề trọng yếu của nền kinh tế Quốc dân. Hoạt động xuất nhập khẩu là một bộ phận quan trọng nhất của hoạt động kinh tế đối ngoại. Trong đó, xuất nhập khẩu hàng hóa có vai trò trọng yếu đối với tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tê; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa,hiện đại hóa Đất nước, thúc đẩy hội nhập kinh tế Quốc tế của Quốc Gia, thúc đẩy quá trình tham gia sâu rộng vào phân công lao động Quốc tế, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
1.3. Những quy định của pháp luật về nhập khẩu
1.3.1. Hợp đồng nhập khẩu - hình thức pháp lí của hoạt động nhập khẩu
Ngày nay, hoạt động Thương mại Quốc tế đã trở nên vô cùng phổ biến và có ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế của hầu hết các Quốc gia trên Thế giới. Thương mại Quốc tế là “bà đỡ” cho quá trình toàn cầu hóa, khu vực hóa và hội nhập kinh tế Quốc tế. Trong hơn một thế kỷ qua, động lực của toàn cầu hóa chính là sự bùng nổ thương mại hàng hóa và dịch vụ. Trong tương lại, hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế vẫn sẽ tiếp tục thúc đẩy hội nhập toàn cầu, đăc biệt là ở những nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận Điều 2 khoản 8 Luật thương mại 2005
.
Cơ sở pháp lí của việc mua bán hàng hóa chính là hợp đồng mua bán hàng hóa. Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là hợp đồng mua bán hàng hóa được lý kết giữa các thương nhân có trụ sở ở các Quốc gia khác nhau. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế trước hết là một hợp đồng mua bán hàng hóa, do đó nó mang đầy đủ đặc trưng của một hợp đồng mua bán hàng hóa, có nghĩa rằng nó cũng là sự thỏa thuận giữa người mua và người bán về việc xác lập quyền và nghĩa vụ của các bên. Ngoài ra, hợp đồng này còn có thêm một yếu tố Quốc tế- là yếu tố vượt ra khỏi phạm vi một Quốc gia nên nó còn phải thỏa mãn một số yêu cầu do yếu tố này đòi hỏi. Hoạt động Thương mại Quốc tế có các hình thức: xuất khẩu, nhập khẩu; tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập; hàng hóa chuyển khẩu. Các hợp đồng thỏa thuận về các hoạt động này đều được gọi chung là Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Do hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế được điều chỉnh bằng rất nhiều nguồn luật khác nhau nên hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng được ký kết và thực hiện trên cở sở nhiều nguồn luật khác nhau, mà thông thường người ta quy về Luật thương mại Quốc tế và pháp luật Quốc gia.
Luật Thương mại Quốc tế được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong hoạt động Thương mại Quốc tế- những hoạt động thương mại phát sinh giữa các chủ thể có Quốc tịch khác nhau ở các Quốc gia khác nhau.
Luật Thương mại Quốc tế được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau như: pháp luật của các Quốc gia, các Điều ước Quốc tế, Tập quán thương mại… Trong đó, nguồn luật quan trọng trước nhất là pháp luật Quốc gia. Một Điều ước Quốc tế chỉ có thể được áp dụng thực tiễn tại một Quốc gia khi nó có sự hài hòa, thống nhất với những quy định pháp luật của nước sở tại. Chính vì vậy mà trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các Quốc gia đều đang có xu hướng nội luật hóa các Điều ước Quốc tế, tức là đưa các quy định đã cam kết trong Điều ước Quốc tế song phương hoặc đa phương vào các văn bản quy phạm pháp luật quốc gia để đảm bảo tính khả thi của các cam kết đó.
Ở Việt nam hiện nay, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại Quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng cũng đang được hoàn thiện theo xu hướng đó. Công ước Quốc tế thông dụng nhất điều chỉnh hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế là Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. Trước đây, khi Luật Thương mại 1997 của Việt Nam còn hiệu lực pháp lí thì nhìn chung các quy định trong Luật này rất xa rời thực tiễn và nói chung là không có sự đồng thuận nào với các Công ước Quốc tế về mua bán hàng hóa nên việc áp dụng không đem lại hiệu quả cho công tác quản lí các hoạt động kinh doanh Thương mại cả trong và ngoài nước. Đến nay, khi Luật Thương mại 2005 ra đời thay thế cho Luật Thương mại 1997 thì tương quan về luật định đã có sự thay đổi rất tích cực. Xét một cách tổng thể thì các quy định của Luật Thương mại 2005 là tương đối thống nhất với các quy định của Công ước Viên về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
Do vậy, khi xem xét các quy định pháp luật cơ bản nhất đối với hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế, mà cụ thể ở đây là hoạt động nhập khẩu, người ta có thể nghiên cứu đồng thời Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế (sau đây gọi là Công ước Viên 1980) và Luật Thương mại Việt Nam 2005 (sau đây gọi là Luật Thương mại 2005) để có thể thấy sự phù hợp của hai văn bản này cũng như để có thể nắm bắt đầy đủ các quy định dành cho thương nhân Việt Nam khi tham gia ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế.
1.3.2. Chế độ pháp lý về hợp đồng nhập khẩu
1.3.2.1 Quy định về chủ thể của hợp đồng nhập khẩu
Công ước Viên 1980 đưa ra quan điểm về Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế một cách gián tiếp ngay tại Điều 1 của Công ước này: “Công ước này áp dụng đối với những Hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết giữa các bên có trụ sở thương mại tại các Quốc gia khác nhau”. Như vậy, có thể hiểu hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là sự thống nhất về ý chí giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài mà thông qua đó, thiết lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lí giữa các chủ thể đó với nhau.
Chủ thể của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế là những thương nhân có trụ sở tại các Quốc gia khác nhau. Phù hợp với quy định này của công ước Viên, pháp luật Thương mại Việt Nam cũng đã có sự thay đổi để kịp thời điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế. So với Luật Thương mại năm 1997, đối tượng áp dụng của Luật Thương mại năm 2005 không chỉ dừng lại ở các thương nhân hoạt động thương mại tại Việt Nam mà còn cả những thương nhân có hoạt động thương mại tại nước ngoài mà các bên thỏa thuận áp dụng Luật này hoặc luật nước ngoài, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng Luật này. Điều này tạo thuận lợi cho các hoạt động ngoại thương và góp phần bảo vệ quyền lợi của thương nhân Việt Nam.Các quy định cụ thể được nêu trong Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định 12). Hiện nay, các thương nhân Việt Nam đều có quyền kinh doanh kinh doanh xuất nhập khẩu những mặt hàng mà pháp luật không cấm, không phụ thuộc vào ngành nghề đăng ký kinh doanh Điều 3 khoản 1 Nghị định 12
. Như vậy là Nghị định 12 có quy định nới lỏng hơn cho các thương nhân so với Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 được sửa đổi bởi Nghị định 44/2001/NĐ-CP ngày 2/8/2001. Theo quy định của các văn bản trước đây thì thương nhân được phép xuất khẩu tất cả các loại hàng hóa không phụ thuộc ngành nghề, ngành hàng được ghi trong chứng nhận Đăng ký kinh doanh trừ những hàng hóa nằm trong danh mục các loại hàng hóa cấm xuất khẩu; và được nhập khẩu hàng hóa theo ngành nghề, ngành hàng được ghi trong giấy chứng nhận Đăng kýkinh doanh. Khi Nghị định 12 ra đời thay thế cho hai nghị định trên thì rõ ràng hoạt động nhập khẩu đã được quy định thông thoáng và thuận tiện hơn.
Điều 6 Luật thương mại 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Như vậy, ở Việt Nam, cá nhân muốn là thương nhân thì phải có đăng ký kinh doanh và phải hoạt động thường xuyên, liên tục. Đây là một khái niệm hạn chế hơn so với luật Quốc tế, dẫn đến tình trạng có những có đối tượng có tham gia vào hoạt động Thương mại Quốc tế nhưng pháp luật Việt Nam không điều chỉnh hành vi của họ. Ví dụ: Thương lái tức là những người đi thu gom hàng hóa đúng ra là thương nhân, nhưng vì công việc của họ không quanh năm (mà chỉ theo mùa vụ) tức là không thường xuyên nên pháp luật Việt Nam không coi họ là thương nhân và hoạt động của họ không bị điều chỉnh bởi Luật Thương mại, vì thế mà rất có thể những hành vi sai trái của họ được “lọt lưới” pháp luật.
1.3.2.2. Quy định về hình thức của hợp đồng nhập khẩu
Theo công ước Viên 1980 thì hình thức của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế có thể tồn tại dưới bất kỳ hình thức nào. Hợp đồng không cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một yêu cầu nào khác về hình thức của Hợp đồng. Hợp đồng có thể được chứng minh bằng mọi cách kể cả bằng những lời khai của nhân chứng Điều 11 Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
.
Còn theo pháp luật Việt Nam, mua bán hàng hóa Quốc tế phải được thực hiện trên cơ sở hợp đồng bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương. (Điều 27 khoản 2 Luật Thương mại 2005)
1.3.2.3 Quy định về nội dung của hợp đồng nhập khẩu
Hợp đồng là văn bản có giá trị pháp lí để đảm bảo quyền và việc thực hiện nghĩa vụ của các bên trong hoạt động mua bán hàng hóa nói chung và hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế nói riêng. Do đó, những quy định về nội dung của bản hợp đồng là những quy định cơ bản nhất và cũng là quan trọng nhất để các bên có thể đảm bảo lợi ích của mình khi tham gia hoạt động thương mại Quốc tế. Một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế được ký kết bằng văn bản thường bao gồm các điều khoản chủ yếu sau:
1.3.2.3.1 Điều khoản tên hàng (Commodity Article)- đối tượng của hợp đồng
Tên hàng là một trong những điều khoản quan trọng, không thể thiếu trong hợp đồng nhằm xác định đối tượng cụ thể của hợp đồng, giúp các bên phân biêt rõ với những sản phẩm khác, tránh được những yếu tố có thể dẫn đến tranh chấp sau này. Trong thực tiễn Thương mại Quốc tế, có nhiều cách diễn đạt tên hàng:
o Tên hàng bao gồm tên thông thường, tên Thương mại, tên khoa học của hàng hóa. Ví dụ: Cooking Oil Marvela,…
o Tên hàng kèm theo tên địa phương sản xuất ra hàng hóa đó (xuất xứ sản phẩm) nếu nơi sản xuất ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm (ví dụ: rượu vang Bordeaux, nước mắm Phú Quốc,…); hoặc kèm theo tên hãng sản xuất ra hàng hóa đó (ví dụ: cà phê Trung Nguyên, Điện thoại Nokia,…)
o Tên hàng kèm theo quy cách chính của hàng hóa đó (ví dụ: Tivi màn hình phẳng,…)
o Tên hàng kèm theo nhãn hiệu hàng hóa (Bia Hà Nội, xe máy Future,…)
o Tên hàng kèm theo công cụ của hàng hóa (Bột chiên tôm,…)
o Tên hàng kèm theo số hiệu hạng mục của hàng hóa đó trong danh mục hàng hóa thống nhất, thường áp dụng trong trường hợp hàng hóa là các loại máy móc, linh kiện, thiết bị kỹ thuật (ví dụ: mô-tơ điện mục 100, 101)
o Ngoài ra, trong một số trường hợp, có thể kết hợp một vài phương pháp với nhau để ghi tên hàng hóa theo cách mô tả tổng hợp.
