Mục lục
Tên Trang
Lời nói đầu 4
Chương I: Giới thiệu chung về TMĐT và sự cần thiết xây dựng pháp luật
về TMĐT 7
I.Giới thiệu chung về TMĐT 7
1.Khái niệm 7
2.Sự ra đời và phát triển của TMĐT 9
3.Sự khác biệt giữa TMĐT và TMTT 12
3.1.Điều kiện tồn tại và phát triển 12
3.2.Hình thức hợp đồng 13
3.3.Phương thức giao dịch 13
3.4.Phương thức thanh toán 14
4.Lợi ích của TMĐT 14
4.1.Lợi ích đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế 15
4.2.Lợi ích đối với người tiêu dùng 19
II.Sự cần thi
90 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1693 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Pháp luật quốc tế về Thương mại Điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết xây dựng pháp luật về TMĐT 21
1.Lý do thứ nhất 21
2.Lý do thứ hai 24
3.Lý do thứ ba 25
Chương II: Pháp luật quốc tế về TMĐT 26
I.Các quy định pháp luật về văn bản điện tử 27
1.Khái niệm 27
2.Nội dung các quy định 28
2.1.Văn bản điện tử đáp ứng các yêu cầu pháp lý về văn bản 28
2.2.Các quy định về giao dịch bằng văn bản điện tử 35
II.Quy địnhpháp luật liên quan đến chữ ký điện tử 42
1.Khái niệm và Chức năng 42
1.1.Khái niệm 42
1.2.Chức năng 42
2.Một số quy định pháp luật về chữ ký điện tử 44
2.1.Quy định của UNCITRAL 44
2.2.Quy định của Đức 48
III.Quy định pháp luật về bảo vệ và bảo mật thông tin người tiêu dùng 49
1.Bảo vệ người tiêu dùng khi tham gia TMĐT 49
1.1.Quyền lợi của người tiêu dùng 49
1.2.Nghĩa vụ của doanh nghiệp trong bảo vệ người tiêu dùng 50
2.Bảo mật thông tin và dữ liệu liên quan đến người tiêu dùng 54
2.1.Quy định của EU 55
2.2.Nguyên tắc bảo mật thông tin người tiêu dùng của OECD 56
2.3.Quy định của Canada 57
IV.Quy định về một số vấn đề khác 58
1.Quy định về văn bản giấy tờ liên quan đến chuyên chở hàng hoá 58
2.Đánh thuế các giao dịch TMĐT 59
3.Quy định về thanh toán điện tử 62
Chương III: Định hướng xấy dựng pháp luật TMĐT cho Việt Nam 66
I.TMĐT Việt Nam-Thực trạng và giải pháp 66
1.Thực trạng TMĐT Việt Nam 66
1.1.Thực trạng chung 66
1.2.Thực trạng cơ sở hạ tầng nhận thức trong doanh nghiệp 67
1.3.Thực trạng cơ sở hạ tầng chính sách 69
2.Giải pháp 72
2.1.Giải pháp từ phía Chính phủ 72
2.2.Giải pháp từ phía doanh nghiệp 74
II.Khuyến nghị xây dựng hệ thống pháp luật cho TMĐT Việt Nam 81
1.Tham khảo và áp dụng pháp luật TMĐT quốc tế 81
2.Kiến nghị ban hành văn bản pháp quy 82
3.Nâng cao nhận thức và hiểu biết 85
4.Yêu cầu tư vấn, giúp đỡ 86
Kết luận 89
Tài liệu tham khảo 90
Một số ký hiệu viết tắt
TMĐT: Thương mại Điện tử
CKĐT: Chữ ký điện tử
TMTT: Thương mại truyền thống
UNCITRAL: ủy ban của Liên Hợp Quốc về pháp luật Thương mại Quốc tế;
OECD: Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế;
ICC: Phòng Thương mại và Công nghiệp
CSP: người cung cấp "giấy chứng nhận chữ ký điện tử" và cung cấp các dịch vụ khác liên quan đến chữ ký điện tử
CNTT: Công nghệ thông tin
Lời nói đầu
Chúng ta đang sống trong thời đại của Công nghệ thông tin, của Kỹ thuật số hoá, của những thay đổi không ngừng trên mọi phương diện. Song hành với những thay đổi chóng mặt đó là những khái niệm mới, những phạm trù mới, những cách thức mới, và Thương mại Điện tử là một phương thức kinh doanh mới tương tự như vậy. Tuy mới chỉ xuất hiện cách đây chưa lâu và đang còn trong giai đoạn hình thành và phát triển nhưng Thương mại Điện tử cũng đã phần nào tác động đến cuộc sống của mỗi con người chúng ta.
Thương mại Điện tử với những đặc tính ưu việt hơn hẳn Thương mại Truyền thống đang là một xu thế tất yếu ở hầu hết các quốc gia, nhưng đồng thời cũng kéo theo nó hàng loạt các vấn đề phát sinh và nổi cộm nhất là các vấn đề pháp lý liên quan đến Thương mại Điện tử.
Trước thực trạng rất bức xúc của hầu hết các quốc gia trên thế giới về các khía cạnh pháp lý liên quan đến Thương mại Điện tử, trong đó có Việt Nam, tôi đã chọn đề tài "Pháp luật quốc tế về Thương mại Điện tử" để nghiên cứu và trình bày trong khoá luận tốt nghiệp tại Trường Đại học Ngoại Thương.
Mục đích nghiên cứu:
1.Làm rõ sự cần thiết của việc xây dựng pháp luật cho hoạt động TMĐT.
2.Trên cơ sở thực tiễn pháp luật TMĐT và kinh nghiệm quốc tế về pháp luật và TMĐT đề xuất những định hướng cho việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TMĐT Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu:
Khoá luận này chỉ đề cập đến các quy định pháp luật về ba vấn đề lớn liên quan đến TMĐT, đó là:
Văn bản điện tử
Chữ ký điện tử
Bảo mật thông tin người tiêu dùng
Và quy định pháp luật về một số vấn đề liên quan khác như:
Chuyên chở hàng hoá
Đánh thuế các giao dịch TMĐT
Thanh toán điện tử
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các quy định pháp luật, luật mẫu của các tổ chức quốc tế (UNCITRAL-ủy ban của Liên Hợp Quốc về pháp luật Thương mại Quốc tế; OECD-Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế; ICC-Phòng Thương mại và Công nghiệp;....) và một số quốc gia (Mỹ, Anh, úc, Canada, Newzealand, Hồng Kông.....).
Phương pháp nghiên cứu:
Sưu tầm, thu thập tài liệu từ sách, báo, Internet
Thống kê, phân tích
So sánh
Bố cục của khoá luận:
Chương I: Giới thiệu chung về Thương mại điện tử và Sự cần thiết phải xây dựng pháp luật về Thương mại điên tử. Chương này sẽ đề cập đến khái niệm về Thương mại điện tử; Lợi ích của Thương mại điện tử đối với hai chủ thể lớn tham gia hoạt động Thương mại điện tử là Doanh nghiệp và Người tiêu dùng; Sự khác biệt cơ bản giữa TMĐT và TMTT;Quá trình hình thành và phát triển của TMĐT; Chương I cũng sẽ đồng thời đề cập đến ba nguyên nhân chính dẫn tới sự ra đời của pháp luật về Thương mại điện tử,
Chương II: Quy định pháp luật của một số tổ chức quốc tế và quốc gia về Thương mại điện tử. Chương II này sẽ nêu ra các quy định pháp luật về ba vấn đề lớn liên quan đến Thương mại điện tử (Văn bản điện tử, Chữ ký điện tử, Bảo mật thông tin người tiêu dùng) đồng thời đề cập sơ lược đến các quy định về một số khía cạnh khác với mục đích tham khảo (Đánh thuế các giao dịch Thương mại điện tử; Thanh toán điện tử; Chuyên chở hàng hoá;....). Mục tiêu của chương này là tìm hiểu về quy định pháp luật của các tổ chức quốc tế và một số quốc gia liên quan đến Thương mại điện tử, làm nền tảng cơ sở tham khảo cho việc xây dựng pháp luật về Thương mại điện tử ở Việt Nam sau này.
Chương III: Định hướng xây dựng hệ thống pháp luật cho hoạt động Thương mại điện tử của Việt Nam. Chương III này sẽ cung cấp một số thông tin liên quan đến thực trạng Thương mại điện tử Việt Nam, giải pháp để phát triển Thương mại điện tử Việt Nam trong đó có giải pháp xây dựng khuôn khổ pháp lý cho Thương mại điện tử, và đồng thời đưa ra các khuyến nghị để xây dựng hệ thống pháp luật Thương mại điện tử ở Việt Nam.
Do hạn chế về thời gian và nguồn tài liệu nên trong quá trình thực hiện đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót. Tôi rất mong nhận được sự cảm thông và góp ý của quý vị.
Tôi xin bày tỏ lòng trân trọng cảm ơn tới Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Bùi Xuân Lưu, thầy đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi cũng xin trân trọng và chân thành cảm ơn gia đình và bè bạn đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong qúa trình tìm tài liệu cũng như thực hiện đề tài này.
Hà Nội, Tháng 11 năm 2002
Nguyễn Thu Trang
A12-K37- ĐH Ngoại Thương
CHương I:
Giới thiệu chung về Thương mại điện tử và sự cần thiết xây dựng pháp luật về
Thương mại điện tử
******************
I.Giới thiệu chung về Thương mại điện tử:
1.Khái niệm Thương mại điện tử
1.1.Khái niệm:
Sự phát triển và hoàn thiện của kỹ thuật số đã đưa tới cuộc "cách mạng số hoá" thúc đẩy sự ra đời của "kinh tế số hoá" và "xã hội thông tin" mà thương mại điện tử (Ecommerce-Electronic Commerce-TMĐT) là một bộ phận hợp thành. TMĐT là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại, trong đó thương mại không phải chỉ là buôn bán hàng hoá và dịch vụ, mà như được các nước thành viên Liên hiệp quốc thoả thuận bao gồm hầu như tất cả các dạng hoạt động kinh tế và việc chấp nhận và áp dụng TMĐT sẽ làm thay đổi toàn bộ hình thái hoạt động xã hội.
Hiện nay trên thế giới chưa có một định nghĩa chính xác nào về TMĐT. Người ta vẫn chỉ hiểu nôm na rằng TMĐT là việc mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch vụ trực tuyến và kết quả của các giao dịch này là hàng hoá, dịch vụ được mua, bán, xuất khẩu hay nhập khẩu.
Còn theo định nghĩa rộng rãi nhất, giản dị nhất và đã được chấp nhận phổ biến thì TMĐT là việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương mại, nói chính xác hơn, TMĐT là việc trao đổi thông tin thương mại thông qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), Thương mại điện tử (TMĐT) là tổng thể các giao dịch thương mại trong đó Internet là công cụ chủ yếu được sử dụng để:
Thu thập các thông tin liên quan đến hàng hoá, dịch vụ, đối tác...
Đặt mua hàng hoá hay dịch vụ và
Thực hiện các hoạt động thanh toán
Một hoạt động thương mại có hai trong số ba đặc điểm nêu trên của TMĐT cũng có thể được coi là hoạt động TMĐT.
Ngoài ra Uỷ ban Châu Âu cũng đã đưa ra định nghĩa về TMĐT. Theo định nghĩa này thì TMĐT được hiểu là việc thực hiện hoạt động kinh doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền dữ liệu điện tử dưới dạng text, âm thanh và hình ảnh. TMĐT trong định nghĩa này bao gồm nhiều hành vi, bao gồm hoạt động mua bán hàng hoá dịch vụ, giao nhận các nội dung kỹ thuật số trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực tiếp với người tiêu dùng, các dịch vụ sau bán hàng.....
Theo Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì TMĐT bao gồm việc sản xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình.
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế OECD cũng đưa ra một định nghĩa tương tự định nghĩa của WTO, theo đó TMĐT được định nghĩa là các giao dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như Internet.
Như vậy, TMĐT đơn giản chỉ là việc thay thế các giao dịch thương mại mang tính vật chất thông thường sang các giao dịch thương mại được thực hiện thông qua các phương thức liên lạc hiện đại, mà chủ yếu là qua Internet. Bản chất TMĐT là sự mở rộng, sự kết nối và sự hội nhập giữa các doanh nghiệp và người tiêu dùng.
1.2.Các loại hình TMĐT:
a)B2B (Business to Business) là hình thức kinh doanh giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp trong đó các doanh nghiệp thực hiện giao dịch mua bán trao đổi hàng hoá với nhau thông qua các trang Web.
b)B2C (Business to Consumer) là hình giao dịch giữa doanh nghiệp và khách hàng trong đó người tiêu dùng thực hiện mua bán hàng hoá qua trang Web. c)Tuy nhiên trong một số tài liệu, người ta còn đề cập đến một vài dạng khác nữa của TMĐT như B2BC (Business to Business and Consumer), B2G (Business to Government), C2G (Consumer to Government)
2.Sự ra đời và phát triển của TMĐT
TMĐT mới chỉ thực sự ra đời vào giữa những năm 90 của thế kỷ 20 và cho đến nay đã có những bước phát triển rất thần kỳ. Về cơ bản, quá trình hình thành và phát triển của TMĐT có thể chia thành hai giai đoạn chính:
Từ khi có sự ra đời của Internet đến giữa những năm 90
Từ giữa những năm 90 đến nay
2.1.Giai đoạn I - Sự ra đời của mạng thông tin toàn cầu - INTERNET:
Chúng ta đã biết TMĐT từ khi ra đời cho đến nay luôn gắn liền với Internet và Internet là một trong những điều kiện cần để có thể tiến hành các giao dịch TMĐT. Bởi vậy, chúng ta cần tìm hiểu đôi chút về sự ra đời của Internet để từ đó hiểu rõ hơn về các biểu hiện đầu tiên của TMĐT.
a)Internet ra đời từ một sáng kiến của Bộ Quốc phòng Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Năm 1969 Bộ Quốc phòng Mỹ đã xây dựng một hệ thống liên lạc, trao đổi thông tin giữa các cơ quan của Bộ Quốc phòng và các trường đại học của Mỹ có tên là ARPANET. Trong thập kỷ 70 của thế kỷ 20, người Mỹ đã sử dụng mạng thông tin liên lạc này để gửu e-mail, để tổ chức các cuộc thảo luận nhóm, để thu thập dữ liệu... giữa các cơ quan chính phủ, các công ty và các trường đại học. b)Đến năm 1983 Internet thực sự ra đời và cho đến đầu những năm 90 của thế kỷ 20, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ lập trình mạng thông tin toàn cầu World Wide Web (WWW) ra đời với nhiều tính năng ưu việt hơn trước.
