lời nói đầu
Từ khi chuyển từ cơ chế quản lý quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường. Đất nước ta không ngừng đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá - xã hội. Từ một nước thuần nông nghèo nàn, lạc hậu nay đã cơ bản trở thành một nước có nền công nghiệp hoá. Sau chiến tranh, mặc dù đất nước bị tàn phá năng nề, bị cô lập, cấm vận trên nhiều lĩnh vực.nhưng Việt Nam đã cố gắng phấn đấu phát huy nội lực trong nước và tranh thủ mọi sự giúp đỡ của các nước anh em bè bạn đồng thời tăng cường công t
53 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1305 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích và xây dựng biện pháp cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở Xí nghiệp than Nam Mẫu - Công ty TNHH một thành viên than Uông Bí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác ngoại giao mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới. Được các nước đồng tình ủng hộ giúp đỡ. Đến nay Việt nam đã làm bạn và hợp tác với hơn một trăm quốc gia trên thế giới, có mối quan hệ hữu nghị và cùng nhau hợp tác trên nhiều lĩnh vực như: phát triển kinh tế, chính tri, an ninh quốc phòng, văn hoá - xã hội. Tất cả những thành quả nêu trên đều do công của những con người đầy tài năng sáng tạo và lòng nhiệt huyết.
Cùng với sự đi nên của Đất nước, các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân thực hiện đúng các chủ trương chính sách của đảng, pháp luật của nhà nước và quy định của từng nghành. Đã từng bước được củng cố và thành lập mới để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi của thị trường. Từ đó xu thế cạnh tranh của các doanh nghiệp diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt. Muốn đứng vững trên thị trường, họ phải tự tìm cho mình một cách làm ăn nghiêm túc, có suy tính toàn diện và cặn kẽ, quyết định chọn sản phẩm, khách hàng, phương pháp tiến hành căn cứ khoa học và thực tế. Trong sản xuất công nghiệp chúng ta phải đặc biệt chú trọng đầu tư nghiên cứu đối với sản phẩm, mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, trang thiết, thiết bị, máy móc và con người. Trong đó quan trọng nhất là đầu tư cho con người (nhân lực). Hơn lúc nào hết, vấn đề này luôn luôn là những đòi hỏi bức xúc của tất cả các doanh nghiệp. Có được con người rồi nhưng để sử dụng những người này làm sao cho đúng, thức sự có hiệu quả, phát huy được hết khả năng sáng tạo của họ quả là một việc vô cùng khó khăn. Vậy đòi hỏi người sử dụng lao động sáng tạo đòi hỏi các doanh nghiệp phải có các tiêu trí đánh giá về con người trong việc tuyển dụng, bồi dưỡng, sủ dụng, đãi ngộ là một vấn đề trọng tâm và thường xuyên mà các doanh nghiệp phải chú ý đến.
Xuất phát từ những lý do trên, cùng với những kiến thức lý thuyết học được tại trường và kiến thức thực tiễn lắm bắt được trong thời gian thực tập tại xí nghiệp than Nam Mẫu- công ty TNHH một thành viên than Uông Bí . Vận dụng những suy nghĩ và nhận thức của bản thân với nguyện vọng đóng góp một phần suy nghĩ bé nhỏ của mình cho sự đi lên của đất nước nói chung và doanh nghiệp nói riêng, tôi đã chọn đề tài:
“Phân tích và xây dựng biện pháp cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở Xí nghiệp than Nam Mẫu - công ty TNHH một thành viên than Uông Bí.
Đây là một trong những nội dung quan trọng mà các doanh nghiệp sản xuất nước ta phải quan tâm nói chung . Xí nghiệp than Nam Mẫu nói riêng.
Đề tài gồm: 3 phần.
Phần I : Cơ sở lý luận về sử dụng nhân lực ở doanh nghiệp SXCN.
Nhân lực đối với hoạt động của của doanh nghiệp SXCN.
Các chỉ tiêu phản ánh và so sánh, đánh giá tình hình sử dụng nhân lực của doanh nghiệp SXCN.
Các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực và phương hướng cải thiện.
Phần II : Đánh giá tình hình sử dụng nhân lực ở xí nghiệp than Nam Mẫu – Công ty TNHH một thành viên than Uông Bí.
2- 1 Đặc điểm sản phẩm – khách hàng, đặc điểm công nghệ và tình hình hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
2-2 Tính toán các chỉ tiêu và phản ánh tình hình, sử dụng nhân lực ở xí nghiệp than Nam Mẫu , so sánh và nhận xét và đánh giá.
2- 3 Tìm chỉ ra những nguyên nhân trực tiếp, trung gian, sâu xa của tình hình sử dụng nhân lực của xí nghiệp.
Phần III : Một số biện pháp cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở xí nghiệp than Nam Mẫu – Công ty TNHH một thành viên than Uông Bí.
Trên cơ sở về những kiến thức bản thân tôi tiếp thu được trong thời gian học tại trường và kiến thức thực tế, lắm bắt được trong thời gian thực tập tại xí nghiệp than Nam Mẫu cùng với kiến thức do giáo viên hướng dẫn làm đồ án thực tập và tốt nghiệp. Tôi đã hoàn thiện đồ án tốt nghiệp với nội dung: phân tích và xây dựng biện pháp cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở xí nghiệp than Nam mẫu. Với hy vọng đề tài của tôi sẽ đạt được những thành công nhất định trong việc nhìn nhận, đánh giá khả năng của xí nghiệp than Nam Mẫu trong giai đoạn hiện tại cũng như trong tương lai. Góp một phần công sức nhỏ bé của bản thân vào việc sử dụng nhân lại lực ở xí nghiệp để thúc đẩy sản xuất nâng cao năng xuất lao động mang lại hiệu quả kinh tế cao cho xí nghiệp nói riêng và cho cả xã hội, đất nước nói chung. Trong việc hoàn thiện đồ án do trình độ hiểu biết và nhận thức của bản thân có nhiều điểm còn hạn chế. Do vậy trong nội dung của đề án không tránh khỏi những sơ xuất. Tôi rất mong được sự châm trước của các thày các cô và cả hội đồng.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo đã giảng dạy, thầy giáo hướng dẫn GS – TS Đỗ văn Phức cùng tập thể ban giám đốc, các phòng ban chuyên môn xí nghiệp than Nam Mẫu - công ty TNHH một thành viên than Uông Bí, cảm ơn những người bạn đã tham gia ý kiến cho đề tài này.
Sinh viên
Nguyễn Văn Ba.
Phần I
Cơ sở lý luận về đảm bảo và sử dụng nhân lực ở doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
1.1- Nhân lực đối với hoạt động của doanh nghiệp sản xuất công nghiệp.
Nhân lực của doanh nghiệp là toàn bộ những khả năng lao động mà doanh nghiệp cần và huy động được cho việc thực hiện, hoàn thành những nhiệm vụ trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp.
Nhân lực của doanh nghiệp có ý nghĩa là sức mạnh quan trọng trong các nguồn lực của doanh nghiệp. Trong các ngành sản suất nói chung, ngành công nghiệp và các doanh nghiệp sản suất công nghiệp nói riêng mỗi doanh nghiệp, xí nghiệp có những nhu cầu sử dụng nguồn nhân lực khác nhau. Nhưng đều có những điểm chung đó là căn cứ vào tình hình sản suất kinh doanh của đơn vị mình để xây dựng kế hoạch sử dụng nhân lực sao cho phù hợp với ngành mình cần sử dụng
Trong mọi lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội nói chung, trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nói riêng. Để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm, của cải vật chất cho doanh nghiệp và xã hội . Cho dù tài nguyên sẵn có và máy móc thiết bị có tiên tiến hiện đại đến đâu thì nhân lực luôn là yếu tố then chốt quyết định đến việc điều hành tổ chức thực hiện việc khai thác chế biến thành các sản phẩm theo ý muốn của con người đem ra sử dụng, tiêu thụ ngoài thị trường mang lại lợi ích cho xã hội và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Như chúng ta đã biết quá trình sản xuất bao giờ cũng bao gồm ba yếu tố cơ bản đó là: Con người - công cụ sản xuất- đối tượng lao động. Chính ba yếu tố này kết hợp với nhau tạo thành quá trình sản xuất, từ quá trình sản xuất đó đã tạo ra sản phẩm, của cải vật chất cho xã hội. Cả ba yếu tố đều cần thiết song yếu tố con người là quan trọng nhất.
Trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nếu không có nhân lực thì mọi hoạt đông sẽ bị ngừng trệ mặc dù máy móc thiết bị công nghệ có hiện đại đến đâu nhưng không có bàn tay khối óc của con người điều khiển, lao động sáng tạo ra thì không giải quyết được vấn đề gì cả.
Nhân lực của doanh nghiệp còn là đầu vào độc lập, quyết định chất lượng của sản phẩm sản xuất ra. Tất cả mọi chi phí cho quá trình sản xuất, đến việc hoàn thành các sản phẩm đều do nhân lực đảm nhiệm. Nếu quá trình sản xuất con người biết tiết kiệm, sử dụng hợp lý hoá các thiết bị, công cụ lao động thì sẽ tiết kiệm được chi phí, tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng cao, làm tăng năng suất lao động, đem lại lợi ích cho xí nghiệp. Điều đó được khẳng định bởi: Tất cả hoạt động của doanh nghiệp đều do con người thực hiện và quay trở lại phục vụ cho con người.
Con người có khả năng phân tích, dự báo nhu cầu thị trường, xác định các đối thủ cạnh tranh, quyết định chiến lược sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, lập kế hoạch, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, sản phẩm, khách hàng với chất lượng và số lượng xác định. Trong sản xuất con người còn sáng tạo thực hiện đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ, vận hành máy móc thiết bị và không ngừng cải tiến, hiện đại hoá máy móc thiết bị. Con người còn xác định nhu cầu lao động và đảm bảo các đầu vào quan trọng đó. Chính vì vậy nhân lực có tác dụng quan trọng trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhân lực luôn được coi là yếu tố then chốt quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp khi thực hiện lập kế hoạch nhân lực phải căn cứ vào các chỉ tiêu sau:
+ Nhu cầu nhân lực
+ Số lượng , chất lượng nhân lực
* Nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp sản suất công nghiệp :
Là toàn bộ nhu cầu lao động cần thiết cho thực hiện, hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt và các nhiệm vụ chuẩn bị cho tương lai. Nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp về mặt tổng số lượng (NL) bao gồm nhu cầu cho thực hiện, hoàn thành các nhiệm vụ trước mắt (NL1) và lâu dài của doanh nghiệp (NL2) + nhu cầu thay thế cho số về hưu, chuyển đi nơi khác và đi đào tạo (NL3). Nhu cầu nhân lực được tính theo công thức:
NL= NL1 +NL2 +NL3
NL : Nhu cầu nhân lực
NL1 : nhân lực hoàn thành nhiệm vụ trước mắt
NL2 : Nhân lực thực hiện nhiệm vụ tương lai
NL3 : Nhân lực thay thế cho lao động về nghỉ hưu, chuyển công tác, đi đào tạo.
* Số lượng nhân lực, chất lượng nhân lực:
Số lượng nhân lực là toàn bộ số nhân lực của xí nghiệp theo danh sách để tham gia lao động, sản suất làm ra một đơn vị sản phẩm hoặc một thời gian nhất định theo quy định của doanh nghiệp.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là mức độ đáp ứng phù hợp về chất lượng nhân lực theo các loại cơ cấu mà doanh nghiệp thu hút, huy động được (B) với chất lượng nhân lực theo các cơ cấu nhân lực đó mà hoạt động của doanh nghiệp yêu cầu (A) như vậy cần xác định, làm rõ(A),(B) và chỉ ra mức độ chênh lệch giữa chúng.
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp phải thực hiện xây dựng một đội ngũ cán bộ công nhân viên chức đủ về số lượng, tốt về chất lượng nhằm tạo ra năng suất chất lượng hiệu quả cao trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đáp ứng được yêu cầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp quyết định các yếu tố đầu vào, chất lượng các sản phẩm trung gian, chất lượng của sản phẩm đầu ra, khả năng cạnh tranh của các sản phẩm đầu ra và quyết định làm tăng, giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chất lượng nhân lực bao gồm: Chất lượng nhân lực theo cơ cấu giới tính, chất lượng nhân lực theo cơ cấu khoảng tuổi, chất lượng nhân lực theo cơ cấu ba lực lượng chủ chốt và chất lượng nhân lực theo cơ cấu ngành nghề, trình độ chuyên môn, bậc thợ.
Trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nếu nhân lực đạt chất lượng cao tức là đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn nêu trên là điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng nhân lực trong doanh nghiệp. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được diễn ra thuận lợi và đạt kết quả như mong muốn.
Nếu chất lượng nhân lực không đảm bảo có ảnh hưởng rất lớn trong việc phân công lao động, phân công không đúng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ hoặc trình độ chuyên môn nghiệp vụ yếu kém, không đúng năng lực sở trường, cơ cấu độ tuổi, giới tính không phù hợp, môi trường làm việc, chế độ nghỉ ngơi không đảm bảo thì dẫn đến người lao động làm việc không nhiệt tình. Nếu có nhiệt tình thì hiệu quả lao động cũng không được cao, chất lượng không đảm bảo bởi vi không đúng với chuyên môn nghiệp vụ thì phải mất thời gian nghiên cứu mới thực hiện được công việc được giao. Do vậy sản phẩm làm ra ít chất lượng không đảm bảo thiếu sự cạnh tranh làm cho quá trình sản xuất bị ngừng trệ, doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả thua lỗ dẫn đến phá sản.
Chất lượng nhân lực của doanh nghiệp là mức độ đáp ứng phù hợp về chất lượng nhân lực theo các loại về cơ cấu nhân lực mà doanh nghiệp thu hút, huy động được với chât lượng nhân lực theo cơ cấu nhân lực đó mà hoạt động của doanh nghiệp yêu cầu. Trong các doanh nghiệp thường có các loại khả năng lao động: Lao động trực tiếp; Bộ phận quản lý; Bộ phận phục vụ. Khả năng lao động của doanh nghiệp theo cơ cấu này phải có số lượng và chất lượng đáp ứng phù hợp với yêu cầu thực tế hiện tại tương lai, có quan hệ ( cơ cấu) hợp lý, có sức mạnh hợp thành lớn nhất mới có thể sử dụng nhân lực một cách có hiệu quả nhất, làm ra nhiều sản phẩm, chất lượng cao để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp trong kinh tế thị trường cần đặc biệt quan tâm đầu tư ( chính sách thu hút và sử dụng hấp dẫn hơn các đối thủ cạnh tranh) để có bộ ba nhân lực mạnh đồng bộ là: chuyên gia quản lý chiến lược và quản lý điều hành; chuyên gia công nghệ; thợ lành nghề. Đây là ba lực lượng có trình độ cao là trụ cột của doanh nghiệp khi được đào tạo cơ bản , làm việc đúng đắn và mạnh mẽ họ sẽ tạo ra và áp dụng nhiều sản phẩm sáng tạo.
- Người lãnh đạo quản lý là thực hiện những công việc quan trọng và phức tạp bậc cao. Đây là loại công việc có tác dụng định hướng, điều phối các hoạt động ở xí nghiệp. Đó là công việc xác định mục tiêu, chọn hướng sản xuất kinh doanh, đảm bảo vốn, công cụ và lực lượng sản xuất, tổ chức hệ thống sản xuất, tổ chức bộ máy, xây dựng quy chế hoạt động, điều hành phối hợp các hoạt động thành phần trong sản xuất kinh doanh. Loại công việc này đòi hỏi người cán bộ lãnh đạo quản lý phải hiểu biết về thị trường, công nghệ, kỹ thuật sản xuất kinh doanh, về con người, về kiến thức quản lý. Sáng suốt trong các tình huống phức tạp, căng thẳng và dũng cảm là yêu cầu chung cơ bản đối với cán bộ quản lý. Trong quản lý điều hành không sáng suốt không thể giải quyết tốt các vấn đề quản lý, tình huống nảy sinh trong quá trình quản lý. Cán bộ quản lý phải là người hiểu biết sâu sắc trước hết về con người và về phương pháp cách thức (công nghệ) tác động đến con người, là người có khả năng tư duy biện chứng, tư duy hệ thống, tư duy nhân quả liên hoàn, nhạy cảm và hiểu được những gì mới, tiến bộ dũng cảm áp dụng những khoa học kỹ thuật mới ứng dụng trong sản xuất.
