Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam

Lời mở đầu Không khí là một trong những thành phần cơ bản của môi trường sống, có vai trò vô cùng quan trọng trong việc duy trì sự sống của con người. Song môi trường không khí đã và đang ngày càng bị ô nhiễm một cách trầm trọng do chính hành vi của con người gây ra. Để tồn tại, phát triển và thoả mãn các nhu cầu ngày càng cao của mình, con người đã, đang và sẽ tiếp tục tác động một cách tiêu cực đến môi trường không khí. Khi môi trường không khí bị ô nhiễm đã gây ra những tác động ngược trở lạ

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1773 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i cho đời sống con người và trở thành một trong những vấn đề có tính toàn cầu thì bảo vệ môi trường không khí đã thu hút được sự quan tâm không chỉ của riêng Việt Nam mà của tất cả các quốc gia trên thế giới. Hoà chung với tiến trình hội nhập toàn cầu và xu thế chung trong bảo vệ môi trường mang tính quốc tế, Việt Nam đã sử dụng nhiều công cụ, thực hiện nhiều biện pháp khác nhau để giải quyết tình trạng ô nhiễm môi trường không khí, trong đó pháp luật được đánh giá là công cụ có hiệu quả nhất. Thông qua pháp luật, Nhà nước đã tác động đến các chủ thể khi họ có hành vi tác động đến môi trường không khí, qua đó định hướng cho các chủ thể thực hiện hành vi có lợi hơn cho môi trường không khí, góp phần bảo vệ môi trường không khí. Nhưng pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam trong những năm vừa qua lại là một bộ phận được quan tâm muộn và chưa thật sự đúng đắn, chỉ đến gần đây, khi tình trạng ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam đã trở nên trầm trọng thì nó mới thực sự được quan tâm một cách đúng mức. Tuy vậy, cho đến nay ở Việt Nam vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào điều chỉnh riêng về bảo vệ môi trường không khí sạch, mà ta chỉ có thể tìm thấy một số quy phạm pháp luật về vấn đề này trong các văn bản có liên quan. Điều đó cho thấy hiện trạng văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, tản mạn và chồng chéo, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ môi trường không khí hiện nay. Điều này đã khiến cho môi trường không khí ở Việt Nam trong thời gian qua và hiện nay đang trở nên khó giải quyết và ngày càng tồi tệ. Từ sự cấp thiết trên, tôi đã chọn đề tài: “Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam” làm đề tài cho Khoá luận tốt nghiệp của mình. Trong phạm vi của Khoá luận này, tôi chỉ dừng lại ở việc phân tích nội dung các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam hiện nay, tìm hiểu một số thực trạng áp dụng các quy định này trên thực tiễn trong thời gian qua, từ đó có đặt ra một số yêu cầu hoàn thiện và trên cơ sở đó đã tìm hiểu và đưa ra một số giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam trong thời gian tới. Kết cấu của Khoá luận được trình bày bao gồm: ngoài lời nói đầu và kết luận, khoá luận gồm 3 chương sau: Chương I: Những vấn đề chung về môi trường không khí và pháp luật bảo vệ môi trường không khí. Chương II: Những nội dung chủ yếu của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Chương III: Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam và một số giải pháp hoàn thiện. Do khả năng và kiến thức thực tế còn hạn chế nên Khoá luận sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, đóng góp ý kiến từ các thầy cô và các bạn cho Khoá luận được hoàn thiện hơn. Chương I: Những vấn đề chung về môi trường không khí và pháp luật về bảo vệ môi trường không khí 1.1. Ô nhiễm môi trường không khí 1.1.1. Các khái niệm: không khí, ô nhiễm môi trường không khí Không khí “là hỗn hợp khí gồm có Nitơ chiếm 78.9%, oxy chiếm 20.59%, Acgong chiếm 0.93%, đioxit cacbon chiếm 0.32% và một số hiếm khí khác như Nêon, Hêli, Mêtan, Kripton. ở điều kiện bình thường của độ ẩm tuyệt đối, hơi nước chiếm gần 1.3% thể tích không khí” Giáo trình Luật môi trường - Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội- 2003, trang 235. . Nếu trong môi trường không khí có lẫn một số loại khí chất khác có gây ảnh hưởng đến đời sống của con người, của động vật và thực vật thì môi trường không khí đó bị coi là ô nhiễm. Khi đó ô nhiễm không khí được hiểu là sự có mặt một chất lạ hoặc một sự biến đổi quan trọng trong thành phần không khí, làm cho không khí không sạch hoặc gây ra sự toả mùi, có mùi khó chịu, giảm tầm nhìn xa (do bụi). ô nhiễm môi trường không khí “được xác định bằng sự biến đổi môi trường theo hướng không tiện nghi, bất lợi đối với cuộc sống của con người, của động vật và thực vật, mà sự ô nhiễm đó lại do hoạt động của con người gây ra với quy mô, phương thức và mật độ khác nhau, trực tiếp hoặc gián tiếp tác dụng, làm thay đổi mô hình, thành phần hoá học, tính chất vật lý và sinh học của môi trường không khí” GS.TS Phạm Ngọc Đăng, Môi trường không khí, NXB Khoa học và Kỹ thuật, HN - 1997, trang5. . Theo phương diện pháp lý, căn cứ vào khái niệm về “ô nhiễm môi trường” được quy định tại Khoản 4 - Điều 2 - Luật bảo vệ môi trường 1993 thì ô nhiễm môi trường không khí được hiểu là sự thay đổi tính chất của môi trường không khí, vi phạm tiêu chuẩn môi trường không khí đã được quy định. Ô nhiễm môi trường không khí bị gây ra bởi nhiều nguồn gây ô nhiễm khác nhau, không kể đến các nguồn ô nhiễm môi trường không khí do tự nhiên (như sự phun trào núi lửa, cháy rừng, bão bụi, quá trình phân huỷ, thối rữa xác động vật, thực vật tự nhiên cũng phát thải những chất khí), có thể liệt kê các nguồn ô nhiễm nhân tạo (do hoạt động của con người gây ra) như sau: Giao thông vận tải (nguồn ô nhiễm di động): bao gồm giao thông bộ, đường sắt, giao thông thủy, hàng không. Các cơ sở công nghiệp đốt nhiên liệu (than, dầu, khí) – nguồn thải cố định. Các quá trình sản xuất công nghiệp, đặc biệt là quá trình sản xuất hoá chất, sản xuất vật liệu, luyện kim và khai thác mỏ. Các nguồn ô nhiễm khác: sinh hoạt của nông dân (đun bếp, đốt chất thải), sản xuất nông nghiệp, bốc hơi từ ô nhiễm nước mặt, xây dựng công trình, cháy rừng. Trong các nguồn trên, nguồn ô nhiễm nhân tạo lớn nhất là do quá trình đốt nhiên liệu (than, dầu khí) gây ra. Môi trường không khí từ lâu đã bị ô nhiễm và ngày càng trầm trọng. Hiện nay, chi phí mà các nước bỏ ra cho việc phục hồi môi trường nhằm đảm bảo phát triển bền vững là rất lớn, ví dụ: Lào hàng năm phải chi khoảng 7,43% tổng thu nhập quốc dân cho bảo vệ môi trường, Campuchia là 5,5%, Trung Quốc là 4,7% và Việt Nam là 7,2%. ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm môi trường không khí nói riêng không chỉ là vấn đề riêng của một quốc gia nào mà nó đã trở thành vấn đề toàn cầu vì chúng ta “chỉ có một quả đất” (Lời kêu gọi toàn thế giới do hội nghị môi trường toàn nhân loại năm 1972 đưa ra). Vì vây cần phải có sự hợp tác chặt chẽ, giúp đỡ giữa các quốc gia trên thế giới. Là một quốc gia đang trên đường phát triển, khi ô nhiễm môi trường không khí ngày càng trầm trọng thì vấn đề này được đặt ra đối với Việt Nam phải càng được đề cao hơn bao giờ hết. 1.1.2. ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường không khí đối với đời sống cộng đồng Con người không thể sống thiếu không khí bởi lẽ không khí là một trong những yếu tố cơ bản nhất để duy trì sự sống. Nhưng môi trường không khí ngày nay đã bị ô nhiễm một cách trầm trọng kéo theo những hậu quả khủng khiếp của nó đã trở thành vấn đề chung của toàn cầu. Ô nhiễm không khí không phải là vấn đề mới phát hiện ra, nó đã được nói đến cách đây hàng nhiều thế kỷ. Hơn 300 năm trước đây nhà khoa học Jonh Evalyn, chuyên về bút ký và ghi chép khoa học đã minh hoạ với độ chính xác cao về tác động của ô nhiễm môi trường không khí do sự đốt cháy của nhiên liệu gây ra, như làm đục bầu trời, giảm bớt bức xạ mặt trời chiếu xuống trái đất, làm con người bị đau yếu và tử vong, phiền muộn và lo âu hít phải bụi, khói, khí độc và nó gây ra han gỉ vật liệu. Tuy nhiên ô nhiễm môi trường không khí, một mối quan tâm của công chúng chỉ mới được nhận thức trong thời gian gần đây, kể từ khi có sự bùng nổ phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ; con người càng ngày càng thấy rõ ràng là sự ô nhiễm môi trường không khí do chất thải công nghiệp và giao thông vận tải gây ra đã làm thiệt hại rất lớn về vật chất đối với nền kinh tế quốc dân và làm tăng bệnh tật đối với nhân dân. Điều này đã được khẳng định ở Hội nghị về “Con người và môi trường xung quanh” của Liên hiệp quốc tại Stockhom tháng 6/1972. Ô nhiễm môi trường không khí thể hiện ở việc chất lượng môi trường sống của con người bị suy giảm, nồng độ các chất độc hại trong không khí vượt quá chỉ tiêu cho phép và thể hiện rõ nhất ở các tác hại do ô nhiễm môi trường không khí gây ra cho con người: không khí bị ô nhiễm có thể gây ra một số bệnh nguy hiểm, nhất là các bệnh về đường hô hấp. Trong lịch sử, ô nhiễm môi trường không khí đã gây ra rất nhiều thảm hoạ khủng khiếp đối với con người. Có thể kể đến thảm hoạ đầu tiên trong thế kỷ 20 do ô nhiễm môi trường không khí gây ra là hơi khói công nghiệp phát ra đã bị hiện tượng khí hậu “nghịch đảo nhiệt” kìm hãm phát tán, đã gây ra đầu độc ở thành phố thung lũng Manse (Bỉ) vào năm 1930, và tương tự ở thung lũng dọc theo sông Monongahela vào năm 1948. Trong các vụ thảm hoạ ô nhiễm môi trường này hàng trăm người đã chết. Hiện tượng “nghịch đảo nhiệt” đã làm tăng nồng độ hơi khói gây ngạt ở London năm 1952, nồng độ bụi trong không khí cao nhất đạt đến 4,46mg/m3, tức cao gấp 10 lần so với bình thường, làm chết và bị thương 4000- 5000 người. Thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử loài người do ô nhiễm môi trường không khí gây ra đó là vụ rò khí MIC (khí methyl- iso- cyanate) của Liên hiệp sản xuất phân bón ở Bhopal (ấn Độ) vào năm 1984 làm khoảng 2 triệu người ở Bhopal đã bị nhiễm độc GS.TS Phạm Ngọc Đăng, Môi trường không khí, NXB Khoa học và kỹ thuật, HN- 1997, trang 6. . Chất lượng môi trường không khí của các nước trên Thế giới đã ngày càng bị suy giảm, đặc biệt tại các thành phố lớn, chất lượng không khí đã trở lên tồi tệ. Ví dụ: Vào tháng 3 năm 1992, nhân dân thành phố Mêhicô, thủ đô của Mêhicô đã trải qua những ngày rất khó khăn, vì 2,5 triệu chiếc xe hơi và khoảng 30 nghìn xí nghiệp công nghiệp của thành phố hoạt động đã thải vào không khí mỗi năm khoảng 4,3 triệu tấn chất thải, đã làm cho nồng độ các khí ô nhiễm trong không khí gấp 3 lần tiêu chuẩn cho phép. Thành phố đã phải áp dụng biện pháp khẩn cấp là các trường học phổ thông phải tạm thời đóng cửa, giảm bớt giờ sinh hoạt và làm việc ngoài trời của người lớn; tạm ngừng hoạt động của 1 triệu xe ôtô, hàng chục nhà máy, xí nghiệp công nghiệp phải tạm ngừng hoặc giảm kế hoạch sản xuất. Những ngày đầu tháng 4 - 2005, nhân dân ở Bắc kinh đã phải trải qua một đợt “nghịch đảo nhiệt”, mật độ hạt bụi lơ lửng gần mặt đất đang ở mức nguy hiểm từ 400 – 500 microgam trong mỗi mét khối khí. Cục bảo vệ môi trường Bắc Kinh đã khuyến cáo nhân dân Bắc Kinh nên ở trong nhà vì bầu trời thành phố đang bị bao phủ bởi một lớp sương mù màu vàng ô nhiễm đến độ nguy hiểm nghiêm trọng. Theo kết quả đánh giá, Bắc Kinh là thành phố thường xuyên rơi vào tốp những thành phố có chất lượng không khí tồi tệ nhất cả nước Trung Quốc và trên thế giới. Nguồn: ô nhiễm môi trường không khí ở Bắc Kinh. Tiếp đến, phải nói đến tác hại có ảnh hưởng lớn của ô nhiễm môi trường không khí gây ra đó là sự thay đổi của khí hậu toàn cầu dưới tác động của nhiều yếu tố như: sự gia tăng dân số với những tác động của nó đến môi trường, rừng bị tàn phá nhưng quan trọng nhất là sự gia