Như vậy, ngay từ khi Internet mới ra đời, các doanh nghiệp đã sử dụng Internet để phục vụ cho công việc của mình. Tuy nhiên, mức độ ứng dụng Internet của các doanh nghiệp Mỹ mới chỉ dừng lại ở chỗ gửi e-mail trao đổi thông tin và tìm kiếm dữ liệu. Việc sử dụng Internet trong các doanh nghiệp Mỹ trước thập kỷ 90 phục vụ cho công việc kinh doanh chưa thể coi là TMĐT. Nhưng rõ ràng đây là những dấu hiệu đầu tiên của TMĐT.
Tính đến những năm đầu thập kỷ 90 giá trị của TMĐT bằng 0.
2.2.Giai đoạn từ giữa những năm 1990 đến nay: Sự trỗi dậy của TMĐT
Tháng 7 năm 1995, việc Jeff Bezos mở cửa hàng sách trực tuyến đã cách mạng mọi cách nghĩ về mạng, nó được coi là bằng chứng cho sự ra đời và thành công của TMĐT. Từ đó đến nay, nhân loại chứng kiến sự phát triển kinh ngạc của TMĐT.
TMĐT đã và đang phát triển nhanh chóng trên bình diện toàn cầu dựa trên nền tảng của sự phát triển Công nghệ Thông tin. CNTT đang dần dần chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân của nhiều nước.
Hiện TMĐT được áp dụng chủ yếu là ở các nước công nghiệp phát triển (riêng nước Mỹ chiếm khoảng một nửa doanh số TMĐT thế giới), nhưng hiện nay các nước đang phát triển cũng đã bắt đầu tham gia lĩnh vực mới mẻ và đầy tiềm năng này. Sự phát triển của TMĐT một mặt là kết quả của xu hướng tất yếu, khách quan của quá trình số hoá, mặt khác là kết quả của các nỗ lực chủ quan của từng nước, từng nhóm nước và toàn thế giới nói chung đặc biệt là trên bình diện tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho kinh tế số hoá nói chung và TMĐT nói riêng.
TMĐT tăng với tốc độ 200% trong những năm gần đây. Tổng doanh số TMĐT toàn thế giới năm 1997 đạt khoảng 18 tỷ USD, năm 1998 ước đạt 31 tỷ USD , năm 1999 đạt 71 tỷ và dự kiến năm 2002 đạt khoảng 300 tỷ USD. (Cục Xúc tiến Thương mại-Bộ Thương mại Việt Nam tổng hợp từ số liệu công bố và dự báo của Gartner Group).
Tốc độ tăng trưởng của TMĐT mà đặc biệt là buôn bán giữ các doanh nghiệp trong và ngoài nước sẽ chiếm khoảng 50%; dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác khoảng 45%; dịch vụ bán lẻ khoảng 5%. Internet giữ vai trò quan trọng trong kết nối hàng trăm triệu máy tính, người sử dụng có thể truy cập đến hàng triệu nguồn cung cấp thông tin trên khắp thế giới. Internet không còn chỉ là một phương tiện kỹ thuật đơn thuần mà đã trở thành một môi trường mới của mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục....có tác động mạnh đến các chuyển biến nhanh chóng của đời sống con người trên khắp hành tinh.
Số người tham gia vào thế giới trực tuyến lớn hơn bao giờ hết: 200 triệu người vào thời điểm cuối thiên niên kỷ. Chính con số người sử dụng Internet là nguyên nhân chính của sự bùng nổ các công ty mang tên .com (dot-com), làn sóng B2B trên toàn thế giới.
Chúng ta sẽ cùng xem xét một vài số liệu liên quan đến giá trị giao dịch TMĐT ở một số quốc gia, giá trị giao dịch bình quân trên số người sử dụng Internet qua bảng sau:
Thị trường thương mại điện tử ở một số nước trên thế giới
Tên nước
Giá trị giao dịch năm 2000 (triệu USD)
Bình quân trên số người sử dụng Internet thường xuyên (USD)
Mỹ
74,500.00
1.284,48
Hàn Quốc
351.39
390,43
Nhật Bản
3,779.10
366,90
úc
981.24
362,08
Thái Lan
36.47
331,55
Philipine
39.78
331,50
New Zealand
149.04
331,20
Hong Kong
245.31
327,08
Singapore
278.46
262,70
Malaysia
39.78
248,63
Indonesia
14.72
245,33
Việt Nam
2.45
245,00
Đài Loan
36.65
202,58
Trung Quốc
232.05
93,95
Nguồn: IT Venture Business in APEC Economies - JETRO 2/2001
Như vậy chúng ta có thể nhận thấy rõ rằng TMĐT từ khi ra đời cho đến nay đã có những bước phát triển không ngừng và đạt được một số thành tựu nhất định. Cùng với thời gian, chúng ta hi vọng rằng, Internet cũng như TMĐT sẽ càng phát triển và bùng nổ mạnh mẽ hơn nữa, nhanh chóng đưa nền kinh tế toàn cầu bước sang một giai đoạn mới "giai đoạn số hoá".
3.Sự khác biệt giữa TMĐT và Thương mại truyền thống(TMTT)
3.1.Điều kiện tồn tại và phát triển:
TMĐT muốn tồn tại và phát triển phải được thoả mãn một số điều kiện cơ bản nhất định, đó là:
Hạ tầng truyền thông (bao gồm mạng Internet, máy chủ, máy trạm, đường truyền, vệ tinh...)
Hành lang pháp lý (bao gồm các quy phạm về văn bản điện tử, chữ ký điện tử, chứng thực điện tử, sở hữu trí tuệ, bảo mật thông tin người tiêu dùng, giải quyết tranh chấp, thanh toán điện tử....)
Hệ thống ngân hàng với hệ thống thanh toán điện tử có sự tham gia của "ví điện tử", "master card", "visa card"...
Nhận thức của người tiêu dùng về TMĐT
Nói như vậy không có nghĩa để thực hiện các giao dịch TMTT không cần đến hạ tầng truyền thông, hành lang pháp lý hay hệ thống ngân hàng, mà yêu cầu của TMTT không quá cao và khắt khe như yêu cầu để thực hiện các giao dịch TMĐT . Đối với các giao dịch Thương mại thông thường, thậm chí không có sự tham gia của phương tiện kỹ thuật hiện đại như điện thoại hay hệ thống ngân hàng các giao dịch loại này vẫn diễn ra và phát triển tuỳ ở các mức độ khác nhau.
3.2.Hình thức hợp đồng
Trong các giao dịch TMTT, tuỳ theo giá trị hàng hoá giao dịch là bao nhiêu mà luật pháp các quốc gia yêu cầu hợp đồng phải được làm bằng văn bản hay không. Văn bản mà luật pháp các quốc gia đề cập đến ở đây là văn bản giấy (paper-based document), và có chữ ký xác nhận của các chủ thể.
Còn trong giao dịch TMĐT hiện nay, khi phương tiện giao dịch được sử dụng chủ yếu là hệ thống mạng, với những thư điện tử (email) và văn bản điện tử (data message), và không còn sự xuất hiện của bất kỳ một văn bản giấy nào thì hợp đồng của các giao dịch trong TMĐT chính là các văn bản điện tử đó, những văn bản đặc biệt mà các chủ thể có thể đọc được, lưu giữ được, soạn thảo được, gửi đi được, nhận được nhưng hoàn toàn không thể sờ được hay cảm nhận vật chất được. Hay nói một cách khác, hình thức hợp đồng trong TMĐT là "phi vật chất".
Chính sự khác biệt này đã là một nguyên nhân dẫn đến việc phải hình thành một khuôn khổ pháp lý mới để điều chỉnh hợp đồng TMĐT.
3.3.Phương thức giao dịch
Một trong những điều kiện để có thể tồn tại và phát triển TMĐT là hạ tầng truyền thông, với hệ thống mạng, đường truyền, máy vi tính. Điều kiện này có thể xem như là một đặc điểm nhận dạng nổi bật nhất của TMĐT. Và tất cả các giao dịch qua lại giữa các bên chủ thể tham gia TMĐT đều thực hiện thông qua phương tiện kỹ thuật hiện đại này. Đàm phán, thoả thuận để ký kết hợp đồng được thực hiện với sự trợ giúp của mạng, thông qua các văn bản điện tử, các thư điện tử... Hay trong nhiều trường hợp, hợp đồng mua bán hàng hoá dịch vụ lại được ký kết chỉ sau vài lần nhấn chuột. Nói tóm lại, được thực hiện bằng phương tiện này hay phương tiện khác, các giao dịch trong TMĐT là giao dịch trực tuyến (online transactions).
Giao dịch trực tuyến khác rất xa so với các phương thức giao dịch được sử dụng trong TMTT, khi muốn ký kết một hợp đồng, các chủ thể phải tham gia quá trình đàm phán trực tiếp, hay đàm phán gián tiếp qua thư từ, công văn, điện thoại...Quá trình giao dịch trong TMTT thường tốn nhiều thời gian hơn trong TMĐT, do vậy có thể dẫn đến tình trạng mất cơ hội kinh doanh.
3.4.Phương thức thanh toán
Như chúng ta đã biết, việc thanh toán trong TMTT được thực hiện bằng nhiều cách, có thể là "tiền trao, cháo múc", hay thanh toán bằng chuyển khoản, chuyển tiền qua ngân hàng... Việc thanh toán vẫn có thể thực hiện được nếu không có sự tham gia của bất kỳ một phương tiên kỹ thuật hiện đại nào.
Nhưng trong TMĐT, việc thanh toán chỉ có thể được thực hiện nếu các bên chủ thể của giao dịch có thẻ tín dụng thanh toán điện tử như master card, visa card...và hệ thống ngân hàng phải có đầy đủ trang thiết bị phục vụ cho việc thanh toán điện tử.
Trên đây là 4 điểm khác biệt cơ bản nhất, rõ ràng nhất giữa TMĐT và TMTT. Những khác biệt cơ bản này có thể được coi như là những đặc tính riêng biệt của mỗi phương thức kinh doanh và chi phối một số vấn đề khác liên quan đến TMĐT và TMTT.
4.Lợi ích của TMĐT
Tham gia vào TMĐT là tham gia vào thị trường khách hàng toàn cầu, trong đó bất cứ ai cũng có thể mua bán hàng và sử dụng dịch vụ ở bất cứ đâu thông qua giao dịch với bất cứ ngân hàng nào vào bất cứ thời gian nào theo kiểu 24*7 (24 giờ một ngày, 7 ngày trong tuần).
Tham gia TMĐT, bất kỳ một tổ chức, một doanh nghiệp, một cá nhân nào cũng có thể thu được các lợi ích vô cùng to lớn. Lợi ích giữa các bên trong TMĐT có mối quan hệ qua lại và cùng góp phần làm tăng lợi ích kinh tế xã hội.
Đối với mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp lợi ích thu được từ TMĐT có thể không giống nhau. TMĐT sẽ là con đường ngắn nhất, nhanh nhất để các nước đang và kém phát triển hội nhập với toàn thế giới trong khi TMĐT là công cụ để củng cố sự phát triển ổn định của nền kinh tế ở các nước phát triển.
Lợi ích của TMĐT có thể được xem xét dưới nhiều góc độ, gắn với mỗi chủ thể khác nhau. Tuy nhiên trong khoá luận này chỉ xin được đề cập đến lợi ích của TMĐT đối với 2 nhóm đối tượng chính tham gia TMĐT, đó là Doanh nghiệp / Các tổ chức kinh tế và Người tiêu dùng.
4.1.Lợi ích đối với doanh nghiệp / tổ chức kinh tế:
a)Lợi ích lớn nhất và cốt lõi nhất mà TMĐT mang lại cho các doanh nghiệp / các tổ chức kinh tế là tiết kiệm thời gian, chi phí sản xuất và giảm giá thành sản phẩm.
Tham gia TMĐT doanh nghiệp có thể tiết kiệm được chi phí Marketing. Trước kia khi chưa tham gia TMĐT, công việc nghiên cứu thị trường và xâm nhập thị trường mới đặc biệt là các thị trường quốc tế đòi hỏi một khoản đầu tư rất lớn của doanh nghiệp. Nhưng nay, thông qua Internet các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế có thể thu thập dữ liệu về khu vực thị trường mục tiêu của mình mà không tốn kém nhiều về thời gian cũng như công sức dẫn đến tiết kiệm được nhiều hơn trong chi tiêu cho nhân lực trong công tác nghiên cứu. Mặc dù nghiên cứu thị trường thông qua Internet doanh nghiệp vẫn phải thanh toán chi phí mạng nhưng chúng ta có thể chắc chắn một điều rằng chi phí cho sử dụng mạng Internet sẽ ít hơn rất nhiều so với chi phí cho nhân viên tiến hành điều tra, nghiên cứu. Bên cạnh đó, với việc lập một Website của riêng mình doanh nghiệp cũng có thể tiết kiệm được khá nhiều chi phí dành cho quảng cáo.
Doanh nghiệp cũng có thể tiết kiệm được các chi phí trung gian nếu tham gia Thương mại điện tử. Thay vì sử dụng các trung gian, hệ thống đại lý, nhà phân phối tại từng khu vực thị trường, trong TMĐT, khi người tiêu dùng và doanh nghiệp liên hệ trực tiếp với nhau qua các Website, các giao dịch là trực tuyến và điều đó đồng nghĩa với việc doanh nghiệp tiết kiệm được khá nhiều chi phí trung gian. Thông qua mạng doanh nghiệp có thể tiến hành các cuộc đấu giá để cung cấp sản phẩm, dịch vụ đến tận tay người tiêu dùng.