Công việc lãnh đạo quản lý được chia theo từng cấp khác nhau, lãnh đạo quản lý ở cấp càng cao thì càng phức tạp do đó phải cân đối lực lượng lãnh đạo cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ công tác. Trong công tác quản lý công việc xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh, công việc tìm kiếm công cụ, phương pháp công nghệ tiến bộ, công việc ra các quyết định quản lý, công việc đề bạt cán bộ chủ chốt, công việc phân phối thành quả lao động chung là những công việc có mức độ phức tạp cực kỳ cao cần đến trí tuệ toàn diện của cán bộ lãnh đạo.
- Đội ngũ chuyên môn nghiệp vụ được bố trí làm việc ở các phòng ban, phân xưởng của xí nghiệp. Tuỳ theo trình độ nghiệp vụ, năng lực sở trường của cán bộ để phân công công việc cho phù hợp. Các cán bộ nghiệp vụ với chức năng nhiệm vụ làm công tham mưu giúp việc cho lãnh đạo trong lĩnh vực chuyên môn nhiệp vụ phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh ở xí nghiệp. Đó là những công việc như chuẩn bị tư liệu, thông tin, chuẩn bị các dự án cho cán bộ lãnh đạo xem xét quyết định và làm những công việc giúp cho cán bộ triển khai, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện các quyết định đó. Do vậy cán bộ được phân công làm việc phải hiểu biết nắm vững các yêu cầu phục vụ cụ thể và cách thực hiện các yêu cầu đó, phải hiểu biết các dạng thông tin, các công cụ phương tiện thông tin, có khả năng giao tiếp tốt, có khả năng làm việc chu đáo, nhiều sáng kiến, triển khai tốt những công việc do cán bộ lãnh đạo phân công theo chức năng nhiệm vụ của mình.
- Công nhân- nhân viên : Là những người trực tiếp tham ra sản xuất và chuẩn bị cho sản xuất để làm ra các sản phẩm tiêu thụ ra ngoài thị trường đội ngũ công nhân nhân viên được bố trí làm việc ở các phân xưởng sản xuất và các đơn vị phục vụ sản xuất.
Công nhân sản xuất được chia thành công nhân sản xuất chính và công nhân sản xuất phụ. Công nhân sản xuất chính là những người trực tiếp sản xuất ra sản phẩm của xí nghiệp được bố trí làm việc theo trình độ bậc thợ tại các phân xưởng sản xuất của xí nghiệp . Công nhân sản xuất phụ làm những công việc hỗ trợ, phục vụ cho công nhân trực tiếp sản xuất kinh doanh. Do vậy đòi hỏi công nhân phụ phải nắm vững phục vụ những gì, khi nào, bao nhiêu, phải biết chuẩn bị tiến hành phục vụ đầy đủ, kịp thời, đạt yêu cầu chất lượng không gây lãng phí vật chất và sức lao động.
Trình độ lao động được đánh giá bằng trình độ quản lý, chuyên môn, nghiệp vụ, chuyên gia công nghệ, thợ lành nghề. Trong nền kinh tế có cạnh tranh, những người tham gia sản xuất sản phẩm công nghiệp cần có khả năng trình độ cao hơn, toàn diện hơn. Trình độ của người lao động được thể hiện chủ yếu, thông qua khả năng nhận thức nhanh, trúng vấn đề và kỹ năng hành động thực tiễn. Trình độ lao động là cơ sở để doanh nghiệp thực hiện phân công bố trí lao động cho phù hợp với khả năng, năng lực của người lao động. Nhằm tạo ra năng suất lao động cao hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao góp phần thúc đẩy sự phát triển chung của xí nghiệp.
Trong tất cả các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp sản xuất công nghiệp nói riêng khi có đủ số lượng, chất lượng nhân lực theo yêu cầu thì công tác sử dụng lao động, phân công lao động là yếu tố không kém phần quan trọng. Nếu phân công lao động đúng người đúng việc thì sẽ thúc đẩy quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và ngược lại. Do vậy doanh nghiệp phải quản lý và sử dụng nhân lực có hệ thống, khoa học tức là quản lý nhân lực một cách bài bản, áp dụng nhiều nhất các thành tựu khoa học vào trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2- Các chỉ tiêu phản ánh và so sánh, đánh giá tình hình sử dụng nhân lực của doanh nghiệp sản xuất.
Trong quá trình sử dụng nhân lực của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp được đánh giá qua các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu 1: Thời gian lao động
Thời gian lao động là thời gian cần thiết để sản xuất ra một khối lượng sản phẩm
Sử dụng hợp lý và tiết kiệm thời gian lao động là một yêu cầu quan trọng của công tác quản lý lao động trong xí nghiệp. Công tác này bao gồm việc lập kế hoạch hoá sử dụng ngày công, giờ công, việc hạch toán thời gian lao động và thực hiện các chế độ quản lý sử dụng lao động trong xí nghiệp. Nhằm nâng cao số ngày công, công tác trong tháng, trong năm và số giờ công có ích trong ngày của mọi người lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động
Cơ cấu thời gian lao động theo ngày công và theo giờ công của công nhân sản xuất :
Ngày công làm việc của một công nhân trong tháng (hoặc quý, năm) được xác định từ ngày công theo lịch(-) ngày công vắng mặt và ngày công ngừng việc. Khác với số ngày công làm việc theo dự kiến, ngày công làm việc thực tế còn tính thêm ngày công làm việc thêm ca.
Các chỉ tiêu và biện pháp sử dụng thời gian lao động của công nhân sản xuất nhằm đánh giá kết quả sử dụng thời gian lao động, phát hiện những nguyên nhân lãng phí thời gian lao động, vi phạm kỷ luật lao động và qua đó đề ra những biện pháp bảo đảm nâng cao ngày công trong tháng (quý, năm) và số giờ công có ích trong ngày.
Để tính tổng hợp các chỉ tiêu sử dụng thời gian lao động trước hết phải theo dõi chặt chẽ giờ công của công nhân hàng ngày, dựa vào bảng chấm công ở các tổ sản xuất, các phiếu theo dõi công tác của tổ, phiếu báo ngừng việc…và sổ tổng hợp thời gian lao động của công nhân toàn phân xưởng.
Đánh giá tình hình sử dụng thời gian lao động theo đơn vị ngày công qua sơ đồ sau:
Tổng số ngày công làm việc theo lịch
Số ngày công nghỉ
Theo quy định
Tổng số ngày công làm việc theo chế độ
Tổng số ngày công có mặt
Số ngày công vắng mặt
Số ca làm thêm
Số ngày công làm việc thực tế trong chế độ
Số ngày công ngừng việc
Tổng số ngày công làm việc thực tế cho người lao động
Từ sơ đồ trên ta tính được:
+ Độ dài bình quân kỳ công tác trong chế độ theo công thức:
MCĐ =
Tổng số ngày công làm việc thực tế trong chế độ
Số lao động bình quân
+ Độ dài bình quân kỳ công tác nói chung, phản ánh việc tăng cường độ lao động về mặt thời gian.
MNC =
Tổng số ngày công thực tế nói chung
Số lao động bình quân
+ Ngoài ra còn tính được hệ số làm thêm ca: Phản ánh việc tăng cường độ lao động về mặt thời gian.
Hc =
Tổng số ngày công thực tế nói chung
Tổng số ngày công làm việc thực tế trong chế độ
Hc = 1: Khi không có làm thêm ca.
Hc > 1: Khi có ca làm thêm.
- Các chỉ tiêu sử dụng thời gian theo đơn vị giờ công theo sơ đồ sau:
Tổng số giờ công làm việc theo lịch
Số giờ công
Làm thêm
Số giờ công làm và thực tế trong chế độ
Số gìơ công
tổn thất
Số giờ công
Vắng mặt
Số giờ công làm việc thực tế hoàn toàn
+ Từ đó có thể tính chỉ tiêu về:
+ Độ dài bình quân ngày làm việc trong chế độ:
LCĐ =
Tổng số giờ công làm việc thực tế trong chế độ
Tổng số ngày công làm việc thực tế nói chung
+ Độ dài ngày làm việc thực tế hoàn toàn
LHT =
Tổng số giờ làm việc thực tế hoàn toàn
Tổng số ngày công làm việc thực tế nói chung
Ngoài ra có thể tính hệ số làm thêm giờ.
Hg =
Tổng số giờ làm việc thực tế hoàn toàn
Tổng số giờ công làm việc thực tế trong chế độ
Hg> 1: Khi có thời gian làm thêm.
