LỜI MỞ ĐẦU
S
au gần 20 năm thực hiện các chính sách đổi mới đất nước, có thể thấy, bộ mặt nước ta đang thay đổi từng ngày, từng giờ. Điều này chứng tỏ sự đúng đắn trong các đường lối, chính sách của nhà nước ta. Trong đó, việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp đổi mới doanh nghiệp Nhà nước là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách kinh tế. Vấn đề cổ phần hoá cũng như đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá của các doanh nghiệp Nhà nước là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình h
96 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1377 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Pháp luật về cổ phần hoá Ngân hàng Thương mại Nhà nước tại VN hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ội nhập và thực hiện mục tiêu cải cách kinh tế.
Vấn đề cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước đặt ra trong giai đoạn này là phù hợp với tiến trình đổi mới hoạt động ngân hàng để hội nhập kinh tế quốc tế. Việc xác định mục tiêu cổ phần hoá, điều kiện cần và đủ để giải quyết những vấn đề trong quá trình cổ phần hoá và đảm bảo một ngân hàng sau khi cổ phần hoá đáp ứng được các chuẩn mực Hội nhập kinh tế quốc tế, đủ năng lực cạnh tranh được với các ngân hàng trong nước và trên thế giới là một vấn đề hết sức quan trọng.
Trong tiến trình cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại nhà nước, một yếu tố có vai trò rất quan trọng chính là mảng pháp luật. Chính vì lí do đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài " Pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước tại Việt Nam hiện nay".
Kết cấu đề tài bao gồm:
Chương 1: Khái quát về Ngân hàng thương mại Nhà nước và cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Chương 2: Pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Chương 3: Thực trạng pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước và một số kiến nghị.
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ
CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC
***
Khái quát chung về Ngân hàng thương mại nhà nước
Khái niệm Ngân hàng thương mại nhà nước
Theo điều 1 Điều lệ mẫu về tổ chức hoạt động của ngân hàng thương mại nhà nước (ban hành theo quyết định số 122/2001/ QĐ-NHNN ngày 20 tháng 2 năm 2001 của Thống đố ngân hàng nhà nước): Ngân hàng thương mại nhà nước được thành lập theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, được thực hiện hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế của Nhà nước.
Đặc trưng :
Ngân hàng thương mại Nhà nước là một doanh nghiệp nhà nước, nhưng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, chịu sự điều chỉnh của Luật các Tổ chức tín dụng, Luật doanh nghiệp nhà nước và các luật có liên quan. Ngân hàng thương mại nhà nước là một tổ chức tín dụng nên có các đặc trưng sau:
Đối tượng kinh doanh trực tiếp là tiền tệ.
Hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu, thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hang. cụ thể là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung cấp các hoạt động thanh toán. Đây là ngành nghề kinh doanh tiềm ẩn, nguy cơ rủi ro cao do tính kéo dài của các hoạt động kinh doanh. Những tác động tích cực và tiêu cực của hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng thưòng có tính dây chuyền ( VD: ngân hàng ACB). Đây là điểm khác biệt giữa các DN là tổ chức tín dụng với các doanh nghiệp nhà nước khác nên pháp luật điều chỉnh các loại hình này cũng khác nhau.
Là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lí nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và thuộc phạm vi áp dụng pháp luật ngân hàng.
Ngoài những đặc trưng trên thì ngân hàng thương mại nhà nước còn có những đặc trưng riêng sau:
Là ngân hàng thương mại do nhà nước thành lập, thuộc sở hữu nhà nước. theo điều 4 của điều lệ: Ngân hàng chịu sự quản lý nhà nước của Ngân hàng Nhà nước, của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Uỷ ban nhân dân các cấp theo chức năng và quy định của pháp luật.
Nội dung và phạm vi hoạt động bao gồm:
+ Huy động vốn
+ Hoạt động tín dụng
+ Dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
+ Các hoạt động khác.
Mục tiêu hoạt động là lợi nhuận, đồng thời các ngân hàng thương mại nhà nước cũng đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống ngân hàng ( chiếm 80% tổng nguồn vốn huy động trong nguồn vốn ngân hang, số liệu từ 2001- 2006 ) nên còn được nhà nước giao cho nhiệm vụ góp phần thực hiện các chính sách kinh tế của nhà nước. Sự lồng ghép mục tiêu lợi nhuận và thực hiện các chính sách kinh tế của nhà nước đối với hoạt động của ngân hàng thương mại xuất phát từ quyền sở hữu của nhà nước, dẫn tới sự can thiệp quá sâu của nhà nước vào hoạt động kinh doanh của ngân hang, làm giảm tính độc lập tự quyết ,nhiều trưòng hợp không đảm bảo được mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng thương mại nhà nước.
Việc tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại nhà nước vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật ngân hàng vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật về doanh nghiệp nhà nước.
Thực trạng các ngân hàng thương mại nhà nước trước khi cổ phần hóa và tính tất yếu phải cổ phần hóa :
Thực trạng của các ngân hàng thương mại nhà nước :
Hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có qui mô nhỏ, năng lực tài chính yếu; mức độ rủi ro cao, chất lượng tín dụng thấp; khả năng sinh lời thấp; năng suất lao động thấp:
Lợi nhuận ròng của các ngân hàng thương mại nhà nước năm 1998 là 538,3 tỷ đồng, lợi nhuận năm 1999 là 645 tỷ đồng, lợi nhuận năm 2000 là 885,5 tỷ đồng. Tuy nhiên, nếu tính đến những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì thực tế hoạt động kinh doanh của một số ngân hàng thương mại nhà nước là đang ở tình trạng thua lỗ.
Vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước rất nhỏ bé cả về số tuyệt đối (5600 tỷ đồng) và tỷ trọng trên tổng tài sản có, tỷ lệ vốn tự có trên tài sản có: 1998 là 3,07%, 1999 là 3,12%, năm 2000 là 2,8%. Như vậy mức vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước là hết sức nhỏ bé so với chuẩn mực quốc tế tối thiểu là 8%.
Nợ quá hạn trên cân đối của các ngân hàng thương mại nhà nước năm 2000 chiếm 10,78% tổng dư nợ, trong đó ngân hàng ngoại thương là 19,47%, ngân hàng công thương là 24,31%, ngân hàng đầu tư là 2,53%, ngân hàng nông nghiệp là 4,15%. Tính đầy đủ các khoản nợ chờ xử lý, nợ phải trả thay, nợ thanh toán công nợ giai đoạn II đã lên lưới thì tổng số nợ xấu (nợ tồn đọng không sinh lời) lên đến 22.299 tỷ đồng, mức độ nợ xấu trên tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại nhà nước là đáng báo động. Mặt khác, việc xếp loại nợ quá hạn khó đòi của ta hiện nay chủ yếu là dựa vào tiêu chí thời gian quá hạn mà chưa tính đến các tiêu chí khác như nợ đang còn trong diện nợ trong hạn hoặc quá hạn thông thường nhưng thực tế doanh nghiệp đã bị thua lỗ nặng, khả năng trả nợ rất thấp; như vậy nếu phân loại nợ xấu theo tiêu chuẩn quốc tế thì thực trạng nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước sẽ còn cao hơn số liệu nêu trên (chiếm 25% tổng dư nợ hiện hành).
Hiện nay, mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng đã tăng mạnh so với trước đây nhưng còn nhỏ bé so với thế giới và khu vực. Mức vốn tự có trung bình của một ngân hàng thương mại Nhà nước là 4.200 tỷ đồng, tổng mức vốn tự có của 5 ngân hàng thương mại Nhà nước chỉ tương đương với một ngân hàng cỡ trung bình trong khu vực. Hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm đến trên 75% thị trường huy động vốn đầu vào và trên 73% thị trường tín dụng.
Trong khi đó, hệ số an toàn vốn bình quân của các ngân hàng thương mại Việt Nam thấp (dưới 5%), chưa đạt tỷ lệ theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước và thông lệ quốc tế (8%). Chất lượng và hiệu quả sử dụng tài sản Có thấp (dưới 1%), lại phải đối phó với rủi ro lệch kép là rủi ro kỳ hạn và rủi ro tỷ giá.
Theo PGS.TS Lê Hoàng Nga, Học viện Ngân hàng, nếu trích lập đầy đủ những khoản nợ khoanh và nợ khó đòi thì vốn tự có của nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam, nhất là ngân hàng thương mại Nhà nước, ở tình trạng âm.
Tiềm lực tài chính ( Bảng 1 ):
Bảng 1. Một số chỉ tiêu thể hiện tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại nhà nước
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Tổng tài sản ( tỷ VND)
179.629
239.584
299.352
378.961
470.315
Tốc độ tăng trưởng(%)
25,55
33,38
24,95
26,59
24,11
Vốn tự có (VĐL và quỹ BSVĐL)
7.473
6.673
7.117
12.010
17.018
Tỷ lệ tăng vốn tự có
16%
-11%
7%
69%
42%
Hệ số CAR
5,2%
3,5%
3%
4%
4,5%
Tổng số vốn tự có bị thiếu (tỷ VND)
4.023
8.660
12.042
11.244
13.082
Nguồn: Báo cáo ngân hàng nhà nước
Một trong những vấn để nan giải nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay là vấn đề thiếu vốn. Bảng 1 cho thấy vốn tự có của các ngân hàng thương mại nhà nước tăng một cách nhanh chóng và liên tục qua 2 năm 2002, 2003, chủ yếu là do việc Chính phủ thực hiện cấp bổ sung vốn điều lệ. Mặc dù số vốn được cấp là tương đối lớn, nhưng nếu tính tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo quy định tại Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 thì các ngân hàng thương mại nhà nước chỉ đạt được đạt tỷ lệ an toàn vốn bình quân là 5% (so với mức 2,8% vào năm 2000), thấp xa so với tiêu chuẩn quốc tế (8%).
Bảng 2. Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước
Chỉ tiêu
1999
2000
2001
2002
2003
Nợ quá hạn/ Tổng dư nợ
14,74
11,19
8,74
7,58
5,01
Lợi nhuận ròng/ Vốn tự có(ROE)
8,63
12,81
15,58
9,43
6,54
Lợi nhuận ròng/Tổng tài sản có (ROA)
0,36
0,36
0,38
0,3
0,38
Nguồn: Báo cáo ngân hàng nhà nước
Hiệu quả hoạt động ( Bảng 2 ):
Theo thông lệ quốc tế, các chỉ số của một ngân hàng được coi là hoạt động tốt là: ROA≥ 1 %; ROE≥ 15 %.
So sánh các chỉ số này với ngân hàng thương mại nhà nước, ta thấy:
Hiệu quả hoạt động thấp ( mức ROA bình quân 0,38%, bằng 1/3 so với mức trung bình ). ROE liên tục giảm qua các năm 2001- 2003, do nợ xấu lớn và do việc mở rộng hoạt động, chi phí quản lý tăng, trong khi chênh lệch lãi suất bình quân giữa huy động và cho vay có xu hướng giảm.
Chỉ tiêu nợ quá hạn mặc dù liên tục giảm qua các năm và hiện ở mức thấp, nhưng đây là nợ theo tiêu chuẩn VAS- tiêu chuẩn kế toán Việt Nam chứ chưa theo IAS- tiêu chuẩn kế toán quốc tế.
Hệ thống dịch vụ còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ ngân hàng truyền thống. Các ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động và cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, chiếm trên 80% tổng thu nhập. Hoạt động ngân hàng dựa chủ yếu vào "độc canh" tín dụng, còn quá ít các sản phẩm dịch vụ ngân hàng, mức độ áp dụng công nghệ vào lĩnh vực hoạt động ngân hàng còn thấp xa so với khu vực.
Trong tham luận gửi về hội thảo, TS. Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính tiền tệ, Bộ Kế hoạch Đầu tư, có viết: “Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ ngân hàng đã khiến các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định”.