Thông qua mạng, thời gian cho mỗi quá trình sản xuất kinh doanh được rút ngắn. Thời gian cho việc tìm kiếm nhà cung cấp nguyên vật liệu, thời gian cho giao dịch ký kết hợp đồng mua bán, thời gian xâm nhập một khu vực thị trường mới, thời gian phân phối sản phẩm đến tay người tiêu dùng sẽ ở mức tối thiểu. Và đồng thời nguồn nhân lực cho các hoạt động này cũng ở mức thấp nhất, do đó chi phí sẽ giảm xuống đáng kể.
Tiết kiệm được chi phí trong sản xuất, phân phối dẫn đến giá bán sản phẩm doanh nghiệp giảm đáng kể. Doanh nghiệp càng cắt giảm được nhiều chi phí ở các khâu trung gian trong quá trình sản xuất thì giá bán sản phẩm càng giảm. Các nghiên cứu sơ bộ của nhiều tổ chức kinh tế trên thế giới đã cho thấy giá bán của nhiều hàng hoá trên mạng rẻ hơn giá bán trên thị trường truyền thống, đặc biệt là sách và đĩa CD (rẻ hơn 10%) (Theo Economist 2000, Oliner and Sichel 2000). Đối với hàng hoá dịch vụ, mức giá còn giảm hơn rất nhiều, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng. Theo tính toán của các nhà kinh tế, chi phí đầu tư và vận hành một hệ thống thanh toán và đổi tiền bằng Internet chỉ bằng một nửa so với chi phí đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ cho hệ thống thanh toán tự động hiện hành.
Cung cấp sản phẩm với mức giá thấp sẽ đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích khác nữa. Doanh số bán ra của doanh nghiệp có thể sẽ tăng mạnh kéo theo nó sự gia tăng của doanh thu và lợi nhuận.
b)Tham gia TMĐT doanh nghiệp sẽ nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.Bằng việc tận dụng các ưu điểm của TMĐT, đặc biệt là tiết kiệm chi phí doanh nghiệp có thể cung cấp được các hàng hoá, dịch vụ có chi phí thấp hơn so với các đối thủ.
Mặt khác, do tiết kiệm được thời gian trong sản xuất, quản lý, phân phối doanh nghiệp tham gia TMĐT sẽ có nhiều thuận lợi trong việc cung cấp hàng hoá đến tay người tiêu dùng trong khoảng thời gian ngắn nhất. Bên cạnh đó hàng hoá được cung cấp sẽ có chất lượng tốt hơn, đảm bảo hơn so với hàng hoá của các hãng khác.
Thông qua Internet doanh nghiệp có thể nhận được phản hồi từ khách hàng nhanh nhất, từ đó có kế hoạch cung cấp các dịch vụ sau bán hàng nhanh nhất, kịp thời nhất và cải tiến sản phẩm cho phù hợp với nhu cầu của khách hàng. Đây cũng là một trong những yếu tố quan trọng nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm của doanh nghiệp.
Tính cạnh tranh của sản phẩm là một yếu tố vô cùng quan trọng. Nó quyết định trực tiếp đến việc tiêu thụ hàng hoá trên thị trường, sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Do vậy, TMĐT là một công cụ hữu hiệu để giúp các doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình.
c)Tham gia TMĐT doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội tiếp xúc với đối tác, thị trường. Thông qua Internet, doanh nghiệp và đối tác có thể liên lạc trực tiếp với nhau một cách dễ dàng. Hai bên có thể trao đổi các thông tin liên quan đến nhu cầu về hàng hoá dịch vụ, thông tin và các văn bản hợp đồng mua bán. Chính ưu điểm này của Internet giúp doanh nghiệp và đối tác hiểu nhau hơn, tạo mối quan hệ bền vững lâu dài, thân thiện giữa hai bên. Bằng việc sử dụng Internet, doanh nghiệp có thể trực tiếp nghiên cứu, tiếp xúc với thị trường. Internet sẽ là một công cụ hữu hiệu để doanh nghiệp tìm kiếm, thu thập thông tin về khách hàng, nhu cầu, thị trường. Và dựa trên thông tin thu thập được, doanh nghiệp sẽ phân tích và đưa ra nhưng dự đoán cho tương lai và hoạch định chiến lược của mình. Internet cũng giúp doanh nghiệp nhận được thông tin từ phía khách hàng nhiều hơn, nhanh hơn. Trên cơ sở những phản hồi của khách hàng doanh nghiệp sẽ tự hoàn thiện mình hơn, cung cấp sản phẩm có chất lượng tốt hơn để thoả mãn tối đa nhu cầu của người tiêu dùng.
d)Tham gia TMĐT sẽ là cơ hội tốt để doanh nghiệp cải tạo cơ sở hạ tầng sản xuất, kinh doanh, phân phối cũng như nâng cao trình độ của nhân viên. Để tham gia TMĐT một cách có hiệu quả cũng như tận dụng được mọi lợi thế của TMĐT đòi hỏi doanh nghiệp phải cải tạo điều kiện cơ sở kĩ thuật cho phù hợp. Doanh nghiệp cần phải đầu tư cho việc mua sắm trang thiết bị như máy tính, các thiết bị mạng. Trang bị phương tiện kĩ thuật càng hiện đại cơ hội thành công của doanh nghiệp trong TMĐT càng cao. Doanh nghiệp cũng cần phải cải tạo, nâng cấp hệ thống kênh phân phối cho phù hợp. Kênh phân phối cần được bố trí một cách có hiệu quả sao cho thuận tiện nhất cho việc cung cấp hàng hoá cho nhiều đầu mối đồng thời đảm bảo mức chi phí hợp lý.
Đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp cũng sẽ được nâng cao trình độ nhờ quá trình học hỏi, nghiên cứu trước khi tham gia vào TMĐT đồng thời được tăng cường khả năng hiểu biết thông qua việc tiếp xúc với các công nghệ kĩ thuật cao. Xu thế cạnh tranh lẫn nhau và tự đào thải sẽ là nhân tố vô cùng quan trọng thúc đẩy các nhân viên phải tự nâng cao trình độ của mình. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng buộc phải chú ý hơn đến việc đào tạo nhân viên. Chính điều đó đã góp phần nâng cao mặt bằng tri thức của xã hội
Chúng ta có thể khẳng định chắc chắn rằng với 4 lợi ích cơ bản, quan
trọng kể trên, TMĐT là một con đường tất yếu đối với các doanh nghiệp trong thế kỷ 21.
4.2.Lợi ích đối với người tiêu dùng:
Người tiêu dùng khi tham gia TMĐT có thể thu được 4 lợi ích lớn sau:
Người tiêu dùng sẽ tiết kiệm được thời gian
Người tiêu dùng sẽ tiết kiệm được chi phí cho mua sắm hàng hoá
Người tiêu dùng sẽ được sử dụng các sản phẩm có chất lượng cao hơn
Người tiêu dùng sẽ tự tin hơn khi mua hàng qua mạng
a)Tham gia TMĐT người tiêu dùng sẽ tiết kiệm được thời gian.
Để mua sắm hàng hoá, trước đây người tiêu dùng phải đi đến các cửa hàng, siêu thị rồi chọn lựa. Đôi khi không tìm được hàng hoá như mong muốn, họ phải tìm mua ở các cửa hàng khác. Hơn nữa đi mua sắm ở siêu thị, người tiêu dùng ở nhiều quốc gia hiện nay gặp nhiều khó khăn trong việc tìm chỗ để xe, chen lấn nhau mua hàng. Và tình trạng này tiêu tốn của họ khá nhiều thời gian. Hơn nữa người tiêu dùng phải thu xếp một khoảng thời gian nhất định để đi mua sắm. Nhưng hiện nay với sự phát triển của Công nghệ Thông tin, sự ra đời của hàng loạt các công ty dot-com, sự xuất hiện của các siêu thị ảo..., người tiêu dùng có thể tiết kiệm được rất nhiều thời gian. Thay vì phải thu xếp thời gian, phải chờ đợi vì tắc đường, hay chạy vòng vòng để tìm chỗ đậu xe, phải đợi chờ tại quầy thu ngân để được thanh toán.....người tiêu dùng có thể chỉ cần ngồi trước máy vi tính đã nối mạng tại một góc trong nhà mình, lựa chọn hàng hoá, nhấn chuột, nhập số liệu thẻ tín dụng của mình và chờ nhân viên bán hàng giao hàng đến tận nhà trong khoảng thời gian ngắn nhất.
Với những khoảng thời gian tiết kiệm được, người tiêu dùng có thể tập trung vào làm các công việc và đặc biệt các bà nội trợ sẽ có nhiều thời gian hơn để chăm sóc cho gia đình và chính mình.
b)Người tiêu dùng sẽ tiết kiệm được chi phi nếu tham gia TMĐT.
Như đã trình bày ở phần trên, TMĐT sẽ giúp các doanh nghiệp cắt giảm được nhiều loại chi phí và hạ giá thành sản phẩm dịch vụ cung cấp. Và khi đó người tiêu dùng là người có lợi nhất. Tuy nhiên không phải lúc nào người tiêu dùng cũng có thể tiết kiệm được chi phí khi mua sắm qua mạng vì ở một số quốc gia chi phí mạng rất cao. Người tiêu dùng phải trả một khoản tương đối lớn để có thể vào mạng.
Chi phí mà người tiêu dùng có thể tiết kiệm được bao gồm chi phí nhiên liệu, chi phí do giá rẻ hơn, chi phí cho trung gian môi giới nếu cần trong các hợp đồng lớn...
c)Người tiêu dùng sẽ mua được những sản phẩm có chất lượng cao hơn.
Số lượng các công ty tham gia TMĐT ngày càng nhiều, sự cạnh tranh ngày càng gay gắt. Bên cạnh đó người tiêu dùng rất dễ so sánh sản phẩm do hai công ty khác nhau cung cấp thông qua việc mở các trang Web khác nhau. Do vậy bản thân các công ty kinh doanh TMĐT luôn luôn cố gắng hoàn thiện chất lượng của sản phẩm mình cung cấp và cải tiến không ngừng các dịch vụ đi kèm. Khi đó người tiêu dùng là người hưởng lợi. Người tiêu dùng có thể tự._. do chọn lựa sản phẩm với màu sắc, hình dáng, giá cả khác nhau để thoả mãn nhu cầu của mình. Hàng hoá được cung cấp tận nhà, trong khoảng thời gian ngắn nhất, và khi đó chất lượng hàng hoá được đảm bảo, đặc biệt đối với những hàng hoá có thời hạn sử dụng ngắn.
d)Mua sắm trên mạng cũng giúp người tiêu dùng tự tin hơn vì họ có thể tự so sánh giá cả của các cưả hàng khác nhau và mua hàng với giá rẻ nhất. Kết quả nghiên cứu đưa ra con số 65% khách hàng mua hàng trị giá từ 100USD trở lên có so sánh giá cả của các cửa hàng khác nhau trên mạng trước khi mua và 74% số khách hàng cho biết họ hoàn toàn tin tưởng vào công ty bán hàng trên mạng mà họ đã lựa chọn. Khi mua sắm qua mạng quyết định mua hàng của người tiêu dùng ít chịu tác động của các yếu tố khác như tác động của những người mua hàng xung quanh, sự thuyết phục của người bán hàng.
Như vậy người tiêu dùng cũng thu được những lợi ích nhất định khi tham gia TMĐT. Cho đến nay phần lớn người tiêu dùng tham gia TMĐT đều cảm thấy hài lòng. Trong một cuộc phỏng vấn gần đây tại Mỹ 90% người tiêu dùng cho biết họ hài lòng với cách thức mua sắm này và 91% nói trong tương lai họ vẫn sẽ tiếp tục mua của công ty TMĐT mà họ đã từng đặt hàng. Chính những lợi ích mà TMĐT đem lại cho người tiêu dùng là một động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của hoạt động B2C, góp phần thúc đẩy sự phát triển của TMĐT nói chung.
II.Sự cần thiết xây dựng pháp luật về TMĐT:
Trong hầu hết các cuộc hội thảo, toạ đàm được tổ chức trong thời gian gần đây, người ta thường nhắc nhiều đến việc phải xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TMĐT. Xây dựng pháp luật về TMĐT đã, đang và sẽ trở thành một nhu cầu bức xúc ở tất cả các quốc gia muốn phát triển TMĐT. Vì sao vậy?
1.Lý do thứ nhất:
TMĐT muốn tồn tại và phát triển cần phải có ít nhất các điều kiện sau:
Hạ tầng truyền thông
Hành lang pháp lý
Hệ thống ngân hàng phục vụ cho thanh toán điện tử
Hệ thống dịch vụ vận chuyển hàng hoá hiện đại
Hệ thống các giải pháp kỹ thuật đồng bộ phục vụ cho các cửa hàng ảo, chợ ảo, dịch vụ ảo...
Nhận thức của người tiêu dùng
Và các điều kiện khác
Như vậy, hành lang pháp lý là một trong những điều kiện cần để TMĐT có thể tồn tại và phát triển. Bất kỳ một hoạt động giao dịch kinh doanh nào trong đời sống xã hội cũng phải chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật. Hoạt động TMĐT cũng vậy, cũng phải được và cũng cần phải chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật liên quan.
2.Lý do thứ hai:
TMĐT mới chỉ xuất hiện cách đầy chưa đầy một thập kỷ nhưng đã có những bước phát triển mạnh mẽ, thu hút sự chú ý quan tâm của mọi cá nhân, tổ chức, quốc gia. Mặt khác, với những lợi ích to lớn mà TMĐT có thể mang lại cho các bên tham gia, TMĐT thực sự là sức hút mạnh mẽ đối với các nhà kinh doanh, người tiêu dùng, các tổ chức kinh tế. Trước một cơ hội mới, đầy triển vọng và đầy lợi nhuận như vậy, liệu chúng ta có nên bỏ qua? Câu trả lời chắc chắn là "không".
Nhưng khi tham gia TMĐT, người tiêu dùng hay bất kỳ một tổ chức kinh tế, doanh nghiệp nào đều có những băn khoăn, thắc mắc chung, đó là:
Liệu hợp đồng họ ký kết trong các giao dịch TMĐT có hợp pháp không?