Ngoài các chỉ tiêu nêu trên đây, khi nghiên cứu tình hình sử dụng thời gian lao động của công nhân ta có thể lập bảng cân đối thời gian lao động của công nhân trong phân xưởng trong đó có phân rõ các nguyên nhân vắng mặt ( nghỉ ốm, con ốm mẹ nghỉ, nghỉ việc riêng, hội họp, học tập) và các nguyên nhân ngừng việc (vì thiếu nguyên liệu, không có nhiệm vụ, máy hỏng…) Căn cứ vào các tỷ lệ (%) tính được và xuất phát từ thực tế của phân xưởng mà nhận xét tình hình, vạch ra những khả năng tiềm tàng trong việc sử dụng giờ công, ngày công của công nhân sản xuất.
Nhận xét: Nếu thời gian thực sự làm việc bình quân một ca của một công nhân càng cao tương ứng sản phẩm làm ra trong một ca càng nhiều, chất lượng sản phẩm càng tốt sẽ là điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất theo đúng kế hoạch đã đặt ra và ngược lại.
Tận dụng thời gian lao động và sử dụng hợp lý thời gian lao động là một chỉ tiêu quan trọng nhằm đánh giá tình hình sử dụng nhân lực trong doanh nghiệp sản xuất công nghiệp
Chỉ tiêu 2: Phân công lao động:
Phân công lao động là một quá trình tách riêng các loại lao động khác nhau theo một tiêu thức nhất định trong một điều kiện xác định (Mà thực chất là chia quá trình sản xuất- Kinh doanh) thành các bộ phận tổ và giao cho mỗi cá nhân phù hợp với năng lực sở trường và đào tạo của họ.
Phân công lao động là tìm cách biết cách giao việc cho người hoặc sắp xếp người vào việc, đảm bảo người phù hợp với việc nhất. Phân công lao động là sự chia nhỏ toàn bộ các công việc để giao cho từng người họăc nhóm người. Đó chính là quá trình gắn từng người lao động với nhiệm vụ phù hợp với khả năng của họ.
Phân công lao động hợp lý hoá và khoa học sẽ tạo nên sự phù hợp với khả năng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của người lao động sau khi họ được tuyển mộ, tuyển chọn. Tuy nhiên , với mỗi nhà quản lý ứng với mỗi khả năng, sáng tạo xẽ có một sự kết hợp phân công theo nghệ thuật và khoa học quản lý khác nhau, nhưng để làm tốt vấn đề này nhà quản lý phải tuân thủ theo những nguyên tắc sau:
Thứ nhất phải đánh giá đúng thực trạng của dôanh nghiệp mình về đặc điểm, loại hình sản xuất, quy mô cũng như về công nghệ và máy móc thiết bị….để áp dụng phân công theo tính chất của từng công việc. đây là bước công việc quan trọng, chông chỉ quyết định đến kết quả phân công lao động mà còn ảnh hưởng của nhiều khâu của quá trình sản xuất.
Thứ hai việc xây dựng hệ thống nội quy, quy định hoàn chỉnh trong xí nghiệp.
Thứ ba Để phân công lao động phù hợp với yêu cầu kỹ thuật công nghệ, với công việc được giao thì lao động có cơ sở khoa học tức là có định mức , có điều kiện và có khả năng hoàn thành
Thứ tư : phải có sự cân đối phân đều nguồn lực cho người lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh của của doanh nghiệp diễn ra thường xuyên liên tục.
Từ đây chúng ta có thể biết rõ rằng các nhà quản lý có những kỹ năng cơ bản để phân công lao động, nhưng để đánh giá được những kỹ năng đó, còn phải dựa vào những điều mà người quản lý có làm được hay không như sau:
+ Khi phân công lao động, công nhân sản xuất chính luôn được lấy làm trung tâm quyết định năng suất lao động của toàn bộ dây chuyền sản xuất.
+ Sau khi phân công lao động hiệu quả của nó làm giảm lượng lao động hao phí để sản xuất ra một sản phẩm dẫn đến chi phí cho một sản phẩm giảm, trong thời gian tác nghiệp của cá nhân và tăng năng suất lao động.
+ Phân công không quá tỷ mỉ mà dẫn đến nhàm chán đơn điệu, dẫn đến bệnh nghề nghiệp.
+Phân công lao động phải đáp ứng được yêu cầu xã hội cá nhân làm được trong tổ chức phù hợp với khả năng, môi trường nhằm phát huy năng lực cá nhân tạo trong doanh nghiệp, có tinh thần tập thể, có trách nhiệm, yêu thích và hoàn thành công việc của mình.
Để có cơ sở căn cứ cho phân công lao động hợp lý cần phải biết cách phân định công việc và biết cách xác định khả năng lao động, tìm được tập hợp các yếu tố thuộc khả năng lao động thích hợp với yêu cầu công việc đối với người tham gia thực hiện.
Một yêu cầu chung của sự phân công lao động là phải đảm bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm sức lao động, phát huy tính chủ động và sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện duy trì và nâng cao khả năng làm việc lâu dài cũng như hứng thú của người lao động. đồng thời vẫn đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn vật chất kỹ thuật như máy móc, thiết bị, vật tư…..
Đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động với trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ với yêu cầu khách quan của sản xuất.
Đảm bảo mỗi người có đủ việc làm trên cơ sở mức lao động, khoa học, công việc phù hợp với năng lực sở trường đào tạo của mỗi người ; Nhằm mục đích phát triển con người một cách toàn diện.
Đảm bảo sử dụng một cách có hiệu quả nhất mọi nguồn lực trong doanh nghiệp( Vốn, vật tư, kỹ thuật và lao động).
Tuy nhiên trong phân công lao động cũng phải chú ý đến những giới hạn của nó đó là giới hạn về kỹ thuật công nghệ, kinh tế, tâm sinh lý lao động, xã hội, tổ chức…
Phân công lao động cho phép mỗi cá nhân và mỗi tập thể có điều kiện thực hiện chuyên môn hoá sản xuất góp phần nâng cao chất lượng công tác, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Các hình thức phân công lao động trong doanh nghiệp
+ Phân công lao động theo chức năng : đây là hình thức chia tách các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo các chức năng chính và giao cho toàn thể những người lao động trong doanh nghiệp. Các chức năng chủ yếu như : chức năng quản lý chung- Lãnh đạo ; Chức năng thương mại ; Chức năng tài chính ; Chức năng cung ứng vật tư kỹ thuật ; Chức năng lao động- nhân sự ; Chức năng kỹ thuật công nghệ ; chức năng sản xuất.
Phân công lao động theo chức năng tạo nên cơ cấu lao động chung trong toàn doanh nghiệp. Có tác dụng giúp cho mọi cá nhân và bộ phận làm việc theo đúng phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình. đồng thời thực hiện tốt mối liên hệ trong sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Phân công lao động theo công nghệ : đây là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các loại công việc khác nhau theo tính chất của quy trình công nghệ thực hiện chúng. Hình thức phân công này là quan trọng nhất trong doanh nghiệp bởi vì nó phụ thuộc vào kỹ thuật và công nghệ sản xuất ra sản phẩm của doanh nghiệp. Theo cách này có các hình thức phân công lao động sau đây : Theo nghề ; các giai đoạn công nghệ chủ yếu ; các nguyên công ; các sản phẩm chi tiết.
Phân công lao động theo công nghệ cho phép hình thành một đội ngũ những người công nhân (Thợ chuyên môn và lành nghề đảm bảo chế tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của khách hàng.
+ Phân công lao động theo mức độ phức tạp của công việc : đây là hình thức phân công lao động trong đó tách riêng các hoạt động, các công việc khác nhau theo tính chất phức tạp của ngành nghề. Thực chất là căn cứ vào độ phức tạp khác nhau của công việc mà bố trí người lao động có trình độ lành nghề tương ứng. Trong doanh nghiệp người ta dựa theo tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật để xác định mức độ phức tạp công việc và trình độ lành nghề của công nhân từ bậc 1- bậc 4 và từ bậc 5- bậc 7. Còn trong công việc hành chính và quản lý người ta chia ra các trình độ từ sơ cấp, trung cấp, kỹ sư, kỹ sư chính, kỹ sư cao cấp.
Hình thức phân công này cho phép sử dụng một cách hợp lý nhất cán bộ công nhân , tạo điều kiện nâng cao trình độ lành nghề và tạo điều kiện trả công lao động hợp lý.