tăng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính. Từ thời kì tiền công nghiệp, nhất là từ năm 1980 đến nay, cùng với sự phát triển công nghiệp mạnh mẽ, đã và đang làm tăng dần nồng độ các khí nhà kính trong khí quyển như CO2 lên 31%, CH4 lên 15% và N2O lên 17%, mà hệ quả của nó làm nhiệt độ Trái Đất tăng nhanh trong những thập kỷ qua, đặc biệt là những năm cuối của thập kỷ 90. Phần đóng góp của CO2, CH4 và N2O vào quá trình nóng lên toàn cầu được ước tính CO2: 70-72%, CH4: 20% và N2O: 6-7%. Kết quả là trong 100 năm qua, nhiệt độ trung bình toàn cầu tăng khoảng 0,6oC và khoảng 1,5oC- 4,5oC trong 50 năm tới (Theo dự đoán của UB TG về MT và phát triển LHQ trong báo cáo nhan đề “Tương lai của chúng ta” năm1986). Không khí nóng lên dẫn đến thay đổi bất thường của khí hậu. Biểu hiện tiêu biểu của những biến đổi này là sự xuất hiện của hiện tượng El Nino cùng với nó là hiện tượng La Nina và gần đây khối băng lớn nhất Nam Cực đã bị phá vỡ, đợt nắng nóng kéo dài ở ấn Độ làm hơn 70 người chết. Việc Mỹ - nước phát thải lượng khí lớn nhất rút khỏi Nghị định thư Kyoto về thay đổi khí hậu toàn cầu làm cho sự hợp tác bảo vệ khí hậu toàn cầu gặp nhiều khó khăn. ô nhiễm không khí cũng là một trong những nguyên nhân gây suy giảm và thủng tầng ôzôn. Trong những năm 80, mật độ trung bình tầng ôzôn bị suy giảm mất 5% trên vùng nam cực và 4% trên toàn thế giới. Sự tồn tại của tầng ôzôn có ý nghĩa quan trọng đối với Trái đất trên nhiều phương diện: nó ngăn không cho tia cực tím trong vũ trụ xâm nhập vào trái đất, gây những tác hại cho con người và các hệ sinh thái; nó đóng vai trò của lớp vỏ trái đất, ngăn cho bầu khí quyển bao quanh trái đất không nóng lên bởi năng lượng mặt trời. Vì vậy sự suy giảm hay những lỗ thủng của tầng ôzôn sẽ tạo ra những biến đổi xấu của khí hậu trên Trái đất, như: sự suy giảm tầng ôzôn sẽ làm tăng lượng bức xạ tử ngoại UV- B đến mặt đất và làm tăng các phản ứng hoá học dẫn tới ô nhiễm khí quyển; khói mù và mưa axit sẽ tăng lên do các chất tạo thành mưa axit tăng lên cùng với sự phát triển của hoạt động của tia UV- B. Một trong những hậu quả nữa của sự ô nhiễm không khí là mưa axit. Đây có thể được coi là một hậu quả nguy hại nhất. Mưa axít chính xác là sự lắng đọng axít trong sương mù và tuyết. Khi đọng lại trên đất, axít làm nước nhiễm độc và làm hư hỏng tầng đất màu nhạy cảm, giết chết cây cối và các loài thủy sinh. Sự lắng đọng axít còn làm tăng thêm tốc độ ăn mòn vật liệu xây dựng trong các công trình kiến trúc. Khói mù quang hoá cũng là một dạng ô nhiễm không khí nghiêm trọng khác. Mù quang hoá như những chất gây ô nhiễm đã phá hoại tàn tệ rừng cây, mùa màng và cơ quan hô hấp của động vật. Thứ khói mù này lúc đầu không gây chết người nhưng nếu tồn tại kéo dài trong một thời gian sẽ tích tụ lại gây nhiều tai hoạ. Môi trường không khí toàn cầu đã và đang bị ô nhiễm ngày càng trầm trọng, chất lượng môi trường sống của con người ngày càng bị suy giảm. Môi trường không khí bị ô nhiễm là do nhu cầu phát triển của chính con người gây ra và khi đã vượt quá giới hạn chịu đựng của mình, môi trường không khí đã bị ô nhiễm đó lại có tác động ngược trở lại, gây ra cho con người những thảm hoạ khủng khiếp, những tác hại về nhiều mặt. ô nhiễm không khí rất dễ lan truyền, khó kiểm soát và cũng rất khó khắc phục, chính vì vậy việc bảo vệ môi trường không khí đã trở thành vấn đề toàn cầu chứ không chỉ của riêng một quốc gia nào. 1.1.3. Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam. Giống như hầu hết các nước trên thế giới, Việt Nam cũng đang đứng trước những thách thức hết sức lớn lao về nạn ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm không khí nói riêng. Ô nhiễm môi trường không khí đang là một vấn đề bức xúc đối với môi trường đô thị, công nghiệp và các làng nghề ở nước ta hiện nay. Quá trình công nghiệp hoá càng mạnh, đô thị hoá càng phát triển thì nguồn thải gây ô nhiễm môi trường không khí càng nhiều, áp lực làm biến đổi chất lượng không khí theo chiều hướng xấu càng lớn, yêu cầu quản lý chất lượng môi trường không khí càng cao. Ô nhiễm môi trường không khí ở Việt Nam bao gồm các loại sau xét theo các tác nhân gây ô nhiễm: Ô nhiễm bụi: ở hầu hết các đô thị nước ta đều bị ô nhiễm bụi, nhiều nơi bị ô nhiễm bụi trầm trọng, tới mức báo động. Các khu dân cư ở cạnh đường giao thông lớn và ở gần các nhà máy, xí nghiệp cũng bị ô nhiễm bụi rất lớn. Nồng độ bụi trong các khu dân cư ở xa đường giao thông, xa các cơ sở sản xuất hay trong các khu công viên cũng đạt tới xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép (TCCP). Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số TCCP từ 2-3 lần, ở các nút giao thông thuộc các đô thị này nồng độ bụi lớn hơn TCCP từ 2-5 lần, ở các khu đô thị mới đang diễn ra quá trình thi công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ bụi thường vượt TCCP từ 10-20 lần. Bảng 1: Diễn biến nồng độ bụi lơ lửng (mg/m3) trung bình năm trong không khí tại các KCN từ năm 1995 đến 2002 Ô nhiễm khí SO2, CO, NO2: Nhìn chung, nồng độ khí SO2, CO, NO2 trung bình ở các đô thị và khu công nghiệp nước ta còn thấp hơn trị số TCCP. Nồng độ trung bình khí SO2, CO và NO2 trong không khí ở hầu hết các đô thị Việt Nam đều nhỏ hơn hoặc xấp xỉ trị số TCCP, tức là chưa bị ô nhiễm khí SO2, NO2 và CO. Tuy vậy ở các nút giao thông chính và ở gần một số khu công nghiệp, một số xí nghiệp nung gạch ngói, nồng độ các khí này đã xấp xỉ bằng hoặc lớn hơn trị số TCCP, có nơi tới 2-3 lần. Bảng 2: Diễn biến nồng độ khí SO2 (mg/m3) trung bình năm từ năm 1995 đến năm 2002 trong không khí tại các KCN Ô nhiễm chì (Pb) trong không khí đô thị: Thực hiện chỉ thị 24/2000/CT-TTg của Thủ tướng Chính Phủ, Việt Nam đã sử dụng xăng pha chì từ ngày 01/07/2001. Số liệu quan trắc môi trường không khí cho thấy nồng độ chì trong không khí ở Hà Nội trung bình năm 2002 giảm đi khoảng 40-50% so với cùng thời kỳ năm trước, ở TP.Hồ Chí Minh giảm đi khoảng 50%. Ô nhiễm mùi: ở nước ta, ô nhiễm mùi thường xảy ra ở 2 bên bờ kênh rạch thoát nước trong đô thị do sự thối rữa các chất ô nhiễm hữu cơ, vi sinh vật và rác thải phân huỷ phát sinh các khí ô nhiễm như H2S, NH3, CH4; ô nhiễm mùi hôi tanh ở một số đô thị ven biển có cảng cá và chế biến hải sản, ô nhiễm mùi hôi hoá chất ở gần các xí nghiệp chế biến mủ cao su, nhà máy phân hoá học. Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có tiêu chuẩn giới hạn tối đa cho phép về ô nhiễm mùi, các nghiên cứu về xử lý, khống chế ô nhiễm mùi cũng chưa nhiều. Ô nhiễm tiếng ồn đô thị: Cùng với sự phát triển đô thị là sự tăng trưởng giao thông vận tải trong đô thị - đó là tác nhân chủ yếu gây ô nhiễm tiếng ồn đô thị. Phần lớn các đô thị nước ta có mức ồn ban đêm đều dưới hoặc xấp xỉ 70dBA, tức là thoả mãn TCCP, nhưng vào các giờ ban ngày thì mức ồn giao thông ở nhiều đô thị biến thiên từ 70-75dBA, một số đường phố lớn có mức ồn từ 80-85dBA. Ngoài ra, cũng cần phải kể đến hiện trạng ô nhiễm môi trường lao động trong công nghiệp ở Việt Nam hiện nay: Theo số liệu điều tra nhiều năm của Viện bảo hộ lao động (Tổng công đoàn) và Viện Y tế lao động và vệ sinh môi trường (Bộ Y tế) thì nồng độ bụi và khí độc hại trong rất nhiều nhà máy đều vượt TCCP nhiều lần, đặc biệt là trong các nhà máy sàng tuyển quặng, công nghiệp vật liệu xây dựng (xi măng lò đứng), công nghiệp luyện kim. Ô nhiễm ở các vùng mỏ rất nghiêm trọng, đặc biệt là ô nhiễm bụi. Nồng độ bụi ở khu khai thác than và sản xuất vật liệu xây dựng thường dao động từ 20 đến 200mg/m3. Nồng độ bụi trên các tuyến giao thông đường bộ rất lớn, khi đường được tưới nước cũng gấp hàng chục lần, khi không được tưới nước gấp hàng trăm lần trị số TCCP. Khi nổ mìn, môi trường không khí vùng mỏ còn bị ô nhiễm khí CO2, NO2 và CO. Trên đây là những số liệu nói lên hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí ở nước ta hiện nay. Qua đó nhận thấy chất lượng môi trường không khí ở nước ta, đặc biệt là tại các đô thị, khu công nghiệp có sự biến đổi hàng năm, theo chiều hướng bất lợi vì chất thải ô nhiễm từ sản xuất công nghiệp, giao thông vận tải, hoạt động xây dựng và sinh hoạt đô thị ngày càng tăng về số lượng, chủng loại và tính độc hại. Trong những loại ô nhiễm không khí trên tại Việt Nam thì sự ô nhiễm về bụi và khí độc hại là nguy hiểm nhất: nồng độ khí độc hại ở một số đô thị đã vượt tới mức báo động; đặc biệt trong năm 2004, tại Hà Nội đã xuất hiện những đám sương mù độc do khói xăng của các phương tiên giao thông gây ra. Môi trường không khí bị ô nhiễm có tác động xấu đối với sức khoẻ của con người (đặc biệt là gây ra các bệnh về đường hô hấp), ảnh hưởng đến các hệ sinh thái và biến đổi khí hậu. Những nghiên cứu bước đầu gần đây cho thấy những bệnh liên quan đến ô nhiễm không khí ở các thành phố lớn của Việt Nam đang có xu hướng tăng nhanh như hen phế quản, dị ứng... Ví dụ như: người dân ở đô thị và xung quanh các khu công nghiệp phải hít thở không khí ngày càng bị ô nhiễm hơn, nhiều nghiên cứu dịch tễ ở Hà Nội và Hải Phòng đã chứng minh tỷ lệ số người bị mắc các bệnh về đường hô hấp, bệnh tinh thần và bệnh tim mạch ở các khu đô thị gần khu công nghiệp bị ô nhiễm không khí, lớn hơn gấp 2-5 lần so với khu đô thị không bị ô nhiễm không khí. Đứng trước hiện trạng về chất lượng môi trường không khí như trên, yêu cầu phải bảo vệ môi trường không khí là nhiệm vụ hết sức cấp bách và là thách thức của toàn nhân loại nói chung và nhân dân Việt Nam nói riêng. 1.2. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật Qua phần trình bày trên, ta có thể thấy: ô nhiễm môi trường không khí ngày càng trở nên trầm trọng không chỉ ở riêng Việt Nam mà trên toàn thế giới; ô nhiễm không khí đã, đang và sẽ gây ra những tác hại khôn lường cho con người. Yêu cầu đặt ra với bất kể quốc gia giàu hay nghèo đều phải phát triển kinh tế hài hoà với hệ thống môi sinh và tài nguyên thiên nhiên, bởi lẽ bảo vệ môi trường là một trong những mục tiêu cực kỳ quan trọng tạo nên cuộc sống bền vững cho mọi người. Của cải quý nhất mà xã hội hiện tại để lại cho con cháu không chỉ là những thứ được làm ra mà còn chính là những gì mà xã hội giữ gìn từ sự cân bằng tốt nhất của môi trường thiên nhiên, trong đó có yêu cầu đảm bảo môi trường không khí được trong lành. Vì vậy yêu cầu bảo vệ môi trường không khí là thật sự cần thiết và cấp bách. Một trong những hình thức bảo vệ môi trường không khí là thông qua pháp luật. Sở dĩ pháp luật có thể đảm đương được nhiệm vụ này là do pháp luật có tính đặc thù riêng của nó. Tính đặc thù của pháp luật có ý nghĩa rất to lớn trong việc điều chỉnh các hành vi tác động tới môi trường: pháp luật bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật là những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung nhằm điều chỉnh hành vi con người khi tác động vào môi trường không khí và nó được bảo đảm thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, chính tính cưỡng chế là một thế mạnh đặc biệt của pháp luật để bảo đảm cho các quy định của pháp luật được thực thi trong thực tế đời sống. Do đó, bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay là sự cần thiết tất yếu. Sự cần thiết phải bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật còn có thể được lý giải bởi các lý do khách quan sau: - Trước hết là do nhu cầu của cộng đồng được sống trong môi trường trong lành: không khí là nguồn cung cấp oxi cần thiết cho hoạt động bình thường của các sinh vật trên trái đất (con người), vì vậy việc bảo vệ không khí trong lành là mối quan tâm của con người vì chất lượng cuộc sống. - Do sự tác động tới môi trường không khí của các hoạt động phát