1.3.2.3.2 Điều khoản về số lượng, khối lượng hàng hóa
Đơn vị tính số lượng
Trong Thương mại Quốc tế, người ta áp dụng nhiều hệ thống đo lường khác nhau:
o Đơn vị đo chiều dài: mét, inch, foot, yard, mile;
o Đơn vị đo diện tích: square inch, square foot, square yard, square mettre
o Đơn vị đo thể tích: Gallon, Bushel, Barrel, lit
o Đơn vị đo khối lượng: Tấn, kg, pound, Grain
o Đơn vị tính số lượng tập hợp: tá, gross (12 tá), hộp, đôi,…
Cần lưu ý rằng, nhiều đơn vị đo lường có cùng tên gọi nhưng ở mỗi nước lại có nội dung khác nhau. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, các bên phải có sự thống nhất về đơn vị tính số lượng, khối lượng của từng loại hàng hóa trong hợp đồng.
Phương pháp quy định số lượng, khối lượng hàng hóa
Thông thường có 2 cách quy định:
Quy định chính xác số lượng hàng hóa trong hợp đồng và 2 bên không được phép giao nhận theo số lượng khác (ví dụ: 1500 kiện vải, 700 thùng dầu). Phương pháp này thường dùng trong mua bán hàng hóa tính bằng cái, chiếc thùng,…
Quy định phỏng chừng về số lượng hàng hóa. Khi thực hiện hợp đồng, các bên có thể giao nhận với số lượng cao hơn hoặc thấp hơn số lượng quy định trong hợp đồng và khoảng chênh lệch đó gọi la dung sai về số lượng (ví dụ: 10000 tấn gạo ± 5%). Phương pháp này thường được dùng trong khi mua bán hàng hóa có khối lượng lớn. khó có thể cân đong đo đếm một cách chính xác được. Để diễn đạt khoảng dung sai, người ta thường dùng các từ ngữ sau: khoảng (about), trên dưới (more or less), xấp xỉ (approximately), từ… đến… (from… to…).
Phương pháp xác định trọng lượng
Để xác định trọng lượng hàng hóa, người ta thường dùng các phương pháp sau:
Trọng lượng cả bì là trọng lượng của hàng hóa cùng với trọng lượng của các loại bao bì bảo quản hàng hóa.
Trọng lượng tịnh: là trọng lượng thực tế của bản thân hàng hóa
Trọng lượng thương mại: là phương pháp áp dụng trong mua bán những mặt hàng hút ẩm, có độ ẩm không ổn định và có giá trị kinh tế tương đối cao.
1.3.2.3.3 Điều khoản phẩm chất
Đây là điều khoản thể hiện chi tiết về chất lượng hàng hóa (tính năng, quy cách, kích thước, tác dụng, công suất, hiệu suất). Việc xác định cụ thể phẩm chất của hàng hóa rất quan trọng vì nó là cơ sở để xác định giá cả của hàng hóa.
Để xác định phẩm chất, những tiêu chuẩn mà hàng hóa phải đạt được, có một số phương pháp chủ yếu sau:
o Xác định phẩm chất dựa vào mẫu hàng do người bán đưa ra và người mua chấp nhận. Trong trường hợp người mua đưa ra mẫu hàng trước thì người bán phải có mẫu đối chiếu. Trong tập quán thương mại Quốc tế, người ta thường ký hoặc đóng dấu vào 3 mẫu hàng: một mẫu giao cho người bán lưu, một mẫu giao cho người mua và một mẫu giao cho người thứ ba được hai bên thỏa thuận chỉ định giữ hàng mẫu để đối chiếu khi cần thiết.
o Xác định phẩm chất dựa vào phẩm cấp hoặc tiêu chuẩn: cần phải tìm hiểu nội dung của tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó, ghi chính xác số hiệu tiêu chuẩn và năm ban hành tiêu chuẩn hoặc phẩm cấp đó.
o Xác định phẩm chất dựa vào quy cách của hàng hóa là những chi tiết về chất lượng như công suất, kích cỡ, trọng lượng… Phương pháp này thường được dùng trong việc mua bán các thiết bị, máy móc, công cụ vận tải…
o Xác định phẩm chất dựa vào hàm lượng của chất chủ yếu trong hàng hóa, quy định tỉ lệ phần trăm của thành phần chất chủ yếu chiếm trong hàng hóa. Phương pháp này thường được dùng trong mua bán nguyên liệu, lương thực- thực phẩm.
o Xác định phẩm chất hàng hóa dựa vào nhãn hiệu hàng hóa, ghi rõ năm sản xuất và sêri sản xuất của loại hàng có nhãn hiệu đó. Phương pháp này thường được áp dụng đối với những mặt hàng công nghiệp hoặc hàng nông sản chế biến như đồ hộp, thuốc lá, cà phê, rượu…
o Xác định phẩm chất dựa vào các tài liệu kỹ thuật. Trong việc mua bán các máy móc, thiết bị, hàng công nghiệp, tiêu dùng lâu bền, thì trên hợp đồng mua bán người ta thường dẫn chiếu đến một số tài liệu như: bản vẽ kỹ thuật, sơ đồ lắp ráp, bản thuyết minh tính năng tác dụng, bản hướng dẫn sử dụng… Trong những trường hợp này, người ta còn ký và đóng dấu vào tài liệu kỹ thuật và quy định rằng tài liệu đó là một phần không thể tách rời của hợp đồng.
o Xác định chất lượng hàng hóa dựa vào hiện trạng hàng hóa. Phương pháp này thường chỉ dùng trong mua bán Quốc tế về hàng nông sản và khoáng sản.
o Xác định chất lượng hàng hóa dựa vào sự mô tả hàng hóa. Khi mua bán những loại hàng hóa mà chất lượng của chúng khó tiêu chuẩn hóa trên thị trường Quốc tế, người ta thường dùng một số chỉ tiêu phỏng chừng FAQ, GMQ…
1.3.2.3.4 Điều khoản giá cả
Đây là một trong những điều khoản quan trọng nhất của hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Thông thường, điều khoản này xác định các vấn đề quan trọng: đồng tiền tính giá, mức giá, phương pháp quy định mức giá, phương pháp xác định mức giá…
Đồng tiền tính giá: Đồng tiền tính giá và thanh toán trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải là ngoại tệ đối với ít nhất một bên trong quan hệ hợp đồng.
Giá cả của hàng hóa có thể được xác định ngay trong lúc ký kết hợp đồng, cũng có thể xác định trong thời hạn hiệu lực hợp đồng h._.oặc khi thực hiện hợp đồng. Thông thường, giá cả trong hợp đồng được xác định theo một trong 3 cách sau:
• Định giá trung lập (Neutral pricing) là định giá có căn cứ rõ rang, không nhằm mục đích cơ hội nào. Có 2 căn cứ để xác định giá trung lập:
i. Định giá căn cứ vào sản xuất;
ii. Định giá căn cứ vào thị trường.
• Định giá thâm nhập (Penetration Pricing) là cách định giá cơ học để nhằm thâm nhập vào thị trường. Giá thâm nhập bao giờ cũng thấp, thậm chí cũng có lúc nó thấp hơn cả giá thành.
• Định giá hớt váng (Skim Pricing) là xác định giá thời cơ để nhằm tận dụng cơ hội có lợi cho mặt hàng của mình. Giá hớt váng bao giờ cũng cao hơn giá trung lập.
Cũng có thể phân biệt các loại giá dựa trên cơ sở các tiêu chí định giá khác như:
• Giá xác định ngay (hay giá cố định- fixed price) là giá được quy định vào lúc ký kết hợp đồng và không được sửa đổi nếu không có sự thỏa thuận khác.
• Giá quy định sau là giá được định trong quá trình thực hiện hợp đồng.
• Giá có thể xét lại (rivesable price) là giá quy định trong hợp đồng nhưng có thể được xem xét lại nếu sau này, vào lúc giao hàng, giá thị trường của hàng hóa có sự biến động đến mức đáng kể. Trong hợp đồng vận dụng giá này, các bên phải thỏa thuận với nhau nguồn tài liệu phán đoán sự biến động giá cả và thỏa thuận quy định mức chênh lệch tối đa giữa giá thị trường và giá hợp đồng.
• Giá di động hay giá trượt (sliding scale price) là giá được tính toán dứt khoát khi thực hiện hợp đồng trên cơ sở giá cả quy định ban đầu, có tính đến những biến động về chi phí sản xuất trong thời kỳ thực hiện hợp đồng.
1.3.2.3.5 Điều khoản giao hàng
Nội dung cơ bản của điều khoản này là sự xác định thơi hạn giao hàng, địa điểm giao hàng và thông báo giao hàng.
Thời hạn giao hàng (time of shipment)
Là thời hạn mà người bán phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng cho người mua. Thời hạn giao hàng do các bên thỏa thuận và phụ thuộc số lượng hàng hóa theo hợp đồng. Thông thường, có 3 cách quy định thời hạn giao hàng:
• Thời hạn giao hàng có định kỳ: có thể là một ngày cụ thể hoặc một khoảng thời gian xác định nào đó.
• Thời hạn giao hàng không định kỳ: là thời gian quy định chung chung, phổ biến. Theo cách này, có thể thỏa thuận như sau:
i. Giao hàng cho chuyến tàu đầu tiên (shipment by first available steamer)
ii. Giao hàng khi nào có khoang tàu (subject to shipping space)
iii. Giao hàng khi nhận được L/C (subject to the opening of L/C)
• Thời hạn giao hàng ngay là việc các bên giao dịch thỏa thuận:
i. Giao nhanh;
ii. Giao ngay lập tức;
iii. Giao càng sớm càng tốt
Địa điểm giao hàng
Địa điểm giao hàng gắn liền với việc chuyển quyền sở hữu và dich chuyển rủi ro từ người bán sang người mua.
Phương thức giao hàng
Việc xác định phương thức giao hàng chủ yếu là quy định phương thức giao nhận hàng hóa tại một nơi nào đó là giao nhận sơ bộ hay giao nhận cuối cùng, giao nhận về số lượng và chất lượng.
Giao nhận sơ bộ là bước đầu xem xét hàng hóa và xác nhận sự phù hợp về số lượng, chất lượng hàng so với hợp đồng.
Giao nhận cuối cùng là xác nhận việc người bán đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng.