Làm thế nào để xác minh được chữ ký trong hợp đồng là thật hay giả?
Nếu có tranh chấp xảy ra, ai sẽ là người đứng ra giải quyết, hay nguồn luật nào sẽ được sử dụng để giải quyết các tranh chấp đó?
Hoạt động kinh doanh TMĐT là hợp pháp nhưng những người tham gia TMĐT sẽ được pháp luật bảo vệ như thế nào về mặt sở hữu trí tuệ, bản quyền tác giả?
Thông tin cá nhân, thông tin doanh nghiệp sẽ được bảo vệ như thế nào, nếu bị đánh cắp hay vi phạm sẽ bị xử lý ra sao?
Hay làm sao có thể xác định được đối tác của mình có đủ năng lực pháp lý, năng lực hành vi, tư cách pháp nhân?
Đây mới chỉ là một số trong vô vàn các câu hỏi thường gặp mà mỗi chủ
thể khi tham gia TMĐT thường quan tâm và thắc mắc. Hay rộng ra, các chủ thể tham gia TMĐT đều e ngại đến độ an toàn và tính vững chắc của các giao dịch trực tuyến này. Để giải quyết vấn đề đó, không còn cách nào khác chính là "xây dựng một khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mọi vấn đề, khía cạnh liên quan đến TMĐT".
Pháp luật được xây dựng nên là để bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi thành viên trong xã hội. Một khi vấn đề pháp lý cho TMĐT được giải quyết, các bên tham gia TMĐT nhận thức được rằng họ hoàn toàn được pháp luật bảo vệ, các giao dịch trực tuyến họ tham gia là an toàn, được bảo đảm thì chắc chắn họ sẽ nhiệt tình tham gia TMĐT, để tận hưởng hết các lợi ích mà TMĐT mang lại, mà không có một chút do dự, ngần ngại nào cả. Và khi đó số lượng người tiêu dùng, các tổ chức, doanh nghiệp tham gia TMĐT sẽ tăng lên gấp bội, lại là một trong những nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ hơn của TMĐT.
Mặt khác, trong thực tiễn TMĐT không thể tránh khỏi việc phát sinh các tranh chấp, các thắc mắc. Và khi phát sinh tranh chấp, các chủ thể thường có hai cách lựa chọn: tự giải quyết và nhờ đến một bên thứ ba, thông thường là Toà án, hoặc Trọng tài. Nhưng lúc này chính các cơ quan được giao quyền cầm cân nảy mực này lại lúng túng trong việc không biết sử dụng nguồn luật nào để giải quyết các tranh chấp như vậy. Và thực tế cho thấy các cơ quan Trọng tài hay Toà án này thường xử qua quýt hay áp dụng các quy định mà thực tế là hoàn toàn không phù hợp. Chính việc làm đó đã gây tâm lý không ổn định, mơ hồ cho các bên tham gia TMĐT. Kết quả là các bên tự thu hẹp hoạt động của mình hay thận trọng hơn với các giao dịch mà họ chưa biết chắc nếu có tranh chấp thì sẽ được giải quyết như thế nào. Chính tâm lý này đã cản trở sự phát triển của TMĐT.
Có lẽ đến đây, chúng ta đã hiểu tại sao xây dựng hành lang pháp lý cho TMĐT là một trong những điều kiện cần có để TMĐT có thể tồn tại và phát triển.
3.Lý do thứ ba:
TMĐT có cái gốc vẫn là hoạt động thương mại vì mục đích lợi nhuận, vậy tại sao lại không sử dụng pháp luật TMTT để xử lý các vấn đề liên quan đến TMĐT?
Nếu nói rằng chúng ta không thể sử dụng pháp luật của TMTT để điều chỉnh TMĐT là không chính xác vì giữa TMĐT và TMTT vẫn có những điểm chung. Tuy nhiên chính những điểm khác biệt giữa TMĐT và TMTT như đã được trình bày ở trên là nguyên nhân của việc phải hình thành một khuôn khổ pháp lý mới cho loại hình hoạt động thương mại mới này.
Thật vậy, khi TMĐT cần một cơ sở hạ tầng thông tin vững chắc để làm phương tiên liên lạc thì bắt buộc phải xây dựng các quy định về lĩnh vực công nghệ thông tin như quy định về việc quản lý và sử dụng Internet, quy định về cho thuê đường truyền, vệ tinh, quy định về đăng ký tên miền, quy định về việc thu lệ phí để duy trì trang Web... những quy định mà trong TMTT không nhất thiết phải có.
Hay như trong TMTT luật pháp của hầu hết các quốc gia đều có các quy định về việc thanh toán bằng séc (cheque), bằng hối phiếu, thương phiếu... nhưng TMĐT việc thanh toán được thực hiện qua mạng, bên phải trả tiền chỉ việc đưa thẻ tín dụng của mình vào máy thanh toán để thực hiện hoạt động thanh toán thì bắt buộc phải có thêm các quy định liên quan đến thẻ tín dụng, như "Cơ quan, tổ chức nào được phép phát hành thẻ tín dụng? Quản lý và sử dụng thẻ tín dụng như thế nào? Trong trường hợp mất thẻ tín dụng thì xử lý ra sao?...."
Vấn đề giải quyết tranh chấp cũng vậy. Trong hoạt động TMTT, lựa chọn toà án để giải quyết tranh chấp có thể là toà án nước bị đơn, toà án nơi phát sinh tranh chấp.... nhưng trong TMĐT các giao dịch là trực tuyến, không có ranh giới về địa lý thì đâu được xem là nơi phát sinh tranh chấp? Trước một vấn đề như vậy, bắt buộc các quốc gia đều phải tính đến việc xây dựng các quy định pháp luật để tránh không thống nhất trong quá trình giao dịch và xử lý các hậu qủa phát sinh từ các giao dịch TMĐT.
Như vậy, pháp luật của TMTT ở hầu hết các quốc gia tuy đã tương đối đầy đủ và bao quát được khá nhiều khía cạnh liên quan đến TMTT nhưng vẫn chưa đủ để giải quyết các vấn đề mới phát sinh liên quan đến TMĐT, chính vì vậy xây dựng khuôn khổ pháp luật cho TMĐT ngày càng trở nên là một vấn đề bức xúc đối vơí tất cả quốc gia, muốn, đã và đang tham gia vào TMĐT.
Trên đây là ba lý do cơ bản nhất giải thích vì sao phải xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TMĐT. Xây dựng hành lang pháp lý cho TMĐT thực sự rất cần thiết, nhưng các quy định pháp lý đó phải được xây dựng như thế nào? Chúng ta sẽ tham khảo một số quy định pháp luật liên quan đến TMĐT của một số tổ chức quốc tế và một số quốc gia trên toàn thế giới ở chương II của khoá luận này.
Chương iI:
Quy định pháp luật của một số tổ chức quốc tế và quốc gia về Thương mại điện tử
*****************
TMĐT từ khi ra đời cho đến nay đã có những bước phát triển kinh ngạc và đồng thời kéo theo nó hàng loạt các vấn đề pháp lý phát sinh mà pháp luật áp dụng cho TMTT không thể giải quyết được.
Các tổ chức quốc tế như Uỷ ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), Phòng Thương mại và Công nghiệp (ICC), Liên minh châu âu (EU) và rất nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Anh, úc, Canada, Singapore, NewZealand, Italia, Đức, ... đã nhanh chóng xây dựng các khuôn khổ luật pháp cho hoạt động TMĐT.
Cách tiếp cận một vấn đề mới mẻ như TMĐT của các tổ chức và các quốc gia là khác nhau, tuỳ thuộc mục đích và điều kiện của mỗi quốc gia. Nhưng tựu chung lại các khuôn khổ pháp luật đó đều đã đề cập được những vấn đề được coi là cần thiết nhất, bức xúc nhất của TMĐT. Khoá luận này, được thực hiện trong phạm vi hạn hẹp về nguồn tài liệu và thời gian, chỉ xin phép đề cập đến ba vấn đề lớn - ba vấn đề được xem xét phổ biến trong pháp luật về TMĐT của các quốc gia và tổ chức quốc tế, đó là:
Văn bản điện tử
Chữ ký điện tử
Bảo vệ và bảo mật thông tin người tiêu dùng
Ngoài ra, cũng xin được phép đề cập sơ lược đến ba vấn đề đang được xem là bức xúc đối với hoạt động TMĐT hiện nay đó là:
Chuyên chở hàng hoá trong hoạt động TMĐT
Đánh thuế các giao dịch TMĐT
Thanh toán điện tử
Trên thế giới UNCITRAL được xem như là tổ chức quốc tế đầu tiên đề cập đến vấn đề luật pháp cho các giao dịch TMĐT. Đến năm 1996, tổ chức này đã xây dựng và thông qua được Luật mẫu về TMĐT, đề cập đến các khía cạnh pháp lý liên quan đến "văn bản điện tử", "chữ ký điện tử", "việc chuyển chở hàng hoá trong TMĐT". Sau UNCITRAL, Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên đưa ra khá chi tiết các quy định liên quan đến TMĐT. Vì vậy, chương II của khoá luận này xin dựa chủ yếu vào các quy định pháp luật của UNCITRAL và Mỹ.
I.Các quy định pháp luật về văn bản điện tử (data message, electronic record):
1.Khái niệm:
Văn bản điện tử (data message), theo định nghĩa của UNCITRAL trong Luật mẫu về TMĐT, được hiểu là một bản ghi các thông tin được soạn thảo, gửi, nhận hay lưu giữ bằng các phương tiên điện tử, quang học hoặc các phương tiện khác tương tự bao gồm nhưng không hạn chế ở hệ thống trao đổi dữ liệu tiêu chuẩn (viết tắt là EDI), thư điện tử, điện tín (telegram), telex hoặc telecopy.
Khái niệm văn bản điện tử của UNCITRAL không chỉ đơn thuần là các văn bản dùng để liên lạc với các chủ thể khác mà còn bao gồm cả các bản ghi (record) được soạn thảo bằng máy vi tính không dùng để liên lạc mà được lưu giữ trong máy vi tính, tất cả các loại bản ghi tồn tại dưới dạng không phải là giấy.
Còn trong "Đạo luật về chữ ký điện tử trong Thương mại Quốc gia và Toàn cầu" của Mỹ tháng 1 năm 2000, thì định nghĩa văn bản điện tử (electronic record) là một giao kết hay bản ghi được tạo ra, soạn thảo, gửi, liên lạc, nhận hay lưu giữ bởi các phương tiện điện tử. Các phương tiện điện tử được đề cập đến trong Đạo luật này là các công nghệ kỹ thuật số, không dây, quang học, từ tính hay các công nghệ có đặc tính tương tự.
Như vậy, dù được diễn giải bằng các ngôn từ khác nhau nhưng bản chất của văn bản điện tử vẫn là một loại văn bản đặc biệt tồn tại dưới dạng không phải là giấy (paperless), được soạn thảo ra, lưu giữ, gửi, nhận, chỉnh sửa...bằng phương tiện kỹ thuật hiện đại chứ không phải bằng các phương tiện kỹ thuật thông thường hay bằng tay của con người.
2.Nội dung các quy định pháp luật về "văn bản điện tử":
2.1"Văn bản điện tử" đáp ứng các yêu cầu pháp lý về văn bản:
a.Tính hợp pháp của "văn bản điện tử":
Điều 5 của Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL đã đưa ra một nguyên tắc cơ bản, đó là "không được từ chối hiệu lực pháp lý của các thông tin chỉ vì lý do duy nhất các thông tin đó tồn tại dưới dạng "văn bản điện tử". Theo đó, sẽ không có sự phân biệt nào về hiệu lực pháp lý giữa "văn bản điện tử" và văn bản bằng giấy truyền thống. Về mặt hình thức, thì "văn bản điện tử" và văn bản bằng giấy truyền thống có giá trị pháp lý như nhau, còn nội dung bên trong mỗi loại văn bản có hiệu lực pháp lý hay không thì còn phụ thuộc nhiều yêú tố khác nữa.
Nguyên tắc này cũng đã được thừa nhận và chỉ rõ trong các đạo luật, nghị định, văn bản hướng dẫn liên quan đến TMĐT của rất nhiều các quốc gia trên thế giới như Mỹ, Đan Mạch, Singapore, Italia....
Trong trường hợp, một số thông tin hay điều khoản nào đó trong một "văn bản điện tử", không được dẫn giải cụ thể mà được dẫn chiếu đến một "văn bản điện tử" khác thì các thông tin hay điều khoản đó hoàn toàn có giá trị pháp lý tương đương với các thông tin hay điều khoản được diễn giải cụ thể trong "văn bản điện tử" đó (Điều 5bis - Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL).
Thực tế này cũng đã được thừa nhận ở rất nhiều các quốc gia, vì xét cho cùng, nó cũng không khác gì trường hợp chúng ta dẫn chiếu một điều khoản nào đó trong hợp đồng đến một quy định hay văn bản nào đó liên quan. Tính hợp pháp của "văn bản điện tử" đã tạo tiền đề cho "văn bản điện tử" thực hiện các chức năng khác của một văn bản trong giao dịch.
b.Yêu cầu làm bằng văn bản:
Nếu một quy định pháp luật bất kỳ đưa ra yêu cầu, dưới dạng nghĩa vụ bắt buộc hoặc chỉ đưa ra các hậu quả của việc không thực hiện, bằng chứng cho một giao dịch nào đó phải được làm bằng văn bản thì "văn bản điện tử" với nội dung thông tin tương tự, có thể tiếp cận được, có thể sử dụng được hoàn toàn có thể được sử dụng trong trường hợp đó. (Điều 6-Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL). Cụm từ "có thể tiếp cận được" có nghĩa thông tin tồn tại dưới dạng thông tin trong máy vi tính phải đọc được và có thể lưu giữ được bằng một chương trình phần mềm nào đó. Còn thuật ngữ "có thể sử dụng được" không chỉ hạn chế ở sự sử dụng của con người mà còn bao gồm cả việc xử lý các thông tin đó bằng máy vi tính.