triển của con người, đặc biệt từ sau bùng nổ của cách mạng công nghệ và khoa học kỹ thuật; sự phát triển kinh tế đã kéo theo nhiều tác động to lớn đến môi trường không khí: khí thải công nghiệp, khí thải giao thông vận tải, khí thải từ rác thải sinh hoạt. - Do tính phức tạp của các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình bảo vệ môi trường không khí vì hoạt động bảo vệ môi trường không khí không phải là trách nhiệm của riêng Nhà nước mà nó là trách nhiệm của cả cộng đồng nên cần phải có pháp luật để bảo đảm cho các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động đó được ổn định và phù hợp với yêu cầu của bảo vệ môi trường không khí. - Bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng được thực hiện bởi sự kết hợp giữa nhiều biện pháp khác nhau như: biện pháp chính trị, biện pháp kinh tế, biện pháp khoa học-công nghệ, biện pháp giáo dục và biện pháp pháp lý. Nhưng các biện pháp đó chỉ được thực hiện dựa trên quy định của pháp luật; nói cách khác, pháp luật là cơ sở để thực thi các biện pháp đó một cách có hiệu quả trên thực tế bởi pháp luật được sử dụng để tác động trực tiếp tới hành vi của người gây ô nhiễm môi trường nhằm hạn chế những tác động xấu mà họ có thể gây ra cho môi trường cũng như khuyến khích họ thực hiện các hành vi có lợi hơn cho môi trường không khí. Như vậy, bảo vệ môi trường không khí là tất yếu, phù hợp với các yêu cầu khách quan của đời sống xã hội. Bảo vệ môi trường không khí có thể được thực hiện dựa trên sự kết hợp của nhiều biện pháp khác nhau, song không thể thiếu công cụ pháp luật. Đây là công cụ bảo đảm tính thống nhất, là cơ sở, nền tảng cho mọi hoạt động khác để bảo vệ môi trường không khí. 1.3. Khái niệm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam 1.3.1. Khái niệm Luật môi trường là một lĩnh vực pháp luật tương đối mới không chỉ đối với hệ thống pháp luật Việt Nam mà còn cả đối với hệ thống pháp luật của nhiều nước đang phát triển khác. Điều đó được lý giải bởi nhiều lý do khác nhau, nhưng lý do phổ biến được đưa ra đối với các nước đang phát triển là sự phát triển bằng mọi giá, kể cả sự hy sinh các nguồn tài nguyên và bất chấp sự suy thoái về môi trường sống. Mặc dù ra đời muộn hơn so với các ngành luật khác nhưng lại có sự phát triển rất nhanh do nhu cầu bảo vệ môi trường được đặt ra cấp bách. Đến nay, không chỉ Việt Nam mà hầu hết các nước đều đã và đang xây dựng được một hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường theo hướng ngày càng hoàn chỉnh và đầy đủ, trong đó có các quy định về bảo vệ môi trường không khí. Là một bộ phận của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung nên ta có thể dựa vào khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường không khí dể suy ra định nghĩa pháp luật về bảo vệ môi trường không khí như sau: Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các chủ thể sử dụng hoặc tác động đến môi trường không khí hoặc các quan hệ giữa các chủ thể và môi trường không khí trên cơ sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau nhằm bảo vệ một cách có hiệu quả môi trường không khí vì lợi ích của thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Từ giác độ thực tế, có thể liệt kê các quan hệ xã hội mà các quy phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí điều chỉnh, bao gồm: Nhóm quan hệ phát sinh trong quá trình khai sử dụng hoặc tác động tới môi trường không khí. Nhóm quan hệ hình thành trong hoạt động quản lý nhà nước về môi trường không khí. Nhóm quan hệ về các biện pháp khắc phục suy thoái, ô nhiễm, phòng chống sự cố môi trường không khí. Nhóm quan hệ về giải quyết tranh chấp môi trường không khí, xử lý vi phạm pháp luật môi trường không khí. Nhóm quan hệ về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí. Qua cách hiểu chung nhất về khái niệm pháp luật bảo vệ môi trường không khí như trên, sẽ tạo cơ sở cho việc tìm hiểu và trả lời câu hỏi: pháp luật có vai trò quan trọng như thế nào trong bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam trong phần dưới đây. 1.3.2. Vai trò của pháp luật trong bảo vệ môi trường không khí Trong bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng, pháp luật có vai trò, vị trí đặc biệt quan trọng; bởi môi trường bị phá hủy do chính con người gây ra và để bảo vệ môi trường phải tác động vào chính hành vi của con người. Pháp luật với tư cách là một hệ thống quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi xử sự của con người sẽ có vai trò to lớn trong bảo vệ môi trường. Vai trò đó được thể hiện trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí như sau: 1.4.2.1. Pháp luật quy định các quy tắc xử sự mà con người phải thực hiện khi tác động vào môi trường không khí Tại nguyên tắc 1 - Tuyên bố Stockholm 1972 về môi trường và con người đã khẳng định: “ Con người có quyền tự do, bình đẳng, quyền có cuộc sống chất lượng và phải có trách nhiệm bảo vệ môi trường vì thế hệ mai sau ”. Như vậy, tuyên bố đã khẳng định con người phải được đảm bảo và luôn có quyền được sống trong một môi trường trong lành, nhưng cũng chính con người bằng hành vi của mình đã, đang phá huỷ nó, dần tước đi quyền đó của chính mình. Để bảo đảm được quyền đó của mình, mỗi cá nhân, tổ chức phải biết bảo vệ môi trường sống bằng chính hành động của mình bằng cách phải tuân theo những quy tắc xử sự mà pháp luật đã đề ra. Pháp luật bao gồm một hệ thống các quy phạm pháp luật - là các quy tắc xử sự mang tính chất bắt buộc chung. Những quy phạm này là những chuẩn mực về cách xử sự, xác định rõ các chủ thể (cá nhân, tổ chức) được làm gì, phải làm gì và không được làm gì trong các điều kiện hoàn cảnh cụ thể. Tính chuẩn mực đó là bắt buộc chung đối với mọi tổ chức, cá nhân trong xã hội khi ở vào những hoàn cảnh nhất định chứ không phải chỉ áp dụng đối với một nhóm, một đối tượng nào đó. Trong bảo vệ môi trường không khí, pháp luật quy định các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, xác định rõ nghĩa vụ bảo vệ môi trường không khí của các tổ chức, cá nhân, đồng thời bắt buộc các chủ thể này phải thực hiện theo đúng quy định của pháp luật mà không thể làm khác được. Chính tính quy tắc và bắt buộc chung này đã tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm cho các chủ thể thực hiện hành vi bảo vệ môi trường không khí được thống nhất và đặc biệt là họ biết được mình làm gì, cần phải làm gì và không được phép thực hiện những hành vi nào để bảo vệ môi trường không khí một cách hiệu quả nhất. Ví dụ: Môi trường không khí chỉ có một sức chịu nhất định, chỉ có thể tiếp nhận một lượng các chất gây ô nhiễm nhất định để có thể tự đồng hoá, khuấy trộn… để sao không làm xấu đi chất lượng vốn có của nó, do vậy pháp luật đã thông qua hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí, buộc mỗi chủ nguồn của mỗi loại khí thải khác nhau chỉ được thải ra không khí một số lượng các chất gây ô nhiễm nhất định. Để có thể thực hiện được điều đó, buộc các chủ nguồn thải phải có biện pháp, kế hoạch đầu tư qui trình, thiết bị công nghệ xử lý chất thải. Các tiêu chuẩn môi trường không khí này sẽ là căn cứ để xác định các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của các chủ thể có liên quan. Thông qua hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí, quy tắc xử sự mà pháp luật quy định chính là trị số tối thiểu và trị số tối đa nồng độ cho phép của các chất gây ô nhiễm môi trường không khí. Hoặc theo Khoản 2-Điều 29-Luật bảo vệ môi trường 1993 có quy định nghiêm cấm hành vi “thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào không khí; phát bức xạ, phóng xạ quá giới hạn cho phép vào môi trường xung quanh”. Đây là một trong những hành vi mà pháp luật nghiêm cấm các chủ thể thực hiện - đó cũng chính là quy tắc xử sự mà pháp luật đã quy định buộc các chủ thể phải tuân thủ. Có thể nói, pháp luật với tư cách là công cụ điều tiết các hành vi của các thành viên trong xã hội có tác dụng rấ._.t lớn trong việc định hướng quá trình sử dụng hoặc tác động vào môi trường không khí. Con người buộc phải sử dụng môi trường không khí tuân thủ theo đúng những tiêu chuẩn nhất định do pháp luật quy định thì sẽ hạn chế những tác hại, ngăn chặn được suy thoái môi trường không khí. 1.4.2.2. Pháp luật quy định các chế tài để buộc con người phải thực hiện đầy đủ các đòi hỏi của pháp luật khi tác động vào môi trường không khí Các chế tài mà pháp luật bảo vệ môi trường không khí quy định áp dụng cho các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật bảo vệ môi trường không khí gồm: chế tài hình sự, kinh tế, hành chính. Các chủ thể sẽ phải gánh chịu những chế tài này khi họ không tuân theo các quy tắc xử sự mà pháp luật đã quy định, tức là khi họ đã không làm những gì mà pháp luật buộc phải làm hoặc đã làm những gì mà pháp luật không cho phép làm. Ví dụ: Khi pháp luật bảo vệ môi trường không khí quy định hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí, tức là đã đưa ra những thông số tối thiểu hoặc tối đa họ được phép làm như là: không được thải khí quá trị số cho phép, để làm được vậy buộc họ phải đầu tư trang thiết bị để xử lý khí thải. Nhưng vì lợi ích kinh tế trước mắt mà chủ nguồn đã không bỏ một số vốn đầu tư lớn cho trang thiết bị công nghệ để xử lý khí thải và họ đã thải khí quá trị số cho phép. Khi đó chủ nguồn thải đã vi phạm quy tắc xử sự do pháp luật quy định trước và họ sẽ buộc phải chịu chế tài pháp luật quy định cho từng trường hợp cụ thể. Như vậy, ngoài việc quy định các quy tắc xử sự của con người khi họ có những hành vi tác động vào môi trường không khí, pháp luật còn quy định các chế tài cụ thể đối với các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật môi trường khi họ không tuân theo quy tắc xử sự đó; bởi trách nhiệm bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng không phải của riêng ai, của riêng Nhà nước mà nó là trách nhiệm chung của cả cộng đồng, nhưng có một số chủ thể trong khi tiến hành hoạt động phát triển vì quyền lợi của họ không thống nhất với lợi ích chung của cả cộng đồng, họ thường chỉ hướng tới đảm bảo lợi ích của mình mà bỏ qua lợi ích chung của toàn xã hội nên đã vi phạm vào các quy tắc xử sự mà pháp luật quy định, đã gạt bỏ trách nhiệm của mình với yêu cầu bảo vệ môi trường. Vì vậy, pháp luật cần phải có các chế tài cụ thể và thích đáng để áp dụng đối với những chủ thể đó. Các chế tài đó chính là nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể khác, bảo vệ lợi ích chung của toàn cộng đồng, bảo vệ lợi ích lâu dài của môi trường, góp phần phục hồi một môi trường không khí trong lành vốn có của nó. Thông qua việc quy định các chế tài này, pháp luật đã thể hiện vai trò to lớn của mình trong sự nghiệp bảo vệ môi trường không khí. Bởi lẽ, các chế tài đó không chỉ là biện pháp trừng phạt thích đáng các chủ thể vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường mà thông qua đó còn nhằm ngăn ngừa sự tiếp tục vi phạm pháp luật môi trường của họ và cải tạo giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật môi trường của chính các chủ thể đó. Ngoài ra, nó còn có ý nghĩa trong việc răn đe các chủ thể khác, giúp họ ý thức được sự tôn trọng các quy tắc xử sự do pháp luật môi trường quy định khi họ có hành vi tác động vào môi trường không khí, qua đó nhằm ngăn ngừa và hạn chế những tác động xấu đối với môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng có thể được gây ra bởi con người. Vì vậy ý thức tôn trọng pháp luật bảo vệ môi trường của con người sẽ ngày càng được nâng cao. 1.4.2.3. Pháp luật quy định chức năng, nhiệm vụ , quyền hạn của các tổ chức bảo vệ môi trường Bên cạnh