Giao nhận hàng hóa về số lượng là xác định số lượng thực tế hàng hóa được giao bằng các phương pháp cân, đong, đo, đếm.
Giao nhận hàng hóa về chất lượng là việc kiểm tra hàng hóa về tính năng, công dụng, hiệu suất, kích thước, hình dáng…
Hoạt động giao nhận hàng hóa có thể tiến hành trên toàn bộ hàng hóa hoặc chỉ tiến hành kiểm tra điển hình.
Điều kiện giao hàng: thường dựa theo các tập quán Thương mại Quốc tế
Các tập quán thương mại là một nguồn quan trọng hình thành nên pháp luật thương mại quốc tế. Tập quán thương mại là thói quen trong hoạt động thương mại được lặp đi lặp lại nhiều lần, và được công nhận bởi đông đảo các thương nhân. Có 2 hệ thống tập quán thương mại thông dụng trên Thế giới là Incoterms và UCP.
Incoterms được viết tắt từ 3 chữ International Commercial Terms (các điều kiện thương mại Quốc tế) và mỗi điều kiện của Incoterms được chọn sẽ trở thành một điều khoản của Hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế chứ không phải là của hợp đồng chuyên chở hàng hóa.
Phiên bản Incoterms đầu tiên được xuất bản năm 1937 và đã ngay lập tức được đông đảo giới thương nhân Quốc tế hưởng ứng. Để đảm bảo các tập quán của Incoterm không trở nên lạc hậu và để theo kịp sự thay đổi nhanh chóng hàng ngày, hàng giờ của nền kinh tế Thế giới, các phiên bản Incoterm cũng liên tục được quan tâm sửa đổi, và ngày nay thì cứ 10 năm người ta lại sửa đổi Incoterm một lần. Hai bản Incoterms được sử dụng nhiều nhất là phiên bản Incoterm 1990 và 2000.
Việc áp dụng tập quá là không bắt buộc, mà do các bên tự thỏa thuận. Do vậy mà phiên bản mới ra đời không làm vô hiệu các phiên bản trước đó. Các bên hoàn toàn có thể thỏa thuận chọn bất cứ một phiên bản nào dù là mới hay cũ.
Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng.
Theo điều kiện FOB, người bán hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của mình khi hàng qua lan can tàu mà người mua chỉ định ở cản bốc hàng quy định vào ngày hoặc thời hạn các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. Kể từ thời điểm này, người mua chịu mọi chi phí và rủi ro về mất mát và hư hỏng hàng hóa. Theo điều kiện này, người bán phải làm thủ tục thông quan xuất khẩu và chịu mọi chi phí liên quan đến thủ tục đó. Nghĩa vụ của người bán giao hàng lên tàu do người mua chỉ định trong thời gian quy định chính là bản chất cảu điều kiện FOB. Nhưng nếu người mua không thông báo cho người bán về tên con tàu, về địa điểm bốc hàng và thời gian yêu cầu giao hàng thì có thể dẫn đến việc rủi ro chuyển từ người bán sang người mua trước khi hàng hóa được bốc lên tàu. Người ta gọi đây là trường hợp rủi ro chuyển sớm. Do vậy, nếu người mua không thực hiện nghĩa vụ thông báo cho người bán về những chi tiết cần thiết cho việc giao hàng thi rủi ro về những mất mát và hư hỏng hàng hóa sẽ được chuyển từ người bán sang người mua kể từ ngày quy định hoặc ngày cuối cùng của thời hạn quy định cho việc giao hàng với điều kiện là hàng hóa sẽ được cá biệt hóa theo hợp đồng.
CIF là điều kiện buôn bán Quốc tế rất phổ biến theo đó giá hàng hóa bao gồm giá của bản thân hàng hóa đó cộng với chi phí bảo hiểm và cước vận chuyển hàng hóa tới cảng đến quy định. Do vậy, nghĩa vụ của người bán là phải thuê tàu để chở hàng đến cảng đích quy định, cung cấp hàng theo hợp đồng và bốc hàng lên tàu tại cảng bốc quy định trong thời hạn quy định, mua bảo hiểm cho hàng hóa với mức bảo hiểm tối thiểu và bằng đồng tiền dùng để thanh toán trong hợp đồng, cung cấp cho người mua một vận đơn đã bốc hàng hoàn hảo, lưu thông được, và một đơn bảo hiểm lưu thông được, chịu mọi rủi ro và chi phí về hàng hóa cho đến khi hàng đã qua hẳn lan can tàu ở cảng bốc hàng. Người mua phải trả tiền hàng và nhận các chứng từ phù hợp với hợp đồng, và chịu mọi rủi ro và chi phí về hàng hóa kể từ khi hàng đã qua hẳn lan can tàu \ tại cảng bốc hàng.
Cả hai điều kiện này đều chỉ được áp dụng khi hàng hóa được vận chuyển bằng đường biển và đường thủy nội địa. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu.
Đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn.
1.3.2.3.6 Điều khoản về thanh toán:
Các cách thức quy định thời hạn thanh toán thường được áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế:
Trả tiền trước khi giao hàng: thỏa thuận người mua trả một khoản tiền theo tỷ lệ giá trị lô hàng để đảm bảo việc thực hiện hợp đồng.
Thanh toán ngay: thường được áp dụng sau khi giao hàng xong và thực hiện trong một thời gian nhất định do các bên thỏa thuận.
Phương thức thanh toán: bao gồm thanh toán bằng tiền mặt, séc, điện chuyển tiền, hối phiếu, thư tín dụng, bao thanh toán.
Cụ thể, Các phương thức thanh toán thông dụng bao gồm:
- Tiền mặt: bao gồm các loại
Tiền mặt trả trước- CIA (cash in advance)
Tiền mặt trả trước lúc giao hàng- CBD (cash before delivery)
Tiền mặt trả khi giao hàng- COD (cash on delivery)
Tiền mặt trả khi trao chứng từ- CAD (cash against document)
- Séc
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của chủ tài khoản tiền gửi ra lệnh cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình ra để trả cho người có tên trong séc, hoặc trả theo lệnh của người đó hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hoặc bằng chuyển khoản.
Điều cơ bản trong việc lập séc là người phát hành séc phải có tiền trên tài khoản mở tại ngân hàng, số tiền trên tờ séc không được vượt quá số dư trên tài khoản ở ngân hàng. Séc có thể được phát hành để trả tiền cho một cơ quan, tổ chức, một hoặc nhiều cá nhân, hoặc có thể là séc do một ngân hàng phát hành để trả tiền cho một ngân hàng khác.
Đặc điểm của séc là có tính thời hạn, tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc thanh toán nếu thời hạn có hiệu lực của nó chưa hết. Thời hạn có hiệu lực của séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó phụ thuộc vào không gian lưu hành séc và phụ thuộc vào luật pháp các nước.
- Thanh toán bằng phương thức chuyển tiền
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất. Theo đó, người mua (nhà nhập khẩu) thông qua ngân hàng gửi tiền trả người bán (nhà xuất khẩu). Phương tiện thanh toán theo phương thức chuyển tiền gồm điện chuyển tiền và thư chuyển tiền. Trả tiền bằng điện hay bằng thư đều phải thông qua ngân hàng làm trung gian. Do đó, người chuyển tiền phải trả thủ tục phí cho ngân hàng.
- Phương thức thanh toán bằng ghi sổ: được thực hiện bằng cách người nhập khẩu mở một tài khoản, trên đó ghi các khoản tiền mà người nhập khẩu nợ về tiền mua hàng hóa hay các khoản chi phí khác liên quan đến việc mua hàng. Người nhập khẩu định kỳ (hàng tháng, hàng quý hoặc nửa năm 1 lần) thanh toán khoản nợ hình thành trên tài khoản của người xuất khẩu.
Phương pháp này thực chất là một hình thức tín dụng thương nghiệp, ít được áp dụng trong thanh toán Quốc tế bởi nó không có sự bảo đảm đầy đủ cho người xuất khẩu cho người xuẩt khẩu có thể kịp thời thu được tiền hàng.
- Hối phiếu:
Hối phiếu là một lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký phát cho một người khác, yêu cầu người này, khi nhin thấy phiếu, hoặc đến một ngày cụ thể nhất định hoặc có thể xác định trong tương lai, phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó theo lệnh của người này trả cho một người khác hoặc cho người cầm phiếu.
Trước đây, người ta phân biệt hối phiếu và kỳ phiếu: Hối phiếu là giấy đòi nợ, còn kỳ phiếu là giấy cam kết trả nợ.
Hiện nay, hối phiếu được chia thành 2 loại: hối phiếu đòi nợ và hối phiếu nhận nợ (tương đương với kỳ phiếu trước đây), được quy định chi tiết trong Luật các công cụ chuyển nhượng, số 49/2005/QH11 của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- Tín dụng thư chứng từ:
Phương thức thanh toán bằng tín dụng thư chứng từ (L/C) chỉ được áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế giữa người bán và người mua có điều khoản thỏa thuận thanh toán bằng L/C, tức là hai bên thỏa thuận có ngân hàng bảo đảm thanh toán.
Theo đó, người mua phải chọn một ngân hàng để mở thư tín dụng, và hợp đồng này chỉ bắt đầu có hiệu lực khi người mua mở được thư tín dụng. Việc người mua có mở được thư tín dụng hay không là phụ thuộc vào độ tín nhiệm của ngân hàng đối với người mua.
Trong một số trường hợp, người bán không tin tưởng vào ngân hàng mà người mua mở thư tín dụng, nên người bán có quyền ra điều kiện ngân hàng của người mua phải được bảo lãnh bởi một ngân hàng khác do người bán chọn, tức là khi mở thư tín dụng, ngân hàng của người mua phải thông báo cho ngân hàng của người bán và được ngân hàng này chấp nhận. Hoặc sau khi mở L/C, ngân hàng của người mua phải thông báo cho người bán và được người bán chấp nhận.
Nếu người bán thấy thư tín dụng chưa đầy đủ nội dung theo Hợp đồng thì phải lập tức yêu cầu bên mua bổ sung, trước khi bắt đầu thực hiện hợp đồng. Khi người bán chấp nhận thư tín dụng thì mới bắt đầu thực hiện hợp đồng.
Khi người bán đã chuyển hàng cho người mua, có thể là gửi trực tiếp cho người mua hoặc gửi đến một địa điểm theo thỏa thuận, thì người bán phải gửi hồ sơ gồm các chứng từ giao hàng và hối phiếu qua ngân hàng để ngân hàng chuyển cho người mua để người mua chấp nhận thanh toán và thanh toán. Khi đó, nếu đủ chứng từ, người mua sẽ chuyển tiền vào ngân hàng để thanh toán cho người bán.
Ngân hàng chỉ được phép thanh toán khi người bán gửi hồ sơ gồm đủ các chứng từ đã ghi trong thư tín dụng. Theo UCP500, các chi nhánh của cùng một Ngân hàng mẹ đặt tại các nước khác nhau thì coi là các ngân hàng khác biệt nhau, chịu trách nhiệm độc lập.
