Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường

LỜI MỞ ĐẦU Trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức thiết lập quan hệ giữa người với người. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã chứng minh đó là một hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá và tiền tệ. Khi nền kinh tế phát triển, xã hôi văn minh thì việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết, càng được coi trọng và hoàn thiện. Ở nước ta, việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng đã được áp dụng từ

doc105 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 6618 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lâu, song nó chỉ được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Để đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế cần một hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh quan hệ hợp đồng và để tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp luật khi đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, WTO, ngày 14/6/2005 Quốc hội khoá XI đã ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/01/2006 để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 là cần thiết và quan trọng, đã tiến một bước dài trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Trong các loại hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò quan trọng đối với mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là quan hệ trao đổi hợp pháp mà tất cả các tổ chức sản xuất, kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển của chúng. Khi đến thực tập tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường, vấn đề ký kết và thực hiện hợp đồng của Công ty đã thu hút sự quan tâm của em, trong đó hợp đồng mua bán hàng hoá chiếm tới 90% tổng số các loại hợp đồng tại Công ty. Qua xem xét việc ký kết và thực hiện hợp đồng tại Công ty, em thấy có nhiều điều cần quan tâm. Bởi vậy, em đã chọn đề tài: "Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường" để làm luận văn tốt nghiệp. Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá không chỉ là quan hệ giữa các thương nhân trong nước với nhau mà còn là quan hệ giữa các thương nhân trong nước với các thương nhân nước ngoài. Song để tập trung vào nội dung cần bàn bạc, bài luận văn sẽ chỉ đề cập đến những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước. Bố cục của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành ba chương: Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình, khoa học của Thầy giáo - Tiến sĩ Nguyễn Hợp Toàn cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô chú CB CNV công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó. Trong luận văn em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý thuyết và thực tế; phương pháp duy vật biện chứng; từ phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét từ đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp cho vấn đề cần giải quyết. Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế với thời gian khảo sát thực tế chưa nhiều nên những thiếu sót trong luận văn này là không thể tránh khỏi. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn có quan tâm đến vấn đề này để đề tài được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA 1. Quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, WTO 1.1. Kinh tế thị trường và mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là một kiểu tố chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức để thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Vế cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất. Trong nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu thông hàng hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường chính là một tổ chức kinh tế , trong đó người sản xuất và người tiêu dùng chịu sự tác động chi phối lẫn nhau qua thị trường. Thị trường là nơi gặp gỡ của người mua và người bán, của người sản xuất và người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường người sản xuất không chỉ sản xuất cái gì mình có mà phải sản xuất cái gì thị trường cần. Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật của nền kinh tế hàng hóa. Đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Thông qua các hoạt động trao đổi mua bán, thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó điều tiết sản xuất, điều tiết tiêu dùng. Chính "bàn tay vô hình" của thị trường làm cho cơ cấu sản xuất, cơ cấu hàng hóa phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng và chất lượng. Nó xác lập mối quan hệ giữa người bán và người mua trên nguyên tắc cùng có lợi. Thị trường cung cấp thông tin cần thiết cho nhà kinh doanh và tạo yếu tố cạnh tranh làm động lực cho sự phát triển sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm. Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là tự do trao đổi các sản phẩm hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán với giá cao, còn người mua bao giờ cũng muốn mua với giá thấp, do đó mà cần có sự thống nhất ý chí, có sự thỏa thuận giữa người bán và người mua thể hiện qua hợp đồng. Như vậy, hợp đồng về bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí giữa các bên tham gia ký kết theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng không trái pháp luật. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của hệ thống các quan hệ hợp đồng, nếu thiếu hợp đồng thì nền kinh tế không thể vận hành được. 1.2. Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp trước đây, hợp đồng kinh tế được coi là công cụ cơ bản đế quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ tiêu kế hoạch là cơ sở để các bên ký kết hợp đồng kinh tế, do đó mà khi chỉ tiêu kế hoạch thay đổi, các bên cũng phải thay đổi hợp đồng cho phù hợp. Vi phạm hợp đồng là vi phạm kế hoạch. Trong điều kiện đó hợp đồng kinh tế chỉ là phương tiện để các đơn vị trao đổi sản phẩm cho nhau một cách hình thức, ghi nhận sự cấp phát vật tư của Nhà nước cho các đơn vị kinh tế và sự giao nộp sản phẩm của các đơn vị kinh tế cho Nhà nước mà thôi. Hợp đồng kinh tế "mất đi giá trị đích thực của mình với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu của quan hệ kinh tế". Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể sử dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chung của toàn xã hội. Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể thực hiện được nếu người sản xuất mua được nguyên vật liệu và ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng cũng cụ thể hóa, chi tiết hóa kế hoạch sản xuất mua bán, giá cả, thời gian giao hàng...Như vậy nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người kinh doanh quyết định và thỏa thuận với khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận. Thông qua việc đàm phán ký kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt được nhu cầu thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình ký kết hợp đồng các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính toán chênh lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh. Thông qua hợp đồng kinh tế mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ kinh tế xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật. Khi hợp đồng được ký kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán giải quyết khi có tranh chấp. 2. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa 2.1. Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam 2.1.1. Pháp luật về hợp đồng trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với các thành phần kinh tế còn nhỏ, phát triển chậm, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu lại chịu hậu quả chiến tranh. Năm 1956, Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số 735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh (đăng trên công báo số 10 ngày 5/5/1956). Đây là một văn bản pháp luật hợp đồng có tên là "hợp đồng kinh doanh" điều chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện thực hiện kế hoạch của Nhà nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, củng cố hậu phương vững chắc làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Cơ chế kinh tế thay đổi, kéo ntheo sự thay đổi của pháp luật. Ngày 4/1/1960 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 004/TTg về Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Điều lệ này quy định một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước và nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước đồng thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế. Như vậy, trong thời gian này các cơ quan Nhà nước, các xí nghiệp đã lập và thực hiện hợp đồng kinh tế không phải xuất phát từ lợi ích riêng của cơ quan, xí nghiệp mình mà nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước, vì lợi ích của Nhà nước. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của hợp đồng kinh tế theo Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế. Đặc trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung cao. Ngày 10/3/1975 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/CP ban hành Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Đây là bản điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ hợp đồng của nước ta và nó có hiệu lực thi hành đến năm 1989. Để thực hiện hai Nghị định trên Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn việc thực hiện hợp đồng kinh tế như: Quyết định số 113-TTg ngày 11/9/1965 và chỉ thị 17-TTg ngày 20/01/1967 của Thủ tướng Chính phủ... Từ việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung chúng ta thấy có nhận xét sau đây : Một là, pháp luật hợp đồng khi đó là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch Nhà nước. Do nhà nước được coi là pháp lệnh nên việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là kỷ luật của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế. Hai là, hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ mang tính chất tổ chức- kế hoạch, còn yếu tố tài sản chỉ là thứ yếu. Vì những nội dung chủ yếu mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế đều đã được xác định trong chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, ý chí của các bên chỉ là cụ thể hóa ý chí của nhà nước. Ba là,chủ thể của hợp đồng kinh tế chỉ là các đơn vị tổ chức được giao chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước. 2.1.2. Pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, WTO Xuất phát từ quan điểm đòi hỏi phải mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12/1986 đã ra quyết định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xóa bỏ tập trung quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ phát triển cơ sở kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế mới coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng quan trọng, coi trọng việc sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa- tiền tệ, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong việc tiếp cận với nhu cầu thị trường. khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thực hiện mục tiêu kế hoạch của doanh nghiệp. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi phải rà soát lại tất cả các chính sách, chế độ, trong đó có pháp luật về hợp đồng kinh tế. Vì vậy ngày 25/9/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và sau đó một loạt các văn bản như Nghị định số 17/HĐBT , Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/01/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác. Bộ luật Dân sự do Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có nhiều điều về hợp đồng dân sự; Luật Thương mại thông qua ngày 10/5/1997 cũng có những quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại, nhưng thực tế của các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế vẫn là căn cứ áp dụng chủ yếu. Nội dung cụ thể trong chế độ pháp lý về hợp đồng quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên có nhiều điểm không thống nhất. Theo quy luật kinh tế khách quan khi cơ sở kinh tế thay đổi đối với thành tựu to lớn của sự phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế dẫn đến Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã được ban hành từ năm 1989 đến nay lộ rõ nhiều bất cập. Trong điều kiện đó việc hoàn thiện, đổi mới các quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng là vấn đề được đặt ra hết sức cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hơn nữa giao lưu kinh tế cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thực tiễn pháp luật hợp đồng không thống nhất , các quy định còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chồng chéo, loại trừ nhau, tạo ra lỗ hổng pháp lý khiến cho người áp dụng và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản pháp luật về hợp đồng. Vì thế ngày 14/6/2005 Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội khóa XI thông qua, trong đó có chế định về hợp đồng là nền tảng thống nhất và đồng bộ để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể. Trong lĩnh vực hợp đồng thương mại thì luật hiện hành điều chỉnh đó là Bộ luật Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan. Những quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc, là nội dung cơ bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung. Những văn bản luật chuyên ngành như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Du lịch, Luật Cạnh tranh…là nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực cụ thể. Nguyên tắc áp dụng luật là ưu tiên áp dụng các quy định của luật chuyên ngành trước, những vấn đề không được quy định trong luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự. Kể từ ngày 1/1/2006 khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 hết hiệu lực. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 cũng như chấm dứt vai trò của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 là cần thiết bởi hiện nay xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của nền kinh tế thế giới. Từ đó đòi hỏi mỗi quốc gia hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước mình theo hướng đồng bộ và có sự tương thích với luật pháp quốc tế. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Trong xu thế đó đòi hỏi luật pháp Việt Nam cũng phải theo kịp đời sống kinh tế đang diễn ra hết sức sôi động, linh hoạt. Và một đặc điểm của luật pháp trong giai đoạn hiện nay đó là phải nội luật hóa các điều ước quốc tế làm cho hệ thống pháp luật trong nước cũng tương thích với luật quốc tế bảo đảm cho hội nhập quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006 và việc hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu của WTO cũng là một trong các điều kiện để nước ta có đầy đủ điều kiện để trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại toàn cầu này. 2.2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa 2.2.1. Hợp đồng thương mại trong nền kinh tế thị trường Cũng như những chủng loại hợp đồng khác, hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý trong những quan hệ kinh doanh cụ thể. - Trong hợp đồng, yếu tố cơ bản nhất là sự thể hiện ý chí, tức là sự ưng thuận giữa các bên với nhau. Nguyên tắc này là nguyên tắc thỏa thuận và được coi là tiến bộ của kỹ thuật pháp lý hiện đại. Nguyên tắc thỏa thuận là hệ quả tất yếu của tự do hợp đồng, khi giao kết hợp đồng các bên được tự do quyết định nội dung của hợp đồng, tự do xây dựng phạm vi nghĩa vụ của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng ở tất cả các nước trên thế giới không phải là tự do tuyệt đối mà là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hóa là giao dịch pháp lý hợp pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây là lẽ công bằng, hợp pháp. Hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu là giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức, đe dọa hay mua chuộc. Ý chí chỉ phát sinh nghĩa vụ khi người giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi để thành lập hợp đồng. Các bên giao kết hợp đồng thông qua người đại diện của mình (có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền). Người đại diện chỉ được giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện. Phạm vi thẩm quyền của người đại diện được quy định bởi pháp luật, điều lệ doanh nghiệp hay văn bản ủy quyền. Hợp đồng được giao kết bởi người không có thẩm quyền đại diện thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với cá nhân, tổ chức được đại diện. - Mọi hợp đồng đều phải có đối tượng xác thực. Đối tượng của hợp đồng phải được xác định rõ rệt, phải có thể thực hiện được và hợp pháp. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp thì hợp đồng vô hiệu. Đó là một nguyên tắc cơ bản của luật hợp đồng được thừa nhận chung trên thế giới. Sau khi hợp đồng được thành lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng buộc, các bên bắt buộc phải thực hiện các cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn đến tranh chấp pháp lý mà bên vi phạm sẽ phải gánh chịu. Hợp đồng được thành lập hợp pháp có hiệu lực ràng buộc đối với cơ quan tài phán được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, xử lý các vi phạm của hợp đồng bằng tòa án hay trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng. 2.2.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền hay nghĩa vụ của các bên đó. Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự một cách khái quát như sau: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388). Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng cụ thể, mặt khác hợp đồng mua bán hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động mua bán hàng hóa. Với "mua bán hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên" (Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại 2005). Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa muốn có hiệu lực được pháp luật bảo vệ thì phải tuân theo những quy định của pháp luật về các điều khoản có hiệu lực của hợp đồng. Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thường thì các bên giao kết phải có đầy đủ năng lực hành vi. Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tức là nó xuất phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận của hợp đồng đó. Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối tượng hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên cạnh đó nội dung của hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thực hiện được thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên. Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù hợp với những quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng mua bán hàng hóa. Quan điểm trên cho thấy trong điều kiện cơ chế kinh tế mới, Nhà nước có quan niệm mới về hợp đồng mua bán hàng hóa, quan niệm chuyển từ thương nhân chỉ được làm những gì nhà nước cho phép sang được làm những gì nhà nước không cấm, từ đó rút ra những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong giai đoạn hiện nay như sau: 2.2.3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật thương mại 2005, hợp đồng thương mại có thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước, và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách thường xuyên, độc lập. Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành, đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì thương nhân phải thực hiện đầy đủ quy định hiện hành của pháp luật về kinh doanh các hàng hóa đó. Nội dung của hợp đồng chứa đựng những nội dung cơ bản của một hợp đồng mua bán hàng hóa là: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải thêm những điều kiện để đảm bảo quyền lợi cho các bên nếu có tranh chấp xảy ra như nơi giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có đặc điểm là các bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận nên đòi hỏi nội dung của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy các bên cần chú ý thận trọng soạn thảo nội dung của hợp đồng. Chẳng hạn đối với điều khoản tên hàng, cần kèm theo có mã số và mẫu hàng, đối với điều khoản về số lượng và trọng lượng cần chọn những đơn vị đo lường thống nhất, trường hợp không có đơn vị đo lường thống nhất thì cần có điều khoản giải thích, đối với điều khoản về thanh toán cần quy định rõ ràng đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán... Về hình thức của hợp đồng. Theo quy định tại Luật Thương mại 2005, hợp đồng thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Như vậy, hình thức của hợp đồng là rất đa dạng, linh hoạt, tùy trường hợp cụ thể mà các bên thỏa thuận để chọn hình thức nào cho phù hợp với hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết phù hợp với quy định của pháp luật. II. CHẾ ĐỘ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA Các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa: Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 (Bộ luật Dân sự 2005); Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 (Luật Thương mại 2005); và các văn bản pháp luật có liên quan. 1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình thương lượng giữa các bên theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để đạt được sự thỏa thuận, qua đó xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải bảo đảm theo những nguyên tắc được quy định tại điều 389 Bộ luật Dân sự 2005 đó là: -Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội; -Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng. Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ Điều 10 đến Điều 15 của mục 2 chương 1 Luật Thương mại 2005. Đó là: -Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại (Điều 10) -Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11) -Nguyên tắc áp dụng thói quen, tập quán trong hoạt động thương mại (Điều 12 và 13) -Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14) -Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại (Điều 15) Trong các nguyên tắc điều chỉnh chế độ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa sau đây xin được làm rõ một số nguyên tắc quan trọng sau: 1.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép cá nhân, tổ chức được tự do quyết định trong việc giao kết hợp đồng với ai, như thế nào, với nội dung, hình thức nào. Hợp đồng phải xuất phát từ ý muốn chủ quan và lợi ích của các chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận muốn được pháp luật bảo vệ khi có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ dẫn đến tranh chấp thì phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì lợi ích của mình, các chủ thể phải hướng tới việc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. 1.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng Theo nguyên tắc này, các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng phải bảo đảm nội dung của các quan hệ đó, thể hiện được sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng, bảo đảm lợi ích cho các bên. Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân, tổ chức dù thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Khi hợp đồng đã được xác lập thì phải bảo đảm quyền và nghĩa vụ tương xứng giữa các chủ thể, có thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thì mới được hưởng quyền, nếu vi phạm phải bị xử lý. Sự bình đẳng được đề cập ở đây là sự bình đẳng về mặt pháp lý, sự bình đẳng trước pháp luật chứ không phải là sự bình đẳng về mặt kinh tế giữa các chủ thể. Dựa trên cơ sở tự nguyện cùng nhau giao kết hợp đồng, nhưng nếu giữa các bên không có thiện chí, thiếu sự hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thì việc xác lập hợp đồng này cũng không mang lại lợi ích tối đa cho các bên trong quan hệ hợp đồng. Thêm vào đó, trong giao kết hợp đồng các bên phải thể hiện sự trung thực, ngay thẳng thì mới có thể trở thành đối tác lâu dài của nhau trong các quan hệ thương mại, đặc biệt là trong quan hệ mua bán hàng hóa. 1.3. Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu. Theo nguyên tắc này trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương đương văn bản (thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử). 2. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Theo quy định của Luật Thương mại 2005 chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân hoạt động thương mại, tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mụch đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mụch đích sinh lợi khác. Có thể phân chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa thành các loại sau: 2.1. Chủ thể là thương nhân Để xác định một thỏa thuận có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa hay không thì việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ đồng đó có phải là thương nhân hay không, sau đó mới xem xét đến đối tượng của hợp đồng. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Luật Thương mại 2005 cũng thừa nhận thương nhân thực tế bằng việc không đặt điều kiện đăng ký kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc để được công nhận là thương nhân. Đăng ký kinh doanh là nghĩa vụ của thương nhân nhưng đối với trường hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu mọi trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Quy định này đã giải quyết những vấn đề đã đặt ra trong thực tế là người không đăng ký kinh doanh nhưng có hành vi kinh doanh thì có được coi là thương nhân không. Nhưng quy định này lại có phần không rõ ràng vì nó không giới hạn trách nhiệm của thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì vậy, một tổ chức, cá nhân trước khi đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không nhằm mụch đích sinh lợi có thể vẫn phải chịu trách nhiệm như thương nhân. 2.1.1. Thương nhân là cá nhân. Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành thương nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề mà chưa đăng ký kinh doanh. Trong lĩnh vực hoạt động thương mại, do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau đây không được công nhận là thương nhân: - Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; - Người đang bị truy cứu trách nhiệm hính sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù; - Người đang trong thời gian bị tòa án cướp quyền hành nghề vì các tội buôn lậu, đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hóa, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật. 2.1.2. Thương nhân là tổ chức Trong thực tiễn hoạt động thương mại, thương nhân là tổ chức là chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa. Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích hoạt động thưong mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh sẽ được coi là thương nhân. Có thể hiểu tổ chức kinh tế trước hết phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân trong quá trình hoạt động thương mại và hoạt động một cách độc lập. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây (Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005): - Được thành lập hợp pháp; - Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; - Có tài sản độc lập v._.ới cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; - Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Song không phải tất cả các tổ chức được coi là pháp nhân đều có thể trở thành thương nhân mà chỉ có những pháp nhân nào là tổ chức kinh tế được thành lập để hoạt động thương mại mới trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ chức kinh tế bao gồm: - Doanh nghiệp nhà nước. - Hợp tác xã. - Công ty trách nhiệm hữu hạn. - Công ty cổ phần. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Các tổ chức kinh tế khác có đủ các điều kiện theo quy định là pháp nhân. 2.2. Chủ thể không phải là thương nhân Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa, khi họ giao kết hợp đồng với thương nhân. Nghĩa là, một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần các điều kiện nói trên. Khác với bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại độc lập thường xuyên như một nghề. 3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã cam kết thỏa thuận với nhau. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì tùy thuộc vào tính chất của từng loại hợp đồng, tùy thuộc vào nội dung, tùy thuộc vào lòng tin lẫn nhau của các bên giao kết mà họ có thể lựa chọn hình thức nào cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Điều 24 Luật Thương mai 2005 quy định "hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập bằng văn bản thì phải tuân theo các quy định đó". Theo Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại 2005 cũng quy định "hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật". Như vậy, đối với những hợp đồng mà pháp luật đã quy định buộc phải giao kết bằng hình thức văn bản thì các bên phải tuân theo quy định đó. Còn lại thì các bên có thể lựa chọn một trong những hình thức sau đây để giao kết: - Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể: Là sự thỏa thuận bằng việc thực hiện một hành vi nào đó; - Hình thức miệng (bằng lời nói): Hình thức này được áp dụng trong trường hợp hợp đồng thỏa thuận thực hiện một công việc cụ thể hoặc giá trị của hợp đồng là không lớn, các bên tin tưởng lẫn nhau. Cho nên các bên giao kết chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau; - Hình thức bằng văn bản (viết): Các bên giao kết hợp đồng cam kết thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ hợp đồng bằng văn bản. Trong văn bản đó, các bên phải ghi rõ nội dung cơ bản mà các bên đã cam kết với nhau và người đại diện của các bên phải ký tên vào văn bản. Thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử cũng được coi là hình thức văn bản. Nếu xảy ra tranh chấp, hợp đồng được ký kết bằng hình thức văn bản là căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có cơ sở chắc chắn hơn là bằng hình thức lời nói. Đôi khi đối tượng của hợp đồng có giá trị lớn, phức tạp, dễ dẫn đến tranh chấp trong quan hệ giao kết thì các bên có thể lập thành văn bản có chứng nhận của cơ quan công chứng nhà nước, hoặc của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền nếu nơi đó không có công chứng. Hợp đồng được giao kết bằng hình thức này có giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy mà có những quan hệ hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải giao kết hợp đồng bằng hình thức này nhưng để có căn cứ chắc chắn, các bên nên chọn hình thức văn bản để giao kết hợp đồng. 4. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa Nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng. Nội dung của hợp đồng xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, quyết định tính khả thi của hợp đồng cũng như hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Các bên khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng phải bảo đảm là những nội dung hợp pháp với các điều khoản rõ ràng, cụ thể, có tính hiện thực cao. Luật Thương mại 2005 đã không quy định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa. Trên cơ sở xác lập mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, khi xem xét vấn đề nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa chúng ta có thể dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự. Theo đó, trong hợp đồng mua bán hàng hóa các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây: - Đối tượng của hợp đồng - Số lượng, chất lượng - Giá, phương thức thanh toán - Quyền, nghĩa vụ của các bên - Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng - Phạt vi phạm hợp đồng - Các nội dung khác. Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác nhau: điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ và điều khoản tùy nghi. 4.1. Điều khoản chủ yếu Các điều khoản chủ yếu nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên, làm cơ sở cho việc thực hiện mà nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi là đã xác lập. Có những điều khoản luôn được coi là điều khoản chủ yếu vì không có nó không thể nói là đã hình thành hợp đồng. Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá thì điều khoản về đối tượng luôn là điều khoản chủ yếu. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. " Hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai" (Điều 3 Khoản 2 Luật Thương mại 2005). Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng phải tuân theo quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP và Nghị định số 89/2006 NĐ-CP. Điều khoản chủ yếu cũng có thể là đối tượng, chất lượng, số lượng, giá cả, địa điểm... khi các bên thấy cần phải thỏa thuận trong giao kết hợp đồng. 4.2. Điều khoản thường lệ Là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Dù các điều khoản này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc nhiên thừa nhận và phải thực hiện đúng như pháp luật quy định. Ví dụ theo điều 35 Luật Thương mại 2005 về địa điểm giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, "các bên có thể tự thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hóa đó..." .Như vậy, để giảm bớt những công việc không cần thiết trong giao kết hợp đồng cũng như nếu có tranh chấp xảy ra mặc dù các bên không ghi vào văn bản hợp đồng thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định mức độ thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, từ đó xác định rõ trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng. 4.3. Điều khoản tùy nghi Là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên căn cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số điều khoản khác. Trong khuôn khổ pháp luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa thuận về những hành vi cụ thể. Điều đó nhằm làm cho nội dung hợp đồng được rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng, tránh sự hiểu lầm trong quan hệ hợp đồng. Ví dụ thỏa thuận về giám định hàng hóa, kiểm dịch, hòa giải, trọng tài để giải quyết tranh chấp... Từ vai trò này của điều khoản tùy nghi mà các bên có quyền tự lựa chọn và tự nguyện thỏa thuận với nhau sao cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia. 5. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được ký kết bằng phương thức trực tiếp hoặc phương thức gián tiếp. Ký kết bằng phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Ký kết bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông điệp dữ liệu điện tử... trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn : chào hàng và chấp nhận chào hàng. 5.1. Chào hàng Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất định, được chuyển cho một người hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoạn này, một bên đưa ra lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là lời chào bán hoặc chào mua hàng, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng. Luật Thương mại 2005 không quy định hình thức bắt buộc của chào hàng nói chung song để chuyển tải được đầy đủ những nội dung cần thiết và tránh hiểu lầm thì hình thức văn bản là cần thiết. Tuy nhiên, hình thức văn bản không phải là điều kiện bắt buộc để chào hàng có hiệu lực. Bên chào hàng có trách nhiệm đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng có những đề nghị thay đổi nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Nếu bên được chào hàng chỉ thay đổi những nội dung không chủ yếu thì chào hàng được coi là đã được chấp nhận, trừ trường hợp người chào hàng ngay lập tức từ chối những thay đổi đó. Chào hàng hết hiệu lực khi hết thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng hoặc bị từ chối. Chào hàng cũng có thể bị coi là bị từ chối nếu chào hàng này không được chấp nhận một cách vô điều kiện mà bị bên nhận được chào hàng đưa ra những yêu cầu mới. Về mặt thực tế, chào hàng đương nhiên bị coi là hết hiệu lực nếu bên chào hàng, vì một nguyên nhân nào đó mà ngay khi chưa hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định, đã không tham gia kinh doanh nữa. Đó có thể là trường hợp bên chào hàng bị giải thể, bị phá sản, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. 5.2. Chấp nhận chào hàng Là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phải là chấp nhận vô điều kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào mới. Chào hàng chỉ được coi là được chấp nhận nếu người được chào hàng chấp nhận toàn bộ mọi sửa đổi, bổ sung do người chào hàng đưa ra. Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng. Vì vậy, chấp nhận chào hàng có thể được thực hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là chào hàng đã được chấp nhận một cách vô điều kiện. Đó có thể là lời nói hoặc một hành vi cụ thể biểu thị sự đồng ý với toàn bộ chào hàng. Im lặng hoặc không hành động không được coi là đồng ý với chào hàng. Tuy Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng, nhưng để tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp, chấp nhận chào hàng nên được thể hiện dưới hình thức văn bản. Bên nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định bằng một thông báo chấp nhận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính từ thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào hàng được ghi trong chào hàng. Trong trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác định rõ trong chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng được luật quy định là ba mươi ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng. Thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được chuyển đi cho bên chào hàng. Đây cũng là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp nhận dù quá hạn. * Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa: Hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký vào hợp đồng, hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng. Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết, chỉ bản hợp đồng này có giá trị bắt buộc đối với các bên hợp đồng, mọi thư từ giao dịch và đàm phán trước đó về hợp đồng đều hết hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. * Những vấn đề khác trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa: - Giao kết hợp đồng theo mẫu: Các bên có thể thỏa thuận giao kết hợp đồng theo mẫu là hợp đồng được một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý. - Phụ lục hợp đồng: Kèm theo hợp đồng có thể có phụ lục hợp đồng để quy định một cách cụ thể, chi tiết một số điều khoản của hợp đồng mà các bên phải làm rõ khi thực hiện hợp đồng để các bên không thể hiểu mập mờ, mâu thuẫn về các cam kết trong hợp đồng. - Giải thích hợp đồng: Phải dựa trên những quy định của pháp luật nhằm bảo đảm hợp đồng là ý chí chung và thể hiện lợi ích của tất cả các bên. Nguyên tắc của việc giải thích hợp đồng được quy định riêng cho từng trường hợp: hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, khi một điều khoản của hợp đồng có thể hiểu theo nhiều nghĩa, hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, khi có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu, hợp đồng thiếu một số điều khoản, ngôn từ sử dụng trong hợp đồng mâu thuẫn với ý chí chung và khi bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế (Điều 409 Bộ luật Dân sự 2005). III.THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA 1. Nguyêh tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Theo Điều 412 Bộ luật Dân sự 2005, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc trong quá trình thực hiện hợp đồng đó là: 1.1. Thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng Điều đó có nghĩa là các bên phải thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, đúng số lượng và chất lượng, đúng chủng loại, đúng thời hạn, đúng phương thức đã xây dựng trong hợp đồng hoặc do pháp luật đã quy định. Nếu không thực hiện đúng, vi phạm nghĩa vụ đã được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Mà cụ thể là thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng. Các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được Luật Thương mại 2005 quy định chi tiết trên cơ sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong Luật Thương mại 1997, tham khảo công ước Viên 1980 và các tập quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam. Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định tại Mục 2 Mhương 2 của Luật Thương mại 2005 như sau: 1.1.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Điều 35 Luật Thương mại quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận nếu các bên không có thỏa thuận khác (Điều 38). Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 Luật Thương mại 2005. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng hình thức đã thỏa thuận. Một trong những nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khuyết điểm của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể không biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua (Khoản 5 Điều 44 Luật Thương mại 2005). Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó bên bán phải bảo đảm: (1) quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ ba; (2) hàng hóa đó phải hợp pháp; (3) việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp. Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 46 Luật Thương mại 2005). Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn bảo hành đã thỏa thuận và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 Luật Thương mại 2005). 1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua Điều 50 và 55 Luật Thương mại 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ: - Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận - Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật - Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra. Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba (Điều 45 và 46 Khoản 1 Luật Thương mại 2005). Bên mua cũng có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp: (1) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; (2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm nhừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; (3) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục được sự không phù hợp đó. 1.2. Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, có lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi giao kết hợp đồng cho đến khi thực hiện hợp đồng các bên phải kịp thời thông báo cho nhau về tình trạng, đặc tính của đối tượng, bao gồm cả khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nếu một bên vì lợi ích của mình mà che giấu khuyết tật của vật là đối tượng của hợp đồng, gây ra thiệt hại cho bên đối tác thì phải bồi thường thiệt hại. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên luôn thông tin cho nhau về tiến độ thực hiện hợp đồng. Đó chính là biểu hiện sự hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, luôn quan tâm đến lợi ích của cả hai bên giao kết hợp đồng. Có như vậy mới tạo ra lòng tin đối với nhau để trở thành đối tác lâu dài của nhau. Muốn vậy, khi thực hiện hợp đồng không được ỷ lại, vin vào các khó khăn khách quan mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng đã giao kết hoặc chỉ nghĩ đến lợi ích của mình mà thờ ơ, không chú ý đến lợi ích của bên cùng giao kết hợp đồng. Ngoài ra, nguyên tắc này còn đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn bớt thiệt hại có thể xảy ra cho nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng. 1.3. Thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của người khác Về nguyên tắc này, khi các bên ký kết, thực hiện hợp đồng vì lợi ích của mình nhưng phải hướng tới lợi ích công cộng, lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của nhà nước. Có như vậy thì trật tự pháp luật nói chung mới được giữ vững, thực hiện được nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước. Qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ, không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác. 2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa Để ràng buộc và tăng cường trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ được pháp luật quy định. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được điều 318 Bộ luật Dân sự quy định bao gồm: Cầm cố tài sản, Thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể thoả thuận để áp dụng các biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng như: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo lãnh. 2.1. Cầm cố tài sản Là việc một bên giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Điều 326 Bộ luật Dân sự 2005). Về hình thức, việc cầm cố tài sản phải được lập thành văn bản (có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính). Trong đó ghi rõ đối tượng, giá trị tài sản, thời hạn cầm cố và phương thức xử lý tài sản cầm cố. Tài sản cầm cố có thể bị khấu trừ phần nghĩa vụ chưa thực hiện, được giao cho bên nhận cầm cố cầm trước một tài sản của bên cầm cố để bảo đảm cho quyền lợi của mình. Các bên trong quan hệ cầm cố có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác, nhưng phải thỏa mãn các yêu cầu về năng lực chủ thể. Khi người có nghĩa vụ giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người có quyền, từ thời điểm đó họ bị hạn chế một số quyền năng đối với tài sản của mình. Phải báo cho bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, đồng thời thanh toán cho bên nhận cầm cố những chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố. Nhưng chỉ được bán tài sản cầm cố, thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu được bên nhận đồng ý, hoặc có thể nhận lại tài sản khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt. Trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực, người nhận cầm cố tài sản có nghĩa vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản cầm cố, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người khác cũng như không đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác hoặc không được khai thác công dụng tài sản cầm cố, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu bên cầm cố không đồng ý. 2.2. Thế chấp tài sản Là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia (bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ, không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp (Điều 342 Bộ luật Dân sự 2005 ). Tài sản thế chấp có thể là toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp có quy định thì văn bản thế chấp phải được chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc việc thế chấp phải được đăng ký nếu tài sản thế chấp có đăng ký quyền sở hữu. Trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực, bên thế chấp tài sản phải có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp hoặc phải có nghĩa vụ giữ nguyên giá trị của tài sản thế chấp cũng như không được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc tự động giao tài sản thế chấp cho người khác. Đồng thời phải thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế chấp nếu có. Nếu bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải hoàn trả lại cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp. 2.3. Đặt cọc Là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết, thực hiện hợp đồng. Khi tiến hành đặt cọc phải được lập thành văn bản ghi rõ đối tượng, giá trị bằng tiền hoặc bằng tài sản đặt cọc, thời hạn đặt cọc (Điều 358 Bộ luật Dân sự 2005). Trong trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nếu bên đặt cọc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng thì hoặc tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc hoặc tài sản đặt cọc bị khấu trừ một khoản tiền tương đương để thực hiện nghĩa vụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. 2.4. Ký cược Là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản ký cược) trong thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản thuê (Điều 359 Bộ luật Dân sự 2005). Khi bên đi thuê đã trả lại tài sản thì họ được nhận lại tài sản ký cược, sau khi trừ tiền thuê. Nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê, thì bên cho thuê có quyền đòi lại tài sản thuê, nếu tài sản thuê không còn thì tài sản ký cược thuộc về bên cho thuê. 2.5. Ký quỹ Là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá trị khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 360 Bộ luật Dân sự 2005). Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên có quyền được ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, sau khi đã trừ chi phí dịch vụ ngân hàng. 2.6. Bảo lãnh Là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361 Bộ luật Dân sự 2005). Hình thức bảo lãnh bằng văn bản, có thể lập thành văn bản riêng, nếu trong trường hợp pháp luật quy định thì phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc là ghi vào hợp đồng chính. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi, tiền nợ gốc, tiền phạt và tiền bồi thường thiệt hại trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Đối với một nghĩa vụ có thể có nhiều người cùng bảo lãnh thì phải liên đới thực hiện nghĩa vụ đó, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định bảo lãnh theo các phần độc lập hoặc bên có quyền có thể yêu cầu bất cứ ai trong số những người liên đới phải thực hiện toàn bộ nghĩa vụ. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng dân sự được Bộ luật Dân sự 2005 quy định rất đầy đủ và chi tiết, bởi vậy trong Luật Thương mại 2005 không quy định lại nữa. Khi các bên cần chọn biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa thì có thể áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 đã được trình bày ở trên. 3. Chế độ sửa đổi, chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa 3.1. Sửa đổi hợp đồng mua bán hàng hóa Hợp đồng đã được giao kết và có hiệu lực pháp lý nhưng do điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi bên mà các bên có thể thỏa thuận sửa đổi hợp đồng, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Khi tiến hành sửa đổi hợp đồng mua bán hàng hóa các bên phải giải quyết hậu quả của việc sửa đổi đó. Nó có thể là: - Chi phí đã bỏ ra để thực hiện một phần công việc trước khi sửa đổi mà bên thực hiện không thu hồi được; - Chi phí để chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ của hợp đồng, mặc dù đã tận dụng, thanh lý nhưng chưa đủ bù đắp giá trị ban đầu của nó; - Tiền bồi thường thiệt hại đã phải trả do sửa đổi hợp đồng. Hình thức ghi nhận việc sửa đổi phải phù hợp với hình thức hợp đồng đã giao kết. Theo khoản 2 điều 423 Bộ luật Dân sự 2005:" Trong trường hợp hợp đồng được lập thành văn bản, được công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc cho phép thì việc sửa đổi hợp đồng cũng phải tuân theo hình thức đó". Đối với các hợp đồng khác thì việc sửa đổi hợp đồng được ghi nhận bằng hình thức nào là do các bên tự nguyện thỏa thuận với nhau. 3.2. Chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa 3.2.1. Chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa Xuất phát từ lợi ích của mình mà các bên tham gia giao kết hợp đồng, xác lập quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng. Hợp đồng đã có hiệu lực nhưng khi tiến hành thực hiện nghĩa vụ thì các bên mới nhận thức được rằng họ cần phải chấm dứt hợp đồng vì việc tiếp tục thực hiện hợp đồng không mang lại lợi ích hợp lý cho một bên hoặc cả hai bên như họ kỳ vọng khi giao kết hợp đồng. Chính vì thế, trong điều 424 Bộ luật Dân sự 2005 đã nêu ra các trường hợp chấm dứt hợp đồng như sau: - Hợp đồng chấm dứt khi hợp đồng đã hoàn thành: Toàn bộ nội dung của hợp đồng được các bên thực hiện, thông qua đó các bên tham gia hợp đồng đáp ứng được quyền của mình thì hợp đồng được coi là hoàn thành và không có lý do để hợp đồng tồn tại nữa; - Hợp đồng được chấm dứt theo thỏa thuận của các bên: Trong trường hợp bên nghĩa vụ gặp khó khăn không có khả năng để thực hiện hợp đồng hoặc nếu hợp đồng đó được thực hiện sẽ gây ra tổn thất về vật chất cho một hoặc cả hai, thì các bên có thể thỏa thuận chấm dứt hợp đồng; - Hợp đồng chấm dứt khi cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc chủ thể khác chấm dứt, vì việc thực hiện hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện; - Hợp đồng chấm dứt khi bị hủy bỏ, bị đơn phương chấm dứt thực hiện - Hợp đồng chấm dứt khi hợp đồng không thể thực hện được do đối tượng của hợp đồng không còn và các bên có thể thỏa thuận thay thế đối tượng khác hoặc bồi thường thiệt hại; - Các trường hợp khác do pháp luật quy định. 3.2.2. Hủy bỏ hợp đồng mua bán hàng hóa Một bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại khi bên kia vi phạm hợp đồng mà việc vi phạm đó là điều kiện ._.háp