việc quy định các quy tắc xử sự, các quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội khi họ tác động vào môi trường không khí, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí còn thể hiện vai trò to lớn của mình trong việc tạo ra cơ chế hoạt động hiệu quả của các tổ chức bảo vệ môi trường; bởi lẽ, bảo vệ môi trường là một công việc rất khó khăn và phức tạp, là hoạt động mang tính chất toàn dân, của cả cộng đồng chứ không phải của riêng một cá nhân hay tổ chức nào, nó đòi hỏi phải được tiến hành tại nhiều cấp độ với nhiều biện pháp khác nhau và để đáp ứng được yêu cầu đó, đòi hỏi cần phải được tổ chức một cách chặt chẽ và khoa học thông qua một hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Thông qua pháp luật, Nhà nước đã xây dựng được một hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường được tổ chức chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, trong đó có cơ quan bảo vệ môi trường không khí; cùng với nó là việc quy định một cách đầy đủ về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, mỗi cấp; ví dụ như: xây dựng và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật vê bảo vệ môi trường không khí, tổ chức đánh giá tác động môi trường các dự án có ảnh hưởng đến môi trường không khí, đánh giá hiện trạng môi trường không khí, ban hành tiêu chuẩn môi trường không khí. Trong phạm vi từng quốc gia, bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng sẽ nảy sinh nhiều vấn đề cần được giải quyết, nếu không có một tổ chức như Nhà nước với các quy định về quyền hạn cụ thể, sẽ không thểgiải quyết được các vần đề đó. Điều đó được thể hiện như sau: - Thực tế đã khẳng định vai trò thống nhất quản lý của Nhà nước trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bảo vệ môi trường không khí là vấn đề phức tạp, yêu cầu phải được tiến hành tại nhiều cấp độ và nhiều biện pháp khác nhau, chỉ có Nhà nước mới đủ khả năng đứng ra đảm nhiệm vai trò đó. Vì vậy pháp luật quy định các quyền hạn cụ thể cho các cơ quan quản lý sẽ tạo cơ sở pháp lý để các cơ quan này có thể tổ chức các hoạt động bảo vệ môi trường không khí thống nhất trong toàn quốc tốt hơn. - Môi trường là tổng thể nhiều thành phần khác nhau có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, môi trường không khí chỉ là một trong các thành phần đó; môi trường không khí chỉ được bảo vệ khi tính đến sự bền vững, bảo vệ các yếu tố, thành phần khác. Vì vậy khi bảo vệ môi trường không khí cần phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường không khí với các cơ quan chuyên môn quản lý các thành phần môi trường khác, giữa các cơ quan chuyên ngành với các cơ quan chuyên môn. Để làm được vậy, cần phải có vai trò của pháp luật thông qua việc quy định đầy đủ quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước. - Trong quá trình khai thác và sử dụng môi trường không khí sẽ không tránh khỏi sự xung đột, tranh chấp, nó có thể phát sinh giữa các cá nhân, tổ chức với nhau hoặc giữa cá nhân, tổ chức với các cơ quan quản lý nhà nước. Nếu các tranh chấp, xung đột này mà không được giải quyết một cách kịp thời sẽ không đảm bảo được lợi ích hợp pháp của mỗi bên và sẽ làm cho môi trường không khí ngày càng bị ảnh hưởng theo chiều hướng xấu đi, thậm chí có thể gây ảnh hưởng đến các thành phần môi trường khác nữa. Thông qua pháp luật, Nhà nước đã quy định một cách chặt chẽ cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột về môi trường không khí thông qua việc quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp cho từng cơ quan quản lý nhà nước về môi trường không khí. Khi giải quyết tranh chấp môi trường được thoả đáng sẽ giải quyết được quyền lợi hợp pháp cho từng bên, ngăn chăn kịp thời các hành vi vi phạm và có biện pháp phục hồi môi trường không khí, qua đó còn mang tính chất giáo dục cho các cá nhân, tổ chức khác ý thức bảo vệ môi trường không khí. Tóm lại, việc quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí là yêu cầu hết sức cần thiết và việc pháp luật quy định đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước chính là sự đáp ứng các yêu cầu. 1.4.2.4. Pháp luật tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ hợp tác quốc tế vè bảo vệ môi trường không khí Bảo vệ môi trường ngày nay không còn là vấn đề của riêng mỗi quốc gia mà nó đã trở thành vấn đề có tính quốc tế bởi chính tính toàn cầu của ô nhiễm môi trường. Ô nhiễm môi trường xuyên biên giới bao gồm 5 vấn đề: Sự vận chuyển tầm xa của các khí bị ô nhiễm; Sự vận chuyển xuyên biên giới của các sản phẩm và chất thải nguy hại; Sự suy giảm tầng ôzôn; Sự thay đổi khí hậu; Sự ô nhiễm đại dương. Do tính xuyên biên giới nên sự ô nhiễm môi trường ở quốc gia này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường của các quốc gia lân cận, đặc biệt là ô nhiễm môi trường không khí. Không khí bị ô nhiễm ở quốc gia này không phải đến biên giới của quốc gia đó, các chất ô nhiễm sẽ bị giữ lại, người ta cũng không thể gom riêng vùng không khí đã bị ô nhiễm để xử lý mà nó sẽ có ảnh hưởng đến các quốc gia khác bởi sự vận chuyển tầm xa của các khí bị ô nhiễm. Vì thế trong bảo vệ môi trường không khí sự hợp tác giữa các quốc gia càng trở nên hết sức cần thiết. Hợp tác quốc tế ở đây không thể đơn thuần là sự hợp tác giữa các cá nhân hoặc giữa các tổ chức của các quốc gia khác nhau với nhau mà chính là quan hệ hợp tác giữa các quốc gia. Thông qua sự hợp tác, các quốc gia sẽ xây dựng được một chương trình cho việc bảo vệ môi trường không khí, các quốc gia sẽ có được sự hỗ trợ về mặt tài chính và học hỏi được kinh nghiệm trong quản lý môi trường, trong kỹ thuật bảo vệ môi trường không khí. Vì vậy hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường không khí là cần thiết và quan trọng, chính pháp luật đã tạo ra cơ sở pháp lý cho việc hợp tác quốc tế đó. Ví dụ: Các hoạt động về khói mù được khởi xướng sau thảm hoạ khói mù lớn nhất trong lịch sử Asean xảy ra vào năm 1997 gây hậu quả nghiêm trọng trong khu vực, đặc biệt là Inđônesia, Malaysia và Singapore. Các nước Asean đã hành động tập thể một cách mau lẹ: từ tháng 6 năm 1995 các bộ trưởng đã thống nhất xây dựng kế hoạch hợp tác Asean về ô nhiễm xuyên biên giới, sau đó là kế hoạch hành động khu vực về khói mù: Hiệp định Asean về ô nhiễm khói mù xuyên biên giới có hiệu lực từ thàng 11 năm 2003, và ngày 11/11/2004, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị bộ trưởng các nước Asean về khói mù lần thứ 11(AMMH11) Nguồn: Hợp tác về khói mù giữa các nước Asean. . Qua những phân tích trên ta thấy biện pháp pháp luật có vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động bảo vệ môi trường. ở Việt nam, luật bảo vệ môi trường được ban hành ngày 27/12/1992, ngay sau hội nghị quốc tế về môi trường ở Rio de Janero tại Brazil năm 1992 đã thể hiện sự cam kết của Chính phủ Việt Nam triển khai ngay chương trình nghị sự 21 của Liên hợp quốc. Trên cơ sở pháp lý đó, Nhà nước ta đã ban hành một hệ thống văn bản pháp quy về bảo vệ các yếu tố của môi trường, trong đó có môi trường không khí. Điều này đã thể hiện nhận thức rõ và đầy đủ về vai trò và tầm quan trọng của pháp luật trong bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Chương II: Những nội dung chủ yếu của pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam 2.1. Pháp luật về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí Như đã nói tại chương 1, quản lý nhà nước về môi trường không khí là một đòi hỏi tất yếu khách quan bởi chỉ có sự thống nhất của một hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước thì mới có thể giải quyết được những yêu cầu, đòi hỏi của công tác bảo vệ môi trường không khí. "Quản lý nhà nước về môi trường không khí là quá trình Nhà nước bằng các cách thức, công cụ và phương tiện khác nhau tác động đến các hoạt động của con người trong quá trình con người khai thác, sử dụng môi trường không khí nhằm làm hài hoà mối quan hệ giữa bảo vệ sự trong sạch của môi trường không khí với việc thoả mãn các nhu cầu của con người, đồng thời đảm bảo được chất lượng của môi trường nói chung" Vũ Thị Duyên Thuỳ, Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường ĐHL Hà Nội, 2001, trang 31. . Theo Điều 37- Luật bảo vệ môi trường 1993, quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí bao gồm những nội dung sau: Ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, ban hành hệ thống tiêu chuẩn môi trường không khí; Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo vệ môi trường không khí, kế hoạch phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm, sự cố môi trường không khí. Xây dựng, quản lý các công trình bảo vệ môi trường không khí, công trình có liên quan đến bảo vệ môi trường không khí. Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc, định kỳ đánh gía hiện trạng môi trường không khí, diễn biến môi trường không khí. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không khí của các dự án và các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Cấp, thu hồi giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường. Giám sát, thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường không khí; giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường; Đào tạo cán bộ về khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí; Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí; Quan hệ quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí. Tiếp đến, ngày 28/10/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 175/1994/NĐ-CP về hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường cũng đã quy định rõ nội dung quản lý nhà nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nói chung. Theo các quy định này, ta có thể hiểu thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí được quy định chủ yếu tập trung vào một số nội dung sau: Xây dựng tiêu chuẩn môi trường không khí. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không khí của các dự án. Thẩm quyền thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp môi trường không khí. Hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí. Những nội dung này sẽ được xem xét cụ thể trong các mục dưới đây: 2.1.1. Về tiêu chuẩn môi trường không khí Theo tài liệu của ISO thì tiêu chuẩn môi trường (TCMT) được hiểu là: “tài liệu được thiết lập bằng cách thoả thuận và thông qua bởi một tổ chức được thừa nhận, trong đó đề ra những hành động hoặc những kết quả của chúng để sử dụng chúng và lặp đi lặp lại nhiều lần, nhằm đạt được chất lượng môi trường tối ưu trong khung cảnh nhất định” Đỗ Thị Duyên, Một số vấn đề về tiêu chuẩn môi trường quốc tế ISO 14000 và thực tiễn áp dụng trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, Khoa luận tốt nghiệp, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, trang 23 . ở Việt Nam, khái niệm “TCMT” được quy định chính thức tại Điều 2- Luật bảo vệ môi trường 1993: “Tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho phép, được dùng làm căn cứ để quản lý môi trường”. Theo đó, TCMT là những chuẩn mực, giới hạn về các thành phần môi trường. Những chuẩn mực, giới hạn cho phép được hiểu là mức độ, phạm vi gây ô nhiễm có thể chấp nhận được mà chưa gây nguy hại cho sức khoẻ con người và các thành phần môi trường, hoặc đã giới hạn an toàn để bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và bảo vệ môi trường trong hiện tại cũng như trong tương lai. Mặt khác, khái niệm TCMT cũng đã trả lời cho mục đích ban hành TCMT đó là tạo cơ sở quan trọng làm căn cứ để quản lý môi trường. Trong bảo vệ môi trường không khí, vai trò, mục đích đó cũng không ngoại trừ. Trên cơ sở các quy định tại Luật bảo vệ môi trường 1993, Chính phủ ban hành Nghị định số 175/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường; tại Điều 22 của NĐ này, cùng với việc quy định nghĩa vụ cho các tổ chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến môi trường là phải tuân theo các TCMT, NĐ đã đưa ra danh mục các loại TCMT Việt Nam bao gồm 21 TCMT các loại căn cứ vào tính chất cũng như thành phần môi trường, trong đó có TCMT không khí. Theo các Quyết định số 229-QĐ/TĐC ngày 25/03/1995 của Bộ Khoa học, Công ngệ và Môi trường và Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT ngày 25/06/2002 thì hệ thống TCMT không khí bắt buộc áp dụng ở Việt Nam hiện nay là 12 TCVN; bao gồm: tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh (tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh nhà máy, xí nghiệp, giao thông…) và tiêu chuẩn chất lượng nguồn thải (khí thải từ ống khói nhà máy, từ ống xả của xe…). Những tiêu chuẩn đó là căn cứ kỹ thuật cho việc thi hành Luật bảo vệ môi trường và hoạt động quản lý môi trường, là căn cứ để đánh giá chất lượng môi trường xung quanh và kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt do con người gây ra. 2.1.1.1. Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh Các chất gây ô nhiễm chủ yếu trong không khí là: cácbon oxit (CO), lưu huỳnh oxit (SOx), chủ yếu là SO2, hyđro cacbon (HC), nitơ oxit (NOx), chủ yếu là NO2 và NO, ozon (O3) và bụi lơ lửng. Với trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ như hiện nay của Việt Nam chưa thể loại trừ hoàn toàn các chất thải ô nhiễm trong quá trình sản xuất, vì vậy trên cơ sở các kết quả nghiên cứu về vệ sinh y học người ta đã thiết lập các tiêu chuẩn bảo đảm cho môi trường không khí tương đối trong sạch. Mức độ trong sạch của không khí được đánh giá bằng nồng độ chất độc hại chứa trong một đơn vị thể tích không khí, đơn vị đo lường thường là trọng lượng chất ô nhiễm chứa trong 1m3 không khí (mg/m3) hoặc tỉ lệ bách phân theo thể tích hay trọng lượng (ppm- 1 phần triệu). ở Việt Nam, đơn vị đo lường thường được sử dụng là trọng lường chất ô nhiễm chứa trong 1m3 không khí (mg/m3). Theo TCVN 5937-1995 và TCVN 5938-1995 cho thấy: - Các tiêu chuẩn này quy định giá trị giới hạn các thông số cơ bản (bao gồm bụi lơ lửng, CO, NO2, SO2, O3 và chì) và nồng độ tối đa cho phép của một số chất độc hại (bao gồm các chất vô cơ, hữu cơ sinh ra do các hoạt động kinh tế của con người) trong môi trường không khí xung quanh. - Các tiêu chuẩn này được áp dụng để đánh giá mức chất lượng không khí và giám sát tình trạng ô nhiễm môi trường không khí xung quanh. Tức là, các tiêu chuẩn này được sử dụng là một chuẩn mực để sau khi phân tích, đánh giá các số liệu về hiện trạng môi trường không khí, người ta sẽ so sánh số liệu thu được với chuẩn mực mà tiêu chuẩn đề ra để đánh giá xem mức độ ô nhiễm môi trường không khí xung quanh tại một địa bàn nhất định là như thế nào? Để thực hiện chức năng giám sát vệ sinh môi trường, trong đó có phần kiểm tra ô nhiễm khí quyển và quan trắc các định mức nồng độ ô nhiễm với mục đích báo động kịp thời sự ô nhiễm, người ta thường thành lập các trạm môntoring và kiểm soát ô nhiễm môi trường. Khi tiến hành so sánh tiêu chuẩn chất luợng môi trường không khí xung quanh của Việt Nam với tiêu chuẩn mà Tổ chức y tế Thế giới (WHO) đưa ra và một số nước ta có thể thấy: TCMT không khí Việt Nam đặt ra thấp hơn về chất lượng môi trường không khí so với một số nước trên Thế giới (đặc biệt là những nước phát triển) do điều kiện kinh tế, xã hội và môi trường Việt Nam hiện nay chưa thể đáp ứng được. Mặc dù vậy, với những quy định này cũng đã đủ đảm bảo cho người dân Việt Nam một môi trường sống chất lượng và đảm bảo. 2.1.1.2. Tiêu chuẩn chất lượng nguồn thải Để ngăn ngừa và giảm tối đa sự ô nhiễm môi trường không khí thì phải định ra các tiêu chuẩn về đại lượng nồng độ chất ô nhiễm trong khí thải công nghiệp cũng như khí thải giao thông. Theo Quyết định số 35/2002 đã công bố 12 TCMT không khí Việt Nam bắt buộc áp dụng, trong đó có 10 tiêu chuẩn chất lượng nguồn thải, bao gồm: 02 TCVN quy định về khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ, đối với các chất hữu cơ; 06 TCVN quy định thải liên quan của khí thải công nghiệp vào khu công nghiệp, vùng đô thị và nông thôn, miền núi; 01 TCVN quy định giới hạn cho phép của khí thải lò đốt chất thải rắn y tế; 01 TCVN quy định giới hạn lớn nhất cho phép của khí thải của phương tiện giao thông đường bộ. Các tiêu chuẩn này được xây dựng dựa trên khả năng kiểm soát các chất ô nhiễm môi trường, khả năng đồng hoá và phát tán, pha loãng chất thải của môi trường tiếp nhận, yêu cầu chất lượng của nước ta. Các tiêu chuẩn này được biết đến như sau: - Các TCVN 5939-1995 và TCVN 5940-1995 là 2 tiêu chuẩn quy định về giá trị nồng độ tối đa của các chất hữu cơ (TCVN5940) và của các chất vô cơ (TCVN5939) trong khí thải công nghiệp (tính bằng mg/m3) khi thải vào không khí xung quanh. Khí thải công nghiệp nói trong tiêu chuẩn TCVN5939 là khí và khí có chứa bụi do các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác tạo ra; còn khí thải công nghiệp nói trong TCVN 5940 là do các quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các hoạt động khác tạo ra. Các tiêu chuẩn này áp dụng để kiểm soát nồng độ các chất vô cơ hoặc các chất hữu cơ trong thành phần khí thải công nghiệp trước khi thải vào không khí xung quanh. - TCVN 6438:2001: là tiêu chuẩn quy định về giới hạn lớn nhất cho phép của khí thải của các phương tiện giao thông (xe cơ giới). - 06 TCVN quy định về thải lượng của khí thải công nghiệp vào vùng đô thị và nông thôn, miền núi, bao gồm: TCVN 6991:2001 quy định tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong khu công nghiệp, TCVN 6992:2001 quy định tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong vùng đô thị, TCVN 6993:2001 quy định tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất vô cơ trong vùng nông thôn và miền núi, TCVN 6994:2001 quy định tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong khu công nghiệp, TCVN 6995:2001-tiêu chuẩn thải theo thải lượng của các chất hữu cơ trong vùng đô thị, TCVN 6996:2001-tiêu chuẩn thải theo thải lượng các chất hữu cơ trong vùng nông thôn và miền núi. Trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí, các tiêu chuẩn này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nó vừa được xem là công cụ kỹ thuật, vừa là công cụ pháp lý giúp Nhà nước quản lý môi trường không khí có hiệu quả hơn. Trên cơ sở TCMT không khí, các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền có thể xác định được một cách chính xác chất lượng môi trường không khí, xác định xem môi trường đó đã bị ô nhiễm hay chưa và nếu đã bị ô nhiễm thì ở mức độ nào... Thông qua các TCMT không khí, Nhà nước có thể áp dụng những biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn, khắc phục tình trạng môi trường không khí đã bị ô nhiễm và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật môi trường không khí. Mặt khác, thông qua các TCMT không khí mà các tổ chức, cá nhân biết được họ đang được sống trong bầu không khí có chất lượng tốt hay xấu; tức là, thông qua TCMT, các tổ chức, cá nhân có thể xác định được quyền được sống trong môi trường trong lành (có chất lượng tốt) được đảm bảo đến đâu? Có thể nói, bộ TCMT không khí này là một bước tiến mới trong hoạt động tiêu chuẩn hoá và quản lý môi trường, đã ngăn ngừa tối đa sự bùng phát ô nhiễm, ngăn ngừa nguy cơ gây tổn hại đến môi trường không khí trong tương lai của Việt nam. Tuy nhiên kể từ thời điểm có hiệu lực thi hành (đầu năm 2003). TCMT không khí Việt nam, đặc biệt là các tiêu chuẩn chất lượng không khí (TCVN 6992:2001 đến TCVN 6996:2001) đã bộc lộ một số thiếu sót, bất cập như: - Tiêu chuẩn không quy định cụ thể cho các loại hình công nghiệp và không quy định chi tiết mức phát thải cho các loại hình công nghiệp và không quy định chi tiết mức phát thải cho từng loại nhiên liệu đầu vào, ví dụ như: ngành điện: nhiên liệu sử dụng có thể là dầu, than, khí. Và vì vậy nếu buộc phải tuân thủ các tiêu chuẩn này thì ngành điện của nước ta phải đầu tư thêm các thiết bị khử khí. Thực tế cho thấy, cùng một loại khí thải thải ra từ các hoạt động sản xuất, nhưng các cơ sở khác nhau có lượng thải khác nhau. Vì thế việc xử lý các khí thải ấy cũng sẽ đòi hỏi áp dụng các quy trình xử lý không giống nhau. Một cơ sở sản xuất lớn, lượng khí thải vào môi trường chắc chắn sẽ lớn hơn một cơ sở sản xuất nhỏ dù lĩnh vực hoạt động của chúng có thể giống nhau. Nói cách khác là các cơ sở có tổng lượng khí thải hoàn toàn khác nhau. Lượng khí thải ấy nhiều hay ít hoàn toàn phụ thuộc vào qui mô, lĩnh vực hoạt động của cơ sở đó. Nếu không quy định mức phát thải mà áp dụng đồng đều nồng độ tối đa cho phép các chất độc hại trong khí thải như hiện nay chúng ta sẽ không đảm bảo được sự bình đẳng cho các doanh nghiệp nhỏ cũng như không đạt được hiệu quả cao trong áp dụng TCMT không khí. - Việc quy định thời hạn hiệu lực áp dụng chung cho mọi đối tượng (từ 01.01.2003) và thiếu một lộ trình thích hợp áp dụng cho các tiêu chuẩn này để các cơ quan quản lý môi trường và các doanh nghiệp có đủ thời gian chuẩn bị áp dụng đã gây ra nhiều bất cập trong quá trình thực hiện hệ thống TCMT không khí Việt Nam theo QĐ số 35/2002 (TCVN 2001). Như vậy, trong thực tiễn áp dụng các TCMT không khí Việt Nam đã xuất hiện một số điểm thiếu sót kể trên. Vì vậy việc sớm hoàn thiện, rà soát lại và sửa đổi các TCMT không khí Việt Nam là hết sức cần thiết để đảm bảo hiệu quả cao trong công tác quản lý và bảo vệ môi trường không khí của nước ta. 2.1.2. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của các dự án Mọi hoạt động phát triển của con người đều ít nhiều tác động, có ảnh hưởng đến môi trường. Có những tác động tích cực, có lợi cho môi trường nhưng cũng có những tác động tiêu cực, theo hướng bất lợi cho môi trường. Đánh giá được một cách đầy đủ các mặt lợi, hại đối với môi trường và từ đó tìm ra được giải pháp hạn chế được thấp nhất những tác động xấu đến môi trường là một trong những đòi hỏi bức thiết và quan trọng của công tác bảo vệ môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng. Đánh giá tác động môi trường có thể được xem xét dưới nhiều góc độ khác nhau. Xét dưới góc độ quản lý, nó được coi là một biện pháp quản lý nhà nước về môi trường, xét dưới góc độ khoa học, nó là những nghiên cứu về mối liên hệ, những tác động biện chứng giữa các hoạt động phát triển và các khía cạnh môi trường. Theo góc độ pháp lý, “Đánh giá tác động môi trường là quá trình phân tích, đánh giá, dự báo ảnh hưởng đến môi trường của các dự án, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, của các cơ sở sản xuất, kinh doanh, công trình kinh tế, khoa học, kỹ thuật, y tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng và các công trình khác, đề xuất các giải pháp thích hợp về bảo vệ môi trường” Luật bảo vệ môi trường 1993 - Điều 2 - Khoản 11. . Theo quy định của pháp luật hiện hành, trách nhiệm thực hiện việc đánh giá tác động môi trường được áp dụng đối với tất cả các tổ chức, cá nhân tiến hành các hoạt động phát triển và có tác động tới môi trường (trong đó có cả môi trường không khí). Sau khi các chủ thể thực hiện đánh giá tác động môi trường xong, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường là thẩm định lại báo cáo đó. Thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường là hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường (theo sự phân cấp) hoặc Hội đồng thẩm định (trong trường hợp cần