Như vậy, thư tín dụng là một lời cam kết của ngân hàng trên cơ sở một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, nhưng khi đã được mở thì nó độc lập với hợp đồng, và có thể coi là một hợp đồng thứ phát.
- Bao thanh toán: là phương thức thanh toán mà ngân hàng sẽ giúp cho nhà xuất khẩu được thanh toán khoản tiền của mình.
Nếu người bán muốn thực hiện phương thức này, người bán phải ký với ngân hàng “Hợp đồng bao thanh toán xuất khẩu”. Sau đó, người bán và ngân hàng đồng thời phải thông báo cho người mua biết về việc người bán đã chuyển cho ngân hàng quyền đòi nợ và phải được người mua chấp nhận.
Khi được chấp nhận thì nhà xuất khẩu mới chuyển hàng đi và chuyển hồ sơ chứng từ cho ngân hàng. Khi đó, nếu hồ sơ đầy đủ, ngâng hang sẽ thanh toán cho người bán theo một tỷ lệ nhất định trong phạm vi bảo đảm an toàn cho ngân hàng. Đến khi người mua thanh toán đầy đủ cho ngân hàng thì ngân hàng sẽ thanh toán nốt cho người bán, trừ đi khoản phí cho ngân hàng mà người bán phải chịu.
Như vậy, bao thanh toán và thư tín dụng có điểm khác nhau cơ bản là ở chỗ: theo phương thức thư tín dụng thì người mua là người trả phí ngân hàng, còn theo phương thức bao thanh toán thì người bán phải trả phí.
1.3.2.3.7Điều khoản về thỏa thuận áp dụng luật điều chỉnh
Điều khoản này rất quan trọng đối với cả hai bên trong quá trình thực hiện hợp đồng, và vai trò của nó đặc biệt được thể hiện trong trường hợp giữa các bên phát sinh tranh chấp do vi phạm hợp đồng. Các bên tự nguyện thỏa thuận chọn một trong các nguồn của Pháp luật Thương mại Quốc tế để điều chỉnh hợp đồng một cách thuận tiện nhất cho các bên, và thường phải là những quy định mà cả hai bên đều nắm rõ. Trường hợp các bên không thỏa thuận chọn luật áp dụng thì việc lựa chọn sẽ thuộc về cơ quan Giải quyết tranh chấp mà các bên đã lựa chọn dựa theo nguyên tắc “áp dụng luật có liên quan gần nhất”, nghĩa là luật của nơi xảy ra vi phạm, phát hiện ra vi phạm, hoặc nơi thực hiện chủ yếu hợp đồng. Ví dụ: một công ty hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam ký hợp đồng mua hàng của một đối tác Trung Quốc, theo hợp đồng hang được chuyển sang Singapore theo một thời hạn cụ thể. Sau khi hàng được giao, bên Việt Nam phải chuyển vào tài khoản của bên bán tại Trung Quốc một khoản tiền là 1triệu $, nhưng Ngân hàng của Việt Nam lại quy định mức phí chuyển tiền là 15000$, nên số tiền mà bên bán nhận được bị thiếu 15000$, lúc này luật có liên quan gần nhất là Pháp luật của Trung Quốc. Còn nếu trường hợp hàng hóa giao không đúng tiêu chuẩn ghi trong hợp đồng thì Luật có liên quan gần nhất là Luật Việt Nam, nếu hàng được giao chậm thì sẽ giải quyết theo Luật Singapore.
1.3.2.3.8 Điều khoản trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và giải quyết tranh chấp
Cơ sở pháp lí để xác định trách nhiệm pháp lí và giải quyết tranh chấp là dựa vào hợp đồng. Theo luật Thương mại Việt Nam 2005 thì có 4 phương thức giải quyết tranh chấp được quy định tại điều 317, đó là: thương lượng, hòa giải, giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án.
Thông thường, khi có vi phạm xảy ra thì tâm lý chung của các bên là muốn giải quyết êm thấm, giảm thiểu phiền hà, tức là trực tiếp thương lượng để tìm ra biện pháp khắc phục một cách nhanh chóng nhất nhằm tránh việc các bên phải kiện tụng nhau, ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác lâu dài. Nhưng cũng có không ít trường hợp mà các bên không thể tự đi đến thống nhất cách giải quyết được thì phương thức giải quyết tranh chấp được các thương nhân ưa chuộng hơn nhất là phương thức giải quyết thông qua Trọng tài kinh tế. Phương thức trọng tài là theo sự lựa chọn của các bên. Nếu không thỏa thuận hoặc điều khoản lựa chọn phương thức trọng tài vô hiệu thì Tòa Án sẽ thụ lí giải quyết.
Thỏa thuận Trọng tài có thể được xác lập ngay trong hợp đồng, trong văn bản riêng hoặc trong biên bản hòa giải không thành. Có một quy định rất đặc biệt là mặc dù hợp đồng mua bán có thể xác lập bằng lời nói thì thỏa thuận lựa chọn Trọng tài kinh tế lại bắt buộc phải được xác lập bằng văn bản. Điều khoản thỏa thuận về trọng tài phải nêu đúng tên của một trung tâm trọng tài cụ thể, vì khi có tranh chấp xảy ra thì chỉ có trung tâm trọng tài đó mới có thẩm quyền giải quyết.
Phán quyết của Trọng tài có giá trị chung thẩm, nghĩa là các bên không kháng cáo, kháng nghị, và chỉ có thể bị Tòa án tuyên bố vô hiệu do điều khoản thỏa thuận vô hiệu. Nếu không bị tuyên bố vô hiệu thì phán quyết trọng tài có hiệu lực ngay lập tức. Và nếu bên bị thi hành không tự nguyện thi hành thì bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thi hành.
Một tranh chấp trong Thương mại Quốc tế hoàn toàn có thể được giải quyết bởi một Trung tâm trọng tài nước ngoài. Để đảm bảo phán quyết của Trọng tài nước ngoài được thi hành, Việt Nam và một số nước đã tham gia Công ước New York 1958. Công ước được áp dụng khi nơi ra phán quyết và nơi thi hành là khác nhau (ở hai Quốc gia khác nhau), và áp dụng cho những phán quyết mà không được coi là phán quyết trong nước (ví dụ: Trọng tài Singapore sang Việt Nam tiến hành giải quyết tranh chấp và ra phán quyết, thì đó không được coi là phán quyết trong nước của Việt nam). Thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và thi hành tại Việt nam quyết định của Trọng tài nước ngoài được quy định tại Chương 29 Bộ luật tố tụng dân sự nước CHXHCN Việt Nam.
1.3.2.4 Các quy định về ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế
1.3.2.4.1 Chào hàng
Chào hàng là giai đoạn đầu tiên để đi tới việc đàm phán và ký kết hợp đồng giữa các thương nhân. Nhìn từ một gó độ khái quát nhất, có thể giải nghĩa một cách đơn giản chào hàng là một lời gợi ý, đề nghị giao kết hợp đồng của một bên (có thể là bên bán hoặc bên mua) gửi tới đối tác mà mình muốn hướng tới. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển theo xu hướng tự do cạnh tranh, các bên phải tự chứng tỏ khả năng của mình để “giành giật” đối tác thì những lời chào hàng lại càng trở nên quan trọng để thu hút sự chú ý của bạn hàng. Vì thế mà pháp luật về Thương mại Quốc tế không thể không lưu tâm điều chỉnh vấn đề này.
Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng và giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định các yếu tố này Điều 14 khoản 1 Công ước Viên 1980
.
Pháp luật Việt Nam trước đây, mà cụ thể là Luật Thương mại 1997 cũng có dành một số điều quy định về chào hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài. Sau này, khi thực tế đòi hỏi phải có sự điều chỉnh Luật Thương mại, thì một trong những yêu cầu đặt ra là cần sửa đổi Luật Thương mại năm 1997 cho phù hợp, theo hướng bỏ những quy định chung về hợp đồng liên quan đến chào hàng, chấp nhận chào hàng, nội dung chủ yếu của hợp đồng, sửa đổi, bổ sung hợp đồng…Luật Thương mại chỉ cần quy định những nội dung mang tính chuyên ngành về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại, trong đó chủ yếu là hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng cung ứng dịch vụ. Do đó, từ khi Luật Thương mại 2005 chính thức có hiệu lực, thì việc điều chỉnh các vấn đề về chào hàng được quy định thống nhất trong Bộ luật dân sự 2005. Tại điều 390 Bộ luật dân sự Việt Nam đưa ra quan điểm thế nào là một chào hàng với cách gọi khác là đề nghị giao kết hợp đồng. Theo đó, đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.
Như vậy, cả Luật Quốc tế và Luật Việt Nam đều quy định thống nhất rằng lời chào hàng phải đủ rõ để thể hiện ý định giao kết hợp đồng để người nhận lời chào hàng có đủ thông tin ra quyết định chấp nhận hay thay đổi lời chào. Một gian quảng cáo, một gian trưng bày hành trong một triển lãm thương mại, tuy cũng có mục đích là tìm kiếm khách hàng và ký kết hợp đồng, song nó vẫn không được coi là một lời chào hàng, vì nó không mang đầy đủ các thông tin cần thiết để ràng buộc người đưa ra lời chào, như không có thời hạn cụ thể để người mua chấp nhận lời chào, hay không có địa chỉ người nhận cụ thể.
Công ước Viên 1980 quy định: Chào hàng có hiệu lực từ khi nó tới nơi người được chào hàng. Còn Bộ Luật dân sự Việt Nam thì có quy định thêm trường hợp người đưa ra lời chào hàng có quyền ấn định thời điểm bắt đầu có hiệu lực của chào hàng, nếu bên đề nghị không ấn định thời điểm này thì nó được xác định giống với công ước Viên. Điều 391 khoản 1 Bộ luật dân sự 2005
Trường hợp bên đưa ra đề nghị muốn thay đổi hay rút lại chào hàng thì được quy định tại Điều 16 Công ước Viên 1980 và Điều 392 Bộ luật dân sự 2005. Trong trường hợp người nhận lời chào có sự thay đổi điều kiện để chấp nhận lời chào, mà điều kiện đó lại là điều kiện cơ bản thì sự thay đổi đó coi như một lời chào hàng mới. Và nếu giữa hai bên cứ liên tục có sự thay đổi như trên thì sau cùng, hai bên sẽ đưa ra một bản cuối cùng làm vô hiệu tất cả các giao dịch trước đó.
Chào hàng hết hiệu lực khi thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng đã hết hoặc chào hàng bị từ chối, hoặc như trường hợp nêu trên là bên nhận chào hàng đưa ra một lời chào hàng mới thì chào hàng trước đó bị coi là vô hiệu. Thời hạn chấp nhận chào hàng được quy định tại Điều 397 Bộ luật dân sự 2005. Trên thực tế, còn có một trường hợp đặc biệt nữa khiến chào hàng bị coi là hết hiệu lực nếu bên chào hàng, vì một nguyên nhân nào đó mà ngay khi chưa hết thời hạn chấp nhận chào hàng, đã không tham gia kinh doanh nữa. Nguyên nhân đó có thể là bên chào hàng bị giải thể, phá sản, bị thu hồi chứng nhận đăng ký kinh doanh,…
1.3.2.4.2. Chấp nhận chào hàng
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị. Điều 396 Bộ luật dân sự 2005
Khi một bên đưa ra lời chào thì bên đó bị ràng buộc với lời chào của mình trong thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng đồng ý với toàn bộ lời chào và trả lời chấp nhận trong thời hạn quy định thì quan hệ hợp đồng đã được hình thành. Điều 23 Công ước Viên 1980 quy định: Hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ lúc sự chập nhận chào hàng có hiệu lực. Nếu bên nhận lời chào có sự thay đổi lời chào mà sự thay đổi đó là không đáng kể thì vẫn coi là đã ký kết hợp đồng. Sự thay đổi không đáng kể là sự thay đổi nhỏ mà không làm ảnh hưởng đến mục tiêu của hợp đồng. Chẳng hạn đối với một hợp đồng nhập khẩu thì sự thay đổi về lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp là vô cùng quan trọng, và sự thay đổi điều khoản này là một sự thay đổi đáng kể; còn sự thay đổi không đáng kể có thể là dịch chuyển thời gian thực hiện hợp đồng trong một khoảng chênh lệch rất ngắn,…
Chấp nhận chào hàng có thể được thể hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là lời chào đã được chấp nhận. Một lời tuyên bố hay một hành vi khác của người được chào hàng biểu lộ sự đồng ý với chào hàng cấu thành chấp nhận chào hàng. Sự im lặng hoặc bất tắc vi không mặc nhiên có giá trị một sự chấp nhận .
Chào hàng và chấp nhận chào hàng là những giai đoạn rất cơ bản để xác lâpk hợp đồng giữa các thương nhân, đặc biệt là đối với Hợp đồng Thương mại Quốc tế khi mà ở đó các thương nhân ở các Quốc gia khác nhau rất ít khi có cơ hội trao đổi trực tiếp về ý định giao kết hợp đồng. Nhưng các quy định về vấn đề này mặc dù đã được Công ước Quốc tế rõ ràng nhưng nó vẫn có sự áp dụng rất khác biệt khi đưa vào Luật Quốc gia. Chẳng hạn như, ở những nước theo hệ thống luật công như Ấn độ, New Di Lân, Negeria, Anh, khi người bàn đưa ra một lời chào hàng, thì theo luật họ không được hủy bỏ lời chào hàng đó vào bất cứ lúc nào trước khi lời chào hàng đó được người mua chấp nhận. Điều đó được áp dụng cho những chào hàng trên hệ thống điện tử và cả những chào hàng ngoài hệ thống điện tử. Trong khi đó, ở những nước có luật dân sự như Brazin, Pháp, Đức, Indosia khi người bán đưa ra lời chào hàng, họ có trách nhiệm duy trì lời chào hàng đó một cách công khai có nghĩa là họ không thể hủy bỏ lời chào hàng trong thời gian họ vẫn có đủ lượng hàng trong kho để đáp ứng bất kỳ đơn đặt hàng nào và trong thời gian có hiệu lực của lời chào hàng mà người bán đã thông báo. Vì thế, các thương nhân Việt Nam cần nắm rõ những sự khác biệt ấy để tránh những tổn thất không đáng có trong hoạt động kinh doanh Quốc tế của mình.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NHẬP KHẨU TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THIẾT BỊ THẮNG LỢI
2.1. Giới thiệu chung về Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi
2.1.1. Quá trình hình thành của Công ty Thắng Lợi
Một trong những nguyên nhân khiến nền kinh tế Việt Nam tụt hậu so với kinh tế thế giới là do sự tụt hậu về khoa học kỹ thuật. Năm 1986, chúng ta bắt đầu thực hiện lộ trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa Đất nước với mục đích đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất vào trong nước, tận dụng lợi thế của người đi sau so với những Quốc gia đi trước đã rất phát triển, với phương châm “đi tắt, đón đầu”. Khi mà rất nhiều nước đã phát triển nền đại công nghiệp với nhiều thiết bị siêu hiện đại thì một đất nước có tài nguyên “rừng vàng biển bạc” như Việt Nam lại vẫn là một nền kinh tế vô cùng thô sơ và nghèo nàn. Chúng ta không chỉ cần mang về Việt Nam các loại máy móc thiết bị mà hơn như thế, chúng ta cần những máy móc thực sự hữu dụng và có chất lượng để phục vụ cho tất cả các ngành kinh tế, để Việt Nam không trở thành bãi rác công nghệ của các nước phát triển.
Những nhu cầu bức thiết đó cũng như sự kiện Việt Nam mở cửa nền kinh tế, hội nhập thị trường thế giới, đã mở ra rất nhiều hứa hẹn cho các lĩnh vực kinh doanh về máy móc công nghệ, thiết bị điện tử.
Nắm bắt được thời cơ đó, rất nhiều doanh nhân, dựa trên cơ sở sự hiểu biết của mình trong lĩnh vực máy móc thiết bị, đã tìm cho mình con đường kinh doanh trong lĩnh vực này, và cũng trong những năm đầu đổi mới ấy, công ty TNHH Thắng Lợi đã được thành lập. Công ty được thành lập từ năm 1993, có tên giao dịch đối ngoại là Victory Company Limited. Ngay từ đầu, công ty đã xác định hướng kinh doanh với các hoạt động được coi là rất mới mẻ so với thời điểm lúc bấy giờ, đó là kinh doanh các loại máy móc, thiết bị đo lường có tính kỹ thuật hiện đại phục vụ cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, các phòng thí nghiệm, cũng như các ngành nghề đòi hỏi trình độ công nghệ cao.
Dần dần, người ta cho rằng hình thức công ty cổ phần có nhiều ưu điểm so với công ty trách nhiệm hữu hạn. Sở dĩ như vậy là vì vấn đề tăng vốn của công ty cổ phần đơn giản hơn rất nhiều so với công ty TNHH. Mối quan hệ giữa các thành viên trong công ty TNHH có sự ràng buộc rất chặt chẽ. Một công ty TNHH chỉ có thể tăng thêm vốn thông qua việc huy động trong nội bộ công ty, kêu gọi các thành viên đóng góp tương ứng với tỷ lệ vốn mà họ đã góp vào công ty, và chỉ trong trường hợp hy hữu mới có thể mở rộng quy mô vốn bằng việc kết nạp thành viên mới. Còn đối với công ty cổ phần, người ta có thể rất dễ dàng tăng vốn qua việc phát hành cổ phiếu, và việc kết nạp thêm cổ đông mới cũng rất thuận tiện. Ưu điểm lớn nhất mà công ty cổ phần có được hơn so với công ty TNHH là huy động vốn, mà trong sản xuất kinh doanh, vốn luôn được đánh giá là nhân tố sản xuất vô cùng quan trọng, sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả là điều kiện tiên quyết để có được hiệu quả sản xuất kinh doanh. Vì thế, khi hình thức công ty cổ phần xuất hiện, nó đã nhanh chóng thu hút được sự chú ý của các doanh nhân và trở thành sự lựa chọn của họ khi bước chân vào lĩnh vực kinh doanh thương mại, thể hiện qua việc hàng loạt các công ty TNHH trong vài năm trở lại đây ồ ạt chuyển đổi sang hình thức công ty cổ phần.
Tháng 7 năm 2005, công ty TNHH Thắng Lợi chuyển đổi thành công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi, với tên giao dịch là Victory Instrument Jsc.
Trong hơn 10 năm hoàn thiện và phát triển, ngành nghề kinh doanh của công ty cũng dần được điều chỉnh theo hướng hiện đại hơn, phù hợp với sự phát triển của xã hội.
o Tên tiếng Việt: Công ty cổ phần Thiết bị Thắng Lợi
o Tên giao dịch bằng tiếng Anh: VICTORY Instrument Jsc
o Tên viết tắt: VICTORY Jsc;
o Trụ sở: 6 Hoà Mã, Q.Hai Bà Trưng, Hà Nội
o Website: www.victory.com.vn
o Mã số thuế: 0100516510
o Vốn điều lệ: 20 tỷ VNĐ
o Người đại diện trước pháp luật: GĐ Nguyễn Trọng Khôi
o Ngành nghề kinh doanh: kinh doanh các thiết bị sau
Thiết bị phòng thí nghiệm, thiết bị y tế; thiết bị nghiên cứu và xử lý môi trường; các thiết bị công nghệ
Thiết bị đo lường, kiểm chuẩn, thiết bị điện tử, viễn thông; thiết bị cho dây chuyền sản xuất; thiết bị trường học
Thiết bị trắc địa và định vị vệ tinh; thiết bị kiểm tra vật liệu xây dựng
Dịch vụ chuyển giao công nghệ, sửa chữa, lắp đặt, bảo trì các loại thiết bị KH-KT
Đại lí mua bán, ký gửi hàng
Sản xuất thiết bị KH-KT
Ngoài ra, công ty có 2 văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh và Thành phố Đà Nẵng:
91 Nguyễn Bỉnh Khiêm, Qu._.g có dung lượng thị trường tiêu thụ lớn. Thuế nhập khẩu tạo ra sự phận phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa (vì phải mua hàng với mức giá cao hơn) sang người sản xuất trong nước (vì nhận được mức giá cao hơn), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư thừa của Quốc gia khác.
Thuế quan nhập khẩu có rất nhiều mặt tích cực. Ngoài ý nghĩa quan trọng nhất là bảo về nền sản xuất trong nước như đã nói ở trên, do thuế nhập khẩu có tính minh bạch nên dù đó là mức thuế cao hay thấp cũng cho phép nhà nhập khẩu lượng hóa được cơ hội tiếp cận thị trường tại mỗi Quốc gia để chủ động đề ra phương pháp nâng cao khả năng cạnh tranh.
Việc cần thiết cho tiến trình hoàn thiện thuế quan trong thời kỳ tới là thực hiện đầy đủ việc cắt giảm hàng rào thuế quan theo các lộ trình đã cam kết với các Tổ chức Quốc tế và trong các Hiệp định Thương mại, đặc biệt là cam kết với WTO; khắc phục quan điểm chỉ chú trọng hỗ trợ đầu ra, ít chú trọng hỗ trợ đầu vào. Xu hướng chung của Thế giới là các nước sửa đổi thuế nhập khẩu theo hướng hạ thấp mức thuế, đơn giản hóa cơ cấu thuế quan, ít thuế suất và các thuế suất chênh lệch nhau nhưng không lớn.