Trong khi điểm mạnh của các ngân hàng nước ngoài là dịch vụ thì ngân hàng trong nước vẫn chủ yếu là hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động tín dụng vẫn còn thiếu các định chế quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, nhóm khách hàng, loại sản phẩm, kiểm toán nội bộ.
Sự đơn điệu trong hoạt động dịch vụ khiến hệ thống ngân hàng quốc doanh không tận dụng được lợi thế về mạng lưới, về khách hàng, về kênh phân phối và công nghệ. Cũng chính vì sự đơn điệu nên giá thành dịch vụ của các ngân hàng quốc doanh khá cao so với các nước khu vực. Nếu như ở các nước phát triển, ngân hàng thương mại thường là những tổ hợp Ngân hàng - tài chính kinh doanh đa ngành nghề (tín dụng, thanh toán, bảo hiểm, chứng khoán...) thì các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn xoay quanh các sản phẩm truyền thống như: Tín dụng, bảo lãnh thanh toán. Một số dịch vụ mới ra đời nhưng vẫn ở mức nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng doanh thu.
Một chuyên gia của Ngân hàng Thế giới cảnh báo: Nếu dịch vụ ngân hàng không được cải tiến mạnh mẽ, hệ thống phân phối của ngân hàng trong nước sẽ mất dần, nhất là khi sự phân biệt giữa tổ chức tín dụng trong nước và nước ngoài căn bản được xóa vào năm 2010. Mặt khác với điều kiện hạ tầng kỹ thuật như hiện nay, sẽ rất khó có các ngân hàng nội địa cạnh tranh được với ngân hàng nước ngoài về mặt công nghệ. Một cuộc thăm dò ý kiến khách hàng gần đây cho biết: 45% số khách hàng được hỏi, kể cả cá nhân và doanh nghiệp trả lời sẽ chuyển sang vay vốn ngân hàng nước ngoài chứ không vay vốn của ngân hàng Việt Nam. Nguyên nhân ngoài lý do chênh lệch lãi suất thì cơ bản là do chất lượng dịch vụ và thủ tục hành chính quá rườm rà phức tạp.
Cơ cấu hệ thống tài chính mất cân đối, tình hình nợ xấu:
Tình hình nợ xấu vẫn có xu hướng giảm nhưng chưa chắc chắn, trong đó đáng chú ý là các tổ chức tín dụng nhà nước. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng nợ quá hạn gia tăng tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là do:
Việc cho vay chủ yếu dựa vào tài sản đảm bảo, trong khi thị trường bất động sản và thị trường hàng hóa chưa phát triển và còn nhiều biến động phức tạp.
Tự do hóa lãi suất có xu hướng làm cho mặt bằng lãi suất trong nước tăng lên, tạo điều kiện thu hút thêm tiết kiệm vào hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, lãi suất tiền gửi tăng lên làm cho lãi suất cho vay cũng tăng, tạo thêm gánh nặng về chi phí cho các doanh nghiệp phụ thuộc nặng nề vào nguồn vay từ ngân hàng. Hậu quả là, ngân hàng vẫn tiếp tục cho vay để nuôi nợ, dẫn đến tình trạng mất vốn ngày càng lớn.
Một yếu điểm nữa của thị trường tài chính nước ta là, cơ cấu hệ thống tài chính còn mất cân đối, hệ thống ngân hàng vẫn là kênh cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế chủ yếu. Tính chung cả nội tệ và ngoại tệ, thì số vốn vay huy động ngắn hạn chuyển cho vay trung và dài hạn chiếm tới khoảng 50% tổng số vốn huy động ngắn hạn. Như một chuyên gia kinh tế đã nói, việc sử dụng vốn cho vay trung và dài hạn ở nước ta hiện nay tới 50% là quá cao, nếu duy trì quá lâu sẽ là yếu tố gây rủi ro lớn và có nguy cơ gây ra thiếu an toàn cho toàn bộ hệ thống.
Sự bất cập của cơ chế là nguyên nhân chính để các ngân hàng quốc doanh khó lớn mạnh.
Trong môi trường cạnh tranh, đòi hỏi phải có những phản ứng nhanh nhưng cơ chế của doanh nghiệp nhà nước còn quá nhiều thứ bất cập. Cơ chế tuyển dụng cán bộ, quản lý tài chính, đầu tư thiết bị... vẫn tồn tại từ hàng chục năm nay với quá nhiều thủ tục và cửa ải, không thể cạnh tranh được với ngoài quốc doanh.
Ví dụ như : Quy trình bổ nhiệm, đề bạt, miễn nhiệm cán bộ hiện còn phải qua quá nhiều vòng vẫn chưa có gì thay đổi. Theo đó, muốn bầu 1 Tổng giám đốc, ứng viên đó phải thuộc diện quy hoạch, sau đó lấy ý kiến của các chi nhánh, đơn vị trực thuộc, thông qua cấp ủy, hội đồng quản trị, ngân hàng nhà nước, Ban Nội chính, Ban Tổ chức Chính phủ... với gần 10 vòng. Nhưng đâu là người chịu trách nhiệm cuối cùng về chất lượng cán bộ thì không quy định rõ. Trong khi đó, với một ngân hàng cổ phần, chỉ cần đăng thông báo tuyển dụng, sàng lọc hồ sơ và hội đồng quản trị phỏng vấn trực tiếp là có thể tìm kiếm được 1 giám đốc.
Mức lương, chính sách đãi ngộ cán bộ cũng là một vấn đề. Ông Vũ Viết Ngoạn, Tổng giám đốc Vietcombank cho biết, trong những năm qua, Viecombank liên tục có lãi, năm 2005, lãi ròng hơn 1.000 tỷ, tài chính lành mạnh nhưng việc đãi ngộ nhân viên lại phải do nhà nước quy định. Nếu như ở ngân hàng cổ phần, lương tổng giám đốc không dưới 5 ngàn USD thì ở ngân hàng quốc doanh, chỉ được xấp xỉ 10 triệu đồng. Cũng chính vì sự thiếu năng động trong chính sách đãi ngộ, nên ngân hàng quốc doanh luôn đối mặt với nguy cơ chảy máu chất xám. Một số ít tâm huyết với nghề, nín thở chờ đợi thời điểm biến thành ngân hàng cổ phần. Một số khác, không đủ kiên nhẫn đã chia tay. Mỗi năm Vietcombank đã mất vài ba chục cán bộ giỏi, riêng năm ngoái mất hơn 50 người cũng chỉ vì lý do thu nhập.
TS Nguyễn Văn Nam, cựu thành viên Ban nghiên cứu Thủ tướng cho rằng, thói quen làm việc dưới các chính sách ưu đãi của Nhà nước, vì sự bất tài, hay thói quen dựa vào sự lỏng lẻo của cơ chế quản lý nhà nước để dễ kiếm chác, trục lợi lại thích được tiếp tục duy trì là doanh nghiệp quốc doanh, vừa ổn định, không mất ghế mà vẫn kiếm được. Còn khi chuyển sang cơ chế cổ phần, năng lực công tác là một sự cạnh tranh thực sự, và cơ chế tài chính cũng được giám sát chặt chẽ hơn bởi các cổ đông. Đó cũng chính là lý do để hệ thống ngân hàng quốc doanh chậm chuyển đổi.
Năng lực quản lý điều hành còn hạn chế
Mặc dù trong thời gian qua, công tác nâng cao năng lực quản trị điều hành của ngân hàng thương mại nhà nước đã được tăng cường, nhưng hiện vẫn còn nhiều tồn tại, đặc biệt là trong công tác quản trị rủi ro tín dụng, dẫn đến tỉ lệ nợ quá hạn có chiều hướng gia tăng, chất lượng tín dụng chưa đồng đều. Các phần việc khác như: Xây dựng định chế quản trị rủi ro, quản trị tài sản nợ, tài sản có, kiểm toán nội bộ hiện mới bắt đầu triển khai với sự trợ giúp của các công ty tư vấn trong nước và quốc tế. Hệ thống cơ chế khuyến khích bao gồm cơ chế lương, thưởng và xử phạt hiện chưa thích hợp và chưa tạo được động lực. Bên cạnh đó, tính minh bạch thấp là một tồn tại khiến cho công chúng và các nhà đầu tư trong và ngoài nước thiếu lòng tin vào ngân hàng thương mại nhà nước.
Hội nhập kinh tế là một xu hướng tất yếu, do đó, cạnh tranh của một doanh nghiệp không còn bó hẹp trong phạm vi giữa các doanh nghiệp hay phạm vi quốc gia mà nó đã mở rộng phạm vi toàn thế giới. Nghị quyết Đại hội toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu rõ chủ trương của Đảng và Nhà nước về hội nhập kinh tế quốc tế, nhấn mạnh phương châm chủ động hội nhập với các nguyên tắc phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Riêng đối với Ngành Ngân hàng, việc Việt Nam gia nhập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và việc thực hiện Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ sẽ mang lại nhiều cơ hội cho các ngân hàng trong nước. Song, những thách thức từ những quá trình này sẽ là rất lớn bởi các ngân hàng thương mại trong nước hiện tại đang thể hiện khả năng cạnh tranh kém hơn so với các ngân hàng nước ngoài trên tất cả các phương diện về năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, kinh nghiệm kinh doanh.
Vì vậy, các ngân hàng thương mại trong nước nói chung và các ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng không còn cách nào khác là phải tăng cường năng lực tài chính cũng như khả năng cạnh tranh để đối mặt với những thách thức từ hội nhập.
Vì vậy, cổ phần hóa là giải pháp để các ngân hàng thương mại nhà nước khắc phục tất cả những yếu kém trên, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trong tiến trình hội nhập.
Sự cần thiết phải cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước:
Hoạt động ngân hàng, trong đó ngân hàng thương mại nhà nước với vai trò chủ đạo đã có sự đóng góp rất lớn vào sự thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đã triển khai thực hiện chính sách tiền tệ một cách tích cực, cơ bản ổn định được giá trị và sức mua của đồng tiền, kìm chế lạm phát, tăng dự trữ ngoại tệ cho quốc gia và góp phần tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn chưa đáp ứng kịp thời nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế, chưa phát huy hết chức năng huy động và sử dụng vốn có hiệu quả để làm cho kinh tế nhà nước thực sự đóng vai trò chủ đạo.
Việc cổ phần hóa ngân hàng là một khâu trong quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng, củng cố và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại theo hướng tiếp tục phát huy thành tựu, khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao năng lực tài chính, trình độ công nghệ, năng lực tổ chức kinh doanh đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của công cuộc đổi mới trong những năm tới.
Ngân hàng thương mại nhà nước đang đứng trước thực trạng nợ tồn đọng lớn, vốn tự có quá thấp so với nhu cầu thực tiễn và so với các ngân hàng trên thế giới, tình trạng này đang làm hạn chế khả năng huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng.
Do yêu cầu của công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước cần phải có một khối lượng vốn, vì vậy cần phải có ngân hàng thương mại đủ tiềm lực tài chính để thực hiện phân phối và sử dụng vốn một cách hiệu quả. Chính vì vậy, đặt ra vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước là rất cần thiết.
Quá trình thực hiện Hiệp định thương mại Việt-Mỹ và chuẩn bị hội nhập vào thị trường tài chính quốc tế với việc tự do hóa tài chính đã làm cho môi trường cạnh tranh gay gắt hơn, đầy rủi ro hơn. Bối cảnh này đã đặt ra cho ngành ngân hàng cần thiết phải cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước.
Với những yêu cầu hết sức cần thiết và bức xúc như đã nêu trên, đòi hỏi trong hoạt động của ngân hàng Việt Nam phải có một ngân hàng với quy mô lớn, năng lực tài chính mạnh trong khi các ngân hàng thương mại nhà nước cũng như các ngân hàng thương mại cổ phần không thể đáp ứng được thì vấn đề cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước là một yêu cầu cần thiết khách quan.
Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước
Là quá trình chuyển đổi từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu thành doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu ( công ty cổ phần ). Cổ phần hóa nói chung có thể diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty liên doanh và các doanh nghiệp nhà nước. Cổ phần hóa là quá trình đa dạng hóa sở hữu tại doanh nghiệp.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó nhà nước có thể vẫn giữ tư cách là một cổ đông, tức là nhà nước vẫn có thể là chủ sở hữu một bộ phận tài sản của doanh nghiệp. Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước không chỉ là quá trình chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, mà còn cả hình thức doanh nghiệp nhà nước thu hút vốn thông qua hình thức bán cổ phiếu để trở thành công ty cổ phần.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước liên quan chặt chẽ tới việc tôn trọng và phát huy sở hữu cá nhân không chỉ trong chế độ tư bản chủ nghĩa mà cả trong chế độ xã hội chủ nghĩa. Người lao động trong công ty cổ phần sẽ vừa là người làm thuê vừa là cổ đông nên có quan hệ lợi ích chặt chẽ với doanh nghiệp, còn trong doanh nghiệp nhà nước chủ sở hữu là nhà nước, chung chung, mơ hồ, không gắn quyền sở hữu với quyền sử dụng.
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là một cuộc cách mạng triệt để thay đổi cách tổ chức hoạt động trong nội bộ doanh nghiệp, thay đổi cơ bản mối quan hệ doanh nghiệp với nhà nước và tạo điều kiện cho doanh nghiệp thích ứng với hoạt động cạnh tranh trong cơ chế thị trường.
Công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của nền sản xuất xã hội hóa và nền kinh tế thị trường phát triển. Việc chuyển các doanh nghiệp nhà nước sang công ty cổ phần là do tính xã hội hóa của sản xuất, do quy luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường quyết định và thúc đẩy, đó là quá trình khách quan, không phải do ý muốn chủ quan của bất kì thể chế chính trị hay cá nhân nào.
Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước :
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước nói chung, ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập. Nó không chỉ là quá trình đa sở hữu và hữu danh hoá quyền sở hữu, mà còn là phương thức căn bản để tích tụ, tập trung tư bản và tạo ra thị trường tài chính hoàn hảo. Thị trường tài chính phát triển vừa là qui luật của kinh tế thị trường vì nhờ nó mà lưu thông hàng hoá, lưu thông vốn được mở rộng nhanh chóng, song tính dễ bị tổn thương, tính nhạy cảm và nhất là tính lan toả và ảnh hưởng lẫn nhau của thị trường tài chính cũng là thách thức lớn đối với mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường. Vấn đề là không thể lẩn tránh thách thức, do đó phải chủ động nhận dạng, phân tích và ứng phó thích hợp trên cơ sở tôn trọng và khai thác tối đa những mặt tích cực của các qui luật thị trường cũng như qui luật toàn cầu hoá ngày nay. Cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước ở Việt Nam chưa có tiền lệ, là việc rất phức tạp và diễn ra trong môi trường thị trường tài chính còn sơ khai, nhưng không thể dẫm chân tại chỗ, càng không thể chỉ đưa việc đại sự này vào "phòng thí nghiệm" để phát tín hiệu dần dần... vì chúng ta có kinh nghiệm từ nước ngoài, có chủ trương của Đảng và Nhà nước và trên hết là trong nền kinh tế thị trường không thể tiếp tục duy trì quá lâu qui mô và phương thức hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nhà nước như hiện nay ở môi trường kinh tế mới.
Cổ phần hoá ngân hàng thương mại nhà nước sẽ khắc phục được những vấn đề gì?
Ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) khi chuyển sang ngân hàng thương mại cổ phần sẽ loại bỏ được sự thiếu minh bạch trong các mục tiêu và chiến lược mà ngân hàng theo đuổi, buộc lãnh đạo ngân hàng phải làm việc vì lợi ích của cổ đông và vì vậy buộc họ phải nỗ lực hết sức mình nếu không muốn bị các cổ đông phế truất địa vị lãnh đạo.
Bên cạnh đó, cổ phần hóa giúp các ngân hàng huy động nguồn vốn từ công chúng để phát triển và đảm bảo an toàn kinh doanh, hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa tài chính. Ngoài ra, cổ phần hóa còn giảm bớt áp lực đè nặng lên ngân sách nhà nước, tạo điều kiện thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển
Những lợi ích có được từ cổ phần hóa:
Dưới góc độ quản lí vĩ mô:
Cổ phần hoá thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn và thị trường các dịch vụ tài chính. Theo con số thống kê mới nhất, tổng giá trị chứng khoán hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam chiếm khoảng 0,5% GDP (trên dưới 2.000 tỷ đồng) với sự tham dự của 28 công ty niêm yết trên thị trường và khoảng 19.000 cổ đông. Việc cổ phần hóa một hoặc một số ngân hàng thương mại nhà nước chắc chắn sẽ thổi một luồng sinh khí mới vào hoạt động của thị truờng chứng khoán. Sự sôi động của thị trường càng gia tăng khi có các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính cũng được niêm yết và giao dịch cổ phiếu. Niêm yết cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần và cổ phần hóa một bộ phận ngân hàng thương mại nhà nước sẽ được coi là cuộc cách mạng lần thứ hai trong quá trình tiếp tục đổi mới hoạt động ngân hàng ở Việt Nam, được thực hiện sau một thời gian chấn chỉnh và củng cố sắp xếp lại mỗi khối ngân hàng này. Nền kinh tế phát triển nhanh theo cơ chế thị trường thì yêu cầu xây dựng hệ thống trung gian tài chính vững mạnh là tất yếu khách quan.
Dưới góc độ quản lý vi mô của ngân hàng:
Cổ phần hóa sẽ giúp ngân hàng nâng cao hiệu quả hoạt động:
Hiệu quả ở đây thể hiện qua các góc độ:
Thứ nhất, đó là nâng cao hệ số an toàn vốn: Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước phải nằm trong kế hoạch tổng thể cơ cấu lại và phát triển hệ thống ngân hàng Việt Nam. Một trong những trọng tâm của nó là việc nâng vốn của các ngân hàng thương mại nhà nước lên càng sớm càng tốt, để khi tiến hành cổ phần hóa xong thì tỷ lệ an toàn vốn phải đạt chuẩn quốc tế; Phấn đấu trong thời gian tới, các ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam có thể đạt mức trung bình tiên tiến của khu vực. Cổ phần hóa thực chất là một giải pháp để có thể đạt được mục tiêu này.
Thứ hai, tăng cường năng lực quản trị điều hành và hiện đại hoá ngân hàng nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh và sử dụng vốn.
Thứ ba, tăng cường năng lực kiểm soát nội bộ, hoạt động kinh doanh an toàn, lành mạnh theo chuẩn mực quốc tế, làm giảm những khoản nợ xấu và tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong bối cảnh phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, buộc ngân hàng phải ứng xử theo quy luật thị trường và cơ cấu lại nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
Cổ phần hóa sẽ thay đổi phương thức quản lý và nhận thức của người lao động :
Ngân hàng thương mại nhà nước khi cổ phần hóa sẽ loại bỏ sự thiếu minh bạch, buộc lãnh đạo ngân hàng phải làm việc vì lợi ích của cổ đông, và vì vậy buộc họ phải nỗ lực hết mình nếu không muốn bị cổ đông phế truất địa vị lãnh đạo. Khi cổ phần hóa, giám đốc phải chịu sự giám sát chặt chẽ trong điều hành hoạt động ngân hàng. Điều này buộc người lãnh đạo phải trở nên năng động, cầu tiến, có trách nhiệm thực sự đối với công việc.
Đối với người lao động, khi quyền lợi riêng đã được gắn kết với quyền lợi chung, người lao động sẽ luôn quan tâm đến hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Cổ phần hóa sẽ thu hút được các nhà đầu tư chiến lược:
Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước ngoài mục đích tăng cường tiềm lực về vốn, tạo sự chủ động trong hoạt động, còn có một mục tiêu quan trọng là thu hút các nhà đầu tư chiến lược mà ở đây chủ yếu là các tập đoàn nước ngoài. Hiện nay, Dragon Capital của Anh đã đầu tư vào 3 ngân hàng thương mại cổ phần: ACB, VP Bank và Sacombank; Deutsche Bank của Đức sẽ mua cổ phần của Eximbank dự kiến khoảng từ 20- 30% vốn điều lệ. Việc thu hút các nhà đầu tư chiến lược có ý nghĩa quan trọng như:
Khai thác kinh nghiệm quản lý, điều hành ngân hàng hiện đại.
Khai thác các công nghệ ngân hàng tiên tiến.
Tận dụng mạng lưới chi nhánh, đại lý của các nhà đầu tư này để mở rộng hoạt động.
Những vấn đề đặt ra trong quá trình cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước:
Thực hiện cổ phần hóa đối với ngân hàng thương mại là vấn đề mới của ngành ngân hàng, do đó sẽ có những khó khăn nhất định. Việc thực hiện cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước cần rút kinh nghiệm từ cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, không thực hiện chủ quan, nhưng cũng không được chậm trễ, do đó khi thực hiện phải đảm bảo :
Về quy mô vốn tự có:
Hiện nay về quy mô vốn hoạt động của một ngân hàng trung bình trên thế giới khoảng từ một tỷ USD trở lên. Do đó, trong quá trình hội nhập và để đủ năng lực trong cạnh tranh, các ngân hàng thương mại nhà nước được cổ phần hóa đạt quy mô vốn ít nhất phải tương ứng với một ngân hàng trung bình trên thế giới, tức là mức vốn tự có của ngân hàng này phải đạt từ 16.000 tỷ đồng trở lên trong đó, vốn sở hữu của nhà nước đạt tối thiểu 8.160 tỷ đồng, phần còn lại gọi vốn từ cổ đông trong và ngoài nước.
Quy mô vốn của ngân hàng cổ phần hóa phải luôn luôn bảo đảm được yêu cầu tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trên tổng tài sản có, đây là một chuẩn mực quốc tế không thể thiếu được.
Về mức vốn giữ vai trò chi phối của nhà nước trong ngân hàng được cổ phần hóa.
Ngân hàng thương mại nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa tuy hình thức chủ sở hữu có sự thay đổi nhưng vai trò chủ đạo trong việc triển khai thực hiện chính sách tiền tệ vẫn không thay đổi mà vẫn tiếp tục phát huy dưới hình thức mới được điều hành bởi một Hội đồng quản trị theo cơ chế quản lý phù hợp. Vì vậy, nhất thiết ngân hàng thương mại nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa vốn nhà nước tham gia phải nắm vai trò điều phối với tỷ lệ tối thiểu 51%.
Việc này có thể thực hiện thông qua hình thức :
Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại ngân hàng thương mại nhà nước (xem đó là 51%), phần 41% còn lại sẽ phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn từ các cổ đông trong và ngoài nước.
Mức vốn điều lệ tăng đến đâu thì vốn của nhà nước luôn giữ tỷ trọng 51%.
Về góp vốn của cổ đông nước ngoài:
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia góp vốn để thu hút các nguồn lực ngoài nước, tỷ lệ tham gia của các cổ đông nước n._.goài dần dần được mở rộng nhưng tỷ lệ tối đa không quá 30% vốn điều lệ. Trong đó, nên tập trung ưu đãi cho các cổ đông nước ngoài là các ngân hàng nước ngoài với tỷ lệ góp vốn tối đa không quá 20% vốn tự có. Bởi vì chính các ngân hàng này sẽ là cơ sở, điều kiện giúp cho ngân hàng được cổ phần hóa mở rộng phát triển mạng lưới hoạt động (chi nhánh, văn phòng đại diện) đến các nước sở tại này.
Về vai trò chủ đạo trong thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng được cổ phần hóa :
Ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa phải trở thành một ngân hàng cùng với hệ thống ngân hàng thương mại nhà nước là lực lượng nòng cốt trong lĩnh vực ngân hàng, là ngân hàng triển khai thực hiện tốt chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, là một ngân hàng có khả năng huy động tốt mọi tiềm lực kinh tế xã hội trong và ngoài nước để phân phối và sử dụng một cách an toàn hiệu quả, an toàn góp phần thực hiện thành công công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Việc cổ phần hóa ngân hàng đảm bảo ổn định được hoạt động tiền tệ-tín dụng của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế.
Về tình hình tài chính:
Mặc dù hiện nay, Chính phủ đã có những chủ trương xử lý nợ tồn đọng và các ngân hàng thương mại nhà nước đã tích cực xử lý nhưng nhìn chung tỷ lệ nợ tồn đọng vẫn còn chiếm tỷ lệ khá cao. Kinh nghiệm từ thực tiễn cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước về việc xử lý nợ tồn đọng luôn luôn là vấn đề hết sức khó khăn, phụ thuộc vào các cơ chế chính sách xử lý nợ, sự phối hợp của các cơ quan chức năng trong việc xử lý nợ. Ngoài ra, việc xác định thực tế giá trị ngân hàng để cổ phần hóa cũng không phải là vấn đề đơn giản, hiện nay đã có nhiều phương pháp để xác định giá trị tài sản hữu hình nhưng việc xác định giá trị tài sản vô hình đang gặp vướng mắc trong xác định thương hiệu và vị thế hoạt động:
Xử lý các khoản nợ tồn đọng, đặc biệt Nhà nước phải có cơ chế xử lý dứt điểm các khoản nợ theo chủ trương như nợ cho vay thanh toán công nợ, nợ khoanh… Đây là một thực trạng khó khăn của các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay. Quá trình xử lý nợ đọng sẽ kéo dài thời gian ảnh hưởng đến tiến trình cổ phần hóa.
Xây dựng một ngân hàng cổ phần hóa đủ thực lực tài chính cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Muốn thực hiện được điều này, cần phải xác định chính xác giá trị thực tế của ngân hàng được cổ phần hóa, đưa ra một mức giá phù hợp mà người mua và cả người bán đều có thể chấp nhận được, trên cơ sở đó việc gọi vốn góp cổ đông rất dễ dàng.
Xác định chiến lược kinh doanh ngân hàng:
Các nội dung khác của tiến trình cổ phần hóa mặc dù được chuẩn bị tốt đến đâu nhưng không xác định được mục tiêu, chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng thì cũng không thể đánh giá được tầm quan trọng của ngân hàng được cổ phần hóa cũng như không thể làm cơ sở xác định được hiện giá ròng trong tương lai của ngân hàng.
Vì vậy, ngân hàng thương mại cổ phần hóa phải xây dựng được chiến lược kinh doanh mới theo thông lệ quốc tế và là một ngân hàng đa năng với các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư tài chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường mua bán nợ…
Đảm bảo được hoạt động kinh doanh của ngân hàng được cổ phần hóa theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế.
Việc cổ phần hóa ngân hàng thương mại nhà nước phải gắn liền với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng và phát triển mạng lưới hoạt động ra các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có cổ đông góp vốn (đây sẽ là một ưu thế của ngân hàng cổ phần hóa ).
***
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
***
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC QUA TỪNG GIAI ĐOẠN.
Pháp luật về cổ phần hóa nói chung đã tồn tại từ những năm đầu của thập niên 90 và tiếp tục được sửa đổi bổ sung nhiều lần cho tới nay. Tuy nhiên, đến tận năm 2005, Ngân hàng thương mại Nhà nước đầu tiên là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam mới thực hiện cổ phần hóa. Do vậy, pháp luật về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ được áp dụng kể từ năm 2005. Về nguyên tắc, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam áp dụng theo các văn bản cũ (trước nghị định 109), đó là
Nghị định số 187/2004/NĐ-CP của Chính phủ về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Thông tư 126/2004/TT-BTC ngày 24.12.2004 của Bộ tài chính.
Thông tư 40/2004/TT-BTC hướng dẫn kế toán khi chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần.
Thông tư 95 /2006/TT-BTC sửa đổi, bổ sung TT số 126/2004/TT-BTC ngày 24/12/2004 của BTC hướng dẫn thực hiện NĐ số 187/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của CP về chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần.
Tuy nhiên, trong quá trình cổ phần hóa, Ngân hàng ngoại thương đã gặp phải một số vướng mắc và đã phải chờ chỉ đạo trực tiếp từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Hiện nay, sau khi thí điểm cổ phần hóa Ngân hàng ngoại thương, hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện hơn. Cụ thể hiện nay, các Ngân hàng thương mại Nhà nước còn lại sẽ áp dụng các văn bản sau khi cổ phần hóa:
Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Nghị định 110/2007/NĐ-CP về Chính sách cho người lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
Thông tư 146/2007/TT-BTC Ngày 06 Tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển danh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
Thông tư 20/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện chính sách đối với người lao động theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần
Bài nghiên cứu sẽ đi sâu vào các quy định hiện hành về cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước trong giai đoạn thứ hai.
PHÁP LUẬT VỀ CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
Đối tượng và nguyên tắc cổ phần hóa.
Đối tượng cổ phần hóa
Đối tượng cổ phần hóa được quy định tại điều 2 nghị định 109/2007/NĐ-CP bao gồm
Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).
Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.
Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập.
Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.
Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Như vậy, căn cứ vào các quy định trên, các Ngân hàng thương mại Nhà nước chính là một trong các đối tượng điều chỉnh của pháp luật về cổ phần hóa. Bởi vậy, việc cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ được điều chỉnh bởi các văn bản sau:
Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Nghị định 110/2007/NĐ-CP về Chính sách cho người lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
Thông tư 146/2007/TT-BTC Ngày 06 Tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển danh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
Thông tư 20/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện chính sách đối với người lao động theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Ngoài việc là đối tượng được nêu ở điều 2, các Ngân hàng thương mại Nhà nước còn phải đáp ứng các quy định tại điều 3 nghị định 109:
Không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Các Ngân hàng thương mại Nhà nước đều đáp ứng đủ yêu cầu này theo kế hoạch cổ phần hóa của Chính phủ. Theo đó, tất cả các Ngân hàng thương mại Nhà nước đều thuộc diện cổ phần hóa. Chính phủ đã có nhiều văn bản, chỉ thị đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước, cụ thể là Chỉ thị số 04/2005/CT-TT của Chính phủ.
Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.
Đây cũng là điều kiện mà các Ngân hàng thương mại Nhà nước đáp ứng được. Hiện nay, các ngân hàng đều hoạt động tương đối tốt và có vị trí khá vững trong ngành. Cụ thể, đó đều là những ngân hàng có khả năng cạnh tranh và thị phần tương đối cao, lợi nhuận hàng năm đủ đảm bảo để các ngân hàng còn vốn Nhà nước sau cổ phần hóa.
Nguyên tắc cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Nguyên tắc cổ phần hóa Ngân hàng Nhà nước thành công ty cổ phần được quy định tại phần I thông tư 146/2007/TT-BTC hướng dẫn nghị định 109. Có hai nguyên tắc chung đối với quá trình cổ phần hóa được áp dụng đối với Ngân hàng thương mại Nhà nước như sau:
Nguyên tắc Nhà nước không cấp thêm vốn cho cổ phần hóa khi không còn vốn Nhà nước.
Ngân hàng cổ phần hoá phải kiểm kê, xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước tại Ngân hàng. Trường hợp giá trị phần vốn nhà nước tại Ngân hàng không còn thì áp dụng hình thức sắp xếp khác phù hợp theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc quá trình cổ phần hóa phải đảm bảo chặt chẽ, công khai, minh bạch, không làm thất thoát vốn, tài sản của Nhà nước.
Nguyên tắc này còn được quy định tại điều 11.1 nghị định 109. Theo đó, Ngân hàng cổ phần hóa phải thực hiện công khai, minh bạch các thông tin về Ngân hàng, về phương án cổ phần hóa, tình hình quản lý và sử dụng đất đai, lao động theo đúng quy định tại Luật Doanh nghiệp và các quy định khác của pháp luật. Ngoài ra, tại mục I.4 thông tư 146 còn quy định, các tổ chức, cá nhân không chấp hành chế độ nhà nước, gây ra tổn thất hoặc thất thoát tài sản nhà nước thì tổ chức, cá nhân đó chịu trách nhiệm hành chính, bồi thường vật chất hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Nguyên tắc kế thừa quyền và nghĩa vụ của công ty cổ phần được chuyển đổi từ doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
Nguyên tắc này được quy định tại điều 10 nghị định 109 như sau:
1. Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng tối đa số lao động tại thời điểm quyết định cổ phần hóa và giải quyết chế độ cho người lao động nghỉ việc, thôi việc theo quy định hiện hành.
Công ty cổ phần có nghĩa vụ kế thừa mọi trách nhiệm đối với người lao động từ doanh nghiệp cổ phần hóa chuyển sang; có quyền tuyển chọn, bố trí sử dụng lao động và phối hợp với các cơ quan liên quan giải quyết chế độ cho người lao động theo quy định của pháp luật.
2. Doanh nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm phối hợp với cơ quan có liên quan kiểm tra, xử lý những vấn đề về tài chính để xác định giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
3. Công ty cổ phần được sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã nhận bàn giao để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn giao và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định bổ sung sau khi đã quyết toán, bàn giao cho công ty cổ phần không thuộc trách nhiệm của công ty cổ phần.
Xử lí các vấn đề tài chính khi cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Kiểm kê và phân loại tài sản công nợ
Thời điểm kiểm kê và xác định giá trị doanh nghiệp
Thời điểm kiểm kê và xác định giá trị doanh nghiệp
Thời điểm kiểm kê và xác định giá trị doanh nghiệp được quy định tại mục II.A thông tư 146 như sau:
Khi nhận được thông báo hoặc quyết định cổ phần hoá của cơ quan có thẩm quyền, doanh nghiệp cổ phần hoá có trách nhiệm kiểm kê, phân loại tài sản doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp do cơ quan quyết định cổ phần hoá quyết định phù hợp với thời điểm khóa sổ kế toán, lập báo cáo tài chính và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp được lựa chọn, cụ thể:
Đối với trường hợp áp dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, thời điểm kiểm kê và xác định giá trị doanh nghiệp là thời điểm kết thúc quý gần nhất với thời điểm có quyết định cổ phần hóa.
Đối với trường hợp áp dụng phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu, thời điểm kiểm kê và xác định giá trị doanh nghiệp là thời điểm kết thúc năm tài chính gần nhất với thời điểm có quyết định cổ phần hóa.
Ngoài ra, cần chú ý rằng, doanh nghiệp cổ phần hoá sử dụng báo cáo tài chính năm đã được kiểm toán để làm căn cứ xác định vốn bằng tiền, các khoản công nợ. Trường hợp thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp không trùng với thời điểm báo cáo tài chính năm, doanh nghiệp phải lập báo cáo tài chính tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp và giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp
Thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp và giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cách thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp tối đa không quá 6 tháng đối với trường hợp xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản và không quá 9 tháng đối với trường hợp xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Trường hợp quá thời hạn trên chưa công bố được giá trị doanh nghiệp, giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp để cổ phần hoá, cơ quan quyết định cổ phần hoá xem xét, quyết định kéo dài thời gian xác định giá trị doanh nghiệp nhưng phải đảm bảo nguyên tắc thời điểm công bố giá trị doanh nghiệp và giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp cách thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp không quá 12 tháng.
Kiểm kê và phân loại tài sản, công nợ
Việc kiểm kê và phân loại tài sản công nợ được quy định tại điểm B mục II thông tư 146. Theo đó, đối với Ngân hàng thương mại Nhà nước, việc kiểm kê, đánh giá, phân loại tài sản là vốn bằng tiền, tài sản cho thuê tài chính và các khoản công nợ được thực hiện như sau:
Kiểm kê, đối chiếu các khoản tiền gửi của khách hàng, chứng chỉ tiền gửi (tín phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu) như sau:
Kiểm kê chi tiết từng khoản trên sổ kế toán.
Đối chiếu xác nhận số dư tiền gửi của khách hàng là pháp nhân.
Tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi cá nhân, chứng chỉ tiền gửi có thể không thực hiện đối chiếu với khách hàng, nhưng phải đối chiếu với thẻ lưu. Đối với một số trường hợp cụ thể (có số dư tiền gửi lớn hoặc có chênh lệch giữa số liệu trên sổ kế toán với thẻ lưu) thì thực hiện đối chiếu trực tiếp với khách hàng.
b. Đối chiếu tài sản là dư nợ tín dụng (kể cả dư nợ được theo dõi ngoài bảng) như sau:
Căn cứ hồ sơ tín dụng của từng khách hàng tại ngân hàng thương mại để lập bảng kê danh sách những khách hàng còn dư nợ tín dụng và số dư nợ tín dụng của từng khách hàng, chi tiết theo từng hợp đồng tín dụng.
Đối chiếu giữa số liệu xác định theo hồ sơ tín dụng với số liệu hạch toán trên sổ kế toán của ngân hàng thương mại; đối chiếu dư nợ tín dụng với từng khách hàng để có xác nhận của khách hàng về số dư nợ tín dụng.
Đối với khách hàng là cá nhân, trường hợp không tổ chức đối chiếu được với khách hàng thì ngân hàng thương mại tổ chức tín dụng phải đối chiếu với thẻ lưu.
Trường hợp có sự chênh lệch số liệu giữa hồ sơ tín dụng với sổ kế toán và xác nhận của khách hàng thì ngân hàng thương mại phải làm rõ nguyên nhân chênh lệch và xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan để xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước.
Ngoài ra, việc phân loại các khoản nợ phải thu tồn đọng đủ điều kiện được xử lý theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đối với các tài sản cho thuê tài chính: phải thực hiện đối chiếu với từng khách hàng, xác định rõ số nợ còn phải trả của từng tài sản cho thuê tài chính.
Trong quá trình kiểm kê, đối chiếu nếu bỏ sót tài sản, công nợ làm giảm giá trị doanh nghiệp và vốn nhà nước tại doanh nghiệp cổ phần hoá thì Giám đốc, kế toán trưởng và các tổ chức, cá nhân liên quan phải chịu trách nhiệm bồi hoàn toàn bộ giá trị khoản nợ và tài sản nêu trên theo quy định của pháp luật.
Xử lí tài chính khi cổ phần hóa Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Vấn đề xử lí tài chính được quy định tại chương 2 nghị định 109. Việc xử lí được chia ra các giai đoạn: trước khi xác định giá trị doanh nghiệp, từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp tới thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần, khi bàn giao tài sản và vốn.
Thứ nhất, trước khi xác định giá trị doanh nghiệp, các Ngân hàng cần phải làm rõ các khoản như tài sản, nợ phải thu, nợ phải trả, các khoản dự phòng, lỗ và lãi, vốn đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp khác, quỹ khen thưởng và quỹ phúc lợi. Xử lí đối với các khoản này được quy định cụ thể từ điều 14 tới điều 20 nghị định 109.
Thứ hai, từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp tới thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần, các Ngân hàng thương mại Nhà nước sẽ phải tuân theo các quy định tại điều 21 nghị định 109. Theo đó, căn cứ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan có thẩm quyền quyết định, doanh nghiệp có trách nhiệm điều chỉnh số liệu trong sổ kế toán; bảo quản và bàn giao các khoản nợ và tài sản đã loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 14 và khoản 2 Điều 15 Nghị định 109; lập báo cáo tài chính doanh nghiệp giai đoạn từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
Đối với khoản chênh lệch tăng giữa giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại thời điểm doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ phần với giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp được xử lý như quy định tại điểm 2.4 phần II mục C thông tư 146.
Ở đây, nghị định 109 đã có sự điều chỉnh chênh lệch trong khoảng thời gian từ khi xác định giá trị doanh nghiệp đến khi công bố giá trị doanh nghiệp. Ngoài ra, nghị định còn xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan và tổ chức cá nhân có liên quan khi xảy ra các vấn đề về tài chính. Đây là một điểm tiến bộ, đã khắc phục được thiếu sót của nghị định 187 và đảm bảo được sự chính xác của giá trị doanh nghiệp.
Thứ ba, sau khi có sự điều chỉnh trên, Ban chỉ đạo cổ phần hóa sẽ chỉ đạo doanh nghiệp điều chỉnh sổ kế toán, lập hồ sơ bàn giao và tổ chức bàn giao giữa doanh nghiệp và công ty cổ phần. Công ty cổ phần được sử dụng toàn bộ tài sản, nguồn vốn đã nhận bàn giao để tổ chức sản xuất, kinh doanh; kế thừa mọi quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa đã bàn giao và có các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Các nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh nghiệp cổ phần hóa được xác định bổ sung sau khi đã quyết toán, bàn giao cho công ty cổ phần không thuộc trách nhiệm của công ty cổ phần. Trường hợp do bàn giao thiếu, dẫn đến việc công ty cổ phần không chịu trách nhiệm kế thừa nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp cổ phần hoá thì Giám đốc, Kế toán trưởng của doanh nghiệp cổ phần hoá và các tổ chức, cá nhân có liên quan hoàn toàn chịu trách nhiệm thanh toán nợ
Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
Điều 23 nghị định 109 quy định các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp bao gồm: phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu và các phương pháp khác. Tuy nhiên, pháp luật lại quy định chủ yếu với hai phương pháp chình là phương pháp tài sản và phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Pháp luật còn quy định, giá trị doanh nghiệp được xác định và công bố không được thấp hơn giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp tài sản. Có nghĩa là, việc định giá có thể xác định bằng nhiều phương pháp nhưng không được thấp hơn giá trị được tính bằng phương pháp tài sản.
2.1 Phương pháp tài sản
Phương pháp tài sản là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán là tổng giá trị tài sản thể hiện trong Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp.
Giá trị phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo sổ kế toán bằng giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán trừ (-) các khoản nợ phải trả, số dư Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có).
Giá trị thực tế của doanh nghiệp là giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp có tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp không bao gồm các khoản quy định tại Điều 28 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP. Căn cứ xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp:
Báo cáo tài chính tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp;
Số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê phân loại thực tế;
Tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá thị trường;
Giá trị quyền sử dụng đất, khả năng sinh lời của doanh nghiệp (vị trí địa lý, thương hiệu,...).
Đặc biệt, đối với các Ngân hàng thương mại Nhà nước khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn và giá trị quyền sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định.
Giá trị thực tế tài sản.
Giá trị thực tế tài sản được xác định bằng đồng Việt Nam. Tài sản đã hạch toán bằng ngoại tệ được quy đổi thành đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Cách tính đối với tài sản là hiện vật được quy định tại phần III.4.1 thông tư 146.Nguyên tắc khi định giá tài sản hiện vật là chỉ đánh giá lại những tài sản mà ngân hàng cổ phần tiếp tục sử dụng. Còn đối với tài sản bằng tiền gồm tiền mặt, tiền gửi và các giấy tờ có giá (tín phiếu, trái phiếu,...) của Ngân hàng được xác định như sau:
Tiền mặt được xác định theo biên bản kiểm quỹ.
Tiền gửi được xác định theo số dư đã đối chiếu xác nhận với ngân hàng khác nơi ngân hàng mở tài khoản.
Các giấy tờ có giá được xác định theo giá giao dịch trên thị trường. Nếu không có giao dịch thì xác định theo mệnh giá của giấy tờ.
Ngoài ra, giá trị tài sản ký cược, ký quỹ ngắn hạn và dài hạn được xác định theo số dư thực tế trên sổ kế toán đã được đối chiếu xác nhận. Giá trị tài sản vô hình (nếu có) được xác định theo giá trị còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán. Riêng giá trị quyền sử dụng đất được xác định theo quy định tại điểm 5 phần A Mục III Thông tư 146.
Giá trị lợi thế kinh doanh
Giá trị lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp được xác định theo hai phương pháp sau:
- Xác định theo tỷ suất lợi nhuận và lãi suất trái phiếu Chính phủ:
- Xác định trên cơ sở lợi thế về vị trí địa lý và giá trị thương hiệu:
Giá trị lợi thế vị trí địa lý của lô đất được xác định bằng chênh lệch giữa giá đất được xác định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường (theo quy định tại khoản 12 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất) so với giá do Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định và công bố vào ngày 01/01 của năm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp.
Giá trị thương hiệu (bao gồm: nhãn hiệu, tên thương mại) được xác định trên cơ sở các chi phí thực tế cho việc sáng chế, xây dựng và bảo vệ nhãn mác, tên thương mại của doanh nghiệp trong 10 năm trước thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp hoặc kể từ ngày thành lập đối với các doanh nghiệp có thời gian hoạt động của doanh nghiệp ít hơn 10 năm (bao gồm cả chi phí quảng cáo, tuyên truyền trong và ngoài nước để quảng bá, giới thiệu sản phẩm, công ty; xây dựng trang web...).
Ngoài ra, đối với giá trị vốn đầu tư dài hạn của doanh nghiệp tại các doanh nghiệp khác được xác định theo quy định tại Điều 32 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP.
Giá trị quyền sử dụng đất.
Việc tính giá trị quyền sử dụng đất để tính vào giá trị doanh nghiệp theo quy định tại Điều 30 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP và Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung một số Điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá đất, trong đó:
Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hình thức thuê đất:
Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá trả tiền thuê đất hàng năm thì không tính giá trị tiền thuê đất vào giá trị doanh nghiệp. Trường hợp doanh nghiệp có sử dụng các lô đất thuộc loại đất đô thị thì phải xác định giá trị lợi thế địa lý của lô đất để tính vào giá trị doanh nghiệp như quy định tại tiết a điểm 4.7 Mục A Phần III Thông tư 146.
Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá đã nộp tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đất hoặc đã nộp trước tiền thuê đất cho nhiều năm trước ngày 01/7/2004 (ngày Luật Đất đai có hiệu lực thi hành) thì doanh nghiệp cổ phần hoá căn cứ vào giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành vào ngày 01 tháng 01 của năm xác định giá trị doanh nghiệp và căn cứ tỷ lệ (%) đơn giá thuê đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định để xác định lại giá trị tiền thuê đất của thời gian đã trả tiền thuê đất còn lại. Phần chênh lệch tăng do xác định lại đơn giá thuê đất tại thời điểm định giá đối với thời gian còn lại của Hợp đồng thuê đất hoặc thời gian còn lại đã trả tiền thuê đất được tính tăng phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Phần chênh lệch giữa giá đất được xác định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường so với giá do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định và công bố vào ngày 01/01 của năm thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp được xác định là lợi thế vị trí địa lý và tính vào giá trị doanh nghiệp theo quy định nêu trên.
Ngân hàng cổ phần có trách nhiệm kế thừa (hoặc ký lại Hợp đồng thuê đất) và sử dụng đất đúng mục đích theo quy định của pháp luật đất đai. Ngân hàng cổ phần không phải nộp tiền thuê đất cho thời gian còn lại của Hợp đồng thuê đất hoặc thời gian còn lại mà doanh nghiệp cổ phần hoá đã trả tiền thuê đất.
Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất và đã nộp tiền sử dụng đất vào ngân sách nhà nước nay chuyển sang hình thức được nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hàng năm thì giá trị quyền sử dụng đất được giao không tính vào giá trị doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cổ phần hoá phải hoàn tất thủ tục chuyển từ giao đất sang thuê đất trước thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
Trường hợp doanh nghiệp thực hiện hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất.