thiết) nhằm xem xét, thẩm tra tính khoa học và tính pháp lý của các báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM). Căn cứ vào các quy định của pháp luật về đánh giá tác động môi trường, các cơ quan có trách nhiệm thẩm định phải đưa ra các nhận xét về sự phù hợp pháp luật của báo cáo, đồng thời phải đưa ra đánh giá về tính chính xác, khách quan, mặt khoa học của các đề xuất trong báo cáo. Căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành về ĐTM tại Điều 37 Luật bảo vệ môi trường, Điều 14,15,16 Nghị định 175 CP, một số Thông tư hướng dẫn thi hành NĐ175 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường (TT490, TT ) và Quyết định số 1806-QĐ/MTG ngày 31/12/1994 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường về việc ban hành qui chế tổ chức và hoạt động của hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tổ chức môi trường, ta có thể nhận thấy: - Việc thẩm định báo cáo ĐTM được phân thành 2 cấp: cấp Trung ương do Bộ Tài nguyên và Môi trường (trước là Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường) thẩm định; cấp địa phương do Sở tài nguyên và Môi trường (trước là Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường) thẩm định. Trước đây, theo Điều 14-NĐ số 175 thì sự phân cấp thẩm định được ghi trong Phụ lục kèm theo NĐ số 175, theo đó các dự án được thẩm định theo danh mục riêng phân chia cho cấp Trung ương và cấp địa phương. Nhưng theo NĐ sửa đổi NĐ 175/CP , Điều 14 đã được sửa đổi theo hướng: thay vì việc quy định các dự án phải thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường theo hai danh mục riêng cho Trung ương và địa phương, nay chỉ quy định một danh mục các loại hình dự án lớn với quy mô và mức độ tác động môi trường phức tạp hoặc các dự án thuộc phạm vi lãnh thổ từ hai tỉnh trở lên phải thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường ở cấp Trung ương, còn lại thuộc về địa phương. Điểm sửa đổi này có tác dụng vừa khắc phục được tình trạng qúa tải về thẩm định, phê duyệt cho Trung ương, vừa không để xảy ra tình trạng bỏ sót loại hình dự án phải thẩm định và phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường không được đưa vào danh mục theo quy định... - Trong trường hợp cần thiết thì thành lập hội đồng thẩm định: Hội đồng thẩm định ở cấp Trung ương do Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ra quyết định thành lập, Hội đồng thẩm định cấp tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ra quyết định thành lập. Thành phần Hội đồng thẩm định bao gồm các nhà khoa học, quản lý, có thể có đại diện của các tổ chức xã hội và đại diện của nhân dân nhưng số thành viên hội đồng không quá 09 người. - Thời hạn thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường không quá 02 tháng kể từ ngày nhận được đầy đủ các văn bản liên quan. Riêng đối với các dự án do tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, tổ chức quốc tế đầu tư, viện trợ, cho vay hoặc liên doanh thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam thì thời hạn thẩm định phải phù hợp với thời gian quy định cho việc cấp giấy phép đầu tư. - Việc thẩm định quá trình đánh giá tác động môi trường được kết thúc bằng Quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường, việc cấp Phiếu xác nhận đạt tiêu chuẩn môi trường hoặc việc từ chối cấp những văn bản trên. Trường hợp cơ quan có thẩm quyền từ chối phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường hoặc từ chối cấp Phiếu xác nhận đạt tiêu chuẩn môi trường thì các công trình, các dự án sẽ không đựơc triển khai. Quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường, Phiếu xác nhận đạt tiêu chuẩn môi trường là điều kiện bắt buộc phải có để được cấp giấy phép đầu tư và đưa dự án vào hoạt động trên thực tế. Quá trình thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các cơ sở đang hoạt động và kết quả thẩm định đưa ra sẽ là cơ sở để đưa ra những biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề môi trường cho các cơ sở đó. Như vậy, sau quá trình thẩm định, cơ quan thẩm định báo cáo ĐTM phải có trách nhiệm đưa ra nhận xét cụ thể về ._. cơ bản trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí không chỉ trong phạm vi quốc gia mình mà còn trên phương diện quốc tế. Để có thể đảm đương được các nghĩa vụ đặt ra cho mình, Việt Nam phải thực hiện nhiều biện pháp, phải tạo ra một cơ sở pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh cho việc thực thi các cam kết quốc tế đó; mục đích và các cam kết tại các Điều ước quốc tế đó phải được tiến hành nội luật hoá và trở thành một trong những mục đích và nhiệm vụ của pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Để làm được điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí hoàn chỉnh, đồng bộ nhằm ngăn ngừa một cách hiệu quả những tác động bất lợi mà con người có thể gây cho môi trường không khí, đặc biệt là trong các hoạt động công nghiệp. Nhưng với một hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí còn nhiều bất cập và thiếu sót như hiện nay của Việt Nam thì sẽ khó có thể đảm đương được các yêu cầu, nghĩa vụ đó. Vì vậy, yêu cầu phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí là thực sự cần thiết. 3.2. Những yêu cầu cơ bản đối với hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của Việt nam Trước sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam như trên, yêu cầu đặt ra đối với hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng trong tình hình hiện nay là: Thứ nhất: phải phù hợp với yêu cầu phát triển xã hội. Điều đó có nghĩa là pháp luật về môi trường không khí phải lấy các yêu cầu khách quan của phát triển xã hội làm xuất phát điểm, tránh mọi yêu cầu duy ý chí. Yêu cầu phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội đòi hỏi pháp luật về môi trường không khí phải được xây dựng căn cứ vào nhu cầu của thực tiễn khách quan. Tiêu chí để xác định nội dung khách quan của pháp luật về môi trường không khí là khả năng sử dụng hợp lý tối ưu môi trường không khí nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá và đáp ứng quyền được sống trong một môi trường trong lành của con người, đảm bảo sự cân bằng giữa các lợi ích của các chủ thể trong xã hội. Việc cân đối các lợi ích trên tuỳ thuộc từng giai đoạn cụ thể, nhưng bảo đảm sự cân đối về mọi mặt là yêu cầu khách quan. Đáp ứng được yêu cầu này sẽ đáp ứng được nguyên tắc cơ bản là nguyên tắc phát triển bền vững. Thứ hai: phải đảm bảo yêu cầu về tính thống nhất, tính đồng bộ. Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí phải là một hệ thống thống nhất gồm các bộ phận hợp thành có mối liên hệ chặt chẽ với nhau và với các bộ phận khác của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và với các ngành luật khác có liên quan. Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí vừa là một bộ phận hợp thành hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường nói chung, vừa phải có tính độc lập trong việc điều chỉnh đối tượng của mình. Bên cạnh yêu cầu về tính thống nhất, pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cũng phải đáp ứng yêu cầu về tính đồng bộ; điều này thể hiện ở việc mỗi quy phạm pháp luật về môi trường không khí vừa phải thể hiện chính xác nội dung điều chỉnh của nó, vừa phải cân đối, đồng bộ với các quy phạm pháp luật khác. Thứ ba: phải có tính khả thi. Pháp luật về bảo vệ môi trường không khí có thể được xây dựng ở những cấp độ khác nhau, cho những giai đoạn khác nhau, nhưng ở mọi thời kỳ, pháp luật đó phải được xây dựng căn cứ vào các điều kiện thực tế của xã hội (đã có và sẽ có), và khả năng huy động lực lượng vật chất cũng như tinh thần để thực hiện các quy định đã đề ra. Trên đây là những yêu cầu đặt ra không chỉ khi tiến hành xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ môi trường không khí mà nó cũng là của chung rất nhiều các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Để đáp ứng được yêu cầu đó, đòi hỏi phải có những giải pháp hoàn thiện một cách hợp lý, ta có thể tham khảo một số giải pháp cho sự hoàn thiện đó dưới đây. 3.3. Một số giải pháp chủ yếu hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam trong thời gian tới Qua việc phân tích, trình bày những nội dung cơ bản và những lý do của sự cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam trên, ta nhận thấy pháp luật bảo vệ môi trường không khí là bộ phận pháp luật còn nhiều hạn chế và thiếu sót, vì vậy việc đề ra những định hướng, giải pháp cho việc hoàn thiện nó là cần thiết để có thể đề ra được một giải pháp tốt hơn cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ môi trường không khí, từ đó mới giúp tạo ra một cơ chế bảo đảm cho việc bảo vệ môi trường không khí đang ngày càng ô nhiễm trầm trọng của Việt nam. 3.3.1. Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường không khí 3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường về không khí Tiêu chuẩn môi trường không khí là công cụ hết sức quan trọng và hữu hiệu trong việc quản lý và bảo vệ môi trường không khí. Hiện nay theo QĐ35/2002/QĐ-BKHCNMT thì Việt Nam gồm 12 TCMT về không khí thuộc danh mục bắt buộc thực hiện. Trong đó, về thực chất chỉ gồm có hai loại tiêu chuẩn môi trường không khí chủ yếu là: tiêu chuẩn chất lượng không khí và tiêu chuẩn thải khí, nhưng đến nay pháp luật bảo vệ môi trường Việt Nam nói chung và pháp luật TCMT Việt Nam nói riêng lại chưa có quy định rõ sự phân biệt TCMT thành tiêu chuẩn chất lượng môi trường và tiêu chuẩn thải. Vì vậy, trước hết cần phải có sự quy định rõ sự phân biệt này để tạo cơ sở cho việc xây dựng hiện trạng TCMT Việt Nam được chính xác; vấn đề này đã được đưa ra xem xét trong dự thảo Luật bảo vệ môi trường. Ngoài ra, trong hệ thống TCMT không khí Việt Nam hiện hành cũng đã đặt ra các yêu cầu phải hoàn thiện cho phù hợp hơn theo hướng sau: * Đối với các tiêu chuẩn về thải khí cần được xem xét sửa đổi, hoàn thiện theo những hướng sau: - Cần điều chỉnh lại một số mức phát thải cho phù hợp với thực tế hiện nay có tính đến nhu cầu nâng cao chất lượng môi trường 5-10 năm tới. - Nghiên cứu để có thể quy định chi tiết mức phát thải cho các loại lĩnh vực công nghiệp khác nhau, có tính đến đặc điểm công nghệ của nhiên liệu đầu vào. Các TCVN 1995 và TCVN 2001 là tiêu chuẩn áp dụng chung cho mọi ngành công nghiệp, trong khi các nhà máy nhiệt điện của nước ta là loại hình công nghiệp đặc thù, vì vậy có thể được bổ sung trong TCVN 2001 sửa đổi hoặc được nghiên cứu, xây dựng thành tiêu chuẩn riêng. - Nghiên cứu quy định hợp lý hơn hệ số quy mô nguồn thải (KQ) về tiêu chí phân cấp quy mô và giá trị cụ thể của hệ số. * Đối với tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí: Tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí được đặt ra trước hết là do yêu cầu của quản lý chất lượng môi trường không khí xung quanh đối với những vị trí địa lý cụ thể mà ở đó các hoạt động phát triển đang diễn ra. Chất lượng môi trường xung quanh ở những nơi khác nhau, những vùng khác nhau sẽ có những đòi hỏi khác nhau. Do vậy tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí cũng sẽ không giống nhau khi áp dụng ở các vùng khác nhau. Nhưng tiêu chuẩn chất lượng môi trường không khí xung quanh ở Việt Nam hiện nay mới chỉ dừng lại ở việc quy định áp dụng chung cho mọi vùng lãnh thổ. Vì vậy, cần phải xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể hơn về chất lượng môi trường không khí xung quanh cho các vùng khác nhau như: chất lượng môi trường không khí khu dân cư, chất lượng môi trường không khí khu công nghiệp... * Cần sớm có văn bản quy định đối tượng của tiêu chuẩn môi trường không khí, nội dung và thủ tục nghiên cứu xây dựng, thẩm quyền ban hành, thẩm quyền quy định hiệu lực của tiêu chuẩn và lộ trình áp dụng tiêu chuẩn. 