LỜI MỞ ĐẦU
Khi nền kinh tế phát triển thì các đô thị lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh rơi vào tình trạng.quá tải! Công tác quy hoạch đô thị ngày càng trở nên khó khăn hơn, trong đó giải phóng mặt bằng là cả một vấn đề. Hơn nữa, để phát triển một đô thị văn minh, hiện đại trong tương lai càng không phải là chuyện dễ. Hiện nay, tỷ lệ đô thị hóa ở nước ta đang diễn ra rất nhanh, cụ thể chỉ từ 19,5% của năm 1990 đã tăng lên gần 27% vào năm 2005. Đô thị phát triển nhanh, kéo theo thị trường bất
92 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1444 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động sản biến động lớn. Bên cạnh những khó khăn đặt ra trong quá trình đổi mới trên nhiều lĩnh vực, thì đô thị ở Việt Nam cũng đang phải đối diện với nhiều thách thức không nhỏ. Đó là tỷ lệ người dân ở nông thôn nhập cư vào đô thị ngày càng lớn, tạo ra áp lực về nhà ở và hạ tầng. Theo Tiến sĩ Phạm Sỹ Liêm, Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng thì hiện đô thị cả nước có khoảng 25% nhà ở thuộc diện chưa đạt tiêu chuẩn. Trong đó, Thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 300.000 người sống trong các khu nhà ổ chuột, còn ở Hà Nội có khoảng 30% số dân có diện tích ở không quá 3m2/người. Tính bình quân trên cả nước, mật độ dân cư ở đô thị tới gần 240 người/ha, tức bình quân mỗi người chỉ có khoảng 42m2, trong khi mức tối thiểu đạt chuẩn phải là 100m2. Về nước sạch, chỉ có 50% dân cư đô thị có nước máy đạt chuẩn; chưa có đô thị nào có hệ thống xử lý nước thải, rác thải chất đống trong kênh rạch, ao hồ ngày càng gây ô nhiễm nặng. Cùng với những bất cập trên là tình trạng kẹt xe, ô nhiễm không khí do hạ tầng bị quá tải trầm trọng…
Với mục đích tạo ra một hệ thống cơ sở hạ tầng hoàn thiện, Nhà nước đã thực sự quan tâm đến hoạt động đầu tư xây dựng thông qua việc ban hành hàng loạt các văn bản nhằm thống nhất quản lý hoạt động đầu tư xây dựng.
Để sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn đầu tư của xã hội, đáp ứng những đòi hỏi về tiến độ thi công, cũng như nâng cao ý thức pháp luật, tinh thần trách nhiệm của các bên trong một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phát huy tối đa vai trò tự chủ, tính năng động trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xây dựng, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản đã xuất hiện phương thức mới là đấu thầu.
Phương thức đấu thầu đã được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới. Tại Việt Nam phương thức này chỉ mới xuất hiện nhưng nó đã thể hiện là một phương thức đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Ở nước ta, pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng mới đang trong giai đoạn hoàn thiện nên các quy định còn có nhiều bất cập.
Giai đoạn từ năm 1954 cho tới 1975 đất nước ta bị chia cắt, pháp luật ở hai miền đất nước hoàn toàn khác biệt. Ở miền bắc việc xây dựng xã hội chủ nghĩa theo mô hình kinh tế tập trung không tạo được môi trường cho sự cạnh tranh kinh tế. Do đó vấn đề đấu thầu không được đặt ra.
Ở miền Nam trước năm 1975, đấu thầu xây dựng được Chính phủ Việt Nam cộng hoà áp dụng rộng rãi và bắt buộc đối với các công trình do Chính phủ và các tổ chức đoàn thể, cơ quan của chính quyền ngụy đầu tư. Các văn bản về đấu thầu đều do Chính phủ ban hành và áp dụng bắt buộc đối với tất cả các bên tham gia đấu thầu công trình Chính phủ.
Trong giai đoạn từ sau khi đất nước thống nhất tới những năm đầu tiên của quá trình đổi mới Việt Nam cũng đã có một số ít văn bản liên quan đến công tác đấu thầu nhưng Quy chế đấu thầu trong xây dựng đầu tiên được ban hành là Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12 tháng 2 năm 1990 và sau này được thay thế bằng Quyết định số 60/BXD/VKT ngày 30 tháng 3 năm 1994. Đây là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu trong giai đoạn này. Năm 1996 Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã được đánh giá là một bước tiến lớn với nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản trước đó quy định về đấu thầu trong xây dựng. Tuy nhiên, chỉ sau một thờ gian ngắn Nghị định số 43/CP được thay thế bằng Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Nghị định này đựơc sửa đổi bổ sung bằng Nghị định 14/CP ngày 5 tháng 5 năm 2000.
Đến nay công tác đấu thầu được điều chỉnh chủ yếu bằng Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05 tháng 5 năm 2008 và Luật đấu thầu 2005. Tuy nhiên một số quy định của pháp luật về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng còn nhiều bất cập và hạn chế, chưa rõ ràng và cụ thể dẫn tới việc hiểu và áp dụng không đúng, chưa đảm bảo đúng mục đích của đấu thầu là nhằm thực hiện tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch để lựa chọn nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án nói chung cũng như các công trình xây dựng nói riêng.
Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị (UDIC) là Tổng công ty kinh doanh đa dạng hoá ngành nghề, mở rộng quy mô và địa bàn sản xuất kinh doanh với cơ cấu ngành nghề chính là đầu tư, xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp…Ngoài những ngành nghề đã có và đang đầu tư xây dựng như khu đô thị, khu công nghiệp, đường giao thông, các khu công nghiệp, dân dụng, nhà ở…sẽ tham gia đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật lớn như cầu_hầm_đường bộ quốc gia, công trình cáp điện trung cao thế…UDIC bao gồm 27 công ty kể cả bộ máy sản xuất của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị.Trong đó có 5 công ty thành viên trong nước và 5 Công ty liên doanh với nước ngoài đã tổng hợp được sức mạnh về vốn, kinh nghiệm quản lí, thi công cùng đội ngũ cán bộ quản lí, kỹ sư, cử nhân và công nhân nhiệt huyết, kinh nghiệm, có trình độ tay nghề cao với hoạt động sản xuất kinh doanh cùng hệ thống chất lượng ISO đã tạo nên những sản phẩm tốt cả lượng và chất có uy tín trên thị trường đóng góp vào sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của thủ đô Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Qua quá trình thực tập tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, nhận thức rõ vấn đề quan trọng của Pháp luật về đấu thầu xây lắp trong lĩnh vực xây dựng nói riêng và trong nền kinh tế của đất nước nói chung, tôi đã chọn đề tài “Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị”.
Khoá luận gồm 3 chương:
Chương 1: Lí luận chung về đấu thầu và đấu thầu xây lắp.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị .
Chương 3: Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị.
Chương 1
LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐẤU THẦU
VÀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP
KHÁI QUÁT VỀ ĐẤU THẦU
1.Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu
1.1.Khái niệm
Đấu thầu theo Từ điển Tiếng Việt là đọ công khai, ai nhận làm, nhận bán với điều kiện tốt nhất thì được giao làm hoặc bán hàng (phương thức giao làm công trình hoặc mua hàng) Từ điển Tiếng Việt phổ thông. Viện ngôn ngữ học NXB Hồ Chí Minh 2002, tr 270
.
Đấu thầu còn được hiểu là Đấu giá để thầu Từ điển Tiếng Việt, Vĩnh Tịnh, NXB Lao Động 2006, tr 318
Từ điển kinh doanh của Anh (Longman Dictionary of Business) không nêu rõ đấu thầu là gì mà chỉ giải thích đấu thầu mua sắm là việc sử dụng các phương pháp hoặc nỗ lực đặc biệt để nhận được hay mua được.
Theo quy định tại Điều 2 Luật đấu thầu 2005; Đấu thầu là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của bên mời thâu để thực hiện gói thầu trên cơ sở bảo đảm tính cạnh tranh, công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế.
Do đó ta có thể hiểu khái quát đấu thầu chính là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu hoặc yêu cầu của chủ dự án trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu.
1.2. Đặc điểm
Đấu thầu là một quá trình chủ đầu tư lựa chọn được một nhà thầu đáp ứng các yêu cầu của mình. Đấu thầu có thể được coi là một giai đoạn tiền hợp đồng, được sử dụng với mục đích lựa chọn đối tác, nhà thầu phù hợp, đảm bảo hiệu quả kinh tế của dự án. Sau khi việc đấu thầu hoàn tất thì việc kí kết hợp đồng sẽ là bước tiếp theo. Căn cứ để ký kết hợp đồng là kết quả đấu thầu, việc ký kết hợp đồng xây dựng phải phù hợp với kết quả đấu thầu cũng như đáp ứng được cơ bản các tiêu chí đã được bên mời thầu đưa ra.
Pháp luật coi đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại là vì nó cũng có những dấu hiệu cơ bản của một hoạt động thương mại:
- Các nhà thầu có tư cách thương nhân khi thực hiện hoạt động dự thầu;
- Hoạt động đấu thầu được thực hiện nhằm mục tiêu lợi nhuận hoặc nhằm thực hiện các chính sách kinh tế_xã hội;
- Đối tuợng của đấu thầu hàng hoá, dịch vụ là các loại hàng hoá thương mại được phép lưu thông và các dịch vụ thương mại được phép thực hiện theo quy định của pháp luật;
- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đấu thầu được xác lập thông qua những hình thức pháp lí nhất định do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, đấu thầu có những đặc điểm đặc thù so với các hoạt động thương mại khác:
- Thứ nhất, đấu thầu là một quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể
Trong quan hệ đấu thầu các chủ thể tham gia đấu thầu có thể bao gồm: chủ đầu tư, bên mời thầu, nhà thầu, tổ chuyên gia, tổ chức tư vấn. Trong đó:
Chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu, người vay vốn trực tiếp quản lý và thực hiện dự án đấu thầu.
Bên mời thầu là bên có khả năng cung cấp hàng hoá, dịch vụ nhưng không phải bất kì chủ thể nào cũng trở thành bên dự thầu. Bên mời thầu là chủ đầu tư hoặc tổ chức chuyên môn có đủ năng lực và kinh nghiệm được chủ đầu tư sử dụng để tổ chức đấu thầu theo các quy định của pháp luật về đấu thầu.
Nhà thầu là tổ chức, cá nhân có đủ tư cách hợp lệ theo quy định của pháp luật về đấu thầu. Chỉ những chủ thể có năng lực thực hiện và không ở trong diện bị loại trừ theo các tiêu chuẩn do bên mời thầu đặt ra mới có quyền trở thành bên tham dự thầu.
Tổ chuyên gia đấu thầu: Tuỳ theo tính chất và mức độ phức tạp của gói thầu, thành phần tổ chuyên gia đấu thầu bao gồm các chuyên gia về lĩnh vực kỹ thuật, tài chính, thương mại, hành chính, pháp lý và các lĩnh vực có liên quan. Thành viên tổ chuyên gia đấu thầu phải có đủ các điều kiện sau:
+ Có chứng chỉ tham gia khoá học về đấu thầu;
+ Có trình độ chuyên môn liên quan đến gói thầu;
+ Am hiểu các nội dung cụ thể tương ứng của gói thầu;
+ Có tối thiểu 3 năm công tác trong lĩnh vực liên quan đến nội dung kinh tế, kỹ thuật của gói thầu.
Thành viên tổ chuyên gia đấu thầu không nhất thiết phải tham gia bên mời thầu và ngược lại. Điều 9 khoản 2 Luật đấu thầu 2005
Tổ chức tư vấn bao gồm các “nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiêm chuyên môn” Điều 4 khoản 13 Luật đấu thầu 2005
được quy định theo pháp luật về đấu thầu.
- Thứ hai, đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn được quy định chặt chẽ
Đấu thầu gồm có nhiều giai đoạn mà trong đó luôn có sự liên hệ mật thiết giữa các giai đoạn với nhau, giai đoạn trước là tiền đề để thực hiện giai đoạn sau. Khi tham gia vào từng giai đoạn các chủ thể của quan hệ đấu thầu phải tuân theo các quy tắc chung được quy định chặt chẽ theo quy định của pháp luật.
- Thứ ba, mục đích của đấu thầu là lựa chọn nhà thầu tốt nhất tham gia thực hiện dự án
Trong hoạt động đấu thầu luôn tuân theo những yêu cầu, điều kiện rất chặt chẽ, thống nhất, đảm bảo sự công bằng giữa các nhà thầu. Các nhà thầu được hưởng các cơ hội như nhau trong quá trình đấu thầu. Điều này làm cơ sở giúp cho bên mời thầu đánh giá được các nhà thầu một cách công bằng, khách quan. Thông qua các yêu cầu mà bên mời thầu đưa ra, các nhà thầu dựa trên năng lực tài chính, kỹ thuật, kinh nghiệm của mình để chào giá. Nhà thầu nào có giá phù hợp cũng như các tiêu chí khác về kỹ thuật, kinh nghiệm,v.v…sẽ được chọn làm đối tác.
Ngoài ra, khi tham gia đấu thầu nhà thầu phải có bảo lãnh dự thầu
Đây là việc nhà thầu đặt một khoản tiền mặt, séc hoặc bảo lãnh của ngân hàng để đảm bảo trách nhiệm của nhà thầu trong việc dự thầu. Mục đích của bảo lãnh dự thầu là nhằm bảo đảm nhà thầu không thay đổi và huỷ bỏ việc tham gia đấu thầu giữa chừng đồng thời loại bỏ những nhà thầu không nghiêm túc. Số tiền bảo lãnh sẽ được trả lại cho những nhà thầu không trúng thầu trong một thời hạn nhất định. Việc bảo lãnh thường do một ngân hàng thực hiện và ngân hàng phải lập giấy cam kết bảo lãnh kèm theo hồ sơ dự thầu.
2. Phân loại đấu thầu
2.1.Theo hình thức lựa chọn nhà thầu
Đấu thầu được chia làm 7 loại
Đấu thầu rộng rãi
Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu không hạn chế số lượng nhà thầu tham gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu trên các phương tiện thông tin đại chúng trước khi phát hành hồ sơ mời thầu. Hình thức đấu thầu này có ưu điểm nổi bật là tính cạnh tranh trong đấu thầu cao, hạn chế tiêu cực trong đấu thầu, kích thích các nhà thầu phải thường xuyên nâng cao năng lực cạnh tranh, mang lại hiệu quả cao cho dự án.
Đấu thầu hạn chế
Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số nhà thầu (tối thiểu là 5) có đủ năng lực tham dự. Danh sách nhà thầu tham dự phải được người có thẩm quyền hoặc cấp có thẩm quyền chấp thuận. là đấu thầu công khai, phải minh bạch. Trong trường hợp thực tế chỉ có ít hơn 5, Bên mời thầu phải báo cáo chủ dự án trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định cho phép tiếp tục tổ chức đấu thầu hạn chế hoặc áp dụng hình thức lựa chọn khác. Chủ dự án quyết định danh sách nhà thầu tham dự trên cơ sở đánh giá của Bên mời thầu về kinh nghiệm và năng lực các nhà thầu, song phải đảm bảo khách quan, công bằng và đúng đối tượng. Hình thức này chỉ được xem xét áp dụng khi có một trong các điều kiện sau:
- Theo yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài đối với nguồn vốn sử dụng cho gói thầu
- Gói thầu có yêu cầu cao về kĩ thuật hoặc kĩ thuật có tính đặc thù; gói thầu có tính chất nghiên cứu, thử nghiệm mà chỉ có một số người có khả năng đáp ứng yêu cầu của gói thầu.
Chỉ định thầu
Chỉ định thầu là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của gói thầu để thương thảo hợp đồng. Chỉ định thầu được áp dụng cho các trường hợp sau đây:
Sự cố bất khả kháng do thiên tai, địch hoạ, sự cố cần khắc phục ngay thì chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó được chỉ định ngay nhà thầu để thực hiện; trong trường hợp này chủ đầu tư hoặc cơ quan chịu trách nhiệm quản lý công trình, tài sản đó phải cùng với nhà thầu được chỉ định tiến hành thủ tục chỉ định thầu theo quy định trong thời hạn không quá mười lăm ngày kể từ ngày chỉ định thầu;
Gói thầu do yêu cầu của nhà tài trợ nước ngoài;
Gói thầu thuộc dự án bí mật quốc gia; dự án cấp bách vì lợi ích quốc gia, an ninh an toàn năng lượng do Thủ tướng chính phủ quyết định khi thấy cần thiết
Gói thầu mua sắm các loại vật tư, thiết bị để phục hồi, duy tu, mở rộng công suất của thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất mà trước đó đã được mua từ một nhà thầu cung cấp và không thể mua từ các nhà thầu cung cấp khác do phải bảo đảm tính tương thích của thiết bị, công nghệ;
Gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới năm trăm triệu đồng, gói thầu mua sắm hàng hoá, xây lắp có giá gói thầu dưới một tỉ đồng thuộc dự án đầu tư phát triển; gói thầu mua sắm hàng hoá có giá trị gói thầu dưới năm trăm triệu đồng thuộc dự án hoặc dự toán mua sắm thường xuyên; trường hợp thấy cần thiết thì tổ chức đấu thầu
Khi thực hiện chỉ định thầu, phải lựa chọn một nhà thầu được xác định là có đủ năng lực và kinh nghiệm đáp ứng các yêu cầu của gói thầu và phải tuân thủ quy trình thực hiện chỉ định thầu do Chính phủ quy định.
Chào hàng cạnh tranh
Hình thức này được áp dụng cho những gói thầu mua sắm hàng hóa có giá trị dưới 2 tỷ đồng. Nội dung mua sắm là những hàng hoá thông dụng, sẵn có trên thị trường với đặc tính kỹ thuật được tiêu chuẩn hoá và tương đương nhau về chất lượng.
Việc gửi chào hàng có thể được thực hiện bằng cách gửi trực tiếp, bằng fax, bằng đường bưu điện hoặc bằng các phương tiện khác. Đối với mỗi gói thầu phải có tối tiểu ba báo giá từ ba nhà thầu khác nhau.
Mua sắm trực tiếp
Được áp dụng khi hợp đồng đôí với gói thầu có nội dung tương tự được kí trước đó không quá sáu tháng.
Khi thực hiện mua sắm trực tiếp, được mời nhà thầu trước đó đã được lựa chọn thông qua đấu thầu để thực hiện gói thầu có nội dung tương tự.
Đơn giá đối với các nội dung thuộc gói thầu áp dụng mua sắm trực tiếp không được vượt đơn giá của các nội dung tương ứng thuộc gói thầu tương tự đã kí hợp đồng trước đó.
Được áp dụng mua sắm trực tiếp để thực hiện gói thầu tương tự thuộc cùng một dự án hoặc thuộc dự án khác.
Tự thực hiện
Hình thức này chỉ được áp dụng đối với các gói thầu mà chủ đầu tư có đủ năng lực và kinh nghiệm để thực hiện gói thàu thuộc dự án do mình quản lý sử dụng.
Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt
Trường hợp gói thầu có đặc thù riêng biệt mà không thể áp dụng các hình thức lựa chọn nhà thầu khác thì chủ đầu tư phải lập phương án lựa chọn nhà thầu, bảo đảm mục tiêu cạnh tranh và hiệu quả kinh tế trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
2.2. Theo phương thức đấu thầu
Đấu thầu được chia làm 3 loại
Đấu thầu một túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu khi dự thầu nộp các đề xuất về kĩ thuật và về đề xuất tài chính trong một túi hồ sơ để bên mời thầu xem xét và đánh giá chung. Phương thức này được áp dụng đối với hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế cho gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC. Việc mở thầu được tiến hành một lần.
Đấu thầu hai túi hồ sơ
Là phương thức mà nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật và đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng vào cùng một thời điểm. Nhà thầu nộp đề xuất kĩ thuật và đề xuất tài chính riêng biệt theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu. Việc mở thầu được tiến hành hai lần; trong đó, đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở trước để đánh giá, đề xuất về tài chính của tất cả các nhà thầu có đề xuất kỹ thuật được đánh giá là đáp ứng yêu cầu được mở sau để đánh giá tổng hợp. Trường hợp gói thầu có yêu cầu kĩ thuật cao thì đề xuất về tài chính của nhà thầu đạt số điểm kỹ thuật cao nhất sẽ được mở để xem xét, thương thảo. Phương thức này được áp dụng đối với đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế trong đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn.
Đấu thầu hai giai đoạn
Phương thức này áp dụng cho những trường hợp sau: Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế cho các gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp, gói thầu EPC có kỹ thuật, công nghệ mới, phức tạp, đa dạng.
Hai giai đoạn đó như sau:
- Giai đoạn sơ tuyển lựa chọn nhà thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn môt, các nhà thầu nộp đề xuất về kỹ thuật, phương án tài chính nhưng chưa có gia dự thầu; trên cơ sở trao đổi với từng nhà thầu tham gia giai đoạn này này sẽ xác định hồ sơ mời thầu giai đoạn hai;
- Giai đoạn đấu thầu: theo hồ sơ mời thầu giai đoạn hai, các nhà thầu đã tham gia giai đoạn một được mời nộp hồ sơ dự thầu giai đoạn hai bao gồm: đề xuất kỹ thuật; đề xuất về tài chính, trong đó có giá dự thầu; biện pháp bảo đảm dự thầu.
2.3. Theo nội dung đấu thầu
Đấu thầu được chia làm 3 loại
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn
Nhà thầu tư vấn là nhà thầu tham gia đấu thầu cung cấp các sản phẩm đáp ứng yêu cầu về kiến thức và kinh nghiệm chuyên môn.
Đấu thầu tuyển chọn tư vấn là quá trình lựa chọn nhà tư vấn có đủ trình độ và kinh nghiệm để giúp đỡ, tư vấn cho chủ đầu tư trong quá trình chuẩn bị đầu tư và thực hiện đầu tư.
Dịch vụ tư vấn bao gồm:
Dịch vụ tư vấn chuẩn bị dự án gồm có lập, đánh giá báo cáo quy hoạch, tổng sơ đồ phát triển, kiến trúc, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi, báo cáo nghiên cúu khả thi;
Dịch vụ tư vấn thực hiện dự án gồm có khảo sát, lập thiết kế, tổng dự toán và dự toán, lập hồ sơ mời thầu, đánh giá hồ sơ dự thầu, giám sát thi công xây dựng và lắp đặt thiết bị;
Dịch vụ tư vấn điều hành quản lý dự án, thu xếp tài chính, đào tạo, chuyển giao công nghệ và các dịch vụ tư vấn khác.
Nhà tư vấn không tham gia đánh giá kết quả công việc do mình thực hiện và không được tham gia đấu thầu thực hiện các gói thầu mua sắm hàng hoá và xây lắp do mình làm tư vấn (trừ các gói thầu thực hiện theo loại hợp đồng chìa khoá trao tay).
Đấu thầu mua sắm hàng hóa
Đấu thầu mua sắm hàng hoá là quá trình lựa chọn nhà thầu cung ứng hàng hoá đáp ứng được yêu cầu của Bên mời thầu trên cơ sở có sự cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Hàng hoá ở đây có thể là máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng và các dich vụ không phải là dịch vụ tư vấn
Đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là quá trình lựa chọn nhà thầu thực hiện những công việc thuộc quá trình xây dựng và lắp đặt thiết bị các công trình, hạng mục công trình. Những quy định pháp luật cụ thể về đấu thầu xây lắp sẽ được trình bày cụ thể ở những phần sau.
2.4. Theo quốc tịch của nhà thầu
Đấu thầu được chia làm 2 loại
Đấu thầu trong nước: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước.
Đấu thầu quốc tế: Là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu với sự tham gia của các nhà thầu trong nước và nhà thầu nước ngoài.
Trong đó, “nhà thầu trong nước là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam” Điều 4, Khoản 18 Luật đấu thầu 2005
.
Nhà thầu nước ngoài “là nhà thầu được thành lập và hoạt động theo pháp luật của nước mà nhà thầu mang quốc tịch” Điều 4, Khoản 19 Luật đấu thầu 2005
.
II. PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP
1. Khái niệm, đặc điểm, quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây lắp
1.1. Khái niệm, đặc điểm của đấu thầu xây lắp
Đấu thầu xây lắp là phương thức mà chủ đầu tư sử dụng để tổ chức cạnh tranh giữa các nhà thầu xây dựng nhằm lựa chọn một nhà thầu xây lắp có khả năng thực hiện tốt nhất các yêu cầu của dự án. Các yêu cầu đó thường là những yêu cầu về mặt kinh tế_tài chính, yêu cầu về mặt kĩ thuật, yêu cầu về mặt tiến độ thi công…
Thực chất của đấu thầu xây lắp là việc ứng dụng phương pháp xét hiệu quả kinh tế trong việc lựa chọn tổ chức thi công xây dựng. Phương pháp này đòi hỏi sự so sánh giữa các tổ chức xây dựng trên cùng một phương diện (như kĩ thuật hay tài chính) để chọn lấy một nhà thầu có đủ khả năng sau đó lại so sánh tiếp. Kết quả cuối cùng sẽ tìm ra được một tổ chức xây dựng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của chủ đầu tư.
Đấu thầu xây lắp có một số đặc điểm khác so với đấu thầu trong những lĩnh vực khác. Cụ thể:
Sản phẩm của sản xuất xây lắp có đặc điểm là mang tính đơn chiếc, công trình đặt tại một vị trí cố định, phục vụ cho một mục đích cụ thể, một chủ trương quản lí sử dụng, không phải là hàng hoá thông thường mua bán trên thị trường, khối lượng vật chất, tiền vốn tiêu hao, số lao động tham gia vào quá trình sản xuất lớn gấp nhiều lần các loại sản phẩm thuộc lĩnh vực khác, một công trình có nhiều ngành nghề và tổ chức cùng tham gia.
Thời gian hoàn thành công trình lại dài, khi đã thực hiện các bước như chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng…thì không thể dễ dàng thay đổi, đình hoãn. Điều đó chứng tỏ xây dựng cơ bản là một quá trình sản xuất phức tạp, đa dạng có tác dụng cũng như hậu quả lâu dài về sau. Quy mô của công trình càng lớn thì mối quan hệ với các ngành, lĩnh vực càng phức tạp và có tác động lớn đến việc phân bố lại lực lượng sản xuất và dân cư, tác động đến môi sinh, môi trường và cơ sỏ hạ tầng kỹ thuật khác. Vì thế việc áp dụng đấu thầu trong xây dựng cơ bản không những phải đạt được tiêu chuẩn một công trình với giá thành rẻ, chất lượng cao mà còn phải đặt trong tổng thể phát triển của nền kinh tế xã hội.
1.2. Quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây lắp
Pháp luật về đấu thầu xây lắp là tổng hợp các Quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ hình thành trong hoạt động đấu thầu xây lắp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu xây lắp.
Vào cuối những năm 30 và đầu những năm 40 cùng với sự phát triển của thị trường kinh tế tư bản trên nhiều lĩnh vực, đòi hỏi chế độ bán đấu giá cũng phải được áp dụng rộng rãi. Nhưng bán đấu giá chưa có đủ cơ sở để thực hiện trong lĩnh vực đặc thù riêng như: chuyển giao công nghệ, xây dựng cơ bản…do vậy đấu thầu ra đời. Việc ra đời của pháp luật về đấu thầu nói chung cũng như đấu thầu xây lắp nói riêng là một tất yếu khách quan. Có thể khái quát quá trình phát triển của pháp luật về đấu thầu xây lắp qua các giai đoạn sau:
Giai đoạn trước khi có Quy chế đấu thầu ban hành kèm Nghị định 43/CP của Chính phủ ban hành ngày 16/07/1996
Ở Việt nam từ 1988 trở về trước, quá trình đầu tư xây dựng cơ bản được thực hiện theo Điều lệ Xây dựng cơ bản ban hành theo Nghị định số 232/CP ngày 06/06/1981 các doanh nghiệp xây lắp theo phương thức tự làm và giao nhận thầu xây dựng. Tuy nhiên hai phương thức này có nhược điểm mang tính chất tự cung tự cấp, có nhiều thiếu sót trong thủ tục xây dựng cơ bản. Mặt trái của phương thức giao nhận thầu là hiện tượng mua bán thầu, cho nên có ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm. Kết quả là có nhiều công trình thi công có chất lượng kém, khi đưa vào sử dụng thì không hiệu quả.
Do đó để khắc phục những tồn tại của phương thức cũ, đáp ứng đòi hỏi của cơ chế mới. Vào tháng 11/1987 trong Quyết định 217-HĐBT có đưa ra một số điều quy định về đấu thầu. Tuy nhiên vẫn chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể vì vậy việc áp dụng và thực hiện vẫn chưa mang lại hiệu quả.
Ngày 09/05/1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành quyết định số 80-HĐBT về các chính sách đổi mới cơ chế quản lí xây dựng cơ bản. Nhằm đáp ứng yêu cầu quy định của Hội đồng Bộ trưởng, ngày 10/01/1989 Thông tư hướng dẫn tạm thời số 03/BXD-VKT đã ra đời.
Tuy nhiên Thông tư hướng dẫn số 03 còn có nhiều khiếm khuyết khi áp dụng vào thực tế. Vì vậy, đến ngày 12/02/1990 Bộ xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT thay thế cho Thông tư số 03/BXD-VKT. Có thể nói rằng quy chế đấu thầu trong xây dựng ban hành kèm theo Quyết định 24/BXD-VKT là quy chế đầu tiên về hoạt động đấu thầu xây dựng của Việt Nam.Trong văn bản này các vấn đề cơ bản về đấu thầu xây dựng (phạm vi, đối tượng điều chỉnh, quyền và nghĩa vụ của các bên, các hình thức và trình độ tổ chức đấu thầu …) đã được quy định. Tuy chưa đầy đủ song chúng đã khái quát được một số nét cần thiết nhất để thực hiện đấu thầu xây dựng. Trong quy chế này mục tiêu của đấu thầu chưa được đặt ra nhưng có thể thấy rằng việc ban hành quy chế này đã tạo nên một nền tảng pháp lý để qua đó tạo nên một sân chơi bình đẳng, mang tính cạnh tranh cho các thành phần kinh tế trong xã hội
Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP và Nghị định số 93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/1997
Nói chung Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT còn mang nặng tính quản lý về mặt hành chính Nhà nước. Bốn năm sau ngày ban hành Quy chế này, thực hiện cải tiến công tác đơn giá, dự toán nhằm chống lãng phí, thất thoát và tiêu cực trong đầu tư và xây dựng theo Quyết định số 92-TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ xây dựng đã ban hành Quy chế đấu thầu trong xây lắp kèm theo Quyết định số 60-BXD/VKT ngày 30/3/1994. Quy chế này thay thế Quy chế đấu thầu trong xây dựng kèm theo Quyết định số 24/BXD-VKT ngày 12/2/1990. Đây là một bước tiến rõ rệt của việc điều chỉnh công tác đấu thầu trong xây dựng ở Việt Nam giai đoạn này. Quy chế gồm 32 điều, quy định một cách rõ ràng, chi tiết đấu thầu trong xây dựng. Các quy định của quy chế mở rộng hơn hình thức đấu thầu, phạm vi các công trình cần đấu thầu và quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các bên trong đấu thầu. Tuy vậy, trình tự đấu thầu chưa được quy định cụ thể. Việc quản lý hồ sơ được quy định ở mức độ chưa cao, chưa đảm bảo được nguyên tắc bảo mật của đấu thầu. Quy chế chỉ quy định hai hình thức đấu thầu rộng rãi và đấu thầu hạn chế mà chưa có chỉ định thầu.
Có thể nói hai quy chế đấu thầu ra đời trong điều kiện nền kinh tế vừa thoát khỏi cơ chế quản lý cũ nên khó có thể thoát khỏi các dấu ấn của quản lý hành chính. Các quy định chưa bao quát được hết tình hình thực tế, chưa theo kịp sự phát tiển của nền kinh tế. Do đó, chỉ hai năm sau Chính phủ đã ban hành Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ngày 17/07/96 về thủ tục đấu thầu, trong đó dành hẳn một chương cho đấu thầu trong xây dựng.
Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ra đời đã đánh dấu một bước tiến lớn với nhiều điểm tiến bộ hơn hẳn so với các văn bản ra đời trước đây quy định về đấu thầu trong xây dựng. Nghị định này đã quy định một cách tương đối đầy đủ trình tự, thủ tục, các bước tiến hành cho một cuộc đấu thầu, hình thức chỉ định thầu được pháp luật quy định đã có sự tương quan, liên hệ với các nguyên tắc của đấu thầu quốc tế. Tuy nhiên, Nghị định số 43/CP vẫn chưa quy định đầy đủ quá trình mở thầu trong khi đó lại có nhiều điều khoản về các đặc quyền của doanh nghiệp nhà nước khi tham gia đấu thầu. Một năm sau ngày Nghị định ra đời, kết quả khảo sát về ảnh hưởng của Nghị định này đã chỉ ra rằng có nhiều khó khăn trong việc lựa chọn nhà thầu thắng thầu để kí hợp đồng. Các nhà thầu Việt Nam rất khó thắng thầu, các dự án có phía đối tác nnước ngoài tham gia thường không theo kịp đúng thủ tục đấu thầu và nhiều khi quá trình xét thầu bị chậm trễ.
Giai đoạn áp dụng Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 1.9.1999; Nghị định số 14/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 5/5/2000; Nghị định số 66/2003/NĐ-CP của Chính phủ ngày 12.6.2003
Để đáp ứng yêu cầu của thực tế, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 93/1997/NĐ-CP ngày 23/08/97 sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đấu thầu ban hành kèm theo Nghị định số 43/CP, ngày 16/7/1996. Tuy nhiên chỉ trong một thời gian ngắn, thực tế cho thấy Nghị định số 93/1997/NĐ-CP cũng không theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
Điều này đã mở đương cho việc xây dựng một văn bản khác về đấu thầu đó là Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1 tháng 9 năm 1999. Tính đến thời điểm trước khi Luật xây dựng được ban hành thì Nghị định này vẫn được coi là cơ sở pháp lý quan trọng nhất của Việt Nam về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng. Nghị định này cũng được xây dựng phù hợp với Luật mẫu UDCITRAL về đấu thầu mua sắm hàng hoá, dịch vụ và xây lắp. Liên quan đến đấu thầu, Nghị định số 88/1999/NĐ-CP quy định ba phương thức đấu thầu là đấu thầu một túi hồ sơ, đấu thầu hai túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn.
Do nền kinh tế biến đổi nhanh, Nghị định số 88/1999/NĐ-CP cũng nhanh chóng có bất cập về một số vấn đề; đặc biệt là đối với chỉ định thầu. Rất nhiều các cơ quan và doanh nghiệp trong nước đã lên tiếng cho rằng quy định như trong Nghị định là quá chặt chẽ khiến cho nhiều trường hợp giá trị nhỏ thì chi phí hành chính cho việc tổ chức đấu thầu tồn kém nhiều so với lợi ích tiết kiệm được thông qua đấu thầu. Ngoài ra, có nhiều ý kiến cho rằng chính các quy định chặt chẽ này làm mất quyền tự chủ của bên mời thầu trong việc chỉ đinh thầu. Điều này làm giảm ý nghĩa kinh tế của đấu thầu. Để hoàn._. thiện hơn nữa Quy chế đấu thầu Chính phủ đã ban hành Nghị định số 42/2000/NĐ-CP ngày 5 tháng 5 năm 2000 nhằm sửa đổi, bổ sung 8 điều của Nghị định số 88/1999/NĐ-CP, trong đó nội dung chính là nhằm quy định rõ các trường hợp mà bên chủ đầu tư có thể chọn phương thức chỉ định thầu. So với các nghị định trước đó, Nghị định số 14/2000/NĐ-CP có những điểm mới dành cho đấu thầu xây lắp đáng lưu ý là phương pháp “gía đánh giá” phù hợp với các quy định về đấu thầu trên thế giới; quy định mốc tối đa và tối thiểu đối với một số khâu chủ yếu của quá trình đấu thầu; cho phép tổ chức đấu thầu quốc tế khi không có nhà thầu Việt Nam nào đáp ứng yêu cầu gói thầu, nhà thầu quốc tế cam kết sử dụng nhà thầu phụ Việt Nam; điều kiện dự thầu phải có trụ sở chi nhánh ở địa phương tham gia đấu thầu, hình thức chỉ định thầu được mở rộng hơn.
Mặc dù Nghị định số 14/2000/NĐ-CP đã có nhiều sửa đổi quan trọng nhưng vẫn chưa theo kịp sự phát triển của nề kinh tế. Vì vậy, ngày 12 tháng 6 năm 2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2003/NĐ-CP trong đó quy chế đấu thầu lại một lần nữa được sửa đổi, bổ sung. Nghị định này đã chi tiết, cụ thể hoá hơn nữa các quy định của pháp luật về đấu thầu xây lắp.
Giai đoạn áp dụng Luật đấu thầu ngày 29.11.2005 và Nghị định số 58/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05/5/2008. (Giai đoạn hiện hành)
Cùng một lúc, Nghị định 111/2006/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng và Nghị định 112/2006/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình đã được ban hành, tạo nên một hệ thống các quy phạm pháp luật thống nhất áp dụng chung cho hoạt động đấu thầu. Điều đáng nói là Nghị định số 111/2006/NĐ-CP đã tạo được bước đột phá đáng kể trong việc hài hoà các quy định khác nhau trong Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng. Hơn thế, với những kế thừa các nội dung tiên tiến trong Quy chế Đấu thầu trước đây, đồng thời đưa ra được những cải cách đáng kể, sự thống nhất trong quy định về đấu thầu đang được trông đợi sẽ đưa các hoạt động đấu thầu vào vận hành một cách nhẹ nhàng, trơn tru và hiệu quả hơn. Tuy nhiên việc áp dụng Nghị định này cho đến nay vẫn còn nhiều bất cập gây khó khăn cho các nhà thầu tham gia đấu thầu .
Ngày 05/5/2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 58/2008/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đầu thầu và lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng. Đây là Nghị định quan trọng hướng dẫn Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng, thay thế cho Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ về Hướng dẫn Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Các quy định của Nghị định số 58/2008/NĐ-CP mới ban hành với các nội dung hướng dẫn mới, chi tiết và đầy đủ đã khắc phục các khó khăn, vướng mắc, bất cập trong quá trình đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng trong thời gian vừa qua, đáp ứng phù hợp các hoạt động xây dựng trong giai đoạn mới và khắc phục một số điểm không thống nhất giữa Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng
Theo đó, nhà thầu lập báo cáo nghiên cứu khả thi (dự án đầu tư) được tham gia đấu thầu lập thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, thiết kế công nghiệp cho đến trước ngày 01/4/2009. Trong trường hợp này, bên mời thầu phải cung cấp hồ sơ mời thầu với đầy đủ thông tin, tài liệu liên quan gồm cả báo cáo nghiên cứu khả thi (dự án đầu tư) và phải bảo đảm đủ thời gian để các nhà thầu có điều kiện như nhau trong quá trình chuẩn bị hồ sơ dự thầu.
Nhà thầu đã lập thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công, thiết kế công nghệ cho gói thầu không được tham gia đấu thầu xây lắp, cung cấp hàng hóa cho gói thầu đó kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành, trừ trường hợp đối với gói thầu EPC (thiết kế, cung cấp thiết bị, vật tư và xây lắp)
Để bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu, Nghị định nêu rõ các điều kiện về tính độc lập giữa các nhà thầu, giữa nhà thầu với chủ đầu tư. Cụ thể, chủ đầu tư và nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu thuộc cùng một dự án được coi là độc lập với nhau về tổ chức, không cùng một cơ quan quản lý và độc lập với nhau về tài chính khi đáp ứng điều kiện: không có cổ phần hoặc vốn góp trên 50% của nhau
Chủ đầu tư và nhà thầu tham gia đấu thầu gói thầu thuộc cùng một dự án được coi là độc lập với nhau về tổ chức, không cùng một cơ quan quản lý và độc lập với nhau về tài chính khi đáp ứng điều kiện: không có cổ phần hoặc vốn góp trên 50% của nhau; Hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 đối với nhà thầu là tổ chức. Quy định này được thực hiện từ ngày 01/4/2009. Các nhà thầu được coi là độc lập với nhau nếu đáp ứng 2 điều kiện: không cùng thuộc một cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân ra quyết định thành lập, trừ các nhà thầu là doanh nghiệp đã chuyển đổi và hoạt động theo Luật Doanh nghiệp năm 2005; Không có cổ phần hoặc vốn góp trên 30% của nhau. Quy định này cũng được thực hiện từ ngày 01/4/2009.
Việc xử lý vi phạm pháp luật về đấu thầu cũng được quy định chi tiết, theo đó, mức phạt tiền từ 5-50 triệu đồng. Hành vi đánh giá hồ sơ dự thầu, hồ sơ đề xuất, thẩm định, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu không căn cứ vào các yêu cầu của hồ sơ mời thầu; các hành vi vi phạm dẫn đến phải tổ chức đấu thầu lại… có mức phạt tiền từ 5 đến 30 triệu đồng.
Mức phạt từ 20 đến 50 triệu đồng nếu thực hiện các hành vi sau: dàn xếp, thông đồng giữa tất cả nhà thầu, giữa nhà thầu với chủ đầu tư…; người phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu dẫn đến phải huỷ đấu thầu hoặc lựa chọn nhà thầu không đủ năng lực…; Nhà thầu thực hiện hợp đồng xây lắp, cung cấp hàng hoá thông đồng với nhà thầu tư vấn giám sát, cơ quan, tổ chứ nghiệm thu để xác nhận sai về chất lượng, khối lượng của công trình, hàng hoá…
2. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp
Hoạt động đấu thầu cũng đòi hỏi phải có những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc trong đấu thầu là những tư tưởng chỉ đạo được rút ra từ những quy định của pháp luật về đấu thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành buộc các bên tham gia quan hệ đấu thầu phải tuân theo. Đấu thầu xây lắp là một lĩnh vực quan trọng trong nề kinh tế thị trường. Về cơ bản mọi hoạt động đấu thầu xây lắp cũng phải tuân theo những nguyên tắc sau:
2.1. Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau
Bản chất của đấu thầu xây lắp cũng là một hoạt động mua bán do đó nó cũng có yếu tố cạnh tranh cao. Tuy nhiên tính cạnh tranh phải tuân theo nguyên tắc nhất định. Cụ thể: Mỗi gói thầu phải có sự tham dự của một số lượng nhà thầu nhất định có đủ năng lực, đủ để đảm bảo sự cạnh tranh giữa các nhà thầu. Những điều kiện mà bên mời thầu đưa ra và những thông tin cung cấp cho các nhà thầu phải ngang nhau, nhằm tạo sự bình đẳng về cơ hội cho mỗi nhà thầu. Trong hồ sơ mời thầu không được đưa ra các yêu cầu mang tính định hướng như yêu cầu về nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá hoặc về thương hiệu cụ thêt nhằm ngăn cản sự tham gia của các nhà thầu. Bên mời thầu không được phân biệt đối xử giữa những người dự thầu hợp lệ trong việc xem xét đánh giá hồ sơ dự thầu.
2.2. Nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai
Bên mời thầu phải cung cấp đầy đủ các dữ liệu, tài liệu liên quan đến gói thầu với các thông tin chi tiết, rõ ràng về quy mô, khối lượng, quy cách, yêu cầu chất lượng, giá cả và điều kiện hợp đồng (kể cả những sửa đổi, bổ sung nếu có) cho các nhà thầu. Danh mục cụ thể các tài liệu cần có trong hồ sơ dự thầu cũng cần nói rõ để bên dự thầu chuẩn bị đáp ứng. Thông báo mời thầu phải được đăng tải công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định của pháp luật hoặc theo quy chế đấu thầu do tổ chức có thẩm quyền ban hành. Việc mở thầu cũng phải công khai, các nhà thầu tham gia đấu thầu phải được mời tới dự mở thầu. Những nội dung cơ bản của từng hồ sơ dự thầu cũng phải được công bố công khai ngay khi mở thầu và được ghi vào biên bản mở thầu.
2.3. Nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu
Do tính chất cạnh tranh gay gắt giữa các bên dự thầu nhằm mục đích trở thành người cung cấp hàng háo dịch vụ cho bên mời thầu mà việc bảo mật thông tin đấu thầu phải được coi là một nguyên tắc không thể xâm phạm. Theo nguyên tắc này, bên mời thầu phải thông bảo mật hồ sơ dự thầu đồng thời, các tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc tổ chức đấu thầu và xét chọn thầu phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc đấu thầu .
2.4. Nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng
Các hồ sơ dự thầu hợp lệ đều phải được xem xét, đánh giá khách quan, công bằng với cùng một tiêu chuẩn như nhau và bởi một hội đồng xét thầu có đủ năng lực, kinh nghiệm và tư cách. Các tiêu chí đánh giá hồ sơ, tiêu chuẩn xét thầu phải được công bố trước trong hồ sơ mời thầu và trong quá trình xét thầu bên mời thầu không được tự ý thay đổi.
2.5. Nguyên tắc bảo đảm dự thầu
Trong quá trình đấu thầu vì một lí do nào đó mà các nhà thầu có thể gây cản trở cho quá trình đấu thầu như: Rút lại hồ sơ dự thầu, khi trúng thầu không thực hiện hợp đồng…Do đó phải có nguyên tắc bảo đảm dự thầu. Bảo đảm dự thầu được thực hiện dưới hình thức đặt cọc, kí quỹ hoặc bảo lãnh dự thầu. Các bên dự thầu đều phải thực hiện việc bảo đảm dự thầu theo yêu cầu của bên mời thầu để bảo đảm tư cách, năng lực của bên dự thầu trong những trường hợp cần thiết.
3. Phạm vi và đối tượng áp dụng đấu thầu xây lắp
3.1. Phạm vi áp dụng
Theo quy định tại Điều 1 Luật đấu thầu 2005 thì đấu thầu xây lắp được áp dụng để lựa chọn nhà thầu cho các dự án đầu tư tại Việt nam và phải được tổ chức đấu thầu, thực hiện tại Việt Nam. Đó là các dự án sử dụng vốn nhà nước từ 30% trở lên cho mục tiêu đầu tư phát triển bao gồm các dự án đầu tư xây dựng mới, nâng cấp mở rộng các dự án đầu tư xây dựng.
3.2. Đối tượng áp dụng
Theo quy định tại Điều 2 Luật đấu thầu 2005 đấu thầu xây lắp áp dụng với các chủ thể sau:
1. Tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia hoạt động đấu thầu các gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 Luật đấu thầu 2005
2. Tổ chức, cá nhân liên quan đến hoạt động đấu thầu các gói thầu thuộc các dự án quy định tại Điều 1 Luật đấu thầu 2005
3. Tổ chức, cá nhân có dự án không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật đấu thầu áp dụng lựa chọn Luật đấu thầu.
4. Phương thức, hình thức, điều kiện thực hiện đấu thầu xây lắp
4.1.Phương thức thực hiện đấu thầu xây lắp
Theo quy định tại điều 26_Luật đấu thầu 2005 đấu thầu nói chung sẽ gồm 3 phương thức:
Đấu thầu một túi hồ sơ;
Đấu thầu hai túi hồ sơ;
Đấu thầu hai giai đoạn;
(Nội dung các phương thức đã trình bày tại phần I.2, chương 1)
Trong đó đấu thầu xây lắp chỉ áp dụng hai phương thức là: đấu thầu một túi hồ sơ và đấu thầu hai giai đoạn.
4.2. Hình thức đấu thầu xây lắp
Cũng theo quy định của Luật đấu thầu 2005 đấu thầu nói chung bao gồm 7 hình thức :
Đấu thầu rộng rãi;
Đấu thầu hạn chế;
Chỉ định thầu;
Mua sắm trực tiếp;
Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm hàng hoá;
Tự thực hiện;
Lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt;
(Nội dung các hình thức này đã trình bày cụ thể tại phần I.2, chương 1).
Tuỳ theo quy mô, tính chất, nguồn gốc xây dựng công trình, người quyết định đầu tư hoặc chủ đầu tư xây dựng công trình lựa chọn nhà thầu theo các hình thức sau: Điều 97 Luật xây dựng 2003
1. Đấu thầu rộng rãi, đấu thầu hạn chế;
2. Chỉ định thầu;
3. Lựa chọn nhà thầu thiết kế kiến trúc công trình xây dựng.
4.3. Điều kiện thực hiện đấu thầu xây lắp
Đối với đấu thầu xây lắp cũng như đấu thầu nói chung để tham gia đấu thầu bên mời thầu và bên dự thầu phải có những điều kiện sau:
Đối với Bên mời thầu
Cá nhân tham gia bên mời thầu phải có đủ các điều kiện sau đây Điều 9 khoản 1 Luật đấu thầu 2005
:
- Am hiểu pháp luật về đấu thầu;
- Có kiến thức về quản lý dự án;
- Có trình độ chuyên môn phù hợp với yêu cầu của gói thầu theo các lĩnh vực kỹ thuật, tài chính, thương mại, hành chính và pháp lý;
- Có trình độ ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu đôí với gói thầu được tổ chức đấu thầu quốc tế, gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn ODA.
Đối với Bên dự thầu
Nhà thầu tham gia đấu thầu đối với một gói thầu phải có đủ các điều kiện:
- Có tư cách hợp lệ:
+ Nhà thầu là tổ chức có tư cách hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau Điều 7 Luật đấu thầu 2005
:
Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư được cấp theo quy định của pháp luật hoặc có quyết định thành lập đối với các tổ chức không có đăng kí kinh doanh trong trường hợp là nhà thầu trong nước; có đăng kí hoạt động do cơ quan có thẩm quyền của nước mà nhà thầu mang quốc tịch cấp trong trường hợp là nhà thầu nước ngoài;
Hạch toán kinh tế độc lập;
Không bị cơ quan có thẩm quyền kết luận về tình hình tài chính không lành mạnh, đang lâm vào tình trạng phá sản hoặc nợ đọng không có khả năng chi trả; đang trong quá trình giải thể.
+ Nhà thầu là cá nhân có tư cách hợp lệ khi có đủ các điều kiện sau đây Điều 8 Luật đấu thầu 2005
:
Năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định pháp luật của nước mà cá nhân đó là công dân;
Đăng kí hoạt động hợp pháp hoặc chứng chỉ chuyên môn phù hợp do cơ quan có thẩm quyền cấp;
Không bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
- Chỉ được tham gia trong một hồ sơ dự thầu đối với một gói thầu với tư cách là nhà thầu độc lập hoặc là liên danh. Trường hợp liên danh phải có văn bản thoả thuận giữa các thành viên, trong đó quy định rõ người đứng đầu của liên danh, trách nhiệm chung và trách nhiệm riêng của từng thành viên với công việc thuộc gói thầu.
- Đáp ứng yêu cầu nêu trong thông báo mời thầu hoặc thư mời thầu của bên mời thầu;
- Bảo đảm cạnh tranh trong đấu thầu
5. Trình tự đấu thầu xây lắp
Việc tổ chức đấu thầu xây lắp được diễn ra theo trình tự sau:
- Bước 1:Chuẩn bị đấu thầu
- Bước 2:Tổ chức đấu thầu
- Bước 3: Đánh giá hồ sơ dự thầu
- Bước 4: Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu
- Bước 5: Thông báo kết quả đấu thầu
- Bước 6: Thương thảo hoàn thiện hợp đồng và ký kết hợp đồng
Mỗi giai đoạn được quy định cụ thể như sau:
5.1.Chuẩn bị đấu thầu Điều 32 Luật đấu thầu 2005.
- Sơ tuyển nhà thầu
Việc sơ tuyển nhà thầu được thực hiện trước khi tổ chức đấu thầu nhằm chọn được các nhà thầu đủ năng lực và kinh nghiệm theo yêu cầu của gói thầu để mời tham gia đấu thầu. Đối với gói thầu xây lắp, gói thầu lựa chọn tổng thầu xây dựng, trừ tổng thầu thiết kế, tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển còn phải phù hợp với yêu cầu về điều kiện năng lực đối với từng loại, cấp công trình xây dựng theo quy định của Luật Xây dựng
Trình tự thực hiện sơ tuyển bao gồm
+ Lập hồ sơ mời sơ tuyển
+ Thông báo mời sơ tuyển;
+ Tiếp nhận và quản lí hồ sơ dự sơ tuyển;
+ Đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển;
+ Trình và phê duyệt kết quả sơ tuyển;
+ Thông báo kết quả sơ tuyển;
Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự sơ tuyển phải được nêu trong hồ sơ mời sơ tuyển theo mẫu hồ sơ mời sơ tuyển do Chính phủ quy định bao gồm tiêu chuẩn về năng lực kỹ thuật, tiêu chuẩn về năng lực tài chính, tiêu chuẩn về kinh nghiệm.
- Lập hồ sơ mời thầu
Hồ sơ mời thầu là toàn bộ tài liệu do Bên mời thầu lập theo mẫu do Chính phủ quy định
Căn cứ lập hồ sơ mời thầu Điều 23.2 Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008
:
+ Quyết định đầu tư và các tài liệu là cơ sở để quyết định đầu tư; Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Giấy chứng nhận đầu tư;
+ Kế hoạch đấu thầu được duyệt;
+ Tài liệu về thiết kế kèm theo tổng dự toán, dự toán được duyệt (đối với gói thầu xây lắp);
+ Các quy định của pháp luật về đấu thầu và các quy định của pháp luật có liên quan; Điều ước quốc tế hoặc văn bản thỏa thuận quốc tế (nếu có) đối với các dự án sử dụng vốn ODA;
+ Các chính sách của Nhà nước về thuế, tiền lương, ưu đãi nhà thầu trong nước hoặc các quy định khác có liên quan.
Nội dung hồ sơ mời thầu bao gồm các nội dung sau đây Điều 23 Nghị định 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008
:
- Hồ sơ mời thầu phải bao gồm các nội dung theo quy định tại khoản 2 Điều 32 của Luật Đấu thầu và mẫu hồ sơ mời thầu do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành. Đối với các gói thầu đã thực hiện sơ tuyển, trong hồ sơ mời thầu không cần quy định tiêu chuẩn đánh giá về kinh nghiệm và năng lực của nhà thầu song cần yêu cầu nhà thầu khẳng định tại các thông tin về năng lực và kinh nghiệm mà nhà thầu đã kê khai trong hồ sơ dự sơ tuyển;
- Hồ sơ mời thầu không được nêu yêu cầu về nhãn hiệu, xuất xứ cụ thể của hàng hoá theo quy định tại khoản 5 Điều 12 của Luật Đấu thầu. Trường hợp đặc biệt cần thiết phải nêu nhãn hiệu, catalô của một nhà sản xuất nào đó, hoặc hàng hoá từ một nước nào đó để tham khảo, minh họa cho yêu cầu về mặt kỹ thuật của hàng hóa thì phải ghi kèm theo cụm từ "hoặc tương đương" sau nhãn hiệu, catalô hoặc xuất xứ nêu ra và quy định rõ khái niệm tương đương nghĩa là có đặc tính kỹ thuật tương tự, có tính năng sử dụng là tương đương với các hàng hóa đã nêu. Đối với hàng hoá đặc thù, phức tạp, cần yêu cầu nhà thầu nộp Giấy phép bán hàng thuộc bản quyền của nhà sản xuất;
- Hồ sơ mời thầu phải bao gồm các yêu cầu quan trọng (điều kiện tiên quyết) để loại bỏ hồ sơ dự thầu, cụ thể như sau:
+ Nhà thầu không có tên trong danh sách mua hồ sơ mời thầu hoặc không đáp ứng quy định tại khoản 2 Điều 28 Nghị định này,
+ Nhà thầu không bảo đảm tư cách hợp lệ theo quy định tại Điều 7, Điều 8 của Luật Đấu thầu;
+ Không có bảo đảm dự thầu hoặc có bảo đảm dự thầu nhưng không hợp lệ: có giá trị thấp hơn, không đúng đồng tiền quy định, thời gian hiệu lực ngắn hơn, không nộp theo địa chỉ và thời gian quy định trong hồ sơ mời thầu, không đúng tên nhà thầu (trường hợp đối với nhà thầu liên danh theo quy định tại Điều 32 Nghị định 58/2008/NĐ-CP), không phải là bản gốc và không có chữ ký hợp lệ (đối với thư bảo lãnh của ngân hàng, tổ chức tài chính);
+ Không có bản gốc hồ sơ dự thầu;
+ Đơn dự thầu không hợp lệ;
+ Hiệu lực của hồ sơ dự thầu không bảo đảm yêu cầu theo quy định trong hồ sơ mời thầu;
+ Hồ sơ dự thầu có tổng giá dự thầu không cố định, chào thầu theo nhiều mức giá hoặc giá có kèm điều kiện gây bất lợi cho chủ đầu tư;
+ Nhà thầu có tên trong hai hoặc nhiều hồ sơ dự thầu với tư cách là nhà thầu chính (nhà thầu độc lập hoặc thành viên trong liên danh);
+ Không đáp ứng điều kiện về năng lực theo Điều 7 của Luật Xây dựng;
+ Nhà thầu vi phạm một trong các hành vi bị cấm trong đấu thầu theo quy định tại Điều 12 của Luật Đấu thầu;
+ Các yêu cầu quan trọng khác có tính đặc thù của gói thầu.
Nhà thầu vi phạm một trong các điều kiện tiên quyết quy định trong hồ sơ mời thầu sẽ bị loại và hồ sơ dự thầu không được xem xét tiếp
+ Yêu cầu về mặt kĩ thuật:
Đối với gói thầu xây lắp bao gồm yêu cầu theo hồ sơ thiết kế kĩ thuật kèm theo bảng tiên lượng, chỉ dẫn kĩ thuật và các yêu cầu cần thiết khác;
+ Yêu cầu về mặt tài chính, thương mại, bao gồm các chi phí để thực hiện gói thầu, giá chào và biểu giá chi tiết, điều kiện giao hàng, phương thức giao hàng và điều kiện thanh toán, nguồn tài chính, đồng tiền dự thầu và các điều khoản nêu trong điều kiện chung và điều kiện cụ thể của hợp đồng.
+ Tiêu chuẩn đánh giá, yêu cầu quan trọng, điều kiện ưu đãi (nếu có), thuế, bảo hiểm và các yêu cầu khác.
- Mời thầu
Việc mời thầu được thực hiện theo quy định sau đây:
+ Thông báo mời thầu đối với đấu thầu rộng rãi;
+ Gửi thư mời thầu đối với đấu thầu hạn chế hoặc đối với đấu thầu rộng rãi có sơ tuyển.
5.2.Tổ chức đấu thầu Điều 33 Luật đấu thầu 2005
- Phát hành hồ sơ mời thầu:
Hồ sơ mời thầu được phát hành cho các nhà thầu tham gia đấu thầu rộng rãi, cho các nhà thầu theo danh sách được mời thầu tham gia đấu thầu hạn chế hoặc cho các nhà thầu đã vượt qua bước sơ tuyển.
Trường hợp hồ sơ mời thầu cần sửa đổi sau khi phát hành thì phải thông báo đến các nhà thầu đã nhận hồ sơ mời thầu tối thiểu mười ngày trước thời điểm đóng thầu.
- Tiếp nhận và quản lí hồ sơ dự thầu
Các hồ sơ dự thầu nộp theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu phải được bên mời thầu tiếp nhận và quản lý theo chế độ quản lý hồ sơ “Mật”.
- Mở thầu
Mở thầu là thủ tục mở các hồ sơ dự thầu tại thời điểm được ấn định trước trong hồ sơ mời thầu để xem xét và đánh giá.
Việc mở thầu phải được tiến hành công khai ngay sau thời điểm đóng thầu đối với các hồ sơ dự thầu được nộp theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu.
Thông tin chính nêu trong hồ sơ dự thầu của từng nhà thầu phải được công bố trong buổi mở thầu, được ghi lại trong biên bản mở thầu có chữ kí xác nhận của đại diện bên mời thầu, đại diện nhà thầu và đại diện cơ quan liên quan tham dự.
5.3. Đánh giá hồ sơ dự thầu Điều 35 Luật đấu thầu 2005
Sau khi mở thầu, công việc tiếp theo là đánh giá, xếp loại hồ sơ dự thầu để chọn nhà thầu trúng thầu. Các hồ sơ dự thầu sẽ được xem xét, đánh giá theo hai mức đánh giá sơ bộ và đánh giá chi tiết.
Ở giai đoạn đánh giá sơ bộ, bên mời thầu kiểm tra tính hợp lệ và xem xét sự đáp ứng cơ bản các yêu cầu của hồ sơ dự thầu so với hồ sơ mời thầu. Loại bỏ hồ sơ dự thầu không bảo đảm yêu cầu quan trọng của hồ sơ mời thầu
Ở giai đoạn đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu được thực hiện theo quy định sau đây:
Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu xây lắp Điều 26 Nghị đinh 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008
Tiêu chuẩn đánh giá hồ sơ dự thầu đối với gói thầu xây lắp gồm tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu, tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật và nội dung xác định giá đánh giá, cụ thể như sau:
1. Tiêu chuẩn đánh giá về năng lực và kinh nghiệm của nhà thầu áp dụng đối với gói thầu không tiến hành sơ tuyển, bao gồm:
a) Kinh nghiệm thực hiện các gói thầu tương tự ở Việt Nam, ở vùng địa lý và hiện trường tương tự;
b) Năng lực kỹ thuật: số lượng, trình độ cán bộ công nhân kỹ thuật trực tiếp thực hiện gói thầu và số lượng thiết bị thi công sẵn có, khả năng huy động thiết bị thi công để thực hiện gói thầu;
c) Năng lực tài chính: tổng tài sản, tổng nợ phải trả, vốn lưu động, doanh thu, lợi nhuận, giá trị hợp đồng đang thực hiện dở dang và các chỉ tiêu khác.
Việc xác định mức độ yêu cầu cụ thể đối với từng tiêu chuẩn quy định tại các điểm a, điểm b và điểm c khoản này phải căn cứ theo yêu cầu của từng gói thầu.
Các tiêu chuẩn đánh giá quy định tại khoản này được sử dụng theo tiêu chí "đạt", "không đạt". Nhà thầu "đạt" cả 3 nội dung nêu tại điểm a, điểm b và điểm c khoản này thì được đánh giá là đáp ứng yêu cầu về năng lực và kinh nghiệm.
2. Tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật
Tiêu chuẩn đánh giá về mặt kỹ thuật được xây dựng theo quy định tại Điều 24 Nghị định này và bao gồm các nội dung về mức độ đáp ứng đối với các yêu cầu về hồ sơ thiết kế kỹ thuật và tiên lượng kèm theo, cụ thể:
a) Tính hợp lý và khả thi của các giải pháp kỹ thuật, biện pháp tổ chức thi công phù hợp với đề xuất về tiến độ thi công;
Trừ những trường hợp do tính chất của gói thầu mà hồ sơ mời thầu yêu cầu nhà thầu phải thực hiện theo đúng biện pháp thi công nêu trong hồ sơ mời thầu, trong hồ sơ mời thầu cần quy định nhà thầu được đề xuất biện pháp thi công khác với biện pháp thi công nêu trong hồ sơ mời thầu. Trong trường hợp này, hồ sơ mời thầu cần nêu tiêu chuẩn đánh giá đối với đề xuất về biện pháp thi công khác đó của nhà thầu.
b) Bảo đảm điều kiện vệ sinh môi trường và các điều kiện khác như phòng cháy, chữa cháy, an toàn lao động;
c) Mức độ đáp ứng các yêu cầu về bảo hành;
d) Các biện pháp bảo đảm chất lượng;
đ) Tiến độ thi công;
e) Các nội dung khác (nếu có).
Tùy theo tính chất và điều kiện cụ thể của từng gói thầu mà sử dụng phương pháp chấm điểm hoặc phương pháp đánh giá theo tiêu chí "đạt", "không đạt" đối với các tiêu chuẩn về mặt kỹ thuật trên đây. Trường hợp cho phép nhà thầu chào phương án thay thế hoặc bổ sung để tìm kiếm những đề xuất sáng tạo của nhà thầu mang lại hiệu quả cao hơn cho gói thầu thì phải được nêu rõ trong hồ sơ mời thầu và phải nêu rõ tiêu chuẩn, phương pháp đánh giá đề xuất thay thế, bao gồm cả giá dự thầu.
Trường hợp cần đẩy nhanh tiến độ đánh giá hồ sơ dự thầu đối với các gói thầu xây lắp có yêu cầu đơn giản về mặt kỹ thuật thì trong hồ sơ mời thầu có thể quy định việc đánh giá được tiến hành kết hợp đồng thời giữa việc xem xét về mặt kỹ thuật và giá dự thầu của nhà thầu với tiến độ thực hiện gói thầu do nhà thầu đề xuất.
3. Nội dung xác định giá đánh giá
Việc xác định giá đánh giá là xác định chi phí trên cùng một mặt bằng về kỹ thuật, tài chính, thương mại và các yếu tố khác nhằm so sánh, xếp hạng hồ sơ dự thầu. Phương pháp xác định giá đánh giá phải được nêu trong tiêu chuẩn đánh giá. Việc xác định giá đánh giá thực hiện theo trình tự sau đây:
- Xác định giá dự thầu;
- Sửa lỗi;
- Hiệu chỉnh các sai lệch;
- Chuyển đổi giá dự thầu (sau sửa lỗi và hiệu chỉnh sai lệch) sang một đồng tiền chung (nếu có) để làm căn cứ xác định giá đánh giá;
- Đưa các chi phí về một mặt bằng để xác định giá đánh giá, bao gồm:
+ Các điều kiện về mặt kỹ thuật như: tiến độ thực hiện; chí phí quản lý, vận hành, duy tu, bảo dưỡng, tuổi thọ công trình và các yếu tố kỹ thuật khác tùy theo từng gói thầu cụ thể;
+ Điều kiện tài chính, thương mại;
+ Ưu đãi trong đấu thầu quốc tế (nếu có);
+ Các yếu tố khác.
Tùy theo tính chất của từng gói thầu mà quy định các yếu tố để xác định giá đánh giá cho phù hợp. Xếp hạng thứ tự hồ sơ dự thầu theo giá đánh giá, hồ sơ dự thầu có giá đánh giá thấp nhất được xếp thứ nhất.
5.4. Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu Điều 39, Điều 40 Luật đấu thầu 2005
- Trình duyệt, thẩm định kết quả đấu thầu
Bên mời thầu phải lập báo cáo về kết quả đấu thầu để chủ đàu tư trình người có thẩm quyền xem xét, quyết định và gửi đến cơ quan, tổ chức có trách nhiệm thẩm định.
Cơ quan tổ chức được giao nhiệm vụ thẩm định có trách nhiệm lập báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu trên cơ sở báo cáo của chủ đầu tư để trình gười có thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Phê duyệt kết quả đấu thầu
Người có thẩm quyền chịu trách nhiệm xem xét, phê duyệt kết quả đấu thầu trên cơ sở báo cáo về kết quả đấu thầu và báo cáo thẩm định kết quả đấu thầu.
Trường hợp có nhà thầu trúng thầu thì văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu phải có các nội dung sau đây:
+ Tên nhà thầu trúng thầu;
+ Giá trúng thầu;
+ Hình thức hợp đồng;
+ Thời gian thực hiện hợp đồng;
+ Các nội dung cần lưu ý (nếu có);
Trường hợp không có nhà thầu trúng thầu, trong văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu phải nêu rõ không có nhà thầu nào trúng thầu và huỷ đấu thầu để thực hiện lụă chọn nhà thầu theo quy định của Luật đấu thầu 2005
5.5. Thông báo kết quả đấu thầu Điều 41 Luật đấu thầu 2005
Việc thông báo kết quả đấu thầu được thực hiện ngay sau khi có quyết định phê duyệt kết quả đấu thầu của người có thẩm quyền;
Trong thông báo kết quả đấu thầu không phải giải thích lý do đối với nhà thầu không trúng thầu.
5.6. Thương thảo, hoàn thiện hợp đồng và ký kết hợp đồng Điều 42 Luật đấu thầu 2005
Việc thương thảo, hoàn thiện hợp đồng để kí kết hợp đồng với nhà thầu trúng thầu phải dựa trên cơ sở sau:
- Kết quả đấu thầu được duyệt;
- Mẫu hợp đồng đã điền đầy đủ thông tin cụ thể của gói thầu;
- Các yêu cầu nêu trong hồ sơ mời thầu;
- Các nội dung nêu trong hồ sơ dự thầu và giải thích làm rõ hồ sơ dự thầu của nhà thầu trúng thầu (nếu có);
- Các nội dung cần được thương thảo, hoàn thiện hợp đồng giữa bên mời thầu và nhà thầu trúng thầu;
Nội dung chủ yếu của hợp đồng trong hoạt động xây dựng bao gồm Điều 108 Luật xây dựng 2003
:
- Nội dung công việc phải thực hiện;
- Chất lượng và các yêu cầu kỹ thuật khác của công việc;
- Thời gian và tiến độ thực hiện;
- Điều kiện nghiệm thu, bàn giao;
- Giá cả, phương thức thanh toán;
- Thời hạn bảo hành;
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
- Các thoả thuận khác theo từng loại hợp đồng;
- Ngôn ngữ sử dụng trong hợp đồng.
Điều chỉnh hợp đồng trong hoạt động xây dựng Điều 109 Luật xây dựng 2003
- Hợp đồng trong hoạt động xây dựng chỉ được điều chỉnh khi được người quyết định đầu tư cho phép trong các trường hợp sau đây;
+ Khi có sự thay đổi dự án đầu tư xây dựng công trình;
+ Khi Nhà nước thay đổi các cính sách có liên quan;
+ Các trường hợp bất khả kháng.
- Người cho phép điều chỉnh hợp dồng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình và bồi thường thiệt hại do hậu quả của việc quyết định gây ra.
Kết quả thương thảo, hoàn thiện hợp đồng là cơ sở để chủ đầu tư và nhà thầu tiến hành ký kết hợp đồng.
Trường hợp việc thương thảo, hoàn thiện hợp đồng không thành thì chủ đầu tư phải báo cáo người có thẩm quyền xem xét việc lựa chọn nhà thầu xếp hạng tiếp theo. Trường hợp các nhà thầu xếp hạng tiếp theo cũng không đáp ứng được yêu cầu thì báo cáo người có thẩm quyền xem xét, quyết định.
Kết luận chương 1:
Như vậy chương 1 đã làm rõ cơ sở lí luận về đấu thầu nói chung và đấu thầu xây lắp nói riêng, về hình thức, phương thức đấu thầu xây lắp, các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp, trình tự thực hiện đấu thầu xây lắp. Trong đó:
1. Đấu thầu chính là quá trình lựa chọn nhà thầu đáp ứng được các yêu cầu của bên mời thầu hoặc yêu cầu của chủ dự án trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà thầu.
Đấu thầu có các đặc điểm:
+ Thứ nhất: Đấu thầu là một quá trình có sự tham gia của nhiều chủ thể.
+ Thứ hai: Đấu thầu là một quy trình gồm nhiều giai đoạn được qyu định chặt chẽ
+ Thứ ba: Mục đích của quá trình đấu thầu là tìm được nhà thầu tốt nhất thực hiện dự án
2. Pháp luật về đấu thầu xây lắp là tổng hợp các Quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ hình thành trong hoạt động đấu thầu xây lắp của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động đấu thầu xây lắp..
3. Các nguyên tắc cơ bản trong đấu thầu xây lắp bao gồm: Nguyên tắc cạnh tranh với điều kiện ngang nhau; nguyên tắc thông tin đầy đủ, công khai; nguyên tắc bảo mật thông tin đấu thầu; nguyên tắc đánh giá khách quan, công bằng; nguyên tắc bảo đảm dự thầu.
4. Trình tự đấu thầu xây lắp:
Bước 1: Chuẩn bị đấu thầu
Bước 2: Tổ chức đấu thầu
Bước 3: Đánh giá hồ sơ dự thầu
Bước 4: Thẩm định và phê duyệt kết quả đấu thầu
Bước 5: Thông báo kết quả đấu thầu
Bước 6: Thương thảo hoàn thiện hợp đồng và ký kết hợp đồng
Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP TẠI TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ
I. TỔNG QUAN VỀ TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ
1.Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
1.1. Quá trình hình thành của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
- Tổng công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị t._. thế giới, các doanh nghiệp Việt nam đang trong quá trình vừa thực hiện vừa rút kinh nghiệm và học hỏi, do đó việc cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài là một vấn đề đầy khó khăn. Bên cạnh đó, hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh lĩnh vực quản lí đầu tư và xây dựng, lĩnh vực đấu thầu vẫn chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ, còn nhiều hạn chế làm cho phương thức đấu thầu chưa phát huy được hét ưu điểm của nó. Điều này gây khó khăn cho các nhà thầu trong nước khi tham gia công tác đấu thầu.
- Thứ hai, là doanh nghiệp với những sản phẩm mặt hàng truyền thống là đầu tư, xây lắp, sản xuất vật liệu xây dựng nên bị ảnh hưởng rất nhiều của các yếu tố khách quan của thị trường.
Trong những năm qua, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Giá một số mặt hàng chủ yếu trên thế giới tăng đột biến dẫn tới giá nguyên nhiên vật liệu (xăng,dầu..), điện, thép, các vật liệu xây dựng…trong nước liên tục tăng đồng thời với các loại dịch bệnh hiện tại nảy sinh đã tác động không thuận lợi tới đến kinh tế, xã hội của cả nước và Thủ đô. Mặt khác việc chậm ban hành các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện Luật Xây Dựng, Luật Đất Đai dẫn đến việc thực hiện các dự án đầu tư gặp nhiều khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, thị trường bất động sản đóng băng đã tác động không nhỏ đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
- Thứ ba, khó khăn về trình độ chuyên môn nghiệp vụ cán bộ quản lý và công nhân
Lực lượng cán bộ quản lí các phòng ban, xí nghiệp còn yếu, thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý, tham mưu, điều hành sản xuất trước các yêu cầu ngày càng cao cả về chất và lượng trong công việc
Lực lượng công nhân tay nghề kỹ thuật cao còn thiếu, đặc biệt là công nhân xây dựng do khâu đào tạo tại các trường công nhân kỹ thuật thiên lệch về một số nghề khác theo yêu cầu của học viên (như sắt, hàn, điện, nước, vận hành nhà máy..) Chính vì vậy công tác sản xuất kinh doanh còn bị động do thiếu thợ trong khi phải sử dụng lực lượng không nhỏ là lao động thời vụ còn thiếu hiểu biết về chuyên môn và chưa gắn bó với doanh nghiệp
Ngoài ra Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị còn vấp phải một số khó khăn như:
- Nợ đọng vốn của các Chủ đầu tư quá dài làm tăng thêm chi phí đầu vào do lãi vay và làm giảm lãi công trình, thậm trí có những công trình bị lỗ
- Nhà nước quy định việc phân chia lợi nhuận sau thuế với doanh nghiệp Nhà nước còn chưa thực sự khuyến khích doanh nghiệp nói chung và cán bộ công nhân viên nói riêng.
III. KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU THẦU XÂY LẮP TẠI TỔNG CÔNG TY ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN HẠ TẦNG ĐÔ THỊ
1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đấu thầu xây lắp
Thứ nhất, nội dung liên quan cần thống nhất trong quy định của Nghị định số 58/2008/NĐ-CP, hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và Luật Xây dựng và Nghị định số 112/2006/NĐ-CP Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình.
Các gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định đầu tư:
- Theo quy định của Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006, tại khoản 1 Điều 1 “Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thì Chủ đầu tư xây dựng công trình do người quyết định đầu tư quyết định trước khi lập dự án đầu tư xây dựng công trình phù hợp với quy định của Luật Ngân sách Nhà nước …”.
Do dự án và các công việc phục vụ cho công tác lập dự án (đo đạc, khảo sát địa hình, khảo sát địa chất ….) là các gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định đầu tư, theo quy định tại mục a khoản 2 Điều 15 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP: “Trường hợp gói thầu cần thực hiện trước khi có quyết định đầu tư thì tổ chức được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án căn cứ các văn bản liên quan để lập hồ sơ mời thầu trình người đứng đầu cơ quan chuẩn bị dự án phê duyệt”.
Đề nghị có thống nhất quy định tổ chức được giao nhiệm vụ chuẩn bị dự án là cơ quan được giao nhiệm vụ Chủ đầu tư.
Thứ hai, cần có quy định rõ ràng về việc phân chia các dự án thành các gói thầu
Quy định cụ thể về phương pháp phân chia dự án thành các gói thầu nhằm thực hiện thống nhất tránh tình trạng vận dụng một cách tuỳ tiện chia nhỏ các gói thầu để không phải đấu thầu. Gói thầu cần được phân chia theo quy mô hợp lý và bảo đảm tính đồng bộ của dự án. Việc phân chia dự án thành những gói thầu phải được xây dựng ngay sau khi thiết kế để vừa đảm bảo chất lượng công trình, vừa đảm bảo tính khách quan trong việc phân chia.
Thứ ba, cần qui định rõ người quyết định đầu tư, chủ đầu tư và Ban quản lý trong dự án đầu tư sử dụng vốn nhà nước
Theo Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu thì có rất nhiều qui định Chủ đầu tư phải trình người quyết định đầu tư. Vì vậy người quyết định đầu tư và chủ đầu tư không thể là “một người”, “một cấp” do đó vấn đề đặt ra là:
- Bộ có thể vừa là người quyết định đầu tư lại là chủ đầu tư dự án hay không? (Như nhiều người nói vụ PMU18 thì Bộ Giao thông - Vận tải là chủ đầu tư có đúng không?). Nếu theo Khoản 9 Điều 4 Luật Đấu thầu, Khoản 21 Điều 3 Luật Xây dựng thì “chủ đầu tư là người sở hữu vốn hoặc được giao trách nhiệm thay mặt chủ sở hữu”. Rõ ràng ở đây Ngân sách nhà nước hoặc vốn ODA đã được giao, phân bổ trực tiếp cho Bộ Giao thông vận tải “sở hữu”, “sử dụng” để xây dựng công trình nhưng người “trực tiếp tiêu tiền” lại là PMU.
- Vì vậy có ý kiến cho rằng cần định nghĩa lại và xác định chủ đầu tư (sử dụng vốn Nhà nước) phải là người được Nhà nước giao vốn để xây dựng dự án nhưng phải là người trực tiếp quản lý, sử dụng khai thác dự án còn nếu năng lực không đủ thì đã có quy định trong pháp luật là thuê tư vấn quản lý dự án rồi? Lúc đó Bộ là “người” quyết định, “người có thẩm quyền”.
- Về Ban Quản lý dự án. Theo Luật Xây dựng thì trong trường hợp Chủ đầu tư trực tiếp quản lý dự án thì chủ đầu tư “có thể thành lập Ban Quản lý dự án, Ban Quản lý dự án chịu trách nhiệm trước pháp luật và chủ đầu tư theo nhiệm vụ quyền hạn được giao”.
Cụ thể tại Điều 12 Nghị định 112/2006/NĐ-CP quy định:
Điều 12. Sửa đổi, bổ sung Điều 36 Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình như sau:
"Điều 36. Nhiệm vụ, quyền hạn của chủ đầu tư và Ban quản lý dự án trong trường hợp chủ đầu tư thành lập Ban quản lý dự án
1. Chủ đầu tư thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kể từ giai đoạn chuẩn bị dự án, thực hiện dự án đến khi nghiệm thu bàn giao đưa công trình vào khai thác sử dụng đảm bảo tính hiệu quả, tính khả thi của dự án và tuân thủ các quy định của pháp luật. Chủ đầu tư có trách nhiệm thành lập Ban quản lý dự án để giúp chủ đầu tư quản lý thực hiện dự án. Việc giao nhiệm vụ và uỷ quyền cho Ban quản lý dự án phải được thể hiện trong quyết định thành lập Ban quản lý dự án. Chủ đầu tư có trách nhiệm chỉ đạo, kiểm tra và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban quản lý dự án.
2. Ban quản lý dự án thực hiện nhiệm vụ do chủ đầu tư giao và quyền hạn do chủ đầu tư uỷ quyền. Ban quản lý dự án chịu trách nhiệm trước chủ đầu tư và pháp luật theo nhiệm vụ được giao và quyền hạn được uỷ quyền."
Do đó có ý kiến cho rằng đã tách được “Chủ đầu tư” như nêu ở trên (không phải là Bộ, Uỷ ban nhân d ân) nếu trực tiếp quản lý dự án thì chính chủ đầu tư cử người của mình ra làm Ban Quản lý dự án vấn đề chỉ là phân công một số cán bộ của cơ quan chủ đầu tư chuyên làm Ban quản lý dự án lúc này được trực tiếp điều hành dự án mà chính họ là chủ đầu tư, nhất là lại có câu “chủ đầu tư có thể ủy quyền cho Ban Quản lý dự án một phần hoặc toàn bộ các nhiệm vụ quyền hạn của mình” thế thì hai là một rồi còn gì phải tách ra nữa.
Còn trường hợp không đủ điều kiện trực tiếp quản lý dự án thì phải thuê các tổ chức tư vấn quản lý dự án hay nói cách khác các tổ chức tư vấn này chính là các ban quản lý dự án. Lúc này thì rất rõ ràng chủ đầu tư chỉ thuê một số công việc thông qua các hợp đồng kinh tế mà mình không có năng lực quản lý dự án mà thôi.
Thứ tư, vấn đề tuyển chọn tư vấn xây dựng công trình cần có sự điều chỉnh kịp thời
Vấn đề tuyển chọn tư vấn xây dựng công trình dựa vào cạnh tranh giá như hiện nay đã gây ra nhiều lo ngại. Tại Hội thảo “Tuyển chọn và sử dụng tư vấn trong ngành xây dựng giao thông” do Hội Cầu đường Việt Nam vừa tổ chức hôm 20/7/2007 các ý kiến đã đi đến thống nhất cần có các kiến nghị với Nhà nước xung quanh các chính sách về tuyển chọn tư vấn.
Phương thức tuyển chọn tư vấn phù hợp với thực tế Việt Nam hiện nay là cần nhanh chóng tiếp cận với thông lệ quốc tế. Cơ chế chỉ định thầu tư vấn chỉ nên áp dụng đối với những công việc, giai đoạn chưa có định lượng (như lập đồ án quy hoạch, báo cáo đầu tư). Với những giai đoạn, công việc đã cụ thể, đã định lượng (dự án đầu tư, thiết kế kĩ thuật, giám sát...) nên áp dụng đấu thầu để phát huy tính cạnh tranh, xác định chi phí khách quan, không bị rào cản của tỉ lệ chi phí tư vấn, tạo điều kiện cho các tư vấn tự đổi mới vươn lên.
Cần xây dựng bảng phân cấp hạng công trình xây dựng giao thông. Trong đó cấp đặc biệt gồm các dự án có quy mô lớn, có yêu cầu kĩ thuật cao áp dụng đấu thầu hạn chế. Những tư vấn lớn, đáp ứng được các yêu cầu nhất định về vốn, nhân lực, kinh nghiệm sẽ được đưa vào danh sách ngắn để lựa chọn tư vấn dựa trên cơ sở chất lượng dịch vụ và thương thảo giá.
Những dự án có quy mô vừa và nhỏ, áp dụng phương pháp kết hợp giữa chất lượng và giá.
Theo phương pháp lựa chọn này, Nghị định số 58/2008/NĐ-CP ngày 05/5/2008 của Chính phủ đề nghị cần được sửa đổi triệt để để có thể lựa chọn tư vấn dựa vào yếu tố năng lực kĩ thuật là chính. Đồng thời phải ban hành gấp rút mẫu hồ sơ mời thầu mới và quy định đơn giản hoá thủ tục tham dự thầu. Mức chi phí tư vấn lập dự án hiện nay thấp.
Đây là nguyên nhân chính làm giảm tính hấp dẫn của đấu thầu và không tạo được lực lượng tư vấn có chất lượng cao. Vì vậy quy định tư vấn lập dự án không được tham gia thiết kế kĩ thuật là chưa phù hợp trong điều kiện hiện nay; Cần sớm quy định lại tỉ lệ chi phí để đảm bảo lựa chọn được tư vấn có chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu về thời gian cũng như chất lượng lập hồ sơ dự án.
Việc tổ chức đấu thầu tư vấn cũng có nhiều nội dung cần điều chỉnh. Trong đó, trình tự thực hiện đề nghị theo đúng trình tự của các dự án ODA. Tư vấn lập báo cáo đầu tư xác định nhiệm vụ, chi phí lập dự án đầu tư. Tư vấn lập dự án đầu tư xác định nhiệm vụ, chi phí thiết kế kĩ thuật và tư vấn giám sát, để đấu thầu.
Tiêu chuẩn đánh giá, đối với thang điểm kinh nghiệm, đề nghị đánh giá chủ yếu dựa trên kinh nghiệm và lịch sử cá nhân kĩ sư tư vấn, kinh nghiệm của tổ chức là thứ yếu. Tiêu chuẩn đánh giá tổng hợp kiến nghị áp dụng như các dự án ODA, cách đánh giá theo điểm tổng hợp chỉ nên áp dụng cho các công trình giản đơn, kết cấu phổ biến.
Mạnh dạn áp dụng đấu thầu quốc tế đối với các dự án lớn để chuyển giao công nghệ. Đây cũng là biện pháp buộc các tư vấn trong nước phải tự mình hoàn thiện, nâng cao tính chuyên nghiệp. Sớm tiến tới quản lý các loại chi phí tư vấn theo thông lệ quốc tế, trước mắt đề nghị điều chỉnh ngay tỉ lệ chi phí cho tư vấn giám sát.
Thứ năm, cần có cơ chế điều chỉnh giá vật liệu trong xây dựng
Vật liệu xây dựng tăng giá chóng mặt, có những mặt hàng tăng gần gấp 3 lần khiến nhiều nhà thầu thực hiện các dự án xây dựng có nguy cơ phá sản vì ký hợp đồng trọn gói không được điều chỉnh giá.
Ngay cả các hợp đồng có điều khoản điều chỉnh giá, nhà thầu cũng vừa làm vừa run vì chẳng biết có được thanh toán không, do các cơ chế quản lý vẫn siết chặt?
Tiến sĩ Nguyễn Dương Cận-Viện trưởng Viện Kinh tế xây dựng đưa ra những con số so sánh: Năm 2007 so với năm 2006 thì tốc độ vật liệu tăng đáng kể: Thép tăng 25,75, gạch chỉ tăng 22,8%, cát tăng 18,9%, nhựa đường tăng 17,5%. Nếu so với năm 2000, riêng thép đã tăng 2,25 lần.
Đầu 2008, vật liệu xây dựng tiếp tục phi mã: Thép tăng từ 12.000 lên 20.000 đồng/kg, ximăng tăng 40%, gạch tăng gần gấp 3 lần đặc biệt đợt điều chỉnh giá xăng dầu đã khiến các loại vật liệu xây dựng tăng kéo theo thêm 3-5%. Chính sự tăng giá đồng loạt và đột biến tất cả các loại vật liệu xây dựng cuối năm 2007 đầu 2008 đã khiến các nhà thầu bỏ công trình, chạy... lỗ. Nhà thầu không ai có thể lường trước biến động giá cả với biên độ lớn như vậy nên dù có tính toán hệ số trượt giá cũng không ăn thua. Vì thế để giảm lỗ, họ đành lấy từ chất lượng như thay đổi chủng loại vật liệu rẻ tiền hơn, giảm bớt vật liệu... Đây là những cách làm vi phạm quy trình xây dựng và tiềm ẩn nguy cơ kém chất lượng, xuống cấp nhanh công trình.
Có một thực tế là, đơn giá vật liệu do Liên sở Tài chính - Xây dựng ban hành theo từng quý như hiện nay chưa bảo đảm phù hợp với thị trường (thông thường chậm hơn giá thị trường từ 2 - 3 tháng) nên dự toán căn cứ vào đơn giá này thường thấp hơn thực tiễn khi thực hiện đấu thầu. Hệ quả của những hạn chế trên không chỉ ảnh hưởng đến kết quả của việc đấu thầu mà còn ảnh hưởng cả đến hiệu quả quản lý sau đấu thầu. Sản phẩm của quá trình đấu thầu cuối cùng là hợp đồng ký kết giữa chủ đầu tư và nhà thầu trúng thầu. Nhưng trong bối cảnh giá cả leo thang như vậy, việc quản lý hợp đồng không được quan tâm đúng mức sẽ làm mất hết ý nghĩa của việc đấu thầu, tạo khe hở cho các bên liên quan “lách luật”.
Với các công trình được điều chỉnh giá nhà thầu, hoặc chỉ định thầu, nhà thầu cũng vừa làm vừa run. Ông Nguyễn Trần Phương - Phó Tổng giám đốc Vinaconex giãi bày: Theo quy định hiện nay, giá vật liệu do sở xây dựng địa phương thông báo. Tuy nhiên nhiều địa phương sợ tổng mức đầu tư của các dự án có vốn ngân sách đội lên nên không thông báo giá kịp thời theo thị trường. Trong khi đó các dự án thuộc vốn trung ương tại địa bàn thì phải được cập nhật giá cả.
Hiện tất cả các loại vật liệu đều tăng giá, chủ đầu tư cũng thông cảm và biết điều đó nên nhiều chủ đầu tư chấp thuận cho nhà thầu tạm thanh toán vật liệu theo 70% trị giá hoá đơn đỏ.
Song các nhà thầu rất lo nếu sau này không được bộ phận quyết toán chấp nhận thì chỉ còn nước bỏ tiền nhà ra đền. Trong khi công trình đang cần tiến độ chủ đầu tư có thể thông cảm giúp nhà thầu nhưng nếu về lâu dài không được hợp pháp hóa bằng những quy định cụ thể thì cả nhà thầu lẫn chủ đầu tư cũng khó lòng bảo vệ được mình khi thanh toán. Đây cũng là nguy cơ phá sản treo lơ lửng trên đầu các nhà thầu.
Ý kiến của nhiều nhà thầu nêu tại hội thảo cho thấy: Việc trượt giá vật liệu xây dựng vẫn sẽ diễn ra chỉ có điều không theo một quy luật nhất định. Nếu vật liệu xây dựng tăng lại đề nghị Chính phủ cho phép điều chỉnh thì quả là nhiêu khê. Vì vậy cần phải có một cơ chế áp dụng linh hoạt cho trường hợp này.
Kỹ sư Phạm Quang Dũng - Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Nam Định đề xuất nên có mục trượt giá trong hợp đồng để nhà thầu và chủ đầu tư có thể thương thảo trong trường hợp biến động giá cụ thể. Ngoài ra chủ đầu tư cũng phải ứng vốn để nhà thầu dự trữ vật liệu xây dựng chống tình trạng bị tăng giá.
Một số nhà thầu cũng cho rằng cần phải sửa quy định chỉ trúng thầu khi bỏ giá thấp hơn giá mời thầu vì khi tính toán công trình theo dự toán là đã áp dụng các định mức rất sát song nếu nhà thầu bỏ giá cao hơn giá dự toán thì bị loại.
Đây khác nào "vòng kim cô". Vì dự án đã tính theo định mức thì khả năng giảm thấp hơn là phi lý, nhà thầu chỉ còn nước rút từ các chi phí khác. Đặc biệt với các dự án được xây dựng từ vài năm trước thì hiện giá vật liệu tăng gấp vài lần, nhà thầu đương nhiên chịu lỗ. Vì thế các nhà thầu đề nghị có thể cho bỏ giá cao hơn giá mời thầu.
Trước thực trạng vật liệu xây dựng tăng giá quá cao, Bộ Xây dựng đã trình Chính phủ cho phép các dự án ký hợp đồng trọn gói được điều chỉnh giá. Đây cũng là một động thái kịp thời để cứu nhà thầu, song tiến sĩ Đặng Huy Đông - Vụ trưởng Vụ Quản lý đấu thầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho rằng việc cho phép điều chỉnh giá các dự án trọn gói chỉ là giải pháp tình thế.
Về lâu dài các nhà thầu cần biết tự cứu mình, phải tính toán kỹ lưỡng khi nhận thầu để tuân thủ hợp đồng. Họ cũng phải sòng phẳng chấp nhận lời ăn lỗ chịu. Mặt khác các cơ quan quản lý cũng cần học hỏi kinh nghiệm các nước để áp dụng theo thông lệ quốc tế trong hợp đồng xây lắp, không nên cho rằng Việt Nam có đặc thù kinh tế khác người, có như vậy mới giúp đất nước hội nhập quốc tế.
Ngoài ra để nâng cao hiệu quả của công tác đấu thầu một trong những giải pháp hàng đầu là cần hoàn chỉnh hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu . Việc đã và sẽ ban hành hàng loạt các mẫu hồ sơ mời thầu; sử dụng các công cụ thông tin hiện đại phục vụ quản lý Nhà nước về đấu thầu; sửa đổi các quy định về đấu thầu sát với thực tế... sẽ là những giải pháp hữu hiệu để các nhà quản lý, nhà thầu và các bên liên quan yên tâm hơn trong thực thi các chính sách, đẩy nhanh tiến độ các dự án, tốc độ giải ngân cao trong thực hiện các quy định của pháp luật
Ngoài ra Nghị định số 58/2008/NĐ-CP cần quy định chi tiết một số nội dung sau:
1. Về chỉ định thầu:
Tại mục b khoản 2 Điều 41 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP, hướng dẫn: “Chủ đầu tư chịu trách nhiệm phê duyệt hồ sơ yêu cầu theo quy định tại khoản 2 Điều 2 Nghị định này để bên mời thầu gởi cho nhà thầu được đề nghị chỉ định thầu chuẩn bị hồ sơ đề xuất”
Tại mục a khoản 5 Điều 41 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP, hướng dẫn: “Trên cơ sở báo cáo kết quả chỉ định thầu, báo cáo thẩm định, người quyết định đầu tư phê duyệt hoặc ủy quyền phê duyệt kết quả chỉ định thầu đối với gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu từ 500 triệu đồng trở lên … Chủ đầu tư phê duyệt kết quả chỉ định thầu gói thầu dịch vụ tư vấn có giá gói thầu dưới 500 triệu đồng, gói thầu mua sắm hàng hóa, xây lắp có giá gói thầu dưới 1 tỷ đồng đối với các gói thầu thuộc dự án quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 1 của Luật Đấu thầu”.
Nhằm tạo thuận lợi cho việc thẩm định và phê duyệt kết quả chỉ định thầu của Chủ đầu tư, đề nghị có quy định cụ thể đối với các gói thầu do người quyết định đầu tư ủy quyền Chủ đầu tư phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu và các gói thầu do Chủ đầu tư phê duyệt kết quả chỉ định thầu.
Trong các trường hợp kể trên, Chủ đầu tư chịu trách nhiệm quy định đơn vị thẩm định hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu (đối với chỉ định thầu) và thẩm định kết quả lựa chọn nhà thầu hoặc chỉ định thầu. Đơn vị thẩm định là bộ phận nghiệp vụ trực thuộc cơ quan Chủ đầu tư hoặc thuê tư vấn để thẩm định (đề nghị bổ sung khoản 6 Điều 59 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP về cơ quan tổ chức thẩm định).
2. Chào hàng cạnh tranh trong mua sắm hàng hóa:
Tại khoản 1 Điều 43 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP, quy định “Chủ đầu tư phê duyệt hồ sơ yêu cầu chào hàng …”, tại mục a khoản 4 Điều 43, quy định: “Trên cơ sở báo cáo kết quả chào hàng do bên mời thầu trình, báo cáo thẩm định, người quyết định đầu tư phê duyệt kết quả chào hàng đối với gói thầu có giá gói thầu từ 1 tỷ đồng trở lên; Chủ đầu tư phê duyệt kết quả chào hàng đối với gói thầu có giá gói thầu dưới 1 tỷ đồng”. Đề nghị về cơ quan, tổ chức thẩm định thực hiện như đề nghị bổ sung khoản 6 Điều 59 Nghị định số 58/2008/NĐ-CP kể trên, đối với các gói thầu ủy quyền Chủ đầu tư phê duyệt hoặc do Chủ đầu tư phê duyệt kết quả chào hàng.
2. Những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp tại Tổng công ty Đầu tư và phát triển hạ tầng đô thị
Thứ nhất, cần thiết lập quan hệ gắn bó với khách hàng và thị trường, chú trọng mở rộng quan hệ với các đối tác trong và ngoài nước trên mọi lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng Công ty.
Tăng cường hơn nữa trình độ chuyên môn hoá trong công việc đồng thời tạo sự liên kết linh hoạt, chặt chẽ giữa công ty với các đơn vị trực thuộc
Thứ hai, triển khai đồng bộ có hệ thống công tác đào tạo, tạo điều kiện tốt nhất cho cán bộ công nhân viên không ngừng học tập, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tuyển dụng lao động đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh: Đủ về số lượng - Giỏi về chuyên môn - Khoa học về tổ chức - Chuyên nghiệp về phong cách
Thứ ba, tăng cường đầu tư vào máy móc, thiết bị để nâng cao năng lực thi công. Tiếp cận, áp dụng kịp thời, có hiệu quả các tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới trong mọi hoạt động của Tổng Công ty, chú trọng đầu tư chiều sâu và cải thiện môi trường làm việc của người lao động. Thực hiện đổi mới không ngừng hoạt động quản lý, đưa việc áp dụng có hiệu quả hệ thống quản lý chất lượng quốc tế, tiên tiến (ISO 9001:2000, ISO 14000, TQM...) trở thành bản thân quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng nền văn hóa chất lượng của Tổng Công ty.
Thứ tư, thay đổi cơ cấu chi phí nhằm hạ giá thành xây lắp để có giá dự thầu hợp lý tăng khả năng cạnh tranh của Tổng Công ty.
Trong quá trình dự thầu, giá dự thầu là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến khả năng thắng thầu của một doanh nghiệp. Để cạnh tranh về giá thầu Tổng Công ty buộc phải cắt giảm các khoản chi phí để giảm giá dự thầu, lựa chọn giá dự thầu linh hoạt, đảm bảo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên và doanh thu có lãi. Để làm được điều này Tổng Công ty cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Giảm chi phí gián tiếp cho bộ máy quản lý doanh nghiệp bằng các hình thức sắp xếp lại bộ máy quản lý gọn nhẹ hơn, năng động hơn tránh tình trạng trì trệ.
- Nâng cao năng suất của người lao động. Có thể thực hiện điều này bằng cách: Có chế độ khen thưởng phù hợp, khuyến khích người lao động nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật mới để ứng dụng trong thực tế sản xuất, giảm sức lao động chân tay.
- Giảm chi phí nguyên vật liệu thừa bằng cách giảm phế phẩm, phế liệu
- Nâng cao năng suất thiết bị bằng cách sử dụng tiết kiệm nhiên liệu. Khuyến khích sử dụng tiết kiệm, thường xuyên bảo dưỡng kiểm tra máy móc theo định kì.
Thứ năm, đẩy mạnh các hoạt động tạo và thu hồi vốn đầu tư
Vốn trong kinh doanh là một yếu tố rất quan trọng đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng. Thực tế đang tồn tại một “vòng luẩn quẩn” về tình trạng nợ tồn đọng trong xây dựng cơ bản: Chủ đầu tư nợ các nhà thầu, nhà thầu nợ Ngân hàng, nợ các đơn vị cung ứng vật tư, nợ thuế Nhà nước, nợ tiền lương công nhân, nhà thầu chính nợ nhà thầu phụ, các đơn vị chiếm dụng vốn lẫn nhau... Theo thống kê của Hiệp hội nhà thầu Việt Nam, số nợ tồn đọng trong xây dựng cơ bản của cả nước tính đến thời điểm 31/12/2004 là trên 14.000 tỷ đồng. Con số khổng lồ này cho thấy tình trạng nợ tồn đọng trong xây dựng cơ bản không những gây tổn thất nặng nề cho doanh nghiệp thi công mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến Ngân hàng đầu tư cho vay đối với các doanh nghiệp đó. Và trong số 14.000 tỷ đồng kia, chắc chắn tỷ lệ nợ tồn đọng tại các Ngân hàng trong cho vay xây dựng cơ bản là không nhỏ. Nguyên nhân của vấn đề này là gì?
Có thể nói, nguyên nhân cơ bản nhất gây ra tình trạng nợ đọng triền miên trong xây dựng cơ bản là do vốn xây dựng cơ bản từ ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp trong khi các dự án đầu tư được trình duyệt thì rất nhiều. Đôi khi, chủ đầu tư làm liều vì một sức ép nào đó sau đó chạy đôn chạy đáo để được cấp vốn thanh toán. Nguyên nhân thứ hai là sự lãng phí, thất thoát xảy ra ở hầu hết các khâu của quá trình đầu tư xây dựng do năng lực quản lý. Chất lượng hạn chế trong quản lý do đạo đức sa sút, yếu kém, ý thức chấp hành pháp luật không nghiêm, không tuân thủ các quy định về quản lý đầu tư và xây dựng như: không tuân thủ các trình tự, thủ tục quy định; không tuân thủ Quy chế đấu thầu... Trong đó lý do đạo đức nghề nghiệp là nguy hiểm và phổ biến hơn cả. Do đó, khoản nợ đọng này được xử lý khoản khác lại phát sinh theo kiểu “con chị đi, con dì lại lớn”. Không thể có một giải pháp duy nhất nào giải quyết một cách hữu hiệu tình trạng nợ tồn đọng triền miên trong xây dựng cơ bản, mà phải áp dụng đồng bộ có hệ thống các biện pháp của các ngành các cấp liên quan.
Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị là một công ty lớn trong lĩnh vực đầu tư xây dựng với năng lực tài chính vững mạnh. Tuy nhiên, hiện nay Công ty đang trực tiếp thi công nhiều công trình nên nhu cầu về vốn lưu động là rất lớn. Mặt khác, một số công trình đã thực hiện và bàn giao cho chủ đầu tư nhưng chưa được thanh toán gây nên tình trạng ứ đọng vốn làm cản trở việc thi công các công trình khác.
Do đó Tổng Công ty cần thực hiện một số biên pháp sau nhằm tăng khả năng thu hồi vốn:
- Mở rộng hoạt động đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng công trình, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận
- Thi công dứt điểm từng hạng mục công trình tránh tình trạng kéo dài ứ đọng vốn, không quyết toán được
- Tăng cường mở rộng và tạo mối quan hệ với các tổ chức tín dụng, các Ngân hàng nhằm khai thác tối đa khả năng thu hồi vốn.
- Duy trì, tạo lập mối quan hệ với các nhà cung cấp nguyên, nhiên vật liệu để có được điều kiện thanh toán thuận lợi nhất phù hợp với tiến độ thi công
Kết luận chương 3:
Có thể thấy rằng pháp luật về đấu thầu ở nước ta, đặc biệt là đấu thầu trong xây dựng mới chỉ xuất hiện trong khoảng hai chục năm gần đây. Trải qua các biến động của tình hình kinh tế- xã hội trong nước và thế giới, hệ thống pháp luật về đấu thầu đã từng bước hoàn thiện, đạt được một số kết quả nhất định, bước đầu đã tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đấu thầu và từng bước hội nhập, phát triển cho phù hợp với tình hình thực tế và các thông lệ quốc tế về đấu thầu. Đây cũng chính là lý do khiến cho đội ngũ các nhà thầu Việt Nam cũng như đội ngũ các chuyên gia liên quan tới đấu thầu còn ít nhiều thiếu kinh nghiệm thực tiễn dẫn tới hậu quả việc thực thi các quy định của pháp luật còn lỏng lẻo, một số trường hợp cố tình thực hiện trái quy định nhằm phục vụ cho mục đích riêng. Các nhà làm luật chưa đề phòng hết những thay đổi của nền kinh tế thị trường khiến cho một số quy định của pháp luật về đấu thầu bộc lộ một số hạn chế, tạo khe hở cho một số ít các chủ đầu tư và nhà thầu “lách luật”, làm trái các quy định, khiến cho nhiều cuộc đấu thầu mất đi mục tiêu của nó, có công trình xây dựng không đảm bảo, các dự án không hiệu quả.
Thông qua việc đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về đấu thầu xây lắp, trên cơ sở đó trong phạm vi chương 3 có đưa ra những kiến nghị cần sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu thầu, tạo hành lang pháp lý cho hoạt động đấu thầu trong xây dựng có chuyển biến tích cực trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Đấu thầu là phạm trù chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường, nơi có sự cạnh tranh gay gắt giũa các nhà thầu. Cơ chế kinh tế thị trường đã thấm sâu vào đời sống kinh tế xã hội Việt Nam. Đến nay sau khi có Luật Doanh nghiệp ra đời đã có gần 150.000 doanh nghiệp mới được cấp giấy phép kinh doanh trong đó hầu hết là thành phần kinh tế tư nhân. Kể từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, hàng năm có hàng tỉ đô la được các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và quá trình hỗ trợ phát triển chính thức từ các tổ chức từ các tổ chức đa phương và song phương… Công tác đấu thầu đã góp phần quan trọng trong các thành tựu. Một trong các dấu hiệu quan trọng nhất của cơ chế thị trường là sự cạnh tranh tự do trong môi trường bình đẳng và minh bạch. Cạnh tranh công bằng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác sự cạnh tranh giữa các nhà thầu sẽ tạo thuận lợi cho bên mời thầu (chủ đầu tư) lựa chọn được hàng hoá và dịch vụ hợp nhất với yêu cầu của mình và với giá cả thấp nhất. Thực tế công tác đấu thầu trong những năm qua cho thấy mặc dù các quy định về đầu tư và đấu thầu chưa mang tính luật hoá cao, song cũng có tác dụng thúc đẩy quá trình lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Tuy nhiên việc thực hiện ở các nơi đều mang nặng tính hình thức, hiện tượng vi phạm còn nhiều.
Đấu thầu trong xây dựng là một hoạt động rất quan trọng và có ý nghĩa. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nhu cầu đầu tư vào xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng đô thị được mở ra với quy mô ngày càng lớn. Đây là cơ hội và cũng là thách thức để các doanh nghiệp xây dựng tự đánh giá và khẳng định mình.
Trong thời gian thực tập tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị tôi đã hoàn thành bài viết “Pháp luật về đấu thầu xây lắp và thực tiễn áp dụng tại Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị”. Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy Th.S Nguyễn Hữu Mạnh, Th.S Đỗ Kim Hoàng đã tận tình chỉ dẫn, Phó Tổng Giám Đốc Trần Minh Quý, các thầy, các cô trong Khoa luật, trường ĐH KTQD; các cán bộ trong Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị đã giúp tôi hoàn thành bài viết này. Do kiến thức có hạn, bài viết không tránh khỏi những sai sót, kính mong thầy cô góp ý để bài viết hoàn chỉnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Văn bản pháp luật:
Luật đấu thầu 2005
Luật xây dựng 2003
Nghị định số 58/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 05 tháng 5 năm 2008 hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng.
Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29/09/2006 hướng dẫn thi hành Luật Đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng
Nghị định số 112/2006/NĐ-CP, ngày 29 tháng 9 năm 2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trìnhx
Nghị định số 17/2003/NĐ-CP ngày 30/01/2003 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế quản lý Đầu tư và xây dựng ban hành kèm theo Nghị định số 52/1999/NĐ-CP và Nghị định số 12/2000/NĐ-CP
Nghị định số 14/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 88/1999/NĐ-CP.
Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 về ban hành Quy chế quản lý Đầu tư và xây dựng
Nghị định số 88/1999/NĐ-CP ngày 1/9/1999 ban hành Quy chế đấu thầu.
Nghị định số 43/1996/NĐ-CP ngày 16/07/1996 về ban hành Quy chế đấu thầu.
Thông tư 04/2000/TT-BKH ngày 26/5/2000 hướng dẫn thực hiện Quy chế đấu thầu.
Thông tư 16/2000/TT-BXD ngày 11/12/2000 hướng dẫn việc quản lý xây dựng đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài và quản lý các nhà thầu nước ngoài vào nhận thầu xây dựng và tư vấn xây dựng công trình tại Việt Nam
II. Giáo trình và sách tham khảo
Giáo trình Luật thương mại_ Khoa Luật ĐH Quốc Gia Hà Nội- NXB ĐH Quốc Gia Hà Nội năm 2002
Từ điển Tiếng việt phổ thông, (2002), Viện Ngôn ngữ học, NXB Hồ Chí Minh
Vĩnh Tịnh, (2006), Từ điển Tiếng việt, NXB Lao Động
III. Tài liệu khác
Báo cáo tổng kết năm 2006_2007 của Tổng Công ty Đầu tư phát triển hạ tầng đô thị
Một số chuyên đề, luận văn
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7500.doc