Có thể sẽ có thắc mắc rằng, tại sao UNCITRAL lại phải đưa ra quy định này trong Luật mẫu về TMĐT của mình? Câu trả lời nằm ở chỗ, thực tế luật pháp ở rất nhiều các quốc gia thường yêu cầu " phải được làm bằng văn bản" vì rất nhiều lý do như:
Để đảm bảo có bằng chứng hiện hữu, vật chất về ý muốn có quan hệ hợp tác với nhau của các bên
Để giúp các bên có thể nhận thức được các hậu quả, kết quả của việc cùng tham gia một hợp đồng
Để chỉ rõ rằng một văn bản nào đó sẽ không thay đổi theo thời gian và là biểu hiện của một giao dịch
Để có thể cung cấp cho mỗi bên một văn bản có nội dung tương tự nhau
Khi "văn bản điện tử" có thể đáp ứng được các yêu cầu tương tự như văn bản viết thông thường, thì chẳng có lý do gì để các bên từ chối sự tồn tại và tính hợp pháp của "văn bản điện tử" cả. Đó chính là mục đích của UNCITRAL trong
việc đề cập đến vấn đề này.
Còn trong "Offence Act" năm 1996 của Canada, điều 10 khoản 1 quy định rằng: "nếu một quy định nào đó của một bộ luật, một tập quán hay một thực tiễn yêu cầu thông tin phải được thể hiện dưới dạng văn bản, thì yêu cầu này cũng sẽ được thoả mãn bằng việc thông tin đó được thể hiện dưới một dạng nhất định, cho phép có thể tiếp cận được bằng mắt thường một cách nhanh chóng.
Thông tin tồn tại dưới dạng "không phải là văn bản" không phải là một khái niệm mới được đề cập đến lần đầu. Trong Công ước Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán hàng hoá Quốc tế năm 1980 (thường được nhắc đến với cái tên Công ước Viên 1980) thì một hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp lý mặc dù không được làm thành văn bản. Cũng tương tự, trong "Các nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng Thương mại Quốc tế", thì hợp đồng không cần thiết phải được thể hiện dưới dạng văn bản, mà có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả việc làm chứng.
c.Yêu cầu về chữ ký xác nhận:
Theo điều 7 của Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL, nếu một quy định pháp luật yêu cầu một văn bản phải có chữ ký xác nhận của một cá nhân, dưới dạng một nghĩa vụ bắt buộc hay chỉ nêu ra các hậu quả của việc không có chữ ký xác nhận, thì "văn bản điện tử" vẫn được chấp nhận trong trường hợp đó, nếu có một biện pháp được sử dụng để giúp nhận dạng và chỉ rõ cá nhân đó đồng ý hoàn toàn với các thông tin được đề cập đến trong "văn bản điện tử".
Còn trong đoạn 301 của Đạo luật về Giao dịch Điện tử Thống nhất của Mỹ năm 1999, vấn đề tính hợp pháp của chữ ký điện tử được đề cập dưới góc độ khác Luật mẫu về TMĐT một chút, nhưng về bản chất, vẫn thừa nhận tính hợp pháp và giá trị tương đương của chữ ký điện tử với chữ ký thông thường. Đó là: "Không được chối bỏ hiệu lực pháp lý của một chữ ký chỉ vì một lý do duy nhất chữ ký đó tồn tại dưới dạng "chữ ký điện tử". Và nếu một quy định pháp luật nào đó yêu cầu dưới dạng nghĩa vụ bắt buộc một văn bản phải có chữ ký xác nhận hoặc chỉ đưa ra các hậu quả của việc văn bản không có chữ ký xác nhận, thì một "văn bản điện tử" với "chữ ký điện tử" được xem là đáp ứng yêu cầu pháp luật này. Bên cạnh đó, một bên có thể đưa ra các yêu cầu hợp lý liên quan đến việc sử dụng phương pháp và loại hình chữ ký nào cho giao dịch giữa các bên".
Một số Đạo luật về TMĐT và "chữ ký điện tử" của một số bang khác ở Mỹ như bang California, Massachuset, Illinois hay của Canada cũng quy định tương tự như Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL về vấn đề này. Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về vấn đề "chữ ký điện tử" trong phần II của chương này.
d.Yêu cầu về bản gốc (original):
Vấn đề bản gốc trong giao dịch thương mại có ý nghĩa rất quan trọng. Trong các giao dịch TMĐT tồn tại một thực tế là "văn bản điện tử" được gửi đi thực chất chỉ là các bản copy, còn "bản gốc" vẫn được giữ lại ở máy tính đã tạo ra hay đang lưu giữ "văn bản điện tử" đó. Do vậy, khái niệm "bản gốc" được đề cập đến trong các quy định về TMĐT phải được hiểu là một bản có nội dung, hình thức tương tự như bản đã được tạo ra hay đang lưu giữ, được chủ thể xác nhận là duy nhất và trong quá trình giao dịch không thay đổi so với "bản gốc thực sự" đang lưu giữ tại nơi "văn bản điện tử" đó được tạo ra.
Một "văn bản điện tử" được xem là một văn bản gốc, khi quy định pháp luật yêu cầu thông tin được đưa ra hay lưu giữ dưới dạng bản gốc một cách bắt buộc hoặc chỉ nêu ra các hậu qủa của việc văn bản không phải là bản gốc, nếu:
Có một biện pháp bảo đảm tin cậy về sự thống nhất nội dung thông tin trong "văn bản điện tử" từ thời điểm được soạn thảo và giao dịch lần đầu - nội dung thông tin không thay đổi, hay bị chỉnh sửa, hay khác
biệt qua quá trinh giao dịch, lưu giữ hay hiển thị
Và tại nơi yêu cầu thông tin đó phải được đưa ra, người tiếp nhận thông tin phải tiếp cận được với thông tin đó
Với cách quy định như vậy, điều 8 của Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL đã đưa ra các tiêu chuẩn theo đó các "văn bản điện tử" cũng có thể có bản gốc tương tự như văn bản truyền thống khác với hai ý nghĩa phổ biến thường gặp của một bản gốc, đó là: một văn bản mà nội dung thông tin cố định từ lần đưa vào giao dịch đầu tiên và là một văn bản có hình thức không đổi so với lần đưa vào giao dịch đầu tiên. Quy định về thống nhất nội dung từ lần đưa vào giao dịch đầu tiên cũng bao gồm cả trường hợp, ban đầu thông tin được tồn tại dưới dạng văn bản giấy truyền thống, sau đó mới được chuyển sang dạng "văn bản điện tử".
Quy định này đã giải toả một vướng mắc liên quan đến các chứng từ quyền sở hữu và các chứng từ có thể chuyển nhượng được trong các giao dịch TMĐT vì trước kia trong TMTT các giấy tờ này luôn luôn yêu cầu phải là bản gốc mới có giá trị. Bên cạnh đó, quy định này cũng được áp dụng đối với các chứng từ khác như giấy chứng nhận trọng lượng, giấy chứng nhận bảo hiểm...., theo đó các chứng từ này trong giao dịch TMĐT vẫn phải được giao dịch bằng chứng từ gốc để đảm bảo cho các chủ thể của giao dịch vẫn có thể tin tưởng được nội dung của các chứng từ.
Nhưng trong Đạo luật về An toàn trong TMĐT của bang Illinois, Mỹ thì chứng từ quyền sở hữu và chứng từ có thể chuyển nhượng được không được áp dụng các quy định của điều 8 Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL. Quy định này hoàn toàn không mâu thuẫn với những gì được nêu ra trong Luật mẫu về TMĐT vì trong Luật mẫu về TMĐT này, cuối mỗi điều khoản UNCITRAL đều đưa ra một quy định mở, theo đó mỗi quốc gia tuỳ thuộc quan niệm và quy định của mình có thể áp dụng hay không áp dụng với một số trường hợp nào đó.
e.Giá trị làm bằng chứng của "văn bản điện tử":
"Văn bản điện tử" cũng như các loại hình văn bản làm bằng giấy truyền thống khác, hoàn toàn có giá trị làm bằng chứng trước pháp luật. "Không thể áp dụng các quy định về làm chứng của bất kỳ một bộ luật nào để xoá bỏ khả năng có thể làm bằng chứng hợp pháp của "văn bản điện tử" chỉ vì một lý do duy nhất bằng chứng đó tồn tại dưới dạng "văn bản điện tử" hoặc "văn bản điện tử" được viện dẫn ra làm bằng chứng đó không phải là bản gốc. Thông tin tồn tại trong một "văn bản điện tử" cũng hoàn toàn có giá trị pháp lý. Trong quá trình sử dụng "văn bản điện tử" làm bằng chứng cần chú ý đến sự tin cậy của phương pháp mà "văn bản điện tử" đó được soạn thảo ra, lưu giữ hay liên lạc, chú ý phương pháp mà "văn bản điện tử" đó được chủ thể xác nhận và chú ý các yếu tố liên quan khác". (Điều 9 -Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL).
Tuy nhiên trong "Đạo luật về bằng chứng của Singapore" năm 1996, đoạn 35 và 36 quy định "văn bản điện tử" chỉ được xem là bằng chứng trong 3 trường hợp:
Khi có sự thoả thuận giữa các bên về việc sẽ không nghi ngờ tính chính xác của nội dung "văn bản điện tử" và sự xác nhận của các bên trong "văn bản điện tử"
Khi "văn bản điện tử" được tạo ra bởi một hệ thống kỹ thuật hay phương pháp đã được một cơ quan có thẩm quyền được chỉ định kiểm tra và chứng nhận với giả định rằng "văn bản điện tử" được tạo ra đó hoàn toàn chính xác trừ khi chứng minh được điều ngược lại
Khi "văn bản điện tử" được tạo ra bởi một hệ thống có khả năng hoạt động tốt tại mọi thời điểm. Trong trường hợp, một hệ thống không đủ tiêu chuẩn được sử dụng để tạo ra "văn bản điện tử" thì "văn bản điện tử" đó được xem là không đáng tin cậy
f.Yêu cầu về lưu giữ "văn bản điện tử":
UNCITRAL đã đưa ra một số quy định mới về việc lưu giữ thông tin nhằm xoá bỏ các trở ngại có thể có ở luật pháp hiện hành ở một số quốc gia trên thế giới gây cản trở đối với quá trình phát triển của TMĐT. Theo đó, "văn bản điện tử" có thể được lưu giữ lại theo quy định của pháp luật để tiện sử dụng cho các mục đích khác nhau sau này nếu :
Có thể tiếp cận được với thông tin trong "văn bản điện tử" đó để sử dụng trong các trường hợp cần thiết
"Văn bản điện tử" được lưu giữ dưới dạng mà bản thân nó đã được tạo ra, gửi hay nhận được hoặc dưới dạng mà có thể tái hiện lại một cách chính xác các thông tin chứa đựng trong nó như lúc được tạo ra, gửi hay nhận được
Và các thông tin trong "văn bản điện tử" đó được lưu giữ sao cho có thể chỉ rõ nơi đi và nơi đến, thời điểm "văn bản điện tử" được gửi đi hay nhận về.
Các thông tin mà mục đích duy nhất của nó là bảo đảm cho việc gửi hay nhận một "văn bản điện tử" thì không bắt buộc phải được lưu giữ. Một chủ thể của giao dịch có thể sử dụng các phương tiên của chính mình hay dựa vào các dịch vụ do một bên thứ ba cung cấp để lưu giữ các "văn bản điện tử" miễn là các dịch vụ đó thoả mãn 3 điều kiện nêu trên.
Hầu hết các quy định hiện có của pháp luật các quốc gia liên quan đến vấn đề lưu giữ "văn bản điện tử" đều đưa ra những nguyên tắc tương tự như UNCITRAL đã đưa ra trong điều 9 của Luật mẫu về TMĐT năm 1996.
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng, UNCITRAL cũng như một số quốc gia khác trên thế giới đã rất nỗ lực trong việc xây dựng các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề thừa nhận "văn bản điện tử" có giá trị pháp lý và đáp ứng đầy đủ các yêu cầu pháp lý như một văn bản theo lối truyền thống. Nỗ lực này đã phần nào đã khắc phục được những thiếu sót, bất cập trong hệ thống pháp luật áp dụng cho các giao dịch thương mại hiện hành, góp phần thúc đẩy sự phát triển của TMĐT trên phạm vi toàn thế giới.
Chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu một số quy định khác liên quan đến vấn đề giao dịch bằng "văn bản điện tử" - một vấn đề thường gây rất nhiều tranh chấp và vướng mắc cho các bên tham gia TMĐT.
2.2.Các quy định về giao dịch bằng "văn bản điện tử":
a.Hình thành Hợp đồng và hiệu lực của Hợp đồng:
Để tiến tới ký kết được một hợp đồng và thực hiện các nghĩa vụ theo hợp đồng, các chủ thể của giao dịch TMĐT cũng như TMTT phải trải qua khá nhiều bước giao dịch,từ việc hỏi hàng, chào hàng, chấp nhận chào hàng đến việc thông báo về giao hàng, thông báo về vấn đề thanh toán, thông báo hàng đổ vỡ, hỏng khi nhận... Chính vì vậy, các văn bản giao dịch giữa các bên trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng và thực hiện hợp đồng cũng như chính bản hợp đồng đó có ý nghĩa rất quan trọng, nó ràng buộc quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm của các bên.
Để tránh có những tranh chấp phát sinh giữa các bên về giá trị pháp lý của các văn bản giao dịch này trong TMĐT, UNCITRAL một lẫn nữa khẳng định "văn bản điện tử" hoàn toàn có giá trị pháp lý tương đương với "văn bản truyền thống", không có bất kỳ một sự phân biệt nào về mặt gía trị pháp lý giữa hai hình thức văn bản này thông qua việc xây dựng điều 11 và 12 trong Luật mẫu về TMĐT. Theo quy định trong 2 điều này thì không được phép phủ nhận hiệu lực pháp lý của bản hợp đồng hay bất kỳ "văn bản điện tử" nào giao dịch giữa các bên như chào hàng, chấp nhận chào hàng, thông báo hàng đến, thông báo tổn thất... chỉ vì lý do duy nhất các văn bản đó tồn tại dưới dạng "văn bản điện tử".