3.3.1.2. Hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường không khí PGS.TS Phạm Hữu Nghị, Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật bảo vệ môi trường, Hội nghị môi trường toàn quốc năm 2005. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về bảo vệ môi trường không khí, trước mắt sửa đổi, bổ sung Luật bảo vệ môi trường. Tiếp tục kiện toàn và tăng cường năng lực tổ chức bộ máy, bảo đảm thực hiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng từ trung ương đến cơ sở theo hướng sau: - Cần quy định rõ trách nhiệm nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài nguyên và Môi trường với tư cách là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường, đồng thời cần thể hiện rõ sự phân công trách nhiệm cho từng Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, có như vậy thì các bộ mới thấy rõ trách nhiệm của mình trong hoạt động bảo vệ môi trường - đây chính là cơ chế hữu hiệu nhằm ngăn chặn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm giữa các bộ về những vấn đề liên ngành như vấn đề môi trường. - Nên quy định rõ sự phân cấp trách nhiệm cho chính quyền các cấp trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Ví dụ: chính quyền các cấp cần được phân cấp trong việc quyết định áp dụng tiêu chuẩn môi trường đối với một số khu vực đặc thù và tổ chức thực hiện các quy hoạch, kế hoạch bảo vệ môi trường của địa phương; phân cấp về phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường của địa phương; phân cấp trong việc định kỳ đánh giá hiện trạng môi trường... Và một điều rất quan trọng là việc phân cấp về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền hạn phải gắn liền với việc phân cấp về nguồn nhân lực, vật lực. Như vậy, để quản lý môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng, cần phải sớm có quy định hoàn thiện hơn về việc phân đinh, phân cấp rõ trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường. Tuy vậy, nếu chỉ tập trung vào nâng cấp, hoàn thiện hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường về hình thức mà không chú ý đến việc đào tạo nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ chuyên môn làm công tác này thì khó có thể đạt đựơc kết quả như mong muốn. Chính vì vậy, việc tăng cường năng lực của bộ máy nhà nước nói chung và bộ máy trực tiếp thi hành pháp luật bảo vệ môi trường, trong đó có bảo vệ môi trường không khí cũng là một vấn đề cấp thiết. 3.3.2. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí Các tổ chức, cá nhân để tồn tại và phát triển đã tác động mạnh mẽ đến môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng theo nhiều chiều hướng ngày càng bất lợi cho môi trường. Để bảo vệ môi trường không khí thì chỉ riêng các cơ quan quản lý nhà nước không thôi là không thể mà nó cần phải có sự tự giác, nỗ lực của các cá nhân, tổ chức có hoạt động tác động đến môi trường đó. Để góp phần định hướng hành vi cho các cá nhân, tổ chức đó, pháp luật bảo vệ môi trường không khí cần thiết phải hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các chủ thể đó, có như vậy mới nâng cao hiệu qủa của công tác bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật. 3.3.2.1. Cần phải quy định cụ thể trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có hoạt động khai thác, sử dụng môi trường không khí Như đã đề cập thì hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam hiện nay còn rất nhiều thiếu sót, tản mạn và chồng chéo, phần lớn là các quy định chung cho bảo vệ môi trường; và các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động bảo vệ môi trường không khí cũng không nằm ngoài tình trạng đó. Vì vậy, để có thể đảm bảo cho yêu cầu bảo vệ môi trường không khí được thuận lợi và đạt hiệu quả cao thì cần phải có các quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân. Theo đó, các tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng môi trường không khí sẽ phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định, ví dụ như: phải lập kế hoạch, phương án phòng ngừa ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường không khí trong từng giai đoạn cũng như trong suốt quá trình hoạt động của mình; phải xử lý khí thải trước khi thải vào môi trường không khí và tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về TCMT không khí của Việt Nam; đối với các chủ dự án, chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc và theo đúng các quy định về trình tự, yêu cầu về kỹ thuật trong quá trình đánh giá tác động môi trường của dự án... 3.3.2.2. Cần phải quy định trách nhiệm tự giám sát tại nguồn là một trách nhiệm cơ bản của các tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa ô nhiễm môi trường không khí Vũ Thị Duyên Thuỷ, Luận văn thạc sĩ luật học, pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt nam- thực trạng và hướng hoàn thiện, Trường ĐHLuật Hà nội, 2001. Tự giám sát tại nguồn của các cơ sở được hiểu là chương trình giám sát chất thải ngay tại nguồn chất thải của một cơ sở nào đó do chính cơ sở tự tiến hành. Chương trình này được thực hiện thông qua ba công đoạn là: tự giám sát, tự báo cáo và tự lưu giữ số liệu. Quy định trách nhiệm tự giám sát tại nguồn là một trách nhiệm cơ bản của các tổ chức, cá nhân, đặc biệt là các cơ sở công nghiệp sẽ góp phần đảm bảo cho công tác bảo vệ môi trường không khí có hiệu quả hơn. Điều này được lý giải bởi các lý do sau: - Tự giám sát tại nguồn là một biện pháp ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí của các cơ sở: các dữ liệu thu được từ chương trình tự giám sát của các cơ sở giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước dễ dàng phát hiện ra hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường không khí. - Thông qua việc thực hiện tự giám sát, nhận thức của các cơ sở trong bảo vệ môi trường không khí cũng như trách nhiệm của mình trong việc tuân thủ các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cũng được nâng cao. - Tự giám sát tại nguồn góp phần giảm bớt gánh nặng công việc cho các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường; cụ thể là: thông qua tự giám sát tại nguồn, trách nhiệm giám sát, kiểm tra, thanh tra việc tuân thủ các tổ chức môi trường về khí thải đã được chuyển bớt cho các doanh nghiệp thực hiện. Theo các quy định hiện hành, việc các cơ sở phải tự thực hiện quyết định phê chuẩn báo cáo đánh giá tác động môi trường cũng là một hình thức thực hiện tự giám sát tại nguồn. Tuy nhiên, biện pháp này chưa được thực hiện một cách đầy đủ nên hiệu quả chưa cao. Vì vậy, cần phải quy định tự giám sát tại nguồn là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các cơ sở có nguồn thải, mà trong bảo vệ môi trường không khí thì đó là nguồn thải khí sẽ càng cần thiết và quan trọng hơn khi mà Nghị định thư Kyoto mà Việt Nam tham gia đã bắt đầu có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 16.02.2005 vừa qua. 3.3.2.3. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí Trách nhiệm pháp lý mà pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam áp dụng cho các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí bao gồm 4 loại trách nhiệm sau: trách nhiệm hành chính, trách nhiệm dân sự, trách nhiệm kỷ luật, trách nhiệm hình sự. Qua thực tế áp dụng có một số loại trách nhiệm này đã và đang nảy sinh các thiếu sót cần hoàn thiện như sau: - Về trách nhiệm hành chính: mặc dù NĐ 26/1996/NĐ-CP đã được thay thế bằng NĐ121/2004/NĐ-CP và đã nâng mức xử phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí lên cao hơn NĐ 26 với mức cao nhất là 70.000.000 đồng áp dụng đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm nhưng có thể nói mức xử phạt này vẫn là còn thấp so với những gì mà nhiều doanh nghiệp thu lại được từ khoản đáng lẽ ra doanh nghiệp đó phải đầu tư cho công nghệ xử lý khí thải. Vì vậy có ý kiến cho rằng nên quy định mức xử phạt này cho từng loại hình doanh nghiệp với từng chất khí thải khác nhau và tính theo hàm lượng các chất gây ô nhiễm; mức thu này có thể được đặt ra cao hơn nữa vì có như vậy mới có thể răn đe các chủ thể khi cố tình vi phạm và chịu chấp nhận nộp phạt. - Về trách nhiệm dân sự - trách nhiệm bồi thường thiệt hại: nói theo cách nói của Bộ trưởng Mai ái Trực: “Luật Dân sự và Luật bảo vệ môi trường đang nhường nhau vấn đề này” Nguồn: http//:www.nea.gov, Quy định bồi thường thiệt hại về môi trường sẽ chặt chẽ hơn. . Hiện nay trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường không khí chỉ được quy định chung chung tại 2 điều: Điều 826 - BLDS và điều 30 - Luật bảo vệ môi trường. Vì vậy việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm gây thiệt hại cho môi trường không khí đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. Việc hoàn thiện các quy định này là cần thiết khi tiến hành sửa đổi Luật bảo vệ môi trường và vấn đề này cũng đã được đưa vào dự thảo sửa đổi Luật bảo vệ môi trường, hy vọng rằng khi được thông qua thì mâu thuẫn trên sẽ được giải quyết. - Về trách nhiệm hình sự: Tại Điều 182 Bộ luật hình sự 1999 chỉ quy định trách nhiệm hình sự cho chủ thể vi phạm là các cá nhân còn không áp dụng cho các chủ thể là tổ chức. Như vậy, chủ thể tội phạm theo quy định này thì trên thực tế không phổ biến trong lĩnh vực bảo vệ môi trường không khí. Phần lớn, các chủ thể có hành vi đó lại là các doanh nghiệp mà trách nhiệm hình sự lại không áp dụng đối với chủ thể này, ví dụ: một doanh nghiệp A thải khí độc hại vào môi trường không khí, đã bị xử phạt hành chính nhưng cố tình không thực hiện các biện pháp khắc phục theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền gây hậu quả nghiêm trọng. Trường hợp này thì trách nhiệm hình sự đặt ra đối với chủ thể nào? Vì vậy đã đến lúc chúng ta phải vượt qua cách tiếp cận truyền thống “tổ chức không thể chịu trách nhiệm hình sự”. Trách nhiệm hình sự trong lĩnh vực môi trường nói chung và môi trường không khí nói riêng cần phải được áp dụng đối với cả các tổ chức; có như vậy thì mới đảm bảo xử lý triệt để các vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường không khí của các doanh nghiệp, tạo ra sự bình đẳng giữa các chủ thể vi phạm là cá nhân và tổ chức; qua đó còn góp phần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường không khí của chủ thể (cá nhân, tổ chức). 3.3.3. Thể chế bằng pháp luật một số công cụ kinh tế trong quản lý môi trường không khí Trong điều kiện kinh tế thị trường nếu chỉ dùng các biện pháp hành chính, cưỡng chế thì rất khó đưa các quy định của pháp luật bảo vệ môi trường vào cuộc sống. Vì vậy, cần sử dụng biện pháp có tính mềm dẻo hơn, để đảm bảo tính khả thi của pháp luật bảo vệ môi trường, Nhà nước ta đã chủ trương sử dụng các công cụ kinh tế. Sử dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường chính là sử dụng sức mạnh của thị trường đem lại sự mềm dẻo, hiệu quả cho sự kiểm soát ô nhiễm, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường. Chính vì lý do này trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 256/2003/QĐ-TTg, một trong những giải pháp thực hiện chiến lược được đưa ra đó là “Đẩy mạnh áp dụng công cụ kinh tế trong quản lý môi trường”. Đặc biệt ngày 15/11/2004 Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra nghị quyết 41-NQ/TW về “Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước”, trong 7 giải pháp đưa ra, giải pháp thứ tư khẳng định “áp dụng các biện pháp kinh tế trong bảo vệ môi trường” là giải pháp phù hợp bối cảnh của kinh tế thị trường, đảm bảo nguyên tắc người gây ra thiệt hại và người được hưởng lợi từ môi trường phải trả tiền. Các công cụ kinh tế trong quản lý môi trường bao gồm nhiều loại như: thuế môi trường, phí và lệ phí, nhãn môi trường, ký quỹ môi trường, giấy phép thải có thể chuyển nhượng... Trong bảo vệ môi trường không khí thì các công cụ kinh tế có vai trò quan trọng nhất đó là: phí thải hay còn gọi là phí xả thải, giấy phép thải có thể chuyển nhượng. * Giấy phép thải có thể chuyển nhượng (hay gọi là cota gây ô nhiễm) : Côta gây ô nhiễm là một loại giấy phép xả thải khí thải có thể chuyển nhượng mà thông qua đó, Nhà nước công nhận quyền của các nhà máy, xí nghiệp...