khoa học và đúng đắn với những nhà lập pháp có trình độ cao. Hiện nay, điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá có Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 và các văn bản khác có liên quan. Trong đó Bộ luật Dân sự 2005 mang tính chất là luật "khung", Luật Thương mại 2005 là luật chuyên ngành. Khi áp dụng luật thì ưu tiên áp dụng luật chuyên ngành trước, chỉ những vấn đề không được quy định trong luật chuyên ngành thì khi áp dụng luật sẽ áp dụng luật "khung". Nhưng đó cũng không phải là lý do thuyết phục để có sự khác nhau giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 về vấn đề phạt vi phạm hay mối quan hệ giữa hai chế tài: phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại (đã được đề cập ở phần trước). Vậy để đảm bảo sự thống nhất giữa các quy định trong Bộ luật Dân sự và Luật Thưong mại cũng như các văn bản pháp luật có liên quan khi cùng điều chỉnh một vấn đề, trong quá trình soạn thảo cần thiết phải có một người (tổ chức) làm nhiệm vụ như người cầm lái, hướng những người được giao nhiệm vụ dự thảo văn bản pháp luật phải đi theo một hướng định sẵn, có căn cứ khoa học. Thứ hai: Ban hành văn bản pháp luật bảo đảm tính minh bạch. Có thể hiểu tính minh bạch của pháp luật là sự quy định rõ ràng và dễ hiểu của pháp luật. Tuy nhiên, tính minh bạch của pháp luật còn được hiểu theo nghĩa rộng hơn là pháp luật phải được công bố công khai trên Công báo hoặc các phương tiện thông tin đại chúng khác để mọi người dễ dàng tìm hiểu và thực hiện. Điều này đã được thực hiện nghiêm túc và triệt để trong thời gian qua bằng việc lập các trang Web của Chính phủ, Bộ, các cơ quan báo chí ở Trung ương và địa phương, Đài truyền hình, Đài tiếng nói có trách nhiệm đưa tin, đăng, phát sóng toàn văn bản hoặc nội dung cơ bản của văn bản quy phạm pháp luật. Nhưng nếu việc này được làm ngay từ khi các văn bản pháp luật đó còn ở giai đoạn chuẩn bị soạn thảo thì sẽ thu hút sự quan tâm, theo dõi của đông đảo các tầng lớp nhân dân, của những người trực tiếp chịu sự điều chỉnh và của những người có liên quan, chuyên gia pháp luật quan tâm tới vấn đề đó để đóng góp ý kiến. Có như vậy thì khi một văn bản pháp luật được ban hành mới phù hợp với thực tiễn, hạn chế tình trạng văn bản pháp luật đã có hiệu lực mà trên thực tế mọi người dường như không biết đến sự tồn tại của văn bản pháp luật đó. Thứ ba: Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng trọng tài thương mại, đảm bảo thống nhất với các quy định của Luật Thương mại 2005. Trọng tài Việt Nam dưới góc nhìn của nền kinh tế thị trường đã được hình thành và bước đầu phát triển với tính chất phi chính phủ. Hiện nay, việc giải quyết các tranh chấp thương mại thường được áp dụng theo thủ tục trọng tài. Để đáp ứng nhu cầu của trọng tài và nền kinh tế thị trường hiện nay, ngày 25/2/2003 Quốc hội thông qua Pháp lệnh Trọng tài Thương mại. Nhưng khi thực hiện Pháp lệnh Trọng tài Thương mại đã bộc lộ nhiều bất cập cần phải xem xét. Do tính chất quan trọng của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại nên pháp luật tài phán trọng tài ở Việt Nam cần được hoàn thiện ở những nội dung cơ bản sau: Một là: Sửa đổi một số nội dung cụ thể trong Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 cho phù hợp, tránh mâu thuẫn với quy định của Bộ luật tố tụng Dân sự 2004. Ví dụ 1: Khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 quy định: "Trong trường hợp toà án quyết định vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài, vụ tranh chấp không có thoả thuận Trọng tài hoặc thoả thuận vô hiệu thì Hội đồng Trọng tài ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ tranh chấp. Nếu không có thoả thuận khác,các bên có quyền khởi kiện ra toà án theo quy định tại Điều 21 của Pháp lệnh này nhưng không tính thời gian từ ngày nguyên đơn khởi kiện tại Trọng tài đến ngày toà án ra quyết định tại Điều này". Điều này là không hợp lý, bởi sau khi toà án xác định Trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp thì đương sự khởi kiện tại toà án thì phải áp dụng thời hiệu theo Bộ luật Tố tụng Dân sự chứ không thể áp dụng thời hiệu được quy định tại Điều 21 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại bởi hai lý do: Pháp lệnh Trọng tài Thương mại không thể áp dụng cho tố tụng toà án và cách tính thời hiệu khởi kiện của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại hoàn toàn khác cách tính thời hiệu khởi kiện trong Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành. Do vậy, Pháp lệnh Trọng tài Thương mại không thể chứa đựng trong đó quy định về thời hiệu khởi kiện tại toà án khi mà vụ tranh chấp thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án nhân dân như Điều 30 nêu trên. Ví dụ 2: Các quy định tại Điều 53 và Điều 56 của Pháp lệnh Trọng tài Thương mại sử dụng khái niệm Hội đồng xét xử và khái niệm phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm cho thủ tục xét đơn yêu cầu huỷ quyết định trọng tài là mâu thuẫn với Bộ luật Tố tụng Dân sự hiện hành và không thể thực hiện được. Bởi lẽ, Điều 30 Bộ luật Tố tụng Dân sự nói đến các yêu cầu về kinh doanh thương mại, tức là một việc dân sự chứ không phải là một tranh chấp kinh doanh thương mại theo quy định ở Điều 29 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Vì vầy, theo quy định ở Điều 31 Bộ luật Tố tụng Dân sự đến Điều 318 Bộ luật Tố tụng Dân sự thì việc xem xét yêu cầu huỷ quyết định của Trọng tài không thành lập Hội đồng xét xử, không mở phiên toà mà chỉ mở phiên họp (kể cả các thủ tục sơ thẩm và phúc thẩm). Chính vì vậy, khi xây dựng các quy định này trong Luật Trọng tài, tốt nhất là nên dẫn chiếu Bộ luật Tố tụng Dân sự để có quy định phù hợp và không gây khó khăn vướng mắc trong thực tiễn áp dụng của toà án và trọng tài, gây thiệt hại cho các bên tranh chấp. Hai là: Về thẩm quyền của Trọng tài: Trọng tài có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp trong kinh doanh, thương mại thuộc những hành vi thương mại được quy định tại Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh Trọng tài Thương mại khi các bên có thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Các quy định này đã mở rộng phạm vi thẩm quyền Trọng tài so với trước đây rất nhiều. Tuy nhiên, cách xây dựng nội dung theo hướng liệt kê nên nó lại hạn hẹp hơn khái niệm thương mại trong Luật Thương mại 2005. Luật Thương mại 2005 thừa nhận cả những chủ thể không có đăng ký kinh doanh nhưng tham gia hoạt động có mục đích lợi nhuận thì tranh chấp đó cũng là tranh chấp thưong mại. Như vậy, rõ ràng đã có sự bất cập về khái niệm thương mại - cơ sở xác định thẩm quyền trọng tài giữa Pháp lệnh Trọng tài Thương mại với Luật Thương mại và đương nhiên về nguyên tắc Pháp lệnh Trọng tài Thương mại phải hoàn thiện để phù hợp với Luật Thương mại về vấn đề này nếu không muốn tạo ra những bất cập cho thực tiễn giải quyết tranh chấp tại các Trung tâm Trọng tài khi xác định hiệu lực của thoả thuận Trọng tài. Ba là: phải sớm ban hành Luật về Trọng tài trên cơ sở hoàn thiện Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003. Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 sau một thời gian được áp dụng trong thực tiễn đã thể hiện nhiều vướng mắc, chưa có sự thống nhất với Bộ luật Tố tụng Dân sự và Luật Thương mại về các vấn đề liên quan đến Trọng tài. Do đó. việc xây dựng Luật Trọng tài ở thời điểm hiện nay là điều tất yếu phải làm để có một cơ chế pháp lý tương ứng giữc các hình thức tài phán trong nước, đồng thời quảng bá rộng rãi Trọng tài Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Luật Trọng tài Việt Nam cần thừa nhận các nguyên tắc cơ bản của Trọng tài đã được áp dụng rộng rãi ở các nước và phải đáp ứng được yêu cầu trong hoạt động kinh doanh như bí mật kinh doanh, linh hoạt, nhanh gọn. Trong quá trình xây dựng Luật Trọng tài đương nhiên chúng ta phải tham khảo Luật Mẫu của Trung tâm Trọng tài Quốc tế năm 1985 và Quy tắc tố tụng Trọng tài của Uỷ ban về Luật Thương mại Quốc tế của Liên hợp quốc năm 1767, cũng như Luật Trọng tài của các nước có hoàn cảnh kinh tế, văn hoá, xã hội giống với Việt Nam. Trên đây là một số kiến nghị xung quanh Pháp lệnh Trọng tài Thương mại 2003 để việc giải quyết tranh chấp bằng tố tụng Trọng tài có thể đạt hiệu quả cao. Thứ tư: Cần phải ban hành thêm nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá. Việc Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO - là một tất yếu khách quan, thể hiện sự thành công, khẳng định thế và lực của Việt Nam trên trường quốc tế. Cùng với sự kiện trọng đại này sẽ là cơ hội để chúng ta thể hiện năng lực nội tại của nền kinh tế nước nhà, đồng thời trao đổi, tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia thành viên khác, tăng cường sự cạnh tranh để phát triển nhanh và bền vững đất nước, tạo diện mạo mới, từng bước thay đổi, làm tăng trưởng nền kinh tế nước nhà. Đây cũng sẽ là cơ hội lớn và thách thức lớn đặt ra với đội ngũ doanh nhân lãnh đạo các doanh nghiệp Việt Nam bởi không những họ hội nhập mà còn là cạnh tranh với các doanh nhân, doanh nghiệp trên toàn thế giới. Điều quan trọng là các doanh nghiệp cần phải tạo được gia tốc cao hơn các đối thủ khác trên thương trường. Quan trọng nhất là Nhà nước cần tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, hoạt động theo đúng quy định của WTO. Vì vậy, yêu cầu cải cách hành chính, sửa đổi chính sách thuế, tài chính, đầu tư, hoạch định lại các chiến lược vĩ mô, hậu thuận cho doanh nghiệp bằng việc cung cấp thông tin, đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư là việc làm cấp thiết của Nhà nước cho doanh nghiệp trong thời gian này. Đối với lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá Chính phủ nên ban hành Nghị định hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Thương mại 2005 và Bộ Thương mại ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định của Chính phủ để lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá được thực hiện đúng luật, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá. Thứ năm: Về vấn đề tổ chức thực hiện pháp luật hợp đồng mua bán hàng hoá. Luật khi được ban hành thì tự nó không thể đi vào cuộc sống được mà phải qua khâu thực hiện. Đây là khâu yếu nhất trong việc đưa pháp luật vào cuộc sống của nước ta hiện nay. Muốn thực thi pháp luật thì trước hết phải nâng cao "quan trí" về pháp luật. Đối với lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá Chính phủ, Bộ phải có kế hoạch quan tâm tới tuyên truyền, phổ biến nâng cao trình độ cho cán bộ công chức. Từ đó cán bộ công chức sẽ mở lớp tập huấn, phổ biến pháp luật cho các doanh nghiệp hoạt động liên quan đến quan hệ mua bán hàng hoá. Làm được như vậy thì luật khi ban hành sẽ đi vào cuộc sống. Biết luật, thực hiện đúng luật là điều rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi mà nước ta đã là thành viên của WTO. Bất kể lúc nào chúng ta cũng có cơ hội làm ăn với đối tác nước ngoài. Nắm vững luật là chìa khoá để các doanh nghiệp tự chủ trong kinh doanh nói chung và trong ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng. 2. Kiến nghị về phía Công ty Kết quả của việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường chịu ảnh hưởng của cả phía pháp luật Nhà nước và điều kiện thực tế của Công ty. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá thì ngoài việc Nhà nước thực hiện hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá mà Công ty cũng phải xem xét, chỉnh sửa, bổ sung để hạn chế những tồn tại, sai sót trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá của Công ty. Thứ nhất: Đối với công tác chuẩn bị ký kết hợp đồng: Đối với mỗi Công ty thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì việc ký kết hợp đồng là rất quan trọng. Nó đảm bảo cho Công ty tiêu thụ sản phẩm và cũng là để thu lại tài sản của Công ty dưới hình thái tiền tệ. Từ đó, Công ty có thể thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với: Nhà nước (nộp thuế): đối với công nhân viên (trả lương, thưởng): đối với bạn hàng cung cấp nguyên vật liệu đầu vào…và để tái mở rộng quy mô sản xuất của Công ty. Bởi vậy, khi ký kết bất kỳ một hợp đồng mua bán hàng hoá nào Công ty cần chuẩn bị kỹ lưỡng, tránh tình trạng hợp đồng đã được ký kết lại phải sửa đổi sẽ mất nhiều thời gian và gây tốn kém, thiệt hại cho cả hai bên. Muốn vậy, Công ty phải chuẩn bị sẵn nội dung cần đàm phán, có thể soạn thảo sẵn hợp đồng và thoả thuận với đối tác theo những vấn đề mà Công ty chú ý soạn thảo trước. Cùng với điều đó thì Công ty chú ý đánh giá đối tác một cách nghiêm túc trước khi ký kết hợp đồng về khả năng thanh toán, về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, không để trường hợp chỉ chú trọng ký thật nhiều hợp đồng mà không xem xét, đánh giá kỹ lưỡng khả năng của khách hàng, nên khi hợp đồng được ký kết, thực hiện xong Công ty không được thanh toán, hay khi hợp đồng bị vi phạm lại không được bồi thường do khách hàng đang lâm vào tình trạng phá sản. Điều này có thể xảy ra trong cơ chế thị trường hiện nay, khi mà sự ra đời của các Công ty "ma" không còn là quá hiếm. Chỉ với cái tên, địa chỉ không có thực của mình mà khiến nhiều công ty làm ăn chân chính, thậm chí những công ty lớn cũng phải gặp không ít khó khăn khi bị họ lừa giao kết những hợp đồng tưởng như là béo bở, nhưng thực ra là biếu không họ những khoản tiền khổng lồ, mà đáng lẽ sẽ không xảy ra nếu việc tìm hiểu khách hàng được thực hiện nghiêm túc, kỹ lưỡng. Một điều dễ nhận thấy đó là nếu công tác chuẩn bị ký kết hợp đồng được thực hiện tốt tức là Công ty đã ở thế chủ động trong việc ký kết hợp đồng. Và như vậy khi thực hiện hợp đồng đã ký kết Công ty sẽ gặp nhiều thuận lợi hơn. Thứ hai: Đối với hình thức và nội dung của hợp đồng: * Về hình thức của hợp đồng: Công ty nên đa dạng hoá hình thức của hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 đã đưa ra các hình thức hợp đồng phù hợp với sự nhanh, nhạy, linh hoạt của việc ký kết hợp đồng, cũng như phù hợp với thông lệ quốc tế. Tại Công ty từ trước đến nay vẫn thường sử dụng hình thức hợp đồng là văn bản và ký trực tiếp. Điều này là một sự đảm bảo chắc chắn trong việc ký kết hợp đồng. Nhưng hiện nay, khi mà ai nhanh hơn là người ấy thắng thì không thể cứ sử dụng mãi một hình thức cổ điển là ký kết trực tiếp và bằng văn bản mà cần phải sử dụng các hình thức khác phù hợp với tinh hình thực tế, vừa nhanh lại hiệu quả và được pháp luật thừa nhận, bảo vệ. Đó là bằng hình thức lời nói, các thông điệp dữ liệu, điện báo, telex, fax… * Về nội dung của hợp đồng: Khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty thường ghi là hợp đồng kinh tế. Thực ra không cần phải ghi là hợp đồng kinh tế, chỉ cần ghi hợp đồng là đủ. Bởi theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005, Luật Thương mại 2005 thì không còn sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế (hợp đồng thương mại) nữa. Việc gọi hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế chỉ là do thói quen từ trước mà thôi. Khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty có thể không ghi căn cứ pháp lý điều chỉnh hợp đồng trong hợp đồng. Bởi vì, việc ký kết và thực hiện hợp đồng trên lãnh thổ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải chịu sự điều chỉnh của toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam chứ không phải riêng một văn bản pháp luật nào đó. Khi có tranh chấp xảy ra từ hợp đồng thì việc xác định quy định nào nằm trong văn bản pháp luật nào sẽ được áp dụng là công việc của các cá nhân, cơ quan và tổ chức có thẩm quyền, mà cụ thể là của thẩm phán, toà án và của Trọng tài. Các bên căn cứ vào Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại hay một văn bản nào đó khi ký kết hợp đồng là đã làm thay phần việc của thẩm phán và Trọng tài viên. Điều này cũng gần giống với việc một người bình thường chỉ cho các chuyên gia cần phải làm gì trong lĩnh vực của họ. Bởi vì rõ ràng, thẩm phán và Trọng tài viên hiểu rõ pháp luật hơn các bên trong hợp đồng. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là doanh nghiệp không cần hiểu là hợp đồng mình ký kết là dựa trên căn cứ pháp lý nào. Mà là không cần ghi căn cứ pháp lý đó vào hợp đồng. Điều này vừa tránh được tình trạng ghi không đủ các văn bản pháp luật điều chỉnh, vừa tránh tình trạng ghi văn bản pháp luật đã hết hiệu lực thi hành. Vì căn cứ pháp lý là việc của thẩm phán, toà án, Trọng tài nếu có tranh chấp xảy ra. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty cần bổ sung các thoả thuận giữa các bên để hợp đồng được giao kết với các nội dung rõ ràng, cụ thể. Ví dụ về thời điểm chuyển giao rủi ro để có thể xác định được một cách chính xác trách nhiệm thuộc về ai nếu có tổn thất xảy ra đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển và bốc dỡ, hay về đồng tiền thanh toán, phương thức giao nhận hàng… Điều khoản giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài cũng cần được bổ sung vào trong mỗi hợp đồng. Các hợp đồng mua bán hàng hoá ở công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường điều khoản giải quyết tranh chấp thường lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng toà án, rất ít khi lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài. Nhưng do phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài có nhiều ưu điểm mà phương thức toà án không có khi giải quyết các vụ tranh chấp trong kinh doanh thương mại như đã đề cập ở phần trước. Nên Công ty nên lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá bằng Trọng tài khi thoả thuận về điều khoản giải quyết tranh chấp trong hợp đồng. Có lễ điều khoản giải quyết tranh chấp không được Công ty quan tâm lắm, vì trong quan niệm của Công ty tốt nhất là không có tranh chấp, mà nếu có thì giải quyết bằng thương lượng, hoà giải và cho qua. Nhưng thời đại ngày nay thì khác rồi, có mâu thuẫn khi thực hiện hợp đồng, có tranh chấp là điều bình thường, vì đối tác làm ăn ngày nay rất rộng. Thậm chí ngày nay không ít công ty trở nên nổi tiếng qua giải quyết tranh chấp. Mặt khác, hệ thống pháp luật điều chỉnh về vấn đề giải quyết tranh chấp đã khá hoàn thiện. Đặc biệt giải quyết tranh chấp thương mại bằng Trọng tài hiện nay đang là lựa chọn hàng đầu trong các phương thức giải quyết tranh chấp thương mại. Công ty cũng nên theo xu thế đó của thời đại. Tóm lại, nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá càng chặt chẽ thì rủi ro của hợp đồng càng ít và Công ty càng có cơ hội tránh những rủi ro đáng tiếc xảy ra. Nhưng nội dung của hợp đồng không phải là những nội dung cứng nhắc, thiếu linh hoạt mà đòi hỏi nó luôn thay đổi phù hợp với yêu cầu khách quan, phù hợp với nhu cầu của các bên trong quan hệ hợp đồng. Công ty có thể xây dựng các điều khoản "mở" có tính linh động có thể thích ứng với tình hình thực tế khi tiến hành đàm phán ký kết mà vẫn đúng pháp luật. Do đó, công việc xây dựng nội dung hợp đồng mua bán hàng hoá nên giao cho các cán bộ đàm phán, ký kết hợp đồng có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn vững vàng, bảo đảm tính linh hoạt và nhạy cảm trong các điều khoản thoả thuận của hợp đồng. Thứ ba: Về các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng: Khi ký kết một hợp đồng mua bán hàng hoá Công ty chưa thật chú trọng tới việc áp dụng các biện pháp thực hiện hợp đồng. Chỉ trong một số ít hợp đồng có giá trị lớn, Công ty mới sử dụng biện pháp thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện hợp đồng. Ngoài ra, khi thoả thuận điều khoản thanh toán Công ty chỉ áp dụng biện pháp đặt cọc sau khi hợp đồng được ký kết để ràng buộc trách nhiệm của bên mua và bên bán. Tuy nhiên, biện pháp này không đủ đảm bảo rằng Công ty sẽ thu được đủ số tiền hàng hoá theo đúng thời gian quy định trong hợp đồng. Trên thực tế, việc khách hàng chiếm dụng vốn của Công ty qua hình thức chậm thanh toán tiền hàng là có diễn ra. Việc chiếm dụng này có thể diễn ra tới 2 năm. Bởi vậy, Công ty nên mạnh dạn sử dụng các quy định của pháp luật trong việc bảo đảm thực hiện hợp đồng, bên cạnh đó Công ty nên có những biện pháp khuyến khích khách hàng thực hiện điều khoản thanh toán đúng hạn, đầy đủ như: chiết khấu thương mại…có như vậy vốn của Công ty mới không bị chiếm dụng, và không làm ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Thứ tư: Công ty nên mở Website để quảng bá hình ảnh Công ty rộng rãi. Khi thông tin về Công ty được truyền đi thì về lâu về dài Công ty sẽ thu hút được nhiều khách hàng ký kết hợp đồng mua bán hàng hoá với Công ty. Thứ năm: Về vấn đề nhân sự: Con người luôn là tài sản quý giá nhất của mỗi doanh nghiệp. Ngày nay, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cạnh tranh về nguồn lực con người. Doanh nghiệp nào có đội ngũ công nhân viên giỏi thì doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ ở thế mạnh trong cạnh tranh. Mà kinh doanh là hoạt động của con người, do đó hiệu quả kinh doanh tuỳ thuộc vào năng lực người kinh doanh. Nếu chỉ đưa ra những phương án kinh doanh, biện pháp thực hiện mục tiêu mà không chuẩn bị tốt đội ngũ cán bộ thì chắc chắn hoạt động kinh doanh sẽ không đem lại hiệu quả. Công ty cần phải tổ chức được đội ngũ cán bộ kinh doanh năng động và sáng tạo, thích ứng với phương thức kinh doanh mới. Đội ngũ công nhân viên của Công ty có ưu điểm là những người trẻ, yêu công việc, dễ tiếp thu kiến thức. Đó là điều kiện tốt cho kế hoạch đào tạo cán bộ của Công ty. Để có nguồn nhân lực giỏi, Công ty có thể thực hiện các biện pháp sau: + Thu hút nhân tài: Thông qua các biện pháp quảng cáo, tuyên truyền, giới thiệu về Công ty, về hiệu quả kinh doanh, về triển vọng của Công ty, về chế độ tiền thưởng, tiền lương, về tinh thần hợp tác và tôn trọng nhân tài… + Phát hiện nhân tài trong nội bộ Công ty: Đây là tiềm năng quan trọng, bởi khi phát hiện và biết trọng dụng những người có năng lực, bố trí họ vào đúng vị trí xứng đáng thì Công ty sẽ khai thác được tối đa năng lực của họ, chính họ là nhân tố thắng lợi cho Công ty. Mặt khác, để có đội ngũ cán bộ giỏi, Công ty phải có biện pháp khuyến khích phát huy tinh thần sáng tạo của họ thông qua chế độ lương thưởng, phúc lợi cho người lao động… Với đội ngũ cán bộ như hiện nay, Công ty cần bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cũng như trình độ ngoại ngữ, tin học, kiến thức pháp luật qua các biện pháp: + Tổ chức đào tạo tại chỗ cho đội ngũ cán bộ công nhân viên; + Cử cán bộ chuyên môn đi học nâng cao nghiệp vụ tại các trung tâm đào tạo như trường đại học, các vụ, viện… + Tham gia xây dựng các hợp đồng mua bán hàng hoá mẫu cùng với các luật gia, chuyên gia pháp luật được Công ty mời tới để học hỏi kiến thức, kinh nghiệm về luật pháp. Trong khi xây dựng các hợp đồng mẫu cùng các chuyên gia về pháp luật có kèm theo các câu hỏi về việc áp dụng luật trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mẫu với những điều khoản như thế nào sẽ đem lại sự thuận lợi cho cả Công ty và bạn hàng khi thực hiện, tránh xảy ra hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Ngoài ra, Công ty nên xem xét, điều chỉnh chiến lược kinh doanh một cách phù hợp với thị trường trong nước và quốc tế khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO. Điều này đặt ra cho Công ty nhiệm vụ đánh giá lại các chiến lược về sản phẩm, marketing, nhân lực nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm và đổi mới công nghệ tương ứng. Công ty cần minh bạch hoạt động kinh doanh, tài chính, sử dụng hệ thống sổ sách, kế toán theo chuẩn mực và quy định của Nhà nước giúp cho việc quản lý tốt hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời là cơ sở để phân tích, đánh giá kết quả kinh doanh. Đây cũng được coi là cơ sở quan trọng để Công ty có thể vay vốn từ ngân hàng để đầu tư mở rộng sản xuất phát triển kinh doanh, tạo ra nhiều hàng hoá cung cấp cho thị trường. Trên đây là một số ý kiến góp phần hoàn thiện công tác ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường. Với những cố gắng trong quản lý và điều hành sản xuất kinh doanh, sự đoàn kết nhất trí trong tập thể lãnh đạo và cán bộ công nhân viên, phát huy tinh thần sáng tạo, năng động của ban giám đốc, cùng với tinh thần hăng hái, cần cù lao động của tập thể người lao động, kết hợp với một số kiến nghị trên, Công ty sẽ không ngừng nâng cao hiệu quả trong ký kết và thực hiện hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng. Từ đó Công ty tăng doanh thu, lợi nhuận hiện tại, mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm nhiều việc làm và nâng cao vị thế của Công ty trong tương lai. KẾT LUẬN Kể từ khi đất nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước thì nền kinh tế nước ta không ngừng tăng trưởng về kinh tế, ổn định về chính trị - xã hội, luôn được bạn bè quốc tế ngưỡng mộ về những kết quả đã đạt được về mọi mặt: kinh tế, chính trị, xã hội. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đời sống của người dân được nâng cao, phúc lợi xã hội được chú trọng phát triển. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế phát triển, kéo theo hệ thống pháp luật Việt Nam, trong đó có pháp luật kinh tế có nhiều thay đổi và được hoàn thiện hơn. Với việc Quốc hội khoá XI ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại đã ghi nhận sự thay đổi trong việc mở rộng quyền năng cho các chủ thể được làm những gì mà pháp luật không cấm, đảm bảo cho "công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật" mà Điều 57 Hiến pháp 1992 đã quy định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường chuyển biến không ngừng, giao lưu kinh tế mở rộng, các quan hệ kinh tế trở nên đa dạng và phức tạp, thì quan hệ mua bán hàng hoá cũng không nằm ngoài xu thế đó. Việc hoàn thiện các văn bản pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng vẫn rất cần được quan tâm. Xuất phát từ sự quan tâm về quan hệ mua bán hàng hóa, đề tài đã đi sâu nghiên cứu những vấn đề pháp lý về chế độ ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá, từ đó khẳng định vai trò và vị trí của hợp đồng mua bán hàng hoá với sự nghiệp đổi mới của nền kinh tế thị trường Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về hợp đồng mua bán hàng hoá và thực tiễn áp dụng tại một Công ty để đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần vào việc hoàn thiện pháp luật và việc áp dụng pháp luật hợp đồng nói chung trong thời gian gần đây: Ban hành những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành các văn bản luật đó để đảm bảo sự thống nhất giữa Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005, xây dựng và ban hành Luật Trọng tài thương mại đảm bảo các quy định thống nhất với Bộ luật tố tụng Dân sự 2004 và Luật Thương mại 2005, từ đó hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán hàng hoá nói riêng, góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước hội nhập kinh tế quốc tế đạt hiệu quả cao. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT 1. Hiến pháp nước Cộng hoà XHCN Việt Nam năm 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001; 2. Bộ luật Dân sự nước Cộng hoà XHCN Việt Nam được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006; 3. Luật Thương mại được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 14/06/2005 có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006; 4. Nghị quyết số 45/2005-QH11 của Quốc hội ban hành ngày 14/06/2005 về việc thi hành Bộ luật Dân sự; 5. Luật doanh nghiệp năm 2005; 6. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004; 7. Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002; 8. Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; 9. Nghị quyết số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/07/2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại; 10. Nghị định số 25/2004 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại; 11. Bản quy tắc trọng tài UNCITRAL; 12. Công ước Viên 1980 về vấn đề mua bán hàng hoá; II. GIÁO TRÌNH VÀ SÁCH THAM KHẢO 1. TS. Nguyễn Hợp Toàn (chủ biên) - Giáo trình Pháp luật Kinh tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - NXB Thống kê 2006; 2. TS. Trần Thị Hoà Bình - TS. Trần Văn Nam (đồng chủ biên) - Giáo trình Luật thương mại quốc tế - Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội - NXB Lao động - Xã hội 2005; 3. TS. Đinh Trung Tụng (chủ biên) - Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân sự năm 2005 - NXB Tư pháp 2005; 4. Thạc sỹ luật học: Đặng Văn Được - Hướng dẫn pháp luật Hợp đồng thương mại - NXB Lao động - Xã hội 2006; 5. TS luật học Ngô Huy Cương - Góp phần bàn về cải cách luật ở Việt Nam hiện nay - NXB Tư pháp 2006; 6. TS. Huỳnh Viết Tuấn - Luật trong kinh doanh (diễn giải) - NXB Chính trị quốc gia 2006; 7. Thạc sỹ: Nguyễn Khánh Ly - 236 Câu hỏi và giải đáp về pháp luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi hành - NXB Lao động - Xã hội 2006; III. BÁO VÀ TẠP CHÍ 1. Bùi Ngọc Toàn - Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế - Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 02/2006; 2. TS. Hoàng Văn Tú - Đánh giá chất lượng dự án Luật, Pháp lệnh hiện nay - Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 06/2006; 3. TS. Phạm Văn Hùng - Đổi mới quan niệm về pháp luật - khởi điểm của quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật - Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 05/2006; 4. Phan Tuấn Lâm - Vào WTO: Thách thức và giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả -Tạp chí Pháp lý số tháng 12/2006; 5. Lê Nguyễn - Luật đi vào đời sỗng xã hội, nếu… - Tạp chí pháp lý số tháng 12/2006; 6. Mộc Hàn - Ý thức pháp luật của người dân trong tiến trình hội nhập - Tạp chí pháp lý số (1-2)/2007; 7. PGS,TS. Thái Vĩnh Thắng - Bàn về các nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế - Tạp chí Luật học số 07/2006; 8. TS. Hoàng Phước Hiệp - Việt Nam gia nhập WTO và vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam - Tạp chí Luật học số 01/2007; 9. TS. Nguyễn Viết Tý - Hai mươi năm phát triển của Luật Kinh tế - Nhìn dưới góc độ phương pháp luận - Tạp chí Luật học số 01/2007; 10. Thạc sỹ luật học: Phạm Hoàng Giang - Sự phát triển của pháp luật hợp đồng: Từ nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng đến nguyên tắc công bằng - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 10/2006; 11. TS. Nguyễn Ngọc Khánh - Hợp đồng: Thuật ngữ và khái niệm - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 08/2006; 12. TS Luật học: Dương Anh Sơn - Bàn về Khoản 3 Điều 1 Luật Thương mại 2005 - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 12/2006; 13. Nguyễn Thị Thục - Một số điểm mới về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự 2005 - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 03/2006; 14. Thạc sỹ luật học: Nguyễn Thị Hoài Phương - Về các giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng Trọng tài thương mại - Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 03/2006; 15. Phạm Sỹ An - Ổn định tăng trưởng kinh tế năm 2006 - Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số03/2007; 16. Nguyến Đình Hoà - Một số vấn đề về khu vực doanh nghiệp năm 2006 - Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 03/2007. IV. MỘT SỐ TÀI LIỆU THAM KHẢO KHÁC 1. Đề tài cấp Bộ và bản tốm tắt đề tài cấp Bộ: "Hợp đồng kinh tế và vấn đề hoàn thiện chế độ pháp lý về Hợp đồng kinh tế"; 2. Một số tài liệu tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường. MỤC LỤC Trang ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36578.doc