Cần tiến hành thuế hóa các biện pháp phi thuế quan, vì việc sử dụng thuế quan vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước vừa cải thiện tính minh bạch của chính sách thương mại, và quan trọng hơn là phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Các quy định của WTO không xác định cụ thể các nước buộc phải dụng loại thuế nào nhưng trên thực tế, hầu hết các biểu thuế quan nhập khẩu của các nước được xác lập trên cơ sở thuế phần trăm. Trong một số trường hợp, thuế cố định và thuế tuyệt đối thay thế cũng có thể được cam kết, xuất phát từ thực tiễn thuế quan của từng nước và trong từng thời kỳ phát triển kinh tế cụ thể. Đồng thời, Nhà nước cũng cần từng bước xây dựng và sử dụng thuế đối kháng, thuế chống bán phá giá, chống độc quyền; hạn chế sự phức tạp của các thủ tục Hải quan, đơn giản hóa và mẫu hóa thống nhất các loại hóa đơn, chứng từ.
Áp dụng định hướng chung đó cho vấn đề hoàn thiện chính sách thuế, Nhà nước cần nhanh chóng hoàn thiện biểu thuế nhập khẩu một cách cụ thể, chi tiết và nhất quán theo hướng minh bạch hóa, đơn giản hóa, hội nhập hệ thống thuế quan khu vực và Thế giới, phù hợp với những quy định của WTO.
Các ưu đãi, miễn giảm thuế để khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại là những biện pháp thuế quan cần thiết trong giai đoạn đầu của chiến lược Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa Đất nước. Song, các biện pháp này cũng chỉ nên áp dụng trong một thời gian nhất định, phù hợp với trình độ phát triển và từng giai đoạn của lộ trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa , sau đó cần giảm dần và chuyển sang các hình thức ưu đãi khác phù hợp với tình hình chung.
Một hoạt động quan trọng hơn cả là Nhà nước cần tăng cường việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý các trường hợp vi phạm về thu thuế, hoàn thuế, thoái thuế… Đối với các trường hợp miễn thuế quan, cần sớm chuyển sang hệ thống miễn thuế tự động dựa trên các yếu tố đầu vào- đầu ra và có thể áp dụng cho công tác hoàn thuế. Để ngăn ngừa và xử lí các hành vi trốn lậu thuế, cần tăng cường phối hợp hoạt động giữa cơ quan thanh tra liên ngành, hải quan, công an kinh tế và ngành Tòa án, nhất là trong việc xử lí các hành vi lợi dụng Chính sách hoàn thuế, thoái thuế, miễn thuế của Nhà nước để gian lận, trốn thuế. Đồng thời cũng phải tiến hành cải cách cơ chế và thủ tục khai nộp thuế theo hướng đơn giản, nhanh gọn, minh bạch và đúng pháp luật.
3.2.3.2. Công cụ tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái phản ánh mối quan hệ về sức mua giữa nội tệ so với các ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Tỷ giá hối đoái là loại giá cả Quốc tế quan trọng nhất, chi phối những loại giá cả khác và tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sồng kinh tế xã hội Quốc gia. Xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu tác động mạnh nhất và nhạy cảm nhất trước những biến động của tỉ giá hối đoái.
Hơn một thập kỷ qua, việc Nhà nước ta sử dụng công cụ tỷ giá chủ yếu là nhằm mục tiêu ổn định nền kinh tế vĩ mô nên tác động của tỷ giá này đến xuất nhập khẩu hàng hóa chưa rõ nét. Việc sử dụng công cụ kinh tế này nhằm mục tiêu điều chỉnh nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu hàng tiêu dùng, khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ chưa thể hiện rõ hiệu quả.
Trong điều kiện hiện nay, Nhà nước cần tiếp tục duy trì tỷ giá hối đoái hợp lí theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, tiếp tục áp dụng tỉ giá thả nổi có quản lí, góp phần tạo môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Theo đó, Nhà nước có thể sử dụng mềm dẻo công cụ tỉ giá, điều chỉnh linh hoạt theo tín hiệu thị trường, song vẫn phải đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô vào vị trí ưu tiên hàng đầu.
Cùng với việc thực hiện mục tiêu ổn định giá, việc sử dụng công cụ tỉ giá phải góp phần từng bước nâng cao uy tín của đồng Việt Nam, tạo những tiền đề cần thiết để đồng tiền Việt Nam trở thành đồng tiền chuyển đổi. Cần từng bước xóa bỏ sự bất hợp lí về việc gắn quá chặt đồng Việt nam vào đôla Mỹ trong khi ta có quan hệ kinh tế với hơn 170 nước mà rất nhiều trong số đó đồng tiền của họ không phải là đôla. Vì vậy cần nhanh chóng xúc tiến chuyển sang điều hành tỉ giá đa phương qua một số đồng ngoại tệ mạnh gồm đôla Mỹ, Yên Nhật, và EUR.
Mục tiêu trước nhất của việc sử dụng tỉ giá trong thời kỳ tới là tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt nam, của doanh nghiệp Việt Nam và của nền kinh tế.
3.2.3.3. Công cụ tín dụng
Đây là một trong những công cụ Tài chính thường được Chính phủ các nước sử dụng dưới nhiều hình thức đa dạng, nhằm cung cấp các khoản tín dụng đầu tư phát triển và hỗ trợ cho các doanh nghiệp, được thực hiện bằng cơ chế hỗ trợ về lãi suất tín dụng của Nhà nước đối với người đi vay.
Các công cụ tín dụng cần được điều chỉnh theo hướng góp phần làm giảm chi phí đầu vào cho sản xuất. Cụ thể là giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp nhập khẩu các sản phẩm cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hạ giá bán các yếu tố sản xuất mà vẫn đảm bảo được lợi ích cho họ.
Chính phủ cũng cần nhanh chóng thành lập các ngân hàng hỗ trợ phát triển và tín dụng, hoạt động với tính chất là một ngân hàng chuyên phục vụ xuất nhập khẩu với mục tiêu tập trung toàn bộ các công cụ hỗ trợ tín dụng, ưu đãi tín dụng vào một kênh duy nhất. Qua đó, Nhà nước tập trung tín dụng trung và dài hạn cho đầu tư phát triển công nghệ, nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại, phát triển vùng nguyên liệu phục vụ xuất khẩu.
Để hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam có đủ sức cung cấp tín dụng cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, cần tiến hành tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại của Nhà nước theo hướng cổ phần hóa, tăng vốn cho các ngân hàng thương mại bằng cách chào bán cổ phần, cổ phiếu cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu để cùng tham gia góp vốn và chịu trách nhiệm.
Ngoài ra, Nhà nước cũng nên thiết lập và củng cố các công cụ kinh tế khác để hỗ trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nói chung cũng như hoạt động nhập khẩu nói riêng, điển hình như hệ thống bảo hiểm. Nhà nước cần sớm ban hành và hỗ trợ một khoản kinh phí để phát triển các loại hình doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong xuất nhập khẩu hàng hóa, hỗ trợ các Hiệp hội ngành hàng thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro cho riêng ngành hàng của mình, đặc biệt là các ngành hàng quan trọng tức là các ngành có yếu tố công nghệ hiện đại.
3.3. Một số khuyến nghị nhằm đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp hoạt động nhập khẩu
Theo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2000- 2010 do Bộ thương mại đề ra, phương châm hoạt động đối với hàng nhập khẩu là:
Nhu cầu nhập khẩu tăng năm 2010 dự kiến như sau:
Nhóm hàng
Kim ngạch 2010 (triệu USD)
Tỷ trọng (%)
2000
2010
1. Máy móc thiết bị
18.000
27
36
2. Nguyên nhiên vật liệu
30.000
69
60
3. Hàng tiêu dùng
2.000
4
4
Tổng kim ngạch NK
50.000
100
100
Nguồn: Bộ Thương mại (2000)
Chiến lược phát triển xuất nhập khẩu thời kỳ 2000- 2010
Cơ cấu nhập khẩu sẽ chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng máy, thiết bị công nghiệp và công nghệ từ 27% năm 2000 lên 36% 2010, giảm tỷ trọng nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu từ 69% năm 2000 xuống 60% năm 2010, giữ nguyên tỷ trọng hàng tiêu dùng ở mức 4% như hiện nay. Khả năng này có tính hiện thực vì trong những năm tới ta sẽ giảm nhập khẩu xăng dầu, một số đồ dùng lâu bền, phân bón và các loại vật liệu xây dựng..., hàng tiêu dùng nhập khẩu đang được thay thế dần bằng hàng sản xuất trong nước, nhất là vào những năm cuối thời kỳ 2001-2010.
Trong thương mại Quốc tế, tranh chấp là điều khó có thể tránh được vì giữa các bên tham gia hợp đồng thường có sự xa cách về mặt địa lí, khác biệt về truyền thống pháp luật và tập quán thương mại, có thể còn do sự thiếu hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Hơn nữa, điều kiện ngoại cảnh ở mỗi nước đều có thể gây ra những khó khăn không thể lường trước, đôi khi là bất khả kháng cho mỗi bên khi thực hiện nghĩa vụ của mình theo hợp đồng.
Trong bối cảnh hội nhập và xu thế toàn cầu hóa hiện nay, các nền kinh tế đều đã và đang phát triển theo hướng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh, tự do hợp đồng, từ đó kéo theo các tranh chấp thương mại nói chung và các tranh chấp thương mại Quốc tế nói riêng diễn ra ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp hơn.
Đối với các doanh nghiệp nhập khẩu Việt nam, tranh chấp xảy ra thường do nguyên nhân chủ yếu là nền kinh tế mở, số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế tăng nhanh trong khi hệ thống pháp luật điều chỉnh chưa phát triển tương thích, sự hiểu biết về luật pháp trong lĩnh vực thương mại Quốc tế cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các thương nhân Việt Nam còn chưa bắt nhịp kịp với điều kiện kinh doanh của cơ chế đã kéo theo sự gia tăng các vụ tranh chấp phát sinh từ hợp đồng nhập khẩu hoặc từ các hoạt động có liên quan đến hợp đồng này. Vì thế, cùng với việc xuc tiến chỉnh sửa, hoàn thiện pháp luật, các doanh nghiệp nhập khẩu cũng cần chủ động nâng cao hiểu biết của bản thân mình cũng như nghiên cứu các phương cách để củng cố lợi ích của mình trong quá trình xác lập và thực hiện hợp đồng nhập khẩu.
Thứ nhất, các doanh nghiệp cần đặc biệt lưu tâm đến vấn đề bồi dưỡng kiến thức pháp luật về Thương mại Quốc tế cho các cán bộ, nhân viên, cần chuẩn bị đội ngũ cán bộ giỏi ngoại ngữ và hiểu rõ về tập quán thanh toán quốc tế, đặc biệt là những người thường xuyên trực tiếp tham gia vào quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng để có thể đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp Việt nam ngay trong việc xác lập hợp đồng cũng như để họ có thể tự bảo vệ mình nếu xảy ra tranh chấp về sự vi phạm nghĩa vụ của các bên, nhất là từ phía đối tác nước ngoài.
Trong một số trường hợp, do không vững về nghiệp vụ nên doanh nghiệp không lưu ý hết các điều kiện ràng buộc nên khi xảy ra tranh chấp thường bị thua thiệt. Nhiều doanh nghiệp không hiểu hết pháp luật nước ngoài, pháp luật quốc tế nên bị động trong đàm phán, giải quyết tranh chấp. Bên cạnh đó là sự thiếu hiểu biết thông tin về nhu cầu thị trường, khả năng đối tác, đối thủ cạnh tranh... DN còn lúng túng do thiếu cơ sở dữ liệu để chứng minh mình đúng khi có tranh chấp xảy ra mà vụ kiện chống bán phá giá giày mũ da là một ví dụ điển hình. Phần lớn DN chưa nhận thức hết các rủi ro, chưa có sự đề phòng thích đáng và sẵn sàng đối mặt với môi trường kinh doanh quốc tế.
Các doanh nghiệp Việt nam cần có kế hoạch tạo điều kiện cho các cán bộ chuyên trách về xuất nhập khẩu tham gia các khóa học bồi dưỡng kiến thức pháp luật về Thương mại Quốc tế và cả những khóa học nâng cao trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là cách sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành về kinh tế nói chung và thương mại quốc tế nói riêng, nhằm nâng cao khả năng ứng phó cũng như khả năng thuyết phục đối tác trong quá trình đàm phán.
Thứ hai, để tạo điều kiện cho quá trình xác lập và ký kết hợp đồng với các bạn hàng nước ngoài diễn ra nhanh chóng thuận lợi mà vẫn đảm bảo quyền lợi cho mình, các doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam cần tìm hiểu các quy định pháp luật, cập nhật những thay đổi trong quy định của pháp luật cũng như những vấn đề thực tế thường phát sinh trong hoạt động nhập khẩu, để dựa vào đó soạn thảo ra một hợp đồng mẫu nhằm mục đích chuẩn bị thế chủ động cho mình khi tham gia đàm phán, và có thể đưa ra đối chiếu với những điều khoản mà bên đối tác đưa ra. Công việc này trên thực tế có liên quan mật thiết đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ chuyên trách về đàm phán và ký kết hợp đồng.
Trong quá trình đàm phán và ký kết hợp đồng, rất nhiều doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam vì lí do này hay lí do khác như thiếu hiểu biêt pháp luật hoặc có hiểu biết nhưng vì quá tin tưởng và dựa vào lí do giữa các bên đã có mối quan hệ làm ăn lâu dài, mà họ trở nên mất cảnh giác, dẫn đến viêc hợp đồng ký kết có nội dung quá sơ sài. Những trường hợp như thế bình thường thì các doanh nghiệp nhận thấy không có trở ngại gì, thậm chí họ còn thấy thuận tiện vì quá trình xác lập hợp đồng rất đơn giản và gọn nhẹ, nhưng nếu vì một lí do không thể lường trước nào đó (nhà xuất khẩu muốn thay đổi đối tác, doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn không thể thực hiện hợp đồng gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của nhà nhập khẩu,…) mà hợp đồng không thể được thực hiện một cách trọn vẹn thì doanh nghiệp rất khó có thể có đủ bằng chứng để đấu tranh cho lợi ích của mình.
Thực tiễn, khi tham gia quan hệ mua bán hàng hoá, dịch vụ quốc tế, các thương nhân nước ngoài thường đưa ra các dự thảo hợp đồng để các doanh nghiệp Việt Nam xem xét, góp ý kiến trước khi các bên đàm phán với nhau. Có lẽ do nhiều năm (hàng chục hoặc hàng trăm năm) được hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường (hiện nay, nền kinh tế nước ta vẫn bị coi là nền kinh tế phi thị trường và theo cam kết gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam phải chuyển sang nền kinh tế thị trường trong thời hạn 12 năm kể từ ngày gia nhập WTO), nên các công ty nước ngoài luôn có đội ngũ luật sư chuyên nghiệp bên cạnh (luật sư độc lập hoặc văn phòng luật sư) để tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp đó. Cho nên, các dự thảo hợp đồng do các đối tác nước ngoài đưa ra thường có hướng bảo vệ quyền, lợi ích của họ, chứ không thực sự bảo đảm quyền bình đẳng giữa các bên tham gia hợp đồng. Do vậy, nếu không có chuyên môn và kinh nghiệm, thì các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể phát hiện được những điều khoản trong dự thảo hợp đồng bất lợi cho mình và bị vô hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam hoặc theo pháp luật được lựa chọn làm luật điều chỉnh hợp đồng. Trong quá trình thương lượng và đàm phán dự thảo hợp đồng, doanh nghiệp Việt Nam có quyền đưa ra đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ những điểm bất lợi cho mình và nêu rõ lý do. Để bên nước ngoài chấp nhận ý kiến đề xuất của doanh nghiệp Việt Nam, thì ý kiến đó phải phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam và/hoặc thông lệ, tập quán quốc tế. Đối với những vấn đề không được pháp luật quy định, doanh nghiệp có thể thỏa thuận với bên nước ngoài. Trong trường hợp này, kỹ năng thuyết phục và đàm phán của đại diện bên Việt Nam sẽ giữ vai trò quan trọng quyết định đến kết quả đàm phán. Còn nếu chúng ta cứ luôn thụ động trong đàm phán và soạn thảo hợp đồng thì các vấn đề rủi ro pháp lý từ những điều khoản nói trên luôn tiềm ẩn đối với doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá với với thương nhân nước ngoài, khi bên nước ngoài không thực hiện theo đúng thoả thuận trong hợp đồng và vụ việc được đưa ra Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, doanh nghiệp Việt Nam thường bị yếu lý, thậm chí bị thua kiện.
Đơn cử như đối với các hợp đồng nhập khẩu của một công ty đã có khá nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nhập khẩu máy móc, thiết bị như Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi thì hợp đồng cần phải được chỉnh sửa ngay tại các điều khoản được coi là căn bản nhất nhưng cũng là chứa đựng nhiều rủi ro nhất mà lẽ ra chúng luôn phải được quan tâm hoàn thiện ngay từ khi doanh nghiệp bước chân vào lĩnh vực kinh doanh Quốc tế này. Đó là các điều khoản về áp dụng luật, về các điều kiện giao hàng, lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp, và phương thức thanh toán.
Trong hoạt động Thương mại Quốc tế, khả năng được thanh toán trong nhiều trường hợp gặp không ít khó khăn, và thậm chí việc thực hiện nghĩa vụ thanh toán cũng không đơn giản. Vì vậy, khi tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, các bên nhất thiết phải lưu tâm đến việc lựa chọn các điều kiện về thanh toán.
Việc thanh toán có liên quan mật thiết đến vấn đề ngoại tện thanh toán, do đó cần thỏa thuận rõ ràng các điều kiện: xác định ngoại tệ của hàng hóa (sử dụng đồng tiền của nước nào), điều kiện chuyển đổi từ ngoại tệ này sang ngoại tệ khác nếu ngoại tệ giá và ngoại tệ thanh toán có mức chênh lệch được coi là đáng kể, và có thể quan tâm đến cả những biện pháp ngăn chặn rủi ro do biến động tỷ giá.
Một hợp đồng mua bán hàng hóa Quốc tế, như đã đề cập, có thể được điều chỉnh bằng nhiều nguồn luật khác nhau. Việc các bên thỏa thuận để lựa chọn ra một văn bản pháp quy hay một Điều ước Quốc tế để thống nhất điều chỉnh hành vi của các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng là một việc vô cùng quan trọng vì đây có thể coi như một thước đo để xác định được trong quá trình thực hiện hợp đồng, hành vi của các bên có bị coi là sai phạm hay không và nếu có thì ở mức độ nào.
Ngoài việc chú trọng tìn hiểu Công ước Viên 1980 như vậy thì các nhà nhập khẩu Việt Nam cũng cần lưu tâm đến các tập quán thương mại Quốc tế, điển hình và phổ biến nhất là hai hệ thống Incoterms và UCP. Hai hệ thống tập quán thương mại quốc tế này có rất nhiều phiên bản được thiết lập qua mội kỳ sửa đổi, nên các thương nhân cần chú ý xác định phiên bản cụ thể để dẫn chiếu vào hợp đồng, tránh tình trạng gây ra những cách hiểu khác nhau dẫn đến vi phạm hợp đồng, gây thiệt hại cho cả hai bên do sự thỏa thuận không rõ ràng. Khi đã xác định được phiên bản Incoterms nhất định thì việc lựa chọn ra một điều kiện giao hàng cụ thể sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp với tư cách là nhà nhập khẩu cũng rất quan trọng. Theo Incoterms 2000 có tất thảy 13 điều kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động thương mại quốc tế, trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được các bên tham gia sử dụng. Điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua chịu mọi phí tổn và để đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua những rủi ro đối với hàng hóa có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và quyền bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tùy ý thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ ký hợp đồng với các công ty của nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn, điều này gián tiếp làm mất đi cơ hội phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam. Hơn nữa, tập quán thương mại quốc tế chỉ yêu cầu bên xuất khẩu mua bảo hiểm ở mức độ tối thiểu. Nhà nhập khẩu muốn an toàn hơn cho tài sản của mình phải ký các hợp đồng bổ sung. Như thế, suy cho cùng, công ty nhập khẩu Việt Nam vẫn phải mua bảo hiểm trong trường hợp nhập khẩu CIF. Công ty sẽ chủ động hơn nếu giành được quyền mua bảo hiểm thông qua hợp đồng nhập khẩu FOB hoặc C&F. Thêm vào đó, nhập khẩu theo điều kiện FOB có tác dụng giảm chi ngoại tệ, trong trường hợp này chúng ta chỉ phải chi ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa, mà không phải chi tiền nhập dịch vụ vận tải đường biển và dịch vụ bảo hiểm của nước ngoài như trước đây. Số ngoại tệ chi cho mỗi hợp đồng ngoại thương giảm sẽ cải thiện tình trạng thâm hụt tài khoản vãng lai kéo dài trong nhiều năm như hiện nay của nước ta. Do đó doanh nghiệp nhập khẩu Việt Nam nên lựa chọn FOB hoặc C&F lam điều kiện giao hàng trong hợp động nhập khẩu của mình, như vậy chẳng những đảm bảo lợi ích cho bản thân doanh nghiệp mà còn góp phần đảm bảo lợi ích nhiều mặt cho nền kinh tế Việt Nam, cụ thể nhất ở đây là lợi ích và tiềm năng phát triển của ngành bảo hiểm trong nước.
Thứ ba, luôn chuẩn bị sẵn phương thức đối phó với tình thế bất thường xảy ra nếu bên đối tác vi phạm hợp đồng nhằm giảm thiểu mọi tổn thất.
Trong hoạt động nhập khẩu của Việt Nam, những vi phạm hợp đồng mà đối tác nước ngoài hay mắc phải nhất là vi phạm về số lượng và chất lượng hàng hóa. Vì thế, khi tham gia hợp đồng nhập khẩu, dù muốn hay không thì doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam cũng nên và cần phải chuẩn bị phản xạ trước những vi phạm như thế để nếu vi phạm xảy ra, nhà nhập khẩu sẽ không bị bối rối và không phải quá nhiều rắc rối vì một sai phạm hoàn toàn có thể được dự báo trước như vậy. Cụ thể, khi xảy ra vi phạm về số lượng hay chất lượng hàng hóa, người nhập khẩu phải tiến hành ngay các công việc:
Kịp thời mời cơ quan giám định có thẩm quyền đến giám định và xác nhận số lượng, trọng lượng hay tình trạng chất lượng hàng hóa thực giao tại thời điểm người mua nhận hàng;
Thông báo ngay cho người bán để bên bán có thể cử người sang làm biên bản giám định đối tịch;
Áp dụng ngay các biện pháp bảo quản, bảo vệ để giữ nguyên tình trạng của hàng hóa khi nhận hàng;
Thu thập chứng cứ và hoàn chỉnh hồ sơ khiếu nại.
Những hiểu biết ban đầu như vậy trước mắt sẽ giúp các nhà nhập khẩu Việt nam khỏi bỡ ngỡ trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng. Còn đối với những doanh nghiệp đã có thâm niên trong lĩnh vực này thì những kiến thức trên đây cũng có thể phần nào giúp họ củng cố thêm sự bảo đảm cho quyền lợi của các nhà nhập khẩu Việt nam trong hoạt động kinh doanh Quốc tế.
Thứ tư, doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng cho mình thói quen sử dụng tư vấn luật để hạn chế những rủi ro pháp lí có thể xảy ra trong quá trình tham gia hoạt động thương mại Quốc tế.
Một vấn đề đã rất phổ biến trong xã hội của những nước có nền kinh tế phát triển nhưng lại khá mới mẻ với xã hội Việt Nam, mới mẻ ngay cả đối với những người Việt Nam thường xuyên tiếp xúc với môi trường hiện đại – môi trường kinh doanh Quốc tế, là sử dụng tư vấn luật. Bước chân vào WTO, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với các thị trường quốc tế. Nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc, doanh nghiệp sẽ cần hơn những chuyên gia tư vấn luật giàu kinh nghiệm, tư vấn luật kinh doanh quốc tế.
DN cần làm quen với việc thuê luật sư hoặc sử dụng chuyên gia pháp luật để soạn thảo hợp đồng khi tiến hành đàm phán. Thực tế ở nước ta cho thấy đã có rất nhiều vụ việc mà phía Việt Nam đã phải chịu những hậu quả cay đắng do không có đủ kiến thức pháp luật để theo kiện. Những bài học kinh nghiệm cụ thể trong vụ kiện của huấn luyện viên Letard với Liên đoàn Bóng đá Việt Nam (VFF), chống phá giá cá ba sa, tôm, da giày và mới đây nhất là vụ thua kiện của Vietnam Airlines đã nêu ra những sai lầm của doanh nghiệp Việt nam khi không rõ luật dẫn đến thua kiện. Trong khi đó, chúng ta có thể thấy rõ những thành công đáng kể của các nước láng giềng với Việt Nam có được do sự tiến bộ trong nhận thức về hiểu biết pháp luật. Kinh nghiệm khi Trung Quốc vào WTO, các doanh nghiệp nước này cũng gặp khó khăn nhưng họ đã sẵn sàng ứng phó, sẵn sàng hầu kiện để không bị mất khách hàng và xa hơn là có thể giảm thiểu giá trị đền bù trong lần phúc thẩm.
Doanh nghiệp Việt Nam cũng cần phải ý thức việc tham khảo ý kiến tư vấn của các nhà làm luật chuyên nghiệp là việc phải được duy trì thường xuyên trong suốt các giai đoạn của quá trình tham gia hoạt động nhập khẩu. Vì thực tế ở Việt nam hiện nay, chỉ có rất ít các doanh nghiệp xuất khẩu có sử dụng chuyên gia tư vấn luật nhưng phần lớn chỉ là khi đã có tranh chấp xảy ra. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho công tác tư vấn của các nhà làm luật vì thông thường, nếu không được tư vấn ngay từ đầu, việc ký kết hợp đồng của các doanh nghiệp này đã ấn định những điều khoản bất lợi cho phía Việt Nam khi giải quyết tranh chấp, cũng như việc chuẩn bị hệ thống các tài liệu chứng từ để theo kiện cũng không thể được thực hiện đầy đủ. Các doanh nghiệp nên tập làm quen với các bản hợp đồng dài có nhiều điều khoản ràng buộc để tạo độ an toàn cho họ khi làm ăn với quốc tế. Để soạn thảo, đọc hiểu được những bản hợp đồng đó, các doanh nghiệp bắt buộc phải có sự tư vấn của luật sư, những người am hiểu cặn kẽ về luật pháp của đối tác ngay từ giai đoạn chuẩn bị đàm phán với các đối tác đó.
Tóm lại, để có thể tồn tại và phát triển thịnh vượng trong môi trường kinh doanh Quốc tế thì các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam cần phải cải thiện rất nhiều mặt trong nội bộ doanh nghiệp mình. Trên đây là những kiến nghị cơ bản nhất để các thương nhân Việt Nam có thể bước đầu khẳng định khả năng cũng như bản lĩnh của mình khi phải tham gia vào một sân chơi chung rất bình đẳng mà cũng vô cùng khốc liệt, chứa đựng nhiều rủi ro pháp lí như thế này. Thiết nghĩ, Nhà nước Việt Nam ngoài việc nhanh chóng tạo dựng hành lang pháp lí vững chắc cho hoạt động Thương mại Quốc tế thì cũng nên có các chương trình hỗ trợ cho doanh nghiệp để họ có điều kiện tiếp cận, tìm hiểu cũng như giải đáp cho họ những thắc mắc về các vấn đề pháp lí xoay quanh hoạt động phức tạp này.
KẾT LUẬN
Như vậy, xét trên tổng thể, mặc dù vẫn còn một số hạn chế trong hoạt động nhập khẩu của nước ta thời gian qua, nhưng về cơ bản nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển hoạt động nhập khẩu trên cả phương diện tăng trưởng kim ngạch, mở rộng thị trường, chuyển dịch cơ cấu hàng hóa nhập khẩu. Những thành tựu đó đã góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước đến hợp tác làm ăn và đầu tư vào Việt nam, từng bước nâng cao vị thế của Việt nam trên trường quốc tế.
Để thực hiện các chiến lược,chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện các chính sách kinh tế, cơ chế quản lí và sử dụng đồng bộ các công cụ, biện pháp quản lí và điều tiết kinh tế vĩ mô, trước hết là các công cụ kinh tế. Trong đó, việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động nhập khẩu là rất cấp bách.
Nhà nước cần có những biện pháp khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam vươn tới các thị trường có “nền công nghệ nguồn” để nhập khẩu các máy móc, thiết bị và công nghệ hiện đại, giảm nhanh tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng và máy móc thiết bị từ các nước có “nền công nghệ trung gian” và “nền công nghệ thấp”.
Kinh nghiệm của những nước và cùng lãnh thổ Châu Á đã thực hiện thành công chiến lược công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu hay còn gọi là Chiến lược hướng về xuất khẩu như Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, cho thấy, hầu hết các nước đều chú trọng hoàn thiện để sử dụng hiệu quả các công cụ kinh tế nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển.
Qua đó, có thể khẳng định lĩnh vực hoạt động của công ty Cổ phần thiết bị Thắng Lợi là lĩnh vực vẫn còn rất nhiều điều hứa hẹn cho sự phát triển lâu dài và bền vững, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Hoạt động của công ty đã đi hoàn toàn đúng hướng với phương châm thay đổi cơ cấu nhập khẩu theo hướng hiện đại của Chính phủ Việt nam. Đó là nhập khẩu các thiết bị công nghệ cao từ các “nền công nghệ nguồn” như Nhật, Mỹ, Đức, Anh, Thụy Điển… Nối tiếp theo những thành công trong hơn 10 năm trưởng thành và phát triển, công ty nên tiếp tục khai thác các lĩnh vực kinh doanh vô cùng hấp dẫn này, và tin rằng cùng với các chính sách ưu đãi của Nhà nước nhằm khuyến khích nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị thì hoạt động kinh doanh của công ty sẽ ngày càng gặp nhiều thuận lợi, tạo đà cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Các văn bản pháp luật
Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán Quốc tế
Incoterms 2000
Bộ luật dân sự 2005
Luật Thương mại 1997 (đã hết hiệu lực)
Luật thương mại 2005
Luật doanh nghiệp 1999 (đã hết hiệu lực)
Luật doanh nghiệp thống nhất 2005
Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003
Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại về hoạt động mua bán hàng hóa Quốc tế và các hoạt động đại lý mua, bán, gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài
Các tài liệu khác
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân, TS. Trần Thị Hòa Bình, TS. Trần Văn Nam (2005), Giáo trình Luật Thương mại Quốc tế.
Hợp đồng nhập khẩu và các tài liệu có liên quan của Công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi.
Nguyễn Văn Luyện, Lê Thị Bích Thọ, Dương Anh Sơn (2006), ĐH Quốc Gia TP.HCM, Giáo trình luật Hợp đồng thương mại Quốc tế.
Hội đồng phối hợp công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Chính phủ (Tháng 9/2005), Đặc san tuyên truyền pháp luật số 2, Chủ đề: Luật Thương mại 2005
Đậu Thị Thuần (2003), Giải pháp hoàn thiện các công cụ kinh tế nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, LATSKH kinh tế, Thư viện Quốc gia.
Bùi Ngọc Sơn (2002), Mối quan hệ giữa việc giải quyết tranh chấp trong mua bán quốc tế hàng hóa và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu ở Việt Nam, LATSKH Kinh tế, Thư viện Quốc gia.
TS. Nguyễn Minh Hằng, Giải quyết hợp đồng mua bán Quốc tế, Diễn đàn doanh nghiệp.
website: www.mpi.gov.vn
website: www.viettrade.gov.vn
website: www.dost-dongnai.gov.vn
website: www.vnexpress.net
MỤC LỤC
Trang
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, xin chân thành cảm ơn Ban giám đốc cùng toàn thể các cô chú, các anh chị trong công ty Cổ phần Thiết bị Thắng Lợi đã cho tôi cơ hội được học hỏi, thâm nhập thực tế để mở mang kiến thức cũng như sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo - TS. Trần Thị Hòa Bình, thầy giáo - ThS. Nguyễn Anh Tú, đã cho những ý kiến đóng góp quý báu để bản báo cáo này được hoàn thành.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36711.doc