được phép thải các chất khí thải gây ô nhiễm vào môi trường. Nhà nước xác định tổng lượng chất gây ô nhiễm tối đa có thể cho phép thải vào môi trường, sau đó phân bổ cho nguồn thải bằng cách phát hành những giấy phép thải gọi là côta gây ô nhiễm và chính thức công nhận quyền được thải một lượng chất gây ô nhiễm nhất định vào môi trường trong một giai đoạn xác định cho các nguồn thải. Khi có mức phân bổ côta gây ô nhiễm ban đầu, người gây ô nhiễm có quyền mua và bán côta gây ô nhiễm. Họ có thể linh hoạt chọn lựa giải pháp giảm thiểu mức phát thải chất gây ô nhiễm với chi phí thấp nhất: mua côta gây ô nhiễm để được phép thải chất gây ô nhiễm vào môi trường hoặc đầu tư xử lý ô nhiễm để đạt tiêu chuẩn cho phép. Nghĩa là những người gây ô nhiễm mà chi phí xử lý ô nhiễm thấp hơn so với việc mua côta gây ô nhiễm thì họ sẽ bán lại côta gây ô nhiễm cho những người gây ô nhiễm có mức chi phí cho xử lý ô nhiễm cao hơn. Như vậy sự khác nhau về chi phí đầu tư xử lý ô nhiễm sẽ thúc đẩy quá trình chuyển nhượng côta gây ô nhiễm. Thông qua chuyển nhượng, cả người bán và người mua côta gây ô nhiễm đều có thể giảm được chi phí đầu tư cho mục đích bảo vệ môi trường, đảm bảo được chất lượng môi trường không khí. Mặc dù là công cụ được hình thành trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khá hoàn hảo, nhưng với việc tham gia Nghị định thư Kyoto, xét về bản chất chúng ta sẽ bán quyền phát thải cho các quốc gia khác trên cơ sở đầu tư tài chính của họ vào Việt Nam, đặc biệt là việc thực hiện cơ chế phát triển sạch (CDM). Chính vì vậy hoàn thiện các chính sách và các quy định pháp luật liên quan để tạo ra một khung pháp lý rõ ràng và chặt chẽ về quyền xả thải khí thải và sự mua bán chuyển nhượng giấy phép thải này sẽ là yếu tố cơ bản quyết định đến việc ngăn ngừa và hạn chế những tác động bất lợi đối với môi trường không khí từ các nguồn thải của các cơ sở công nghiệp. * Phí ô nhiễm: Loại phí này chủ yếu được tính theo lượng phát thải ra môi trường gây ô nhiễm và thiệt hại cho môi trường hoặc từ sản lượng quy ra chất thải gây ô nhiễm. Đây là các khoản tiền phải trả cho việc thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường, được xác định dựa trên nồng độ, khối lượng và hàm lượng của các chất gây ô nhiễm thải vào môi trường. Như vậy, đây là các loại phí được đặt ra để kiểm soát ô nhiễm, bao gồm: phí xả thải, phí người sử dụng, phí sản phẩm... Việc áp dụng phí ô nhiễm trong bảo vệ môi trường không khí sẽ có tác dụng tích cực nhằm buộc các tổ chức, cá nhân giảm lượng khói, bụi, hóa chất độc hại thải vào bầu khí quyển. Đối với các cơ sở công nghiệp ở Việt Nam, phí ô nhiễm có thể sử dụng để bảo vệ môi trường không khí cần được luật hoá là phí xả thải chất thải khí (có thể gọi tắt là phí thải khí). Hiện tại nếu gọi đúng nghĩa là phí khí thải chúng ta chưa có quy định nào riêng cho lĩnh vực thu phí này, tuy nhiên trong thực tiễn chúng ta cũng đã có những khoản phí liên quan đến vấn đề này, chẳng hạn trong quy định chi tiết thi hành pháp lệnh phí và lệ phí của nghị định 57/2002/NĐ-CP quy định các loại phí bảo vệ môi trường đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng than đá và các nhiên liệu đốt, tiếng ồn sân bay..., thực tế chưa được thực thi ở Việt Nam. Liên quan đến phí khí thải, một Nghị định đáng chú ý cần xem xét đó là Nghị định 78/2000/NĐ-CP ban hành ngày 26/12/2000 về phí xăng dầu, theo Nghị định này căn cứ thu phí xăng dầu là số lượng xăng dầu xuất, bán tại Việt Nam, với mức thu: - Xăng các loại, bao gồm xăng ôtô, xăng máy bay, xăng công nghiệp và các loại xăng khác là 500đông/lít. - Dầu diezen là 300đồng/lít. Các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng nộp phí xăng dầu có trách nhiệm đăng ký, kê khai thu, nộp phí xăng dầu vào Ngân sách Nhà nước. Số tiền phí xăng dầu nộp vào Kho bạc Nhà nước được điều tiết 100% về Ngân sách Trung ương. Như vậy, có thể nhận thấy nguồn thu phí này sử dụng cho mục đích cải thiện môi trường hay để bảo dưỡng đường bộ chưa được quy định cụ thể trong Nghị định, cho nên có quan điểm cho rằng thu phí môi trường qua xăng dầu cũng chưa chính xác. Trên cơ sở những phí ô nhiễm hiện nay chúng ta đã có, cơ quan hoạch định chính sách môi trường cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện các loại phí này phù hợp với thực tiễn khách quan đảm bảo mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm và có nguồn thu cho quỹ môi trường. Tiếp tục xây dựng Nghị định thu phí khí thải, phí ô nhiễm do khí thải ô nhiễm gây ra. Bên cạnh đó cũng cần phải có các quy định cụ thể về nguyên tắc và mang tính định hướng đối với việc miễn giảm phí bảo vệ môi trường đối với tổ chức, cá nhân tự thu hồi chất thải khí phát sinh do hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình hoặc đã xử lý đạt theo đúng tiêu chuẩn môi trường không khí. Trên đây là một số giải pháp cơ bản đưa ra nhằm định hướng cho việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam. Ngoài những giải pháp trên còn có thể xem xét một số giải pháp khác như: khuyến khích việc xây dựng mô hình quản lý môi trường trong doanh nghiệp tiến tới đáp ứng tiêu chuẩn ISO 14000; nâng cao công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bảo vệ môi trường không khí cho người dân... Kết luận Qua sự phân tích, trình bày trên, có thể nhận thấy rằng: bảo vệ môi trường nói chung và bảo vệ môi trường không khí nói riêng là yêu cầu thật sự cấp bách, không chỉ đối với Việt Nam mà nó mang tính chất toần cầu. Nhưng tại Việt Nam, bảo vệ môi trường không khí bằng pháp luật trong thời gian qua chưa thực sự được coi trọng. Vì vậy đã đến lúc chúng ta cần nhìn nhận lại toàn bộ vấn đề này, đặc biệt là trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, khi đứng trước yêu cầu đổi mới và hội nhập hiện nay. Trong khuôn khổ khoá luận tốt nghiệp, các vấn đề đựơc đề cập đến cho thấy: - ô nhiễm môi trường không khí với những tác hại, ảnh hưởng của nó đã đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải giải quyết: yêu cầu bảo vệ môi trường không khí. - Vai trò của pháp luật trong việc bảo vệ môi trường không khí, nó góp phần giảm thiểu, ngăn ngừa những tác động xấu của đối với những chủ thể có hoạt động tác động đến môi trường không khí. Qua đó nó còn nhằm giáo dục ý thức bảo vệ môi trường không khí của người dân, đồng thời cũng khuyến khích các chủ thể thực hiện những hành vi thân thiện hơn với môi trường không khí. - Nêu ra những nội dung chủ yếu của pháp luật bảo vệ môi trường không khí hiện hành của Việt Nam. Từ thực trạng đó thấy rằng: pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam còn rất nhiều bất cập, thiếu sót và mang tính chất tản mạn, chồng chéo. Trên cơ sở tìm hiểu nội dung chủ yếu và thực trạng của pháp luật bảo vệ môi trường không khí của Việt Nam đó, để có thể giải quyết được các yêu cầu, vấn đề đặt ra của việc ô nhiễm môi trường không khí mang lại, ta có thể xem xét và tìm hiểu một số giải pháp, định hướng hoàn thiện cho lĩnh vực này như sau: - Cần hoàn thiện các quy định về thẩm quyền của các cơ quan quản lý nhà nước trong bảo vệ môi trường không khí, như: cần cụ thể và phân biệt rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về môi trường, hoàn thiện các quy định về TCMT không khí... - Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí: cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong bảo vệ môi trường không khí, hoàn thiện các trách nhiệm pháp lý áp dụng cho các chủ thể vi phạm pháp luật môi trường không khí... - Thể chế bằng pháp luật một số công cụ kinh tế trong quản lý môi trường không khí; những loại công cụ kinh tế cần được thể chế bằng pháp luật là: giấy phát thải được phép chuyển nhượng và phí phát thải. Danh mục tài liệu tham khảo I. Văn bản pháp luật: 1. Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995. 2. Bộ luật hình sự của nước CHXHCN Việt Nam được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999. 3. Luật tổ chức Chính phủ được Quốc hội thông qua ngày 25/12/2001. 4. Luật bảo vệ môi trường thông qua ngày 27/12/1993. 5. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, ngày 06/07/1995, sửa đổi và bổ sung ngày 02/07/2002. 6. Nghị định 175 CP ngày 08/10/1994, hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường 1993. 7. Nghị định 26 CP, ngày 26/04/1996 quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường; Nghị định 121 CP, ngày 12/05/2004 thay thế NĐ 26 CP. 8. Nghị định 91 CP, ngày 11/11/2002 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. 9. Quyết định 45/2003/QĐ-TTg ngày 02/04/2003 về việc thành lập Sở Tài nguyên và Môi trường thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. 10. Quyết định số 35/2002/QĐ-BKHCNMT, ngày 25/06/2002 về việc ban hành tiêu chuẩn môi trường Việt nam. 11. Thông tư số 490-MTg ngày 29/04/1998 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn lập và thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư trong và ngoài nước. 12. Công ước Viên về bảo vệ tầng ozôn 1985. 13. Công ước khung về thay đổi khí hậu của Liên hợp quốc 1992. 14. Nghị định thư Kyoto 1997. II. Các tài liệu chuyên ngành: 15. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 2003, Hà Nội. 16. Bộ Tài nguyên và Môi trường, tài liệu của Hội nghị môi trường toàn quốc, Hà Nội 2005. 17. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường năm 2004, 2005, Hà Nội. 18. Cục bảo vệ môi trường, Tạp chí bảo vệ môi trường năm 2004, 2005, Hà Nội. 19. Tạp chí Con đường xanh năm 2004, 2005, Hà Nội. 20. Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2004, 2005, Hà Nội. 21. Phạm Ngọc Đăng, Môi trường không khí, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội, 1997. 22. PGS.TS Hoàng Kim Cơ, Môi trường không khí, NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà nội 1999. 23. PGS.TS Nguyễn Đức Khiển, Kinh tế môi trường, NXB Xây dựng, 2002. 24. Trường đại học Luật Hà Nội(2003), Giáo trình Luật Môi trường, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 25. Vũ Thị Duyên Thuỷ, Pháp luật bảo vệ môi trường không khí ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện, Luận văn Thạc sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001. 26. Lê Thế Phúc, Pháp luật về tiêu chuẩn môi trường Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Khoá luận tốt nghiệp, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, 2003. III. Các nguồn tài liệu khác: 27. website của Bộ Tài nguyên và Môi trường: 28. Website của Cục bảo vệ môi trường: 29. Cơ sở dữ liệu luật Việt nam: Mục lục lời cảm ơn Trước tiên, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo - PGS.TS. Phạm Hữu Nghị, Viện Nhà nước và Pháp luật đã tận tình hướng dẫn em tiếp cận và nghiên cứu để hoàn thành khoá luận này. Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian qua. Hà Nội, tháng 5 năm 2005 Sinh viên Nguyễn Thị Thu Huyền ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34168.doc
Tài liệu liên quan