Việc xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính giá trị doanh nghiệp được thực hiện như sau:
Đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá đang thực hiện hình thức thuê đất nay chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất phải tính giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp.
Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần là giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường theo quy định tại khoản 12 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất.
Trình tự và thủ tục giao đất, nộp tiền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thực hiện theo quy định tại Luật Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai.
Giá đất để xác định giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị doanh nghiệp cổ phần là giá đất do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quy định sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường trong điều kiện bình thường theo quy định tại khoản 12 Điều 1 Nghị định số 123/2007/NĐ-CP ngày 27/7/2007 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất. Nếu giá trị quyền sử dụng đất xác định lại cao hơn chi phí thực tế về quyền sử dụng đất đang hạch toán trên sổ kế toán thì khoản chênh lệch tăng được tính vào giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp.
e. Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
Giá trị thực tế phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp bằng tổng giá trị thực tế của doanh nghiệp trừ (-) các khoản nợ thực tế phải trả, số dư Quỹ phúc lợi, khen thưởng và số dư nguồn kinh phí sự nghiệp (nếu có). Trong đó, nợ thực tế phải trả là tổng giá trị các khoản nợ phải trả của doanh nghiệp trừ (-) các khoản nợ không phải thanh toán.
2.2 Phương pháp dòng tiền chiết khấu
Phương pháp dòng tiền chiết khấu (DCF) là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp trên cơ sở khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai. Đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chủ yếu trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây dựng, tin học và chuyển giao công nghệ, có tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn nhà nước bình quân 5 năm liền kề trước khi cổ phần hoá cao hơn lãi suất của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 5 năm tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Việc xử lý các khoản dự phòng theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 109/2007/NĐ-CP thực hiện tại thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển thành công ty cổ phần.
Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp:
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề trước khi xác định giá trị doanh nghiệp.
Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cổ phần hoá từ 3 năm đến 5 năm sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
Lãi suất của trái phiếu Chính phủ có kỳ hạn 05 năm tại thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp và hệ số chiết khấu dòng tiền của doanh nghiệp.
Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao.
Giá trị thực tế phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp được xác định tại phần III mục B điểm 4 thông tư 146.
Ngoài ra, giá trị thực tế của doanh nghiệp tại thời điểm định giá theo phương pháp DCF được xác định tại phần III mục B điểm 5 thông tư 146.
Chênh lệch tăng của vốn nhà nước giữa giá trị thực tế và giá trị ghi trên sổ kế._., trong đó nhà đầu tư xác định mức giá cao nhất và các nhà thầu (nhà đầu tư chiến lược) không được trả giá cao hơn mức giá đã được chủ đầu tư xác định. Trong khi mục đích bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài là bán được giá càng cao càng tốt và nhận được sự hỗ trợ kỹ thuật tối đa của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài. Tinh thần của quy định trên cũng được áp dụng đối với các nhà đầu tư thông thường khác, họ phải tham gia đấu giá trên thị trường chứng khoán (Trung tâm giao dịch chứng khoán/Sở Giao dịch chứng khoán) để mua được cổ phần phổ thông của ngân hàng cổ phần hoá.
Mặt khác, đấu giá tài sản, dịch vụ là việc bên bán đấu giá tài sản, dịch vụ xác định mức giá tối thiểu (giá khởi điểm) để những người tham gia đấu giá trả giá. Người mua được tài sản, dịch vụ là người trả giá cao nhất và không được thấp hơn giá khởi điểm.
Do vậy, nếu căn cứ vào quy định trên đây và quy định tại điểm c khoản 3 Điều 6 của Nghị định số 109, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài trả giá mua cổ phần thấp nhất sẽ là người được quyền mua cổ phần. Điều này hoàn toàn không phải là mong muốn của cả doanh nghiệp cổ phần hoá và Chính phủ vì khi bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược theo hình thức đấu thầu nêu trên, lợi ích của Nhà nước sẽ bị thiệt so với hình thức đấu giá riêng giữa các nhà đầu tư chiến lược.
Chính vì lý do trên, Nhà nước nên sớm sửa lại quy định tại điểm c khoản 3 Điều 6 của Nghị định số 109 “tổ chức đấu thầu riêng giữa các nhà đầu tư chiến lược” thành “tổ chức đấu giá riêng giữa các nhà đầu tư chiến lược” để bảo đảm tốt nhất lợi ích của Nhà nước khi bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược tại các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá.
Phương pháp xác định giá trị ngân hàng thương mại nhà nước
Một trong các điều kiện để doanh nghiệp được cổ phần hoá là phải còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.
Theo các chuyên gia, do hoạt động ngân hàng có tính đặc thù nên trong quá trình cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước có một số khó khăn đặc biệt là khó khăn trong việc định giá ngân hàng thương mại. Nguyên nhân chủ yếu là do tài sản của ngân hàng không những dựa vào giá trị sổ sách, mệnh giá, hay giá trị thị trường như hàng hoá thông thường mà còn dựa vào mức độ rủi ro, tính thanh khoản, mức sinh lời dự tính tài sản do chịu tác động của tỷ giá bởi vì nó luôn tồn tại dưới hai trạng thái là ngoại tệ và đồng tiền Việt Nam. Hơn nữa, phần lớn tài sản của ngân hàng là các khoản tín dụng nên giá trị tài sản phụ thuộc nhiều vào chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp vay vốn. Đồng thời, xác định giá trị thương hiệu của ngân hàng là vấn đề khá phức tạp. Đáng chú ý quá trình cổ phần hoá ngân hàng thương mại phải giải quyết triệt để các tranh chấp kinh tế, giải quyết nợ xấu... do đó có thể gây xáo trộn, mất ổn định kinh tế xã hội do hoạt động ngân hàng là lĩnh vực kinh tế nhạy cảm thường bị tác động của yếu tố tâm lý dẫn đến tác động xấu có tính dây chuyền.
Việc xác định thực tế giá trị ngân hàng để CPH không phải là vấn đề đơn giản, hiện nay đã có nhiều phương pháp để xác định giá trị tài sản hữu hình nhưng việc xác định giá trị tài sản vô hình đang gặp vướng mắc trong xác định thương hiệu và vị thế hoạt động.
Giá trị của ngân hàng thương mại Nhà nước được cổ phần hóa có thể tăng thêm khi định giá tài sản cố định, đặc biệt là bất động sản vì giá trị ghi trên sổ sách khi tính lại theo giá thị trường chắc chắn cao hơn nhiều.
Theo quy định của Nghị định số 109, tại Điều 22 khoản 1 về Tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp
1. Doanh nghiệp cổ phần hóa có tổng giá trị tài sản theo sổ kế toán từ 30 tỷ đồng trở lên hoặc giá trị vốn nhà nước theo sổ kế toán từ 10 tỷ đồng trở lên hoặc có vị trí địa lý thuận lợi phải thuê các tổ chức có chức năng định giá như: các công ty kiểm toán, công ty chứng khoán, tổ chức thẩm định giá, ngân hàng đầu tư trong nước và ngoài nước có chức năng định giá (dưới đây gọi tắt là tổ chức tư vấn định giá) thực hiện tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp.
Theo quy định này thì với giá trị tài sản khá lớn của mình, tất cả các ngân hàng thương mại nhà nước hiện nay sẽ đều phải thuê tổ chức tư vấn định giá để xác định giá trị doanh nghiệp.
Về nguyên tắc, tổ chức tư vấn định giá được lựa chọn các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp thích hợp để định giá, bảo đảm các nguyên tắc quy định của Nhà nước và chịu trách nhiệm về kết quả xác định giá trị doanh nghiệp. Điều 23 Nghị định số 109 Phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp. Có quy định các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp gồm: phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu và các phương pháp khác. Tuy nhiên, Điều 23 cũng lại yêu cầu Giá trị doanh nghiệp được xác định và công bố không được thấp hơn giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp tài sản quy định tại Mục 2 Chương này.
Tại Mục III.D.1 Thông tư 146/2007/TT-BTC, hướng dẫn thi hành Nghị định 109 cũng quy định, kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp dòng tiền chiết khấu hoặc phương pháp khác phải được so sánh với kết quả xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản cùng thời điểm để lựa chọn theo nguyên tắc: Giá trị doanh nghiệp được xác định và công bố không được thấp hơn giá trị doanh nghiệp xác định bằng phương pháp tài sản.
Như vậy, về lý thuyết, tổ chức tư vấn định giá có quyền lựa chọn một trong các phương pháp nói trên để xác định giá trị doanh nghiệp, nhưng thực tế, tổ chức này có thể phải xác định giá trị doanh nghiệp theo hai phương pháp khác nhau nếu phương pháp được chọn để xác định giá trị doanh nghiệp không phải là phương pháp tài sản. Và nếu vây, quá trình xác định giá trị doanh nghiệp sẽ tiêu tốn thêm cả thời gian lẫn sức lực; điều này sẽ làm tăng thời gian và chi phí của toàn bộ quá trình cổ phần hóa và sẽ không tận dụng được những ưu điểm của các phương pháp theo thông lệ quốc tế tốt nhất.
Đi kèm với đó là nguy cơ việc xác định giá trị doanh nghiệp sẽ thành vô giá trị nếu giá trị xác định được nhỏ hơn giá trị tính theo phương pháp tài sản. Và trong trường hợp này giá trị của doanh nghiệp sẽ được công bố là giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp tài sản chứ không phải là giá trị doanh nghiệp được xác định theo phương pháp khác.
Vướng mắc khi áp dụng phương pháp tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp
Đối với các tổ chức tín dụng, nếu áp dụng phương pháp tài sản để xác định giá trị doanh nghiệp, thì tổ chức tư vấn định giá được sử dụng kết quả kiểm toán báo cáo tài chính để xác định tài sản vốn bằng tiền, các khoản công nợ nhưng phải thực hiện kiểm kê, đánh giá đối với tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn và giá trị quyền sử dụng đất theo chế độ Nhà nước quy định
Vừa qua, Quyết định số 1289/QĐ-TTg ngày 26 tháng 9 năm 2007 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng quy định Ngoài áp dụng các phương pháp quốc tế trong xác định giá trị doanh nghiệp, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam thực hiện các bước xử lý tài chính, xác định giá trị quyền sử dụng đất và hình thức sử dụng đất sau cổ phần hóa, đánh giá tài sản khác … kết hợp với kết quả xác định giá trị doanh nghiệp của tổ chức tư vấn cổ phần hóa và định giá nước ngoài …. công bố giá trị doanh nghiệp và phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp theo số đánh giá lại (khoản 5 Điều 1 QĐ1289). Do vậy, sau khi xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản, ngân hàng phải hạch toán và điều chỉnh lại giá trị sổ sách. Điều này thường làm cho các nhà đầu tư thắc mắc về số liệu được hạch toán trong số sách kế toán của ngân hàng cổ phần hoá. Nhiều nhà đầu tư còn cho rằng việc không công nhận các số liệu trong báo cáo tài chính hằng năm của ngân hàng đã được kiểm toán quốc tế kiểm tra và xác nhận là không phù hợp với thông lệ quốc tế. Thêm nữa, giá trị doanh nghiệp có thể thay đổi theo thời gian (thậm chí là thay đổi theo từng ngày) do giá trị tài sản biến động theo giá thị trường. Đối với ngân hàng, thì nợ và doanh thu phát sinh hằng ngày tương đối lớn. Cho nên, kể cả trong trường hợp xác định lại theo phương pháp tài sản, thì giá trị doanh nghiệp cũng chỉ mang tính tương đối tại thời điểm xác định.