Để đánh giá mức độ hợp lý của phân công lao động người ta dựa vào các tiêu chuẩn sau đây :
Tiêu chuẩn về kinh tế : Tổng chi phí lao động nhỏ nhất, chu kỳ sản xuất ngắn nhất.
Tiêu chuẩn về tâm sinh lý : Phù hợp với khả năng và giới hạn tâm sinh lý của con người, duy trì khả năng làm việc lâu dài, góp phần phát triển con người một cách toàn diện.
Tiêu chuẩn về xã hội : Tạo ra được tính tích cực lao động, quan niệm đúng đắn về lao động và xây dựng được các thể sản xuất tốt.
+ Hoàn thiện phân công lao động : Hoàn thiện phân công lao động trong doanh nghiệp theo hướng sau : Kiêm nghề, kiêm chức, quay vòng các chỗ làm việc, mở rộng công việc, làm phong phú công việc, tổ chức đứng nhiều máy.
Nhận xét: Nếu phân công lao động đúng và tương đối đúng với trình độ chuyên môn thì người lao động sẽ tiếp cận được ngay với công việc được giao, phát huy được hết khả năng, sở trường, trình độ của bản thân là điều kiện thuận lợi làm ra nhiều sản phẩm đạt chất lượng theo yêu cầu. Đây là điều kiện để doanh nghiệp hoàn thành khối lượng sản phẩm theo đúng kế hoạch đã đặt ra. Một doanh nghiệp dù có trình độ chuyên môn bình quân cao nhưng nếu không phân công lao động hợp lý theo đúng chuyên môn nghiệp vụ thì hiệu quả công việc của mỗi cá nhân và tập thể sẽ đạt thấp. Dẫn đến việc sử dụng nhân lực kém hiệu quả
Chỉ tiêu 3: Rủi do trong lao động (Người bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, về nghỉ do không còn khả năng lao động bình thường trước thời hạn).
Khi làm việc trong những điều kiện lao động không thuận lợi của doanh nghiệp, người lao động thường phải gánh chịu một số hậu quả do ảnh hưởng của các yếu tố điều kiện lao động gây ra. Người ta dùng các chỉ tiêu về tình trạng tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, về nghỉ do không còn khả năng lao động bình thường trước thời hạn để phản ánh và đánh giá tình hình sử dụng nhân lực của doanh nghiệp.
Tai nạn lao động: Tai nạn xảy ra gây tác hại đến cơ thể người lao động do tác động của các yếu tố nguy h._.iểm và có hại trong sản xuất.
Bệnh nghề nghiệp: Là bệnh phát sinh do tác động của điều kiện lao động có hại đối với người lao động
Người lao động phải nghỉ việc do không còn khả năng lao động: Trong quá trình lao động người lao động có thể bị chấn thương do không tuân theo các yêu cầu về an toàn lao động.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tai nạn lao động trong sản xuất công nghiệp:
+ Nguyên nhân khách quan do công nghệ, thiết bị máy móc(hay còn gọi là các dạng tai nạn lao động) gồm : Tai nạn lao động do điện giật ;tai nạn lao động do ngã từ trên cao xuống; tai nạn lao động do sử dụng nồi hơi và thiết bị chịu áp lực; tai nạn lao động do sụt lở, sập hầm lò; Do vi phạm an toàn lao động; Tai nạn lao động do các phương tiện vận tải; Ngoài ra còn có một số nguyên nhân khác như: sập đổ công trình xây dựng gây chết người, chết đuối, ngộ độc…
+ Nguyên nhân chủ quan do con người bao gồm: Người lao động vi phạm quy chế an toàn, vệ sinh lao động không thực hiện nghiêm túc công tác bảo hộ lao động; nguyên nhân do rủi ro gây ra.
Có thể thấy rằng nguyên nhân chính gây nên tai nạn lao động nói chung và tai nạn lao động làm chết người nói riêng là do người lao động vi phạm an toàn vệ sinh lao động. Các doanh nghiệp trong quá trình sử dụng lao động mặc dù có quan tâm đến đầu tư kinh phí để cải thiện điều kiện lao động, trang bị bảo hộ lao động, huấn luyện công tác an toàn, vệ sinh lao động nhưng không coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục cho người lao động có ý thức chấp hành quy chế an toàn, vệ sinh lao động.
Ngoài ra còn có các nguyên nhân dẫn đến tai nạn lao động(TNLĐ) và bệnh nghề nghiệp( BNN) là do trang thiết bị tồi, kém chất lượng, công tác sửa chữa bảo dưỡng kém, có các hoá chất và khí ga độc hại, cũng như là công việc quá sức, cường độ làm việc quá cao, quá ồn ào, bụi bặm và thiếu ánh sáng.
Qua nghiên cứu cho thấy tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp thường xảy ra ở các đối tượng như sau:
+ Những nhân viên trẻ hơn 30 tuổi
+ Những nhân viên chưa được đào tạo kỹ càng, chưa yên tâm với công việc
+ Những nhân viên cẩu thả
+ Những nhân viên đang ở tâm trạng buồn chán… dẫn đến tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và hậu quả của nó.
Các tai nạn nghiêm trọng xảy ra phần lớn đều do các thiếu sót và lỗi của con người, hoặc sự cố kỹ thuật hoặc các yếu tố bên ngoài. Các tai nạn hầu hết là hậu quả của rất nhiều nguyên nhân, nguyên nhân chính từ thiếu sót của con người, không chỉ do những người trực tiếp điều khiển mà cả những nhân viên bảo quản, người giám sát, các nhà quản lý sản xuất, các nhà thiết kế, chế tạo thiết bị và người cung cấp thiết bị.
Các sự cố kỹ thuật thường do thiếu sót của con người như bảo quản kém, sử dụng quá tải hoặc sử dụng không đúng quy trình. Vì thế sự chú ý nên hướng trực tiếp tới việc ngăn chặn các lỗi và thiếu sót của con người ở tất cả các cấp .
Thông thường, một sự kiện hoặc một điều kiện có thể dẫn đến nhiều sai lầm hoặc thiếu sót được gọi là các thiếu sót chung. Hoạt động huấn luyện và hướng dẫn sơ sài cho người điều khiển sẽ dẫn đến một hành động sai lầm. Nếu doanh nghiệp chưa có một chương trình huấn luyện được tổ chức tốt điều đó có thể do những nhà quản lý của doanh nghiệp chưa quan tâm coi trọng công tác an toàn như là ưu tiên hàng đầu và chưa đầu tư thời gian và tiền của một cách tương xứng. Không chỉ việc huấn luyện và hướng dẫn cho người điều khiển, mà cả kỹ thuật an toàn và bảo dưỡng thiết bị cũng có xu hướng bị lơ là.
Sai sót chung nguy hại nhất thuộc về tình trạng tổ chức giao trách nhiệm quản lý an toàn lao động không đầy đủ; Thiếu các bộ phận quản lý về an toàn, thiếu phối hợp giữa các phòng ban chức năng, thông tin tuyên truyền và hướng dẫn đến người lao động chưa tương xứng. Sai sót chung rơi vào sự phân cấp quản lý nhiều hơn thì có thể dẫn đến thiệt hại nhiều hơn. Do vậy trong quá trình sử dụng lao động người quản lý phải có cam kết đầy đủ về an toàn máy móc thiết bị và thông báo cam kết đó đến mọi thành viên
Để đánh giá tình hình tai nạn lao động người ta căn cứ vào hệ số tần suất tai nạn( Sts) là tỷ số giữa người bị tai nạn trên số lượng người làm việc trong thời gian xác định
x 1000
Kts =
S
N
Trong đó: S - số người bị tai nạn
N- số người làm việc bình quân hàng ngày
Như vậy hệ số tần suất tai nạn chính là số người bị tai nạn tính theo tỷ lệ phần nghìn. Hệ số tần suất mới chỉ cho biết tình hình tai nạn xảy ra nhiều hay ít, chưa cho biết đầy đủ về tình trạng tai nạn nặng hay nhẹ. Để đánh giá tình trạng tai nạn, người ta xét thêm hệ số nặng nhẹ( Kn) là số ngày phải nghỉ việc trung bình tính cho mỗi người bị tai nạn.
Kn =
D
S
Trong đó: D- Tổng số ngày nghỉ việc do tai nạn lao động gây ra trong thời gian xét.