Còn trong "Đạoluật về Giao dịch Điện tử Thống nhất" của Mỹ, bên cạnh việc đưa ra các nguyên tắc tương tự như các quy định của UNCITRAL, đã đề cập đến quy định trong trường hợp cụ thể hơn đó là hợp đồng được hình thành giữa một chủ thể và một "electronic agent"-một chương trình được sử dụng hay lập trình trước để soạn thảo hay trả lời các văn bản liên lạc với chủ thể khác mà không cần sự kiểm tra lại của một cá nhân nào. Theo quy định này thì văn bản liên lạc giữa hai chủ thể này vẫn có thể được coi là hợp đồng nếu bên chủ thể biết rõ mình đang giao dịch với "electronic agent" và biết rõ giới hạn về thẩm quyền, phạm vi công việc mà "electronic agent" có thể xử lý.
b.Quyền hạn của các bên đối với "văn bản điện tử"
Trong thực tiễn giao dịch TMĐT có thể phát sinh câu hỏi liệu một "văn bản điện tử" nào đó có phải thực sự được người được xem là người gửi gửi đi hay không, hay do một người không có thẩm quyền bằng cách này hay cách khác đã sử dụng được chữ ký của người gửi thực sự? Để giải quyết vấn đề này, UNCITRAL đã đề cập đến các trường hợp một "văn bản điện tử" sẽ được xem là do người gửi thực sự gửi đi trong điều 13 của Luật mẫu về TMĐT năm 1996. Cụ thể:
Một "văn bản điện tử" mà người nhận nhận được sẽ được xem là văn bản do người gửi gửi đi ("văn bản điện tử" của người gửi) nếu nó thực sự do chính người gửi gửi đi
Một "văn bản điện tử" cũng được xem là "của người gửi" nếu "văn bản điện tử" đó được gửi đi bởi một người thứ ba được người gửi uỷ quyền về vấn đề liên quan đến "văn bản điện tử" đó hoặc nếu "văn bản điện tử" đó được gửi đi bằng một hệ thống thông tin tự động được người gửi lập trình sẵn
Người nhận được phép coi "văn bản điện tử" mình nhận được là "văn bản điện tử" của người gửi và tiến hành công việc dựa trên giả định đó nếu người nhận đã áp dụng biện pháp kiểm tra như đã thoả thuận với người gửi để xác định xem "văn bản điện tử" đó có phải là của người gửi hay không hoặc nếu "văn bản điện tử" điện tử đó được gửi đi do hành động của một người thứ ba bằng một cách nào đó đã sử dụng mã bí mật riêng của người gửi để xác nhận "văn bản điện tử" đó
Bên cạnh đó, người nhận không được coi "văn bản điện tử" là của người gửi tính từ thời điểm người nhận nhận được thông báo của người gửi (hoặc được tính thêm một khoảng thời gian hợp lý, cần thiết để người nhận có thể sửa chữa các hành động của mình) rằng "văn bản điện tử" đó không phải là của người gửi hoặc nếu kết quả kiểm tra độ chân thực của "văn bản điện tử" dó người nhận tiến hành theo một trình tự, phương pháp đã được thoả thuận trước với người gửi cho thấy "văn bản điện tử" đó không phải là của người gửi
Khi một "văn bản điện tử" là của người gửi hoặc được xem là của người gửi hoặc người nhận có cơ sở để xem "văn bản điện tử" đó là của người gửi thì người gửi có quyền coi việc gửi "văn bản điện tử" là chủ ý của người gửi và thực hiện nghĩa vụ, hưởng quyền lợi từ "văn bản điện tử" đó. Ngược lại tính từ thời điểm người nhận biết rõ "văn bản điện tử" đó không phải là của người gửi (bằng việc áp dụng các biện pháp kiểm tra độ an toàn đã thoả thuận trước) và "văn bản điện tử" bị sai lệch do lỗi của quá trình chuyển "văn bản điện tử" thì người nhận không được phép coi "văn bản điện tử" đó là của người gửi và hành động dựa trên "văn bản điện tử" đó
Người nhận có quyền coi mỗi "văn bản điện tử" nhận được là một "văn bản điện tử" độc lập và hành động dựa trên giả định đó trừ khi người nhận biết rõ "văn bản điện tử" đó có liên quan với các "văn bản điện tử" khác hoặc đã áp dụng các biện pháp thoả thuận trước và kết quả cho thấy "văn bản điện tử" đó là một trong số một tập hợp, một bộ các "văn bản điện tử" có liên quan đến nhau.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng, vấn đề này là một trong những vấn đề được UNCITRAL nghiên cứu và đề cập kỹ càng nhất trong Luật mẫu về TMĐT. Có lẽ vì thế khi luật pháp các quốc gia đề cập đến vấn đề này đều đã không ngần ngại áp dụng nguyên si quy định của UNCITRAL mà không phải sửa chữa hay cụ thể hoá cho phù hợp.
c.Thông báo về việc nhận được "văn bản điện tử"
Trong thực tiễn TMĐT có thể có các trường hợp "văn bản điện tử" được gửi đi nhưng không đến được người nhận do một lỗi nào đó của hệ thống chẳng hạn. Để tránh tình trạng đó, thông thường trong giao dịch bằng "văn bản điện tử" các chủ thể thường thoả thuận trước với n._.ta đều nhận thấy rõ rằng, Việt Nam đã, đang và sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn trong công việc triển khai, áp dụng và phát triển TMĐT, một công cụ, một phương pháp được xem là nhanh nhất, hiệu qủa nhất để hội nhập với nền kinh tế toàn cầu. Vậy đâu là giải pháp cho TMĐT Việt Nam?
2.Giải pháp cho TMĐT Việt Nam:
Để phát triển TMĐT và tận dụng hết lợi thế của nó, cần có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan ban ngành và mọi thành phần tham gia TMĐT. Trong khuôn khổ của khoá luận này chỉ xin được phép đề cập đến 2 nhóm giải pháp cho hai đối tượng giữ vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành và phát triển TMĐT đó là Chính phủ và Doanh nghiệp.
2.1.Giải pháp từ phía Chính phủ:
Việt Nam là một nước đang phát triển, đang chậm chững những bước đi đầu tiên trên con đường ứng dụng TMĐT để phát triển nền kinh tế, hội nhập với nền kinh tế toàn cầu và có rất nhiều việc Chính phủ cần phải xúc tiến ngay để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của TMĐT đó là:
a.Chính phủ cần phải xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp để thúc đẩy sự ra đời và phát triển của một nền TMĐT lành mạnh. Đồng thời cũng cần phải quan tâm đến công tác quản lý cũng như đưa ra các quy định liên quan để tránh các nguy cơ tiềm ẩn khi tham gia TMĐT như mất sự quản lý, thất thu thuế, rửa tiền...
TMĐT Việt Nam cũng như ở một số quốc gia đang phát triển khác đang ở giai đoạn khởi đầu. Bản thân các doanh nghiệp cũng như Chính phủ Việt Nam có rất ít kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Do đó việc xây dựngmột khuôn khổ pháp lý thích hợp là rất cần thiết. Đương nhiên công việc xây dựng cũng như hoàn thiện hệ thống các quy địnhpháp luật liên quan đến TMĐT sẽ rất vất vả và khó khăn, đòi hỏi nhiều công sức và tiền bạc, nhưng chúng ta cũng hi vọng rằng với nỗ lực chung, Việt Nam sẽ nhanh chóng có một hành lang pháp lý phù hợp cho sự phát triển của TMĐT.
b.Chính phủ cần đưa ra được các mục tiêu, định hướng chiến lược cho sự phát triển của TMĐT nói chung và một số ngành chủ chốt liên quan đến TMĐT như ngân hàng, viễn thông nói riêng.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam và ngành viễn thông Việt Nam vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của TMĐT, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng. Theo số liệu ông Nguyên Văn Xuân - Phó Cục trưởng Cục Công nghệ tin học - Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì chỉ riêng trong ngày 9 tháng 8 năm 2002 một quan chức ngành ngân hàng đã phải ký 1400 chữ ký với tư cách là chủ tài khoản trên các chứng từ thanh toán của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng, một con số khá lớn, một biểu hiện của sự quá tải do số lượng các ngân hàng tham gia hệ thống này chưa đáp ứng được nhu cầu. Do vậy việc phát triển hai ngành này đối với TMĐT nước ta là rất quan trọng.
Tính đến thời điểm hiện nay, Chính phủ Việt Nam cũng đã có một số hành động rất thiết thực đối với sự phát triển của TMĐT như ký kết hiệp đinh khung về TMĐT e-ASEAN, thành lập Uỷ ban Quốc gia về CNTT, đề ra các mục tiêu, phương hướng cho TMĐT trong giai đoạn 2001-2005, đưa vào thử nghiệm dự án thanh toán điện tử.....Chính những bước đi đúng đắn này của Chính phủ nước ta đã phần nào tạo động lực cho sự phát triển của ngành CNTT, của TMĐT ở nước ta.
c. Chính phủ cần đặc biệt chú trọng đến phát triển nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và TMĐT.
Hầu hết các quốc gia trên thế giới, không phân biệt các nước công nghiệp phát triển hay đang phát triển đang phải đối mặt với một thực tế: thiếu nguồn nhân lực cho công nghệ thông tin và TMĐT (thiếu cả về số lượng và chất lượng). Do đó Chính phủ nước ta cần phải đầu tư hơn nữa, quan tâm hơn nữa đến công tác đào tạo nguồn nhân lực.
Chính phủ nên có các chính sách khuyến khích, hỗ trợ ưu đãi cho các sinh viên và cán bộ trong các ngành liên quan đến TMĐT đặc biệt trong ngành công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông. Làm được như vậy, TMĐT sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển một cách nhanh chóng và lành mạnh.
d.Chính phủ cần tăng cường đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để phát triển TMĐT: Chúng ta đã biết đầu tư có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay- vốn và công nghệ đóng vai trò quyết định đối với hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Khi có vốn đầu tư từ các nguồn trong và ngoài nước, Chính phủ và các doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn đó mua sắm trang thiết bị phục vụ cho hoạt động TMĐT, đầu tư cho nghiên cứu phát triển TMĐT, đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực, dùng nguồn vốn đầu tư đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT khi các doanh nghiệp đó gặp khó khăn, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để nâng cao chất lượng dịch vụ vận chuyển, tăng lợi thế cạnh tranh cho kinh doanh TMĐT....
Chính phủ nước ta cần tranh thủ mọi nguồn lực hiện có để thu hút vốn đầu tư và đầu tư để phát triển TMĐT, cũng như các ngành nghề, lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân.
Tóm lại, Chính phủ giữ vai trò vô cùng quan trọng đối với sự phát triển TMĐT ở mỗi quốc gia nói riêng và TMĐT toàn cầu nói chung. Nếu mỗi Chính phủ đều cố gắng phát huy hết các khả năng của mình cũng như cố gắng tạo dựng một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của TMĐT thì chúng ta có thể chắc chắn rằng, TMĐT mỗi quốc gia cũng như TMĐT thế giới sẽ gặt
hái được những thành công rực rỡ trong tương lai.
2.2.Giải pháp từ phía các doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp kinh doanh đều hướng đến mục tiêu doanh thu và lợi nhuận tối đa. Để đạt được điều đó, các doanh nghiệp phải tuân theo một số những quy luật, quy định nhất định về TMĐT. Kinh nghiệm các quốc gia đi trước cho thấy, một doanh nghiệp muốn thành công trong TMĐT nên tuân theo các bài học tiến hành các hoạt động sau:
a.Các doanh nghiệp phải nắm vững các kỹ thuật của TMĐT.
Doanh nghiệp cần nhận thức rõ TMĐT thực sự có ý nghĩa khi doanh
nghiệp dù lớn hay nhỏ cũng phải sắp xếp, cơ cấu lại bộ máy điều hành và dùng công nghệ thông tin áp dụng trong tất cả các lĩnh vực. Do đó, doanh nghệp cần phải xem xét lại chiến lược, phương thức kinh doanh dưới góc độ mới của công nghệ.
Doanh nghiệp cần xây dựng các mối quan hệ tốt với khách hàng. Duy trì quan hệ tốt đẹp với khách hàng là một trong những lợi thế của công nghệ mới trong thời đại công nghệ thông tin. Xét trên nhiều phương diện, giao dịch với khách hàng là một trong những vấn đề phức tạp nhất trong doanh nghiệp khi tiến hành TMĐT phải đối mặt. Để đảm bảo xây dựng được mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng doanh nghiệp cần thực hiện các điều sau đây:
Hãy cố gắng tạo cảm giác an toàn cho khách hàng khi truy cập vào trang Web của công ty bạn và tiến hành các giao dịch thương mại. (Thông qua việc giới thiệu rõ ràng các thông tin cơ bản về công ty, trình bày thẳng thắn về chất lượng sản phẩm công ty cung cấp...)
Hãy cố gắng phục vụ đến từng khách hàng, đáp ứng mọi yêu cầu chính đáng của khách hàng, trên cơ sở đó tìm kiếm và giữ khách hàng. (Thông qua việc cung cấp các sản phẩm có dịch vụ đi kèm nếu khách hàng yêu cầu)
Hãy cố gắng áp dụng các phần mềm quản lý khách hàng như CRM (Customer Relationship Management-Quản lý quan hệ khách hàng) để đảm bảo có thể theo dõi được mọi vấn đề liên quan đến khách hàng; như "Hệ thống hỗ trợ trực tuyến" để giao tiếp trực tiếp với khách hàng....
Hãy cố gắng cung cấp các sản phẩm có chất lượng tốt nhất, dịch vụ đi kèm hoàn hảo nhất, giá cả hợp lý nhất, thời gian nhanh nhất....
Doanh nghiệp cần thiết lập một hệ thống cung ứng hiệu quả. Giao tiếp với khách hàng sẽ giúp doanh nghiệp bán được hàng. Những điều đó cũng quan trọng như khi bạn áp dụng khi mua hàng. Cải tiến cách quản lý hệ thống cung ứng sẽ giúp doanh nghiệp giảm chi phí từng phần, mang lại hiệu quả cao hơn, và trong nhiều trường hợp hệ thống cung ứng mới này đảm bảo bí mật cho hoạt động giao dịch của bạn.
b.Các doanh nghiệp cần phải nắm vững các nguyên lý, quy luật không đổi của TMĐT. Các nhà nghiên cứu đã đưa ra bốn quy luật không đổi của B2B. Theo họ các doanh nghiệp nên nắm vững 4 quy luật này. Đó là:
Những công ty lớn rất khôn ngoan, họ cần các công ty nhỏ ít hơn các công ty nhỏ cần họ.
Để có thể đạt được thành công thực sự với B2B, các công ty cần một thị trường chứ không phải chỉ có giao dịch đơn thuần.
Hấp dẫn khách hàng bằng cách không chỉ cung cấp các dịch vụ mini.
Nếu bạn giúp khách hàng mở đầu một cuộc mua bán thì cũng phải giúp khách hàng kết thúc cuộc mua bán đó.
c.Doanh nghiệp nên đầu tư nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho TMĐT, đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực cho TMĐT. Có nguồn lực con người tốt, phương tiện kinh doanh tốt, dưới sự quản lý tốt của các cấp lãnh đạo... chắc chắn hoạt động kinh doanh qua mạng của doanh nghiệp sẽ đạt kết quả như mong muốn.
d.Một tạp chí Kinh tế thế giới đã đưa ra 13 lời khuyên cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực TMĐT. 13 lời khuyên này được rút ra từ thực tiễn kinh doanh TMĐT ở các nước công nghiệp phát triển và rất bổ ích cho các doanh nghiệp các nước đang phát triển- những doanh nghiệp mới chập chững bước vào thế giới TMĐT như các doanh nghiệp Việt Nam:
1.Đừng bao giờ chủ quan trong bảo mật
Bạn phải có một server (Máy chủ) tuyệt đối an toàn. Nếu không có thì hãy hỏi nhà phân phối Web server để sử dụng dịch vụ hoặc server của họ. Mặt khác, bạn sẽ phải có được giấy chứng nhận về độ an toàn của server và bạn có thể mua giấy chứng nhận này theo địa chỉ hoặc
2.Tạo cảm giác an toàn
Site của bạn phải chắc chắn tạo được lòng tin những khách hàng có tiềm năng. Do vậy, đặc biệt là quan tâm đến việc bảo mật cho khách hàng. Hãy nhớ rằng, cụm từ "secure server-máy chủ an toàn" có hiệu quả tác động kỳ diệu đối với khách hàng. Hãy tạo một đường dẫn (hyperlink) tới trang giới thiệu về khả năng bảo mật cao của hệ thống thanh toán của bạn.
3.Hãy thẳng thắn
Hãy trình bày một cách rõ ràng các thông tin chi tiết công ty của bạn như số điện thoại, fax...địa chỉ trụ sở làm việc, e-mail, thông tin giới thiệu về một số nhân vật chủ chốt trong công ty... đó là những thông tin tối thiểu mà đối tác làm ăn của bạn muốn biết. Bạn cũng đứng quên trình bày với khách hàng một cách thẳng thắn về chất lượng sản phẩm, phương thức vận chuyển hàng, vấn đề hoàn trả và bảo mật hàng hoá
4.Tiến hành kiểm tra từng bước
Không nên cố gắng thực hiện toàn bộ kế hoạch kinh doanh trực t khi pháthiện những trở ngại gây khó khăn cho bạn. Hãy lấy lời khuyên của chuyên gia đề có thể tránh những sai lầm đáng tiếc. Kiểm tra từng bước trong kế hoạch kinh
doanh trước khi bạn thực hiện nó.
5.Tiến hành cùng một lúc hai hệ thống thương mại
Trong khi thực hiện TMĐT, bạn nên tiêp tục duy trì mô hình kinh doanh hiện tại. Trong trường hợp có bất kỳ điều gì bất trắc xảy ra đối với hệ thống TMĐT thì bạn vẫn có thể lập hoá đơn, vận chuyển hàng lên lịch... theo lối thông thường.
6.Tạo tốc độ truy cập Website nhanh hơn
Bạn nên cố giữ kích thước homepage dưới 20 Kb. Loại bỏ tất cả các đoạn không cần thiết, giảm hình ảnh giới thiệu sản phẩm xuống còn khoản 10-20 Kb. Sử dụng "Alt Text" đối với các hình ảnh để đảm bảo rằng khách hàng của bạn có thể đọc cái gì đó trong khi cho site của bạn được tải xuống hoàn toàn. Thiết kế một hệ thống định hướng cho phép khách hàng chọn sản phẩm dẽ dàng hơn và nhanh hơn.
7.Tập trung vào việc bán hàng
Bạn nên theo dõi tỷ lệ phần trăm khách hàng mua hàng chứ không nên tập
trung vào tổng số người truy cập site vì điều đó không có nghĩa lý gì. Chú ý đến sự chuyển đổi từ người xem sang người mua hàng và bạn nên tìm hiểu thái độ của người xem, tại sao họ mua hàng và tại sao không mua? Luân làm đi làm lại điều
đó bạn sẽ bán được rất nhiều hàng.
8.Thiết kế mẫu đặt hàng ngắn gọn
Luôn luôn đưa mẫu đơn ngắn gọn lên sau khi đã tiến hành uỷ thác mua hàng. Bạn cũng nên gửi giấy xác nhận ngay sau khi mua, có thể làm việc này bằng cách gửi thư ở chế độ trả lời tự động, rất đơn giản. Bước này giúp tạo nhiềm tin cho kháh hàng cũng như có thể giúp bạn tiết kiệm thời gian gửu fax, gọi điện thoại và gửi e-mail chỉ để hỏi "Bạn đã nhận được đơn đặt hàng của chúng tôi hay chưa?"
9.Thiết kế site linh hoạt
Bạn phải thiết kế site của mình sao cho luôn cập nhật để phản ánh vào việc bán hàng, chiết khấu hay sản phẩm sẵn có. Đó là cách tốt nhất để thu hút chỉ dẫn sản phẩm một cách trực tiếp từ cơ sở dữ liệu cho việc cập nhật liên tục. Bạn có thể cũng muốn đầu tư vào một nội dung quản lý phần mềm để có khả năng cập nhật nội dung một cách nhanh nhất .
10.Có khả năng in nội dung ra giấy
Hãy chắc chắn rằng site của bạn có thể in ra được một khi người xem muốn in chúng ra. Nội dung sản phẩm và ảnh là hay được in nhất. Khách hàng thường thiếu so sánh sản phẩm trong cửa hàng với những gì họ in ra. Cũng như vậy nhiều đối tác kinh doanh có những hệ thống tài liệu trên văn bản.
11.Trả lời tất cả các e-mail
Bạn phải lên kế hoạch trả lời tất cả các e-mail được gửi đến trong vòng 24 giờ. Đây là cách xây dựng lòng tin tốt nhất và nó có thể đem đến cho bạn những lợi thế cạnh tranh hơn là thái độ bình thường không mấy nhiệt huyết của bạn.
12.Cá nhân hoá từng khách hàng
Khi một khách hàng trở lại với Website của bạn, server của bạn phải nhận ra
khách hàng đó và chỉ cho họ những chỉ dẫn tương tự. Đây có thể là bí quyết chính dẫn đến thành công trong TMĐT. Hãy bàn với các chuyên gia công nghệ thông tin của bạn để tìm ra giải pháp tốt nhất.
13.Sử dụng E-mail để lôi kéo khách hàng
Chiến dịch tiếp thị của bạn sẽ bao gồm cả e-mail gửi cho khách hàng cũ và sẽ
thu hút được một tỷ lệ lớn khách hàng trở lại site của bạn. Sư trở lại của khách hàng cũ là kết quả bán hàng tốt nhất.
Trên đây là một số giải pháp, khuyến nghị để phát triển TMĐT Việt Nam. Qua các khuyến nghị và giải pháp này, chúng ta thấy rõ được rằng việc xây dựng một khuôn khổ pháp luật, hành lang pháp lý cho TMĐT giữ một vai trò quan trọng, chi phối quá trình tham gia của các thành phần vào TMĐT và sự phát triển của TMĐT. Chính vì lẽ đó, Việt Nam chúng ta cần phải quan tâm và xúc tiến nhanh hơn nữa việc xây dựng hệ thống pháp luật cho TMĐT.
II.Khuyến nghị để xây dựng hệ thống pháp luật cho hoạt động TMĐT của Việt Nam:
Các bên tham gia TMĐT thường gặp phải vướng mắc về một số vấn đề như đã được đề cập đến trong chương II và một số vấn đề liên quan khác. Theo khuyến nghị của Mỹ thì có ba cách để giải quyết vướng mắc này giữa các bên tham gia TMĐT, đó là:
Khuyến khích các bên tự thoả thuận cách giải quyết các vấn đề liên quan bằng việc quy định rõ trong hợp đồng
Các bên vẫn tiến hành giao dịch bình thường và nếu có tranh chấp phát sinh thì nhờ một bên thứ ba, là toà án hoặc trọng tài đứng ra giải quyết và quyết định xem pháp luật hiện hành có thể được áp dụng như thế nào trong các trường hợp đó
Cơ quan có thẩm quyền đứng ra sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật hiện hành cho phù hợp hoặc ban hành các quy định pháp luật mới
Đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, khi nhận thức của các bên tham gia TMĐT còn khá yếu và nghèo nàn, cơ sở pháp luật điều chỉnh các vấn đề thương mại chưa thực sự hoàn thiện, trình độ của các cơ quan giải quyết tranh chấp còn hạn chế, thì chỉ có các cơ quan có thẩm quyền như Chính phủ, Quốc hội, các Bộ liên quan mới có đủ khả năng tạo được một cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ cho các giao dịch TMĐT. Chính vì lẽ đó việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TMĐT ở Việt Nam có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Mục tiêu phát triển TMĐT của Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005 là tạo ra môi trường thông thoáng, đầy đủ và đồng bộ khuyến khích TMĐT phát triển và sẵn sàng áp dụng rộng rãi trong phạm vi cả nước. Pháp luật về TMĐT chủ yếu sẽ được xây dựng trên cơ sở để thừa nhận các đặc tính của TMĐT, trong đó việc xây dựng hành lang pháp lý cơ bản làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh các hoạt động TMĐT là một chỉ tiêu quan trọng cần phải hoàn thành. Trong quá trình xây dựng khuôn khổ pháp lý này, Chính phủ, Quốc hội giữ vai trò chủ đạo. Thực tiễn TMĐT ở một số quốc gia phát triển cho thấy việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho TMĐT là một công việc rất khó khăn và không thể hoàn thành được ngay trong ngày một ngày hai. Và chắc chắn con đường mà chúng ta phải đi để có được một hành lang pháp lý phù hợp là rất dài, rất khó khăn.
1.Việt Nam cần tham khảo và áp dụng pháp luật về TMĐT của các tổ chức quốc tế và một số quốc gia khác.
Tính đến thời điểm hiện nay, rất nhiều các tổ chức kinh tế quốc tế, rất nhiều các quốc gia đi trước trong lĩnh vực TMĐT đã đưa ra các quy định pháp luật liên quan đến TMĐT. UNCITRAL, OECD, WTO, Mỹ, Anh, Canada... được xem là những tổ chức, những quốc gia đi tiên phong trong lĩnh vực này.
Các quy định pháp luật của các tổ chức và các quốc gia này đã đề cập đến một số vấn đề được coi là bức xúc liên quan đến TMĐT, đáng chú ý là "Luật mẫu về TMĐT" đề cập chủ yếu đến vấn đề "văn bản điện tử" và "Luật mẫu về chữ ký điện tử" của UNCITRAL.
Các quy định pháp luật của các tổ chức này được xem là chung nhất, khái quát nhất và cụ thể nhất. Các tổ chức này cũng khuyến khích mọi quốc gia dù là thành viên hay không cũng nên áp dụng các quy định pháp luật được xem là mẫu này.
Bên cạnh đó các quốc gia có nền TMĐT được coi là phát triển hơn cả là Mỹ, Canada, Anh...cũng đã xây dựng được một số quy định pháp luật về TMĐT tuy chưa đầy đủ và đồng bộ nhưng hoàn toàn có thể là cơ sở cho các quốc gia khác tham khảo khi xây dựng hành lang pháp lý cho hoạt động TMĐT của riêng nước mình.
Việt Nam chúng ta, theo nhận định của các chuyên gia trong và ngoài nước thì mới đang ở giai đoạn I, giai đoạn chuẩn bị cho TMĐT, thì việc tham khảo và áp dụng các quy định pháp luật này là rất cần thiết và bổ ích. Chúng ta có thể áp dụng nguyên văn các quy định của UNCITRAL và OECD, đồng thời tham khảo luật pháp của các quốc gia khác để xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho riêng mình. Có một hành lang pháp lý cho hoạt động TMĐT, hơn nữa hành lang pháp lý đó lại tương tự hay phù hợp với các quy định chung về TMĐT của thế giơí sẽ là một thuận lợi rất lớn cho Việt Nam chúng ta khi tiến hành các giao dịch TMĐT với các đối tác nước ngoài và đồng thời thúc đẩy sự phát triển của TMĐT Việt Nam.
Tuy nhiên trong quá trình tham khảo và xây dựng các quy định pháp luật liên quan đến TMĐT dựa trên các quy định pháp luật của các quốc gia, các tổ chức quốc tế khác, chúng ta cũng cần phải chú ý xem xét kỹ những bất cập của các quy định đó đã được các quốc gia đi trước nêu ra hoặc chú ý đến các khuyến nghị của các quốc gia và tổ chức đó. Có làm được như vậy, Việt Nam chúng ta mới có một cơ sở pháp lý hoàn thiện, ít lỗ hổng hay bất cập, mới tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của TMĐT.
2.Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền liên quan cần ban hành các quy định liên quan đến TMĐT càng sớm càng tốt.
Như đã được đề cập ở các chương trước, có rất nhiều vấn đề liên quan đến TMĐT cần phải có các quy định pháp luật để điều chỉnh như văn bản điện tử, chữ ký điện tử, bảo mật thông tin, thanh toán điện tử, đánh thuế giao dịch TMĐT, tội phạm Internet, sở hữu trí tuệ....Nhưng hiện nay, những văn bản pháp luật cao nhất điều chỉnh một số vấn đề có liên quan ít nhiều đến TMĐT mà Việt Nam đã ban hành là Pháp lệnh Bưu chính Viễn thông có hiệu lực từ ngày 1/10/2002; Nghị định 55 CP/2001 về Quản lý và Sử dụng Internet....Với cơ sở pháp lý cho TMĐT nghèo nàn như vậy, chúng ta có thể chắc chắn rằng TMĐT rất khó có thể hình thành và phát triển.
Chính vì vậy, Chính phủ, Quốc hội và các bộ, cơ quan ban ngành liên quan cần nhanh chóng ban hành các văn bản pháp quy như luật, nghị định, pháp lệnh,thông tư, hướng dẫn....về các vấn đề liên quan đến TMĐT như văn bản điện tử, chữ ký điện tử, bằng chứng điện tử, thanh toán điện tử, giải quyết tranh chấp trong TMĐT, tội phạm Internet, bảo vệ người tiêu dùng, quyền sở hữu trí tuệ..... Có được các quy định pháp luật điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến TMĐT như vậy sẽ tạo một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc tiến hành các giao dịch TMĐT cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan ban ngành liên quan trong việc quản lý và kiểm soát các giao dịch TMĐT.
Theo thông tin gần đây thì Chính phủ đang xem xét đề nghị của Bộ Thương mại về việc thành lập Uỷ ban chỉ đạo quốc gia về TMĐT nhằm có sự quản lý sát sao hơn với TMĐT và thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của TMĐT Việt Nam. Một tin vui nữa đối với các bên tham gia TMĐT ở Việt Nam đó là Chính phủ đã giao cho Bộ Thương mại soạn thảo Pháp lệnh về TMĐT dự kiến sẽ hoàn thành về phần khung vào cuối năm 2002, đề cập đến một số vấn đề bức xúc đối với TMĐT ở Việt Nam hiện nay.
Theo kinh nghiệm và khuyến nghị của Australia trong việc xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TMĐT thì các quy định pháp luật này phải:
Xoá bỏ các trở ngại của các quy định pháp luật hiện có đối với việc thực hiện các giao dịch TMĐT
Đảm bảo tính chắc chắn của các quy định pháp luật áp dụng với giao dịch TMĐT và nâng cao lòng tin của người tiêu dùng và doanh nghiệp vào các quy định pháp luật và loại hình giao dịch này
Giảm thiểu các chi phí và các vụ kiện tụng có thể xảy ra
Đảm bảo áp dụng được với nhiều loại hình giao dịch, thúc đẩy mọi giao dịch liên quan hoặc không liên quan đến TMĐT
Đảm bảo thừa nhận giá trị tương đương của các giao dịch truyền thống bằng giấy và giao dịch điện tử
Đảm bảo tính thống nhất trong các quy định điều chỉnh các giao dịch TMĐT và thống nhất với các quy định pháp luật điều chỉnh các vấn đề khác liên quan
Đảm bảo thúc đẩy việc thừa nhận hiệu lực của các giao dịch TMĐT và "chữ ký điện tử"
Chúng ta cùng hi vọng rằng, với sự nỗ lực từ phía Chính phủ và các cơ quan ban ngành liên quan Việt Nam sẽ nhanh chóng có một cơ sở pháp lý phù hợp cho sự ra đời và phát triển của TMĐT.
3.Nâng cao nhận thức và hiểu biết về TMĐT
Với tỉ lệ các doanh nghiệp không có chút khái niệm gì về TMĐT chiếm 90%, số người dân sử dụng Internet thường xuyên ước đạt 0,1% chúng ta có thể nhận thấy một thực trạng là sự hiểu biết và tham gia vào TMĐT của đại bộ phận dân chúng và doanh nghiệp Việt Nam còn quá nghèo nàn. Chính sự hạn chế hiểu biết về TMĐT ở Việt Nam hiện nay là một trong những nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của TMĐT, đồng thời kéo theo nó sự chậm chạp ra đời của pháp luật về TMĐT.
Vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để nâng cao nhận thức, hiểu biết về TMĐT của mọi bộ phận dân chúng, từ các cấp lãnh đạo đến người dân thường. Chính phủ giữ vai trò quan trọng trong việc nâng cao trình độ và nhận thức của người dân. Các chương trình phổ cập, các chương trình giới thiệu, nghiên cứu chỉ có thể thực hiện được nếu có sự hỗ trợ hay đỡ đầu của nhà nước.
Chính phủ nên thường xuyên phối hợp với các bộ, ban ngành có liên quan tổ chức các cuộc hội thảo, các chương trình đào tạo, bổ túc, cập nhật kiến thức về các vấn đề liên quan đến TMĐT cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo các cấp, cho đội ngũ cán bộ nhân viên, đặc biệt cán bộ lãnh đạo và nhân viên trong ngành thương mại và một số ngành liên quan khác.
Mặt khác các cơ quan có thẩm quyền cũng nên tổ chức các hoạt động, các chương trình có tính chất tuyên truyền, giới thiệu về TMĐT, lợi ích của TMĐT cho mọi tầng lớp nhân dân thông qua các phương tiện thông tin đại chúng.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng nên chỉ đạo, phối hợp với các Bộ liên quan như Bộ Thương mại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, đưa các vấn đề liên quan đến TMĐT trở thành một ngành học riêng, một môn học riêng, thậm chí là một môn học bắt buộc đối với đối tượng sinh viên theo học khối ngành kinh tế.
Ngoài ra, Chính phủ và các ban ngành liên quan cũng nên chú ý đến công tác xuất bản sách báo, tạp chí, tài liệu liên quan đến TMĐT. Thực tế ở Việt Nam hiện nay cho thấy, số lượng sách báo, tài liệu tham khảo về TMĐT không nhiều, nếu như không muốn nói là quá ít. Điều này đã gây khá nhiều trở ngại cho việc nghiên cứu tìm hiểu của một số đối tượng quan tâm đến TMĐT.
Bằng cách đó, mặt bằng nhận thức chung của toàn xã hội sẽ được nâng lên và khi đó sẽ rất thuận tiện cho các nhà quản lý, các nhà kinh doanh và cả người tiêu dùng tham gia vào TMĐT. Và đồng thời khi hiểu biết và nhận thức về TMĐT của các cấp lãnh đạo, đặc biệt là của đội ngũ cán bộ làm luật được nâng lên, thì chúng ta có thể tránh được tình trạng đưa ra những quy định pháp luật không chặt chẽ như thực trạng thường gặp trong các quy định pháp luật hiện nay.
4.Yêu cầu sự giúp đỡ, tư vấn của các cơ quan, tổ chức quốc tế thuộc chính phủ và phi chính phủ:
Tất cả chúng ta đều hiểu rõ một thực trạng là Việt Nam là một nước đang phát triển, đang rất nỗ lực trong quá trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, thông qua việc tiếp cận và tiếp thu với các công nghệ mới, xu hướng mới. Và chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế là trình độ hiểu biết của đại bộ phận dân chúng cũng như các thành phần xã hội liên quan về TMĐT cũng như pháp luật về TMĐT còn rất hạn chế.
Chính vì vậy ngoài việc tự tìm hiểu, tham khảo xem xét pháp luật quốc tế về TMĐT, chúng ta cũng rất cần sự giúp đỡ, tư vấn của các tổ chức quốc tế, các chuyên gia, các quốc gia đã đi trước và hiểu rõ lĩnh vực mới mẻ này hơn chúng ta.
Các tổ chức quốc tế về thương mại và luật pháp như UNCITRAL, OECD, WTO, ICC.... đều có các ban thư ký riêng chuyên về giải đáp các thắc mắc cũng như tư vấn các vấn đề về TMĐT, luật pháp cho TMĐT cũng như các loại hình giao dịch thương mại khác. Các cơ quan pháp luật của Việt Nam có thể liên lạc trực tiếp với các tổ chức này để yêu cầu sự tư vấn, giúp đỡ hoặc giải đáp các thắc mắc liên quan.
Ngoài ra, hiện nay trên thế giới, số lượng các công ty tư vấn về pháp luật TMĐT không phải là ít, đặc biệt là ở các nước có nền TMĐT khá phát triển như Mỹ, Anh. Chúng ta có thể liên lạc trực tiếp với các công ty này, thông qua các Website của họ chẳng hạn để yêu cầu được cung cấp các chuyên gia trong lĩnh vực naỳ.
Sẽ có một câu hỏi được đặt ra rằng vậy Việt Nam sẽ lấy kinh phí ở đâu, vì tất cả chúng ta đều biết Việt Nam hiện vẫn đang được xếp vào hàng những quốc gia nghèo nhất thế giới? Nhưng với mục tiêu phấn đấu thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia trên thế giới hiện nay, các tổ chức tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (World Bank), Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)... hàng năm đều cấp rất nhiều khoản tín dụng, các khoản vay ưu đãi lãi suất thấp cho các quốc gia đang phát triển như Việt Nam để phát triển nền kinh tế, tư vấn đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng và cải tiến thể chế...nếu các quốc gia thoả mãn một số điều kiện nhất định. Việt Nam có thể tận dụng các cơ hội, các khoản vay này để đáp ứng nhu cầu tài chính cho việc xây dựng các quy định pháp luật cho TMĐT.
Tuy nhiên việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý cho hoạt động TMĐT của Việt Nam cũng không thể hoàn toàn chỉ dựa vào các chuyên gia nước ngoài, sự tư vấn của các cơ quan và tổ chức nước ngoài. Chúng ta phải biết kết hợp giữa nguồn nhân lực trong nước, sự hiểu biết về thực trạng TMĐT nói riêng và thương mại nói chung của Việt Nam với kinh nghiệm và kiến thức của các chuyên gia và tổ chức nước ngoài để xây dựng được một khuôn khổ pháp lý phù hợp với hiện trạng và điều kiện TMĐT nhưng cũng đồng thời không trái với quy định và thông lệ của TMĐT thế giới.
Trên đây là bốn khuyến nghị nhỏ để xây dựng hệ thống pháp luật cho hoạt động TMĐT Việt Nam. Để có được một hành lang pháp lý phù hợp và thông thoáng, thúc đẩy sự phát triển của TMĐT, Việt Nam chúng ta sẽ còn phải nỗ lực rất nhiều. Khi chúng ta đã xây dựng được một cơ sở pháp lý tương đối đầy đủ cho hoạt động TMĐT, chúng ta vẫn phải tiếp tục nỗ lực, nghiên cứu, hoàn thiện hệ thống pháp luật đó, tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để TMĐT phát triển vì chính sự hình thành và phát triển của TMĐT là động lực thúc đẩy sự ra đời của pháp luật về TMĐT , là điều kiện để thực thi các quy định pháp luật về TMĐT và ngược lại sự ra đời và phát triển, hoàn thiện của pháp luật về TMĐT lại là lực đẩy cho sự phát triển của TMĐT. Và ngay cả khi hệ thống pháp luật về TMĐT nói riêng và thương mại nói chung được hình thành và hoàn thiện, chúng ta vẫn phải tiếp tục nỗ lực nâng cao trình độ, sự hiểu biết của các bên tham gia TMĐT, vì chính sự hiểu biết của các bên liên quan đến TMĐT, sự nắm vững các quy định pháp luật về TMĐT của các chủ thể đó lại cũng là điều kiện, là động lực cho việc áp dụng và phát triển, hoàn thiện pháp luật TMĐT và TMĐT.
Kết luận
Qua ba chương của khoá luận này chúng ta đã tìm hiểu đôi nét khái quát về TMĐT, các khái niệm liên quan đến TMĐT, lợi ích của TMĐT đối với hai chủ thể chính tham gia TMĐT, sự hình thành và phát triển của TMĐT cũng như một số điểm khác biệt cơ bản giữa TMĐT và TMTT - những khác biệt được xem là đặc điểm nhận dạng loại hình thương mại mới này.
Cũng trong khoá luận này chúng ta đã tìm hiểu, tham khảo một số quy định pháp luật của một số tổ chức quốc tế và một số quốc gia về "văn bản điện tử", "chữ ký điện tử", "bảo mật thông tin và dữ liệu người tiêu dùng", "chuyên chở hàng hoá", "đánh thuế giao dịch TMĐT", "thanh toán điện tử" - một trong những vấn đề nổi cộm và bức xúc hiện nay liên quan đến TMĐT.
Bên cạnh đó, thực trạng và giải pháp cho TMĐT Việt Nam cũng như bốn khuyến nghị cho việc xây dựng cơ sở pháp lý cho hoạt động TMĐT Việt Nam cũng đã được đề cập đến trong khoá luận này.
Tuy không đi sâu nghiên cứu đầy đủ các vấn đề liên quan đến TMĐT, nhưng hi vọng rằng bài viết này sẽ cung cấp được một phần nhỏ thông tin liên quan đến vấn đề TMĐT Việt Nam cũng như thế giới cho những đọc giả quan tâm.
Chúng ta cùng hi vọng rằng, TMĐT Việt Nam cũng như thế giới, pháp luật cho hoạt động TMĐT Việt Nam cũng như thế giới sẽ ngày càng phát triển và hoàn thiện. Và một ngày gần đây, chúng ta sẽ được hưởng những thành quả, lợi ích to lớn mà TMĐT - một phương thức kinh doanh hoàn toàn mới mẻ mang lại cho tất cả chúng ta.
Tài liệu tham khảo
Tài liệu về xúc tiến thương mại của Bộ Thương mại tháng 9 năm 2002
Tài liệu nghiên cứu "Triển vọng kinh tế toàn cầu" của Ngân hàng Thế giới năm 2001
Tạp chí "Tin học và Đời sống" các số tháng 5 và tháng 6 năm 2000
Thời báo Kinh tế Việt Nam các số 12, 23, 25, 52, 65, 62 năm 1999, các số 88, 55, 74, 85, 124, 121, 36 năm 2000, các số 99, 24, 53. 69 năm 2001.
Luật mẫu về TMĐT và Chữ ký điện tử của UNCITRAL
Quy định về bảo mật thông tin và bảo vệ người tiêu dùng của OECD
Các văn bản pháp luật về TMĐT của Mỹ, Anh, Canada, Singapore. HongKong, Newzealand....., các nghiên cứu phân tích tại một số trang web như:
.......
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan van.doc
- bia luan van.doc