Hiện nay, một số tổ chức tư vấn quốc tế đang tư vấn định giá Vietcombank, MHB, Incombank, BIDV để thực hiện các thủ tục chuyển đổi các ngân hàng này sang ngân hàng thương mại cổ phần và họ rất ngạc nhiên về quy định nêu trên của Nghị định số 109. Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), nên pháp luật Việt Nam không nên có những quy định khác biệt so với pháp luật quốc tế và thông lệ quốc tế. Vì vậy, Bộ Tài chính - cơ quan được giao chủ trì soạn thảo Nghị định số 109 cần xem xét lại các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp tại Điều 23 của Nghị định số 109 để có đề xuất sửa đổi quy định đó cho phù hợp với thông lệ quốc tế và pháp luật quốc tế.
Đồng tiền thanh toán mua cổ phần của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
Theo quy định tại Điều 7 về Đồng tiền thanh toán mua cổ phần của Nghị định số 109, thì các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài mua cổ phần của doanh nghiệp bằng đồng Việt Nam. Cho nên, khi mua cổ phần của các ngân hàng thương mại nhà nước, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phải thanh toán bằng đồng Việt Nam. Tuy nhiên, Nghị định số 109 lại không hướng dẫn nhà đầu tư nước ngoài về thủ tục chuyển ngoại tệ ra nước ngoài vì rõ ràng nhà đầu tư chiến lược nước ngoài chỉ có vốn bằng ngoại tệ để thanh toán tiền mua cổ phần chứ không có đồng Việt Nam. Do đó, các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài rất khó trả lời về việc liệu có đủ số tiền đồng Việt Nam để thanh toán tiền mua cổ phần đúng thời hạn hay không khi đàm phán mua cổ phần với bên Việt Nam.
Số tiền đồng Việt Nam mà nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phải thanh toán tiền mua cổ phần bằng 20% vốn điều lệ của ngân hàng thương mại nhà nước là rất lớn. Tại Quyết định số 1289/QĐ-TTg phê duyệt phương án cổ phần hóa Vietcombank nêu trên, Thủ tướng Chính phủ đồng ý bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tối đa không quá 20% vốn điều lệ. Cũng theo Quyết định này, vốn điều lệ của Vietcombank được xác định là 15.000 tỷ đồng. Cho nên, 20% vốn điều lệ của Vietcombank là 3.000 tỷ đồng. Đây là số tiền lớn hơn vốn điều lệ của bất kỳ ngân hàng thương mại cổ phần nào ở nước ta hiện nay. Do vậy, nếu nhà đầu tư chiến lược nước ngoài muốn mua đồng Việt Nam tại một ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam, thì không có ngân hàng nào đủ lượng tiền đồng Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài trong một khoảng thời gian không phải là dài (thời gian mà nhà đầu tư chiến lược nước ngoài đã thỏa thuận nộp đủ tiền mua cổ phần theo hợp đồng mua cổ phần và quy định của Chính phủ).
Tiếp theo đó là các quy định về thời hạn như tại điều 44 và 45 nghị định 109:
Điều 44 Thời hạn hoàn thành việc bán cổ phần
Trong thời hạn 03 tháng, kể từ ngày quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa, doanh nghiệp phải hoàn thành việc bán cổ phần (kể cả bán cổ phần theo phương thức bảo lãnh phát hành và bán thoả thuận trực tiếp)”.
Điều 48 Khoản 1. Đại hội đồng cổ đông và đăng ký kinh doanh lần đầu
Trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày hoàn thành việc bán cổ phần, doanh nghiệp phải tổ chức Đại hội đồng cổ đông lần đầu để chuyển doanh nghiệp cổ phần hóa thành công ty cổ phần và đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Trong một khoảng thời gian không dài như trên (không quá 4 tháng), nhà đầu tư chiến lược nước ngoài vừa phải hoàn thành các thủ tục nội bộ (bao gồm thủ tục xin phép, chấp thuận tại tổ chức tín dụng nước ngoài và tại cơ quan có thẩm quyền nước ở sở tại để đầu tư ra nước ngoài), vừa phải đàm phán, thương lượng với ngân hàng cổ phần hoá để ký được hợp đồng mua cổ phần. Cho nên, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài khó có thể thu xếp được đủ một lượng tiền đồng Việt Nam bằng 20% vốn điều lệ của ngân hàng cổ phần hoá nếu không được cơ quan có thẩm quyền Việt Nam hỗ trợ.
Mặt khác, với một số tiền lớn như vậy các nhà đầu tư nước ngoài không thể bán cho các ngân hàng thương mại trong khi đó Ngân hàng Nhà nước không thể mua ngay một số lượng ngoại tệ bằng 20% vốn điều lệ của Vietcombank nói trên, vì việc Ngân hàng Nhà nước mua vào hoặc bán ra một lượng ngoại tệ nhất định phải cân nhắc thận trọng và tính toán kỹ lưỡng trên cơ sở chính sách tiền tệ quốc gia và cung - cầu ngoại tệ trên thị trường. Chẳng hạn như lượng ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại được phép hoạt động ngoại hối không đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân, thì Ngân hàng Nhà nước có thể “bơm thêm” vào nền kinh tế một lượng ngoại tệ thông qua các ngân hàng được phép nhằm bù đắp phần chênh lệch thiếu ngoại tệ trên thị trường. Ngược lại, Ngân hàng Nhà nước có thể mua vào một lượng ngoại tệ để cân đối cung - cầu ngoại tệ trên thị trường và tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia. Do đó, nếu thị trường ngoại tệ đang trong tình trạng bình thường mà Ngân hàng Nhà nước mua số ngoại tệ của nhà đầu tư chiến lược nước ngoài bằng 20% vốn điều lệ của Vietcombank, thì có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ quốc gia.
Một ví dụ cụ thể là trong năm 2007 vừa qua chúng ta đã chứng kiến chỉ số lạm phát cao kỉ lục trong nhiều năm, như nhiều nhà bình luận đã phát biểu thì việc một lượng lớn ngoại tệ đầu tư vào inước ta là một nguyên nhân của hiện tượng này. Trong năm 2007, Việt Nam đã hút được một lượng ngoại tệ lớn từ các nguồn khác nhau và theo công bố Ngân hàng Nhà nước đã mua vào khoảng 9 tỉ USD (tập trung chủ yếu vào tháng 6 đầu năm ngoái) để tăng dự trữ ngoại hối, tránh cho đồng VND lên giá, ảnh hưởng không tốt tới xuất nhập khẩu và nhập siêu.
Có thể nói là do dòng vốn nước ngoài vào mà chúng ta không hấp thụ được, trong đó phải đưa ra một lượng rất lớn nội tệ để mua ngoại tệ vào và lượng ngoại tệ mua vào đáng lẽ phải được quay vòng - biến thành đồng tiền mua thiết bị... giải ngân kém quá nên ứ lại.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, vấn đề đô-la hóa không thể một sớm một chiều khắc phục cơ bản được. Vì vậy cần tính đến những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế, cần được nhận thức chung trong dư luận và tính toán nhiều chiều hơn trong điều hành vĩ mô, trong khi chủ trương là tạm thời chưa phát hành trái phiếu ngoại tệ trong và ngoài nước cho đầu tư các dự án trọng điểm của quốc gia do lo ngại tình trạng Đôla hóa.
Chính vì lo sẽ không mua được đủ lượng đồng Việt Nam tại một ngân hàng thương mại ở Việt Nam hoặc tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nên nhiều đầu tư chiến lược nước ngoài đã đề nghị bên Việt Nam làm rõ cơ chế chuyển đổi. Trên thực tế, tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước công bố chỉ là tỷ giá mang tính chất định hướng, không phải là tỷ giá giao dịch thực sự trên thị trường. Do vậy, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam cần xem xét và có quy định về cơ chế mua ngoại tệ cho các nhà đầu tư chiến lược theo hướng sau:
- Đối với số tiền nhỏ (ví dụ dưới 100 triệu USD): nhà đầu tư có thể bán trên thị trường liên ngân hàng;
- Đối với số tiền lớn (ví dụ từ 100 triệu USD trở lên): thị trường liên ngân hàng có thể không hấp thụ được số lượng ngoại tệ lớn mà nhà đầu tư cần bán. Cho nên, Ngân hàng Nhà nước cần có ý kiến về việc có mua số ngoại tệ này hay không và cơ chế thực hiện, vì việc cung một lượng tiền đồng Việt Nam lớn để mua ngoại tệ có thể ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và mục tiêu tăng trưởng của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, để giảm sức ép về mua ngoại tệ, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể quy định phần góp vốn của nhà đầu tư (theo mệnh giá) và phần thặng dư để lại cho doanh nghiệp được thanh toán bằng đồng Việt Nam, còn phần Nhà nước thu về có thể được thanh toán bằng ngoại tệ.
Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi, vấn đề đô-la hóa không thể một sớm một chiều khắc phục cơ bản được. Vì vậy cần tính đến những khía cạnh khác nhau của nền kinh tế, cần được nhận thức chung trong dư luận và tính toán nhiều chiều hơn trong điều hành vĩ mô, trong khi chủ trương là tạm thời chưa phát hành trái phiếu ngoại tệ trong và ngoài nước cho đầu tư các dự án trọng điểm của quốc gia do lo ngại tình trạng Đôla hóa.
Giá bán cổ phần lần đầu cho các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài
Chính sách và mức giá khi đấu giá cổ phần lần đầu (IPO) mà các doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam đang tiến hành có thể đang làm nản lòng các đối tác chiến lược nước ngoài.
Khi Vietcombank tìm kiếm đối tác chiến lược vào năm ngoái, những tập đoàn tài chính lớn như là Goldman Sachs, GE Money (Mỹ) hay Mizuho & Nomura của Nhật Bản đều có ý định đầu tư vào ngân hàng quốc doanh lớn nhất của Việt Nam, một trong những nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất Châu Á. Việt Nam được đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng đối với những ngân hàng quốc tế, đất nước có tỉ lệ dân số sử dụng các dịch vụ tài chính hiện đại ở dưới 10% (trong tổng số 85 triệu dân), cùng với tốc độ phát triển nhanh chóng của nền kinh tế và khu vực ngân hàng thương mại, trong khi các hoạt động của những tập đoàn này đã và đang ngày càng bị thu hẹp. Vietcombank hi vọng một đối tác nước ngoài có uy tín sẽ giúp họ đạt được giá cao trong đợt IPO, cũng như tăng tính hiệu quả trong hoạt động nhằm cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đang thâm nhập vào thị trường. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài đã rút lui sau khi xem xét kỹ lại các điều luật của Việt Nam về việc mua cổ phần của các doanh nghiệp Nhà nước. Ở đây, mục tiêu muốn tối đa hóa lợi nhuận trong các cuộc đấu giá đã được đặt lên trên việc bảo đảm những lợi ích lâu dài cho các doanh nghiệp và nền kinh tế. Chính điều này đã gây cản trở cho các thương vụ và làm nản lòng các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư nước ngoài đã và đang chùn bước trước những qui định khác thường của Việt Nam. Điều 6 NĐ109/2007/NĐ-CP về đối tượng và điều kiện mua cổ phần, khỏan 3 điểm c quy định, “nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần theo giá không thấp hơn giá đấu thành công bình quân”. Theo đó, họ phải trả ở mức giá đặt mua trung bình của cuộc đấu giá ngay cả khi giá này cao hơn giá họ đặt mua.
Ông Tony Foster, một quan chức của Freshfields, cho rằng “các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đang hi vọng có một người nào đó mua với một mức giá mà họ chưa biết.” (Freshfields là một công ty luật nổi tiếng, đã từng tư vấn cho nhiều ngân hàng trên thế giới trong các thương vụ bí mật). “Tuy nhiên, không công ty đa quốc gia nào sẽ đâm đầu vào đó. Việc này cũng giống như kí vào một tấm séc trắng vậy”
Ông Trần Tiến Cường, trưởng ban nghiên cứu quản lí doanh nghiệp, viện nghiên cứu quản lý Trung ương, cũng thừa nhận rằng chúng ta cần phải xem lại tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhằm thu hút các nhà đầu tư toàn cầu. Điều cần thiết là phải có một sự cân bằng tốt hơn giữa giá bán và lợi ích lâu dài của các nhà đầu tư.
Trong quá trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước, Việt Nam đang học tập kinh nghiệm của Trung Quốc. Đất nước láng giềng này đã bắt đầu bán một phần cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước cho các nhà đầu tư nước ngoài từ thập niên 90, đặc biệt là cổ phần của các ngân hàng quốc doanh. Đây được coi là một biện pháp thi hành qui định bắt buộc công bố thông tin với thị trường và các cổ đông. Mục đích chính là tăng cường tính minh bạch và hiệu quả của doanh nghiệp trong sự quản lí chặt chẽ của nhà nước. Các công ty quốc tế đã hăm hở đầu tư, nhằm tạo mối quan hệ tốt đẹp với các nhà cầm quyền và đạt được một lợi thế trong các thị trường Đông Á đang bùng nổ mạnh mẽ. Với quá trình cổ phần hóa, Việt Nam hy vọng đạt được những mục tiêu tương tự.
Sau những khó khăn mà Vietcombank gặp phải, các nhà chức trách đã bắt đầu nhận ra những sự thiếu sót trong quá trình cổ phần hóa của mình. Theo ông Lê Song Lai, Phó Tổng giám đốc của SCIC, thì đang có một sự biến chuyển rõ rệt của Chính phủ trong việc ưu tiên các nhà đầu tư chiến lược. Do đó, khi Bảo Việt gặp khó khăn tương tự như ở Vietcombank, Thủ tướng Chính phủ có thể cho phép các nhà đầu tư nước ngoài trả mức giá thấp hơn mức giá đặt mua trung bình đạt được khi IPO.Thị trường chứng khoán Việt Nam đang rơi vào tình trạng ảm đạm, thời gian IPO của các ngân hàng thương mại nhà nước đang bị trì hoãn và chưa được xác định rõ. Vì vậy cần có những sự thay đổi mạnh mẽ về khuôn khổ pháp lý để tìm được những đối tác chiến lược nước ngoài.
Từ thực trạng về việc thực hiện những quy định của pháp luật về cổ phần hoá liên quan đến các ngân hàng thương mại nhà nước trên đây, thiết nghĩ, bên cạnh những quy định của pháp luật (Nghị định số 109) áp dụng chung cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có thể tham khảo các kiến nghị trên đây để ban hành quy định riêng áp dụng đối với việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước cho phù hợp với ngành nghề hoạt động kinh doanh đặc thù có điều kiện này.
Mức vốn giữ vai trò chi phối của nhà nước trong ngân hàng được cổ phần hóa.
Tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực, từng doanh nghiệp và mục tiêu cổ phần hoá, Nhà nước có thể giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước, vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
Ngân hàng thương mại nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa tuy hình thức chủ sở hữu có sự thay đổi nhưng vai trò chủ đạo trong việc triển khai thực hiện chính sách tiền tệ vẫn không thay đổi mà vẫn tiếp tục phát huy dưới hình thức mới được điều hành bởi một Hội đồng quản trị theo cơ chế quản lý phù hợp. Vì vậy, nhất thiết ngân hàng thương mại nhà nước khi thực hiện cổ phần hóa, vốn nhà nước tham gia phải nắm vai trò điều phối. Theo các Quyết định của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt đề án cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước của ngân hàng Vietcombank và mới nhất là MHB đều thể hiện tư tưởng nhất quán là nhà nước sẽ giữ tối thiểu là 51% vốn.
Việc này có thể thực hiện thông qua hình thức :
Một là, giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại Ngân hàng thương mại Nhà nước (xem đó là 51%), phần 49% còn lại sẽ phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn từ các cổ đông trong và ngoài nước.
Hai là, mức vốn điều lệ tăng đến đâu thì vốn của nhà nước luôn giữ tỷ trọng 51%.
Tuy nhiên, việc quy định Nhà nước vẫn nắm giữ tỷ lệ vốn tối thiểu 51%, sẽ có hai khó khăn cần được giải quyết :
- Hiện nay, ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn, không đủ vốn để luôn duy trì tỳ lệ 51% khi mức vốn điều lệ cần phải tăng cao theo yêu cầu.
- Khi Nhà nước nắm giữ số cổ phần khống chế và có quyền chỉ định các vị trí điều hành then chốt, các vấn đề nhân sự, cơ chế hoạt động… Như vậy về cơ bản sẽ chỉ là “bình mới rượu cũ”, hiệu quả hoạt động sẽ vẫn thấp, lợi ích đem lại không đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài.
Luật điều chỉnh Ngân hàng thương mại nhà nước sau khi đã cổ phần hóa.
Sau khi cổ phần hóa, các ngân hàng thương mại nhà nước đã là doanh nghiệp cổ phần. Tuy nhiên nhà nước vẫn chiếm cổ phần chi phối (trên 51%) trong các ngân hàng này. Do vậy, việc xác định văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động của ngân hàng thương mại sau cổ phần hóa vẫn là điều nan giải. Liệu ngân hàng thương mại cổ phần hóa ngoài việc thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Các tổ chức tín dụng 1997 sửa đổi bổ sung năm 2003 mà còn chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 hay Luật doanh nghiệp 2005.
Hơn nữa, việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc góp vốn, cũng như điều hành, hoạt động dẫn đến, các ngân hàng thương mại cổ phần hóa cũng có yếu tố vốn đầu tư nước ngoài. Như vậy, ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa cũng sẽ chịu sự điều chỉnh bởi Luật đầu tư nước ngoài.
Việc chưa quy định rõ loại hình của Ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa dẫn tới hiện tượng “lắm thầy nhiều ma”, loanh quanh không tìm được luật điều chỉnh các hoạt động của nó.
Một thực tế hiện nay, Luật các Tổ chức tín dụng 1997 (sửa đổi bổ sung năm 2003) chỉ quy định về nghiệp vụ: Tín dụng, ngoại hối, thanh toán…Trong khi đó, các quy định về thủ tục pháp lý, cơ cấu hoạt động…còn các vấn đề về cơ cấu tổ chức quản trị ngân hàng cổ phần vẫn theo các quy định của Chính phủ và Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Cụ thể là các văn bản dưới đây:
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/9/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại.
Quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính, ban hành kèm theo quyết định số 1087/2001/QĐ-NHNN ngày 27/8/2001 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Quy định về cổ đông, cổ phần và vốn điều lệ của ngân hàng thương mại cổ phần của nhà nước và nhân dân, ban hành kèm theo quyết định số 1122/2001/QĐ-NHNN ngày 4/9/2001 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Mẫu điều lệ Ngân hàng thương mại cổ phần của Nhà nước và nhân dân, ban hành kèm theo quyết định số 383/2002/QĐ-NHNN ngày 24/4/2002 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Quy chế cấp giấy phép thành lập và hoạt động Ngân hàng thương mại cổ phần, ban hành kèm theo quyết định số 24/2007/QĐ-NHNN.
Các văn bản trên chỉ căn cứ vào vài điều có tính nguyên tắc của Luật các tổ chức tín dụng, còn chủ yếu là dựa vào Luật doanh nghiệp 1999 và hiện nay là Luật doanh nghiệp 2005. Mặc dù căn cứ vào Luật doanh nghiệp nhưng lại có rất nhiều nội dung khác, thậm chí là trái với Luật doanh nghiệp. Điều 2 Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có quy định
Điều 2. Tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành phải phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất, thứ bậc hiệu lực pháp lý của văn bản trong hệ thống pháp luật.
Văn bản quy phạm pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải phù hợp với văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, trái với văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền bãi bỏ, đình chỉ việc thi hành.
Điều 80 cũng quy định rõ: Trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, thì áp dụng văn bản có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Theo các quy định trên thì những quy định về tổ chức và quản trị Ngân hàng trái với Luật doanh nghiệp trong các văn bản nói trên sẽ không có giá trị pháp lí. Do vậy, kiến nghị mà chúng tôi đưa ra là, cần phải có những quy định bảo đảm tính độc lập cao trong một đạo luật, tránh tình trạng các quy định chuyên ngành ngân hàng mâu thuẫn với các luật khác hoặc bị các luật ban hành sau phủ nhận. Nhất là luật doanh nghiệp.
Từ tất cả sự phân tích trên, chúng tôi đưa ra giải pháp cần phải luật hóa tất cả các văn bản dưới luật để đảm bảo tính hợp pháp của các quy định. Điều này sẽ giải quyết được mâu thuẫn giữa Luật doanh nghiệp và các văn bản dưới luật, cũng sẽ giải quyết được việc áp dụng Luật doanh nghiệp 2005 hay Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 đối với những vấn đề về cơ cấu và quản trị Ngân hàng thương mại cổ phần Nhà nước sau khi cổ phần hóa.
Cụ thể, theo ý kiến của nhóm chúng tôi, trong lần sửa đổi bổ sung Luật các Tổ chức tín dụng lần này, các nhà làm luật nên bổ sung thêm một chương để điều chỉnh họat động của các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi cổ phần hóa. Chương này không chỉ quy định về nghiệp vụ mà còn quy định thêm về cơ cấu tổ chức, hoạt động, … của loại hình ngân hàng này. Tức là, tất cả các văn bản dưới luật điều chỉnh loại hình ngân hàng này vốn tản mạn tại các văn bản khác nhau trước đây, bây giờ sẽ được tập trung tại chương này.
Như vậy, Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần tuy đã có nhiều điểm tiến bộ so với các văn bản trước đó về cổ phần hóa, nhưng với những thực trạng như trên đã phân tích, có thể thấy, Nghị định này vẫn chưa thực sự phù hợp với ngành nghề hoạt động kinh doanh đặc thù có điều kiện này. Do đó, bên cạnh những quy định của pháp luật (Nghị định số 109) áp dụng chung cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần ban hành quy định riêng áp dụng đối với việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước trong quá trình cổ phần hóa cũng như sau khi ngân hàng cổ phần hóa đi vào hoạt động.
***
KẾT LUẬN
C
hủ trương tiến hành cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước nói chung và ngân hàng thương mại nhà nước nói riêng đã thể hiện rõ đường lối, quan điểm nhất quán của Đảng và Chính phủ đã được xác định gần 16 năm qua và đã đạt được những bước tiến nhất định. Những điểm tích cực có, nhưng những điểm còn hạn chế vẫn còn, và đang tiếp tục nảy sinh. Do đó, việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý tốt sẽ góp phần quan trọng trong việc xác định hướng đi, cũng như cách thức đúng đắn để các Ngân hàng thương mại nhà nước từng bước thực hiện, góp phần phát triển kinh tế. Nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm tham luận đề cập đến vấn đề này.
Trong khuôn khổ của bài nghiên cứu khoa học này, chúng tôi đã phân tích những quy định của pháp luật trong quá trình cổ phần hóa các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Qua đó, chúng tôi có nêu ra một số điểm tồn tại của pháp luật cũng như vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi vẫn còn nhiều điểm sai sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn Th.s Nguyễn Vũ Hoàng/Th.s Trần Văn Nam đã tạo điều kiện và nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá trình hoàn thành đề tài.
Nhóm nghiên cứu
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nghị định 109/2007/NĐ-CP về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
Nghị định 110/2007/NĐ-CP về Chính sách cho người lao động dôi dư khi sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
Thông tư 146/2007/TT-BTC Ngày 06 Tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về tài chính khi thực hiện chuyển danh nghiệp 100% vốn Nhà nước thành công ty cổ phần theo quy định tại nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ.
Thông tư 20/2007/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện chính sách đối với người lao động theo Nghị định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 06 năm 2007 của Chính phủ về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần.
(Chúng em xin bổ sung sau)
MỤC LỤC
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 27638.doc