S là số người bị tai nạn tại thời điểm đang xét
Trong hệ số này chỉ kể đến các trường hợp tai nạn phải nghỉ việc tạm thời, còn các trường hợp tai nạn dẫn tới mất sức lao động hoàn toàn hoặc chết người phải xét riêng.
Để đánh giá một cách tổng quát thể hiện đầy đủ đặc trưng về tình hình tai nạn, nên đưa thêm vào hệ số tai nạn nói chung (Ktn) hệ số này là phân tích hai hệ số trên, tức là:
Ktn = Kts x Ktn
Nhận xét: Chỉ tiêu trên đây đánh giá tình hình sử dụng lao động trong doanh nghiệp. Giúp doanh nghiệp nắm bắt được tình trạng lao động của mình để có biện pháp khắc phục, giảm thiểu những rủi ro không đáng có xảy ra nhằm nâng cao chất lượng lao động, hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp.
Chỉ tiêu 4 : Hiệu quả sản xuất kinh doanh (giá trị gia tăng/ tổng số người lao động và giá trị gia tăng/ tổng số giờ lao động)
Hiệu quả sản suất xuất kinh doanh là nền tảng cho khả năng sinh lời của công ty hay xí nghiệp và nó được thúc đẩy bằng việc gia tăng hiệu quả của lực lượng lao động, của máy móc thiết bị. Khả năng sinh lời của một công ty hay xí nghiệp có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với hiệu quả sản suất và do đó, chúng ta phải phân tích mối quan hệ. Hiệu quả sản suất được đo bằng giá tri gia tăng.
Giá trị gia tăng có nghĩa là giá trị mới tạo được thông qua hoạt động sản suất kinh doanh. Nói chung chỉ số này ngụ ý về giá trị mà công ty hay xí nghiệp bổ xung vào việc sản suất kinh doanh.
Có hai phương pháp để tính giá trị gia tăng
+ Một là phương pháp khấu trừ, tức là lấy doanh thu trừ đi chi phí. Cách thứ hai là phương pháp bổ sung, tức là bổ sung vào những khoản mục tạo ra giá trị gia tăng. Theo phương pháp bổ sung, tổng giá trị gia tăng bao gồm những chi phí nhân sự và lao động, chi phí thêm và các khoản khác, các khoản lệ phí., chi phí tài chính dòng và lợi nhuận hoạt động sau khi thanh toán lãi vay. Lấy tổng giá trị gia tăng trừ đi chi phí khấu hao sẽ được giá trị gia tăng dòng. Chi phí khấu hao chuyển đổi tài sản cố định thành chi phí trong thời gian hữu ích của tài sản. Hiệu quả sản suất được chia thành mức độ tập trung vốn và hiệu quả của vốn, được diễn giải dưới đây:
Tổng giá trị gia tăng
* Hiệu suất lao động = (Đồng)
Số lao động bình quân đầu kỳ và cuối kỳ
Tổng giá trị gia tăng = Lợi nhuận từ hoạt động + chi phí nhân sự và lao động + chi phí thuê + thuế và các chi phí xã hội + Các khoản chi phí + chi phí khấu hao.
Tổng giá trị gia tăng
* Hiệu suất lao động = (đồng)
Tổng số giờ lao động của công nhân
* Tài sản cố định hữu hình trên số nhân công (Mức độ tập trung vốn) được đánh giá theo công thức:
Giá trị bình quân đầu kỳ và cuối kỳ cho
(Đồng)
(Tài sản cố định hữu hình- Giá trị xây dựng dở dang)
Số lao động bình quân đầu kỳ và cuối kỳ
Tỷ số này thể hiện giá trị đầu tư vào thiết bị trên đầu công nhân và giúp chúng ta hiểu được mức độ tiết kiệm lao động và sự hợp lý hoá các khoản đầu tưu vào thiết bị nhà máy trong quá trình sản xuất và bán hàng
* Hiệu quả của đồng vốn =
Tổng giá trị gia tăng
Giá trị bình quân đầu kỳ và cuối kỳ cho
( Tài sản cố định hữu hình- giá trị xây dựng dở dang)
Tỷ số này tính toán giá trị gia tăng trên một đồng vốn tài sản cố định hữu hình hoạt động. Đây là một chỉ số thể hiện hiệu quả sản xuất.
* Hệ số chi phí lao động đối với giá trị gia tăng:
Công thức tính:
( % )
Chi phí lao động và nhân sự
Tổng giá trị gia tăng
Chỉ tiêu này tính toán tỷ lệ giữa chi phí nhân sự phân bổ như là tiền công lao động đối với tổng gía trị gia tăng. Hệ số này dùng để xem xét gánh nặng của chi phí nhân sự. Nếu tỷ số này cao thì gánh nặng chi phí nhân sự lớn. Trong trường hợp đó có khả năng công ty gặp vấn đề trong quản lý do giảm lợi nhuận mà có thể dùng để tái đầu tư.
Các chỉ tiêu trên nói nên kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, năng suất lao động cho biết một CBCNVC trong một thời gian nhất định đem lại bao nhiêu đồng doanh thu cho doanh nghiệp. Điều này biểu hiện được chất lượng sử dụng lao động. Nó mang nhiều ý nghĩa cho sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng gồm :
Làm giảm giá thành sản phẩm
Giảm số người làm việc, tiết kiêm được quỹ lương và làm tăng mức lương.
Tạo điều kiện tăng quy mô và tốc độ tổng sản phẩm quốc dân và thu nhập quốc dân. Từ đó ta có các chỉ tiêu đánh giá về năng suất lao động.
Thứ nhất : Cố định về thời gian
Sản lượng sản phẩm
Lượng thời gian lao động hao phí
Thứ hai : Sản lượng cố định
+ Năng suất lao động bình quân giờ
Sản lượng sản suất ra
Tổng số giờ làm việc thực tế
+ Năng suất lao động bình quân ngày.
Sản lượng sản phẩm sản suất ra
Tổng số ngày công làm việc thực tế
+ Năng suất lao động bình quân một lao động
Sản lượng sản suất ra
Tổng số giờ làm việc thực tế
Mức thu nhập bình quân một đầu người
Thu nhập của người lao động là một trong những yếu tố quan trọng nhằm thoả mãn các nhu cầu thiết yếu hàng ngày cho chính người lao động. Ngoài ra nó còn là yếu tố quan trọng trong việc bù đắp tái sản suất sức lao động cho người lao động. Thu nhập có cao người lao động mới có đủ điều kiện thực hiện mọi mong muốn của người sử dụng lao động, do vậy khi đánh giá hiệu quả sử dụng nhân lực cũng sử dụng yếu tố này.
Thu nhập bình quân
Của người lao động
Tổng quỹ lương = các thu nhập khác
= Số lao động bình quân
Năng suất lao động là hiệu quả có ích của lao động cụ thể của con người trong quá trình sản xuất . Mức năng suất của lao động được biểu hiện bằng số lượng của sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian lao động đã hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Từ đó năng suất lao động có nghĩa là người lao động sản xuất khối lượng sản phẩm nhiều hơn hoặc bằng một số lượng lao động hao phí ít hơn. Hay nói cách khác tăng năng suất lao động chính là nâng cao hiệu quả có ích của lao động cụ thể bằng cách thực hiện những sự cải tiến trong cách thức lao động, sao cho tổng số lao động hao phí để sản xuất ra trong đơn vị giảm xuống và số lượng sản phẩm sản xuất ra trong đơn vị thời gian tăng lên.
Năng suất lao động được nâng cao có tác động tích cực đến việc tăng thêm khối lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế. Mặt khác nhờ đó mà cải thiện điều kiện làm việc, cải thiện đời sống của công nhân viên chức trong doanh nghiệp.
Do vậy tăng năng suất lao động là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi xí nghiệp, mọi người lao động trong xí nghiệp kể cả những người làm công tác quản lý, công tác kỹ thuật đều có trách nhiệm nâng cao năng suất lao động của phân xưởng, của toàn xí nghiệp.
Mức năng suất lao động trong xí nghiệp được tính theo công thức tổng quát :
Năng suất lao động
Bình quân chung(W)
=
Khối lượng sản phẩm sản xuất ra(Q)
Lượng lao động đã hao phí (T)
Nhận xét: Nếu năng suất lao động cao sẽ phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là đang đi đúng hướng và gặp phải những thuận lợi nhất định trong hoạt động sản xuất và ngược lại.
1.3. Các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực và phương hướng cải thiện.
1.3.1. Các yếu tố quyết định, ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực ở doanh nghiệp SXCN.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Nhân lực là một yếu tố cấu thành nên hoạt động sản xuất. Việc sử dụng nhân lực là yếu tố mang tính quan trọng trong hoạt động sản xuất, nó quyết định tới năng suất và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Để sử dụng nhân lực có hiệu quả là vấn đề bất cứ doanh nghiệp nào cũng quan tâm, đây là yếu tố mang tính sống còn với bản thân doanh nghiệp. Với nguồn nhân lực hiện có doanh nghiệp phải cân đối tính toán đưa vào sử dụng như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất. Trong quá trình sử dụng nhân lực có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực, tuy nhiên có yếu tố ảnh hưởng nhiều, có yếu tố ảnh hưởng ít, có những yếu tố quyết định trực tiếp làm làm thay đổi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của một đơn vị, tổ sản xuất, phân xưởng, hoặc cả một doanh nghiệp. Những yếu ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực đó là:
* Yếu tố số lượng và chất lượng lao động:
Số lượng nhân lực của doanh nghiệp hiện có và huy động được để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm phân tích. Đây là nguồn nhân lực trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Để đánh giá yếu tố biến động lao động đến đâu hay như thế nào ta phải xem xét vào những nội dung như sau:
Trước tiên cần xem xét lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất . Tổng số lao động của doanh nghiệp thường được phân thành các loại sau đây:
+ Công nhân sản xuất: Bao gồm công nhân sản xuất trực tiếp và nhân viên sản xuất gián tiếp.
+ Công nhân viên ngoài sản xuất bao gồm : Nhân viên bán hàng và nhân viên quản lý.
Nhận xét: Thông qua các chỉ tiêu về nhân lực của doanh nghiệp cho thấy:
- Nếu nhân lực thực có của doanh nghiệp vừa đủ để đáp ứng nhu cầu hoạt động sản suất kinh doanh , đây sẽ là điều kiện thuân lợi cho việc sử dụng nhân lực của doanh nghiệp.
- Nếu một doanh nghiệp dù có khả năng sử dụng nhân lực tốt đến đâu, nhưng nhân lực thực có không đủ đáp ứng nhu cầu nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì chắc chắn việc sử dụng nhân lực của doanh nghiệp cũng không được thuận lợi. Được thể hiện theo quy luật cung cầu.
- Ngược lại nếu nhân lực thực có của doanh nghiệp lớn hơn nhu cầu nhân lực cần thiết phục vụ sản xuất của doanh nghiệp, có thể nói đây là điều kiện thuận lợi cho quá trình sử dụng nhân lực, nhưng lại là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến yêú tố lao động thì thừa ,công việc lại thiếu từ đó dẫn đến làm giảm hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, do thừa nguồn nhân lực so với thực tế cần dùng.
* chỉ tiêu thứ hai: Chất lượng nguồn nhân lực.
Nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp có chất lượng tốt hay xấu sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phân công nhân lực của doanh nghiệp, cụ thể:
+ Với một khối lượng công việc sản xuất nhất định, nếu nhân lực có chất lượng tốt sẽ là điều kiện thuận lợi để phân công nhân lực phù hợp và đảm bảo hoàn thành khối lượng công việc được phân công. Điều này sẽ là tiền đề thuận lợi cho việc phân công nguồn nhân lực của doanh nghiệp được thuận lợi.
+ Nếu nguồn nhân lực của doanh nghiệp có chất lượng không tốt, cũng cùng với khối lượng công việc sản xuất đã xác định sẽ là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến việc hoàn thành khối lượng công việc được phân công. Do vậy trong quá trình sản xuất phải phân công điều chuyển nguồn nhân lực bổ xung từ vị trí này sang vị trí khác, vì vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc bố trí và sử dụng nhân lực của doanh nghiệp không ổn định từ đó dẫn đến loãng phí về thời gian đi lại làm giảm năng suất trong lao động.
Trên thực tế cho thấy nếu một doanh nghiệp có chất lượng nhân lực tốt sẽ là điều kiện thuận lợi trong quá trình sử dụng nhân lực và là tiền đề để bố trí nhân lực trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thuận lợi.
* chỉ tiêu thứ ba: Trình độ nhân lực.
Trình độ nhân lực cũng là một yếu tố mang tính quyết định ảnh hưởng tới tình hình sử dụng nhân lực trong doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn sử dụng nhân lực có hiệu quả thì vấn đề đầu tiên phải thống kê đánh giá trình độ nhân lực của toàn xí nghiệp, phân loại theo trình độ đại học, trung cấp, công nhân kỹ thuật, thợ loa động lành nghề... Nếu trình độ nhân lực theo phân loại đạt thấp , không đáp ứng được yêu cầu thì dẫn đến việc sử dụng nhân lực bị hạn chế, năng suất chất lượng, hiệu quả kém.
* Chỉ tiêu thứ tư: Phân công lao động
Phân công lao động là một quá trình tách riêng các loại lao động khác nhau theo một tiêu thức nhất định trong một điều kiện xác định (Mà thực chất là chia quá trình sản xuất- Kinh doanh) thành các bộ phận tổ và giao cho mỗi cá nhân phù hợp với năng lực sở trường và đào tạo của họ.
Một yêu cầu chung của sự phân công lao động là phải đảm bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm sức lao động, phát huy tính chủ động và sáng tạo của mỗi người, tạo điều kiện duy trì và nâng cao khả năng làm việc lâu dài cũng như hứng thú của người lao động. đồng thời vẫn đảm bảo sử dụng có hiệu quả nhân lực của mình
Đảm bảo sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của phân công lao động với trình độ phát triển của kỹ thuật và công nghệ với yêu cầu khách quan của sản xuất.
Việc phân công lao động hợp lý sẽ là tiền đề để tổ chức sử dụng nhân lực có hiệu quả, đây là nhân tố quan trọng đảm bảo quá trình sử dụng nhân lực một cách thuận lợi.
Nếu một doanh nghiệp dù có nhân lực đầy đủ đến đâu nhưng nếu không quan tâm chú ý đến việc phân công lao động hợp lý thì ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tình hình sử dụng nhân lực của doanh nghiệp.
* Chỉ tiêu thứ 5 : trả công người lao động :
Tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một bộ phận của thu nhập quốc dân, được nhà nước trả cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động mà người đó đã cống hiến cho xã hội.
Tiền lương trong kinh tế thị trường được xem là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Hiện nay trong các doanh nghiệp thường áp dụng hình thức trả lương chính là: Trả lương theo sản phẩm và trả lương theo thời gian.
Để trả lương theo sản phẩm tốt thì cần phải có biện pháp cụ thể:
+ Xây dựng được định mức lao động có căn cứ khoa học điều này tạo điều kiện để tính toán các đơn giá trả lương chính xác;
+ Đảm bảo tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sẽ tạo điều kiện để hoàn thành vượt mức kế hoạch
+ Làm tốt công tác kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm nhằm đảm bảo sản phẩm được sản xuất ra đúng chất lượng đã quy định, tránh tình trạng chạy theo số lượng đơn thuần. Qua đó tiền lương sẽ được tính và trả đúng với kế haọch thực tế.
+ Giáo dục ý thức trách nhiệm cảu người alo động để họ vừa phấn đấu nâng cao năng suất lao động vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết kiệm vật tư nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả nhất máy móc thiết bị và các trang thiết bị khác.
Hình thức trả lương theo thời gian: Phải thực hiện bố trí đúng người đúng việc, theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện thời gian làm việc
Trong các doanh nghiệp ngoài hình thức trả lương còn áp dụng thực hiện chế độ tiền thưởng đây là khoản tiền bổ xung cho tiền lương nhằm quán triệt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động và nâng cao hiệu quả trong sử dụng lao động và trong sản xuất kinh doanh.
Nhận xét
Trong doanh nghiệp sản xuất muốn cạnh tranh được với các doanh nghiệp khác thì ngoài các biện pháp cụ thể nêu trên doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lượng hàng hoá bán ra, thực hiện tốt công tác tiếp thị, quảng cáo giới thiệu sản phẩm, cung cấp cho thị trường các sản phẩm tốt đạt tiêu chuẩn chất lượng. Để nâng cao sức cạnh tranh phải đưa ra các sản phẩm mới, hạ giá thành ở mức thị trường chấp nhận được. Đi đôi với công tác này, việc củng cố bộ máy tổ chức, củng cố nâng cao trình độ quản lý, nâng cao trình độ cho người lao động là rất quan trọng. Khi trình độ của người lao động được nâng lên thì sản phẩm làm ra đảm bảo đúng kỹ thuật, lợi nhuận xuất hiện .
Mặt khác để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải hạch toán kinh doanh tính đúng tính đủ các chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp cần có chiến lược đối với lao động, thường xuyên hoàn chỉnh quá trình sản xuất để tiếp cận với thị trường. Nếu có điều kiện nên có chế độ cử lao động đi công tác tại nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm, tiếp cận với các tiến bộ của khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất.
Doanh nghiệp cần phải tổ chức quản lý sao cho khoa học nhằm đảm bảo hoạt động sản xuất nhịp nhàng liên tục tạo bầu không khí làm việc thoải mái. Bố trí lao động hợp lý khoa học tiết kiệm được nguồn nhân lực giữa người và máy rất thuận tiện khi sử dụng, bỏ qua các động tác thừa. Trong cơ chế mới chủ doanh nghiệp không chỉ quan tâm tới chiến lược kinh doanh mà còn phải quan tâm tới chiến lược con người đúng đắn đồng nghĩa với việc tăng năng suất lao động, sử dụng lao động có hiệu quả đây cũng là mục tiêu các doanh nghiệp phải chú ý.
Qua vấn đề trên chúng ta có thể thấy quản lý và sử dụng nhân lực là khâu vô cùng quan trọng và không thể thiếu được. Trong một doanh nghiệp sự thành công hay thất bại của doanh nghiệp được đánh giá qua việc doanh nghiệp có quản lý và sử dụng nhân lực tốt hay không, mức độ chú trọng theo cách quản lý sử dụng của từng doanh nghiệp như thế nào. Người quản lý, sử dụng nhân lực trong một doanh nghiệp phải là người biết nhìn xa trông rộng, phải nắm vững chuyên môn về quản lý nguồn nhân lực, vận dụng thành thạo các kỹ năng, am hiểu tường tận về mục tiêu hoạt động của tổ chức, phải có tâm huyết đối với người lao động. Đồng thời phải biết sắp đặt nhân lực cho phù hợp với năng lực của từng người. Từ đó họ có thể phát huy hết khả năng của mình để hoàn thành công việc một cách nhanh nhất và hiệu quả nhất.
1.3.2. Phương hướng cải thiện tình hình sử dụng nhân lực trong doanh nghiệp SXCN.
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp được đặt trong sự cạnh tranh quyết liệt. Vì vậy để tồn tại và phát triển doanh nghiệp phải thường xuyên tìm cách nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình. Trong đó vấn đề mà các doanh nghiệp phải thực sự quan tâm đó là quản lý và sử dụng nhân lực. Để quản lý và sử dụng nhân lực một cách có hiệu quả các doanh nghiệp phải tìm ra được các biện pháp chủ yếu nhằm cải thiện tình hình sử dụng nhân lực ở doanh nghiệp.
+ Về số lượng lao động :
Căn cứ vào số lượng lao động thực có của doanh nghiệp đã được phân công ở các bộ phận như cán bộ quản lý, cán bộ nghiệp vụ, công nhân- nhân viên, để đánh giá xem tình hình sử dụng lao động của từng bộ phận đã hợp lý chưa, số lao động hiện có, có đảm bảo về số lượng và chất lượng theo yêu cầu không, bộ phận nào cần phải tuyển dụng thêm, bộ phận nào cần thiết phải đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ CNVC, thay thế cho số người về hưu, chuyển đi nơi khác… Cân đối giữa nhân lực thực có và nhu cầu nhân lực để từ đó có biện pháp xây dựng kế hoạch dự kiến về nhân lực.
+ Về phân công lao động :
Căn cứ vào nguồn lao động hiện có doanh nghiệp phải thực hiện thiết kế công việc chuẩn xác. Để phân công, bố trí lao động một cách hợp lý, khoa học. Trong quá trình sản xuất người lao động chỉ hoàn thành một phần công việc chế biến sản phẩm do đó cần phải phân chia công việc chính xác, bố trí lao động hợp lý vào các vị trí làm việc thích hợp. Việc bố trí lao động phải xem xét đến nhu cầu của sản xuất, đến năng khiếu, trình độ nghề nghiệp của mỗi người theo công việc chính, công việc phụ hoặc bố trí phân công lao động theo ngành nghề, trình độ phức tạp của công việc. Để từ đó người lao động phát huy được sở trường năng khiếu của mình. Việc phân công lao động hợp lý, khoa học trong doanh nghiệp là biện pháp cơ bản giúp cho doanh nghiệp sử dụng và quản lý nhân lực có hiệu quả, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, kinh doanh có lãi.
+ Về quản lý thời gian lao động:
Để sử dụng thời gian lao động có hiệu quả thì doanh nghiệp phải lập kế hoạch sử dụng thời gian lao động của công nhân, đưa ra số ngày làm việc bình quân của một công nhân sản xuất trong năm kế hoạch, theo dõi chặt chẽ giờ công của công nhân hàng ngày, dựa vào bảng chấm công ở các tổ sản xuất, các bộ phận theo dõi công tác của tổ, giấy báo ngừng việc và sổ tổng hợp thời gian lao động của công nhân trong xí nghiệp.
Trong quá trình sản xuất người lao động phải hao phí thời gian, việc nghiên cứu một cách có hệ thống tình hình sử dụng thời gian lao động nhằm xác định những hao phí thời gian có ích ( để quy định mức thời gian lao động) cũng như thời gian lãng phí ( để có biện pháp khắc phục). Do đó quản lý thời gian lao động là biện pháp cần thiết để sử dụng nhân lực có hiệu quả.
+ Chính sách tuyển dụng nhân lực. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp bình thường khi nào cũng thừa người không đảm bảo chất lượng và thiếu người đảm bảo chất lượng. Khi doanh nghiệp có kế hoạch kinh doanh cao hơn, quyết tâm chuẩn bị cho đầu tư tưong lai nhu cầu tuyển người càng lớn. Doanh nghiệp cần thiết phải có đội ngũ cán bộ có đủ trình độ năng lực đảm nhiệm nhũng công việc trọng yếu. Trong kinh tế thị trường doanh nghiệp loại trung và lớn cần phải có đội ngũ nghiên cứu triển khai mạnh có khả năng cung cấp cơ sở, căn cứ cho lãnh đạo quyết định và hướng dẫn triển khai về đổi mới sản phẩm, đổi mới công nghệ và đổi mới quản lý điều hành như vậy doanh nghiệp hàng năm có nhu cầu tuyển thợ lành nghề, chuyên môn, nghỉ chế độ đáp ứng nhu cầu trong việc sử dụng nhân lực của doanh nghiệp.
+ Chính sách đào tạo nhân lực.
* Đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, rèn luyện tay nghề, xây dựng phong cách lao động mới cho người lao động :
Đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên chức là vấn đề không kém phần quan trọng. Đào tạo về mặt kỹ thuật lao động sản xuất- kinh doanh và đào tạo về khả năng tiếp ứng các tác động quản lý, tham gia quản lý. Đào tạo về mặt kỹ thuật lao động phải thích hợp với trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ cơ giới hoá, tự động hoá trong sản xuất kinh doanh. Đào tạo và nâng cao trình độ cho công nhân trong điều kiện sản xuất công nghiệp phát triển là một việc làm vô cùng quan trọng và phức tạp đòi hỏi doanh nghiệp phải xây dựng kế hoạch đào tạo hợp lý, khoa học. Thực hiện đào tạo tại chỗ, đào tạo bằng cách cử đi học tại các trường, lớp tập huấn kiến thức, đào tạo tại nước ngoài… nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Xây dựng phong cách cho cán bộ công nhân viên chức tự giác trong lao động sản xuất hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
* Tổ chức hợp lý hoá chế độ làm việc nghỉ ngơi của cán bộ công nhân viên:
Người lao động khi tham gia vào quá trình lao động sản xuất sẽ bị tiêu hao sức lực, nếu lao động không có chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, khoa học sẽ không đem lại hiệu quả lao động, chất lượng cuộc sống thấp. Lao động cần được tổ chức một cách khoa học. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý là sự luân phiên một cách hợp lý giữa các kỳ làm việc và các kỳ nghỉ ngơi trên cơ sở phân tích khoa học khả năng làm việc và điều kiện lao động của người lao động Không có nghỉ ngơi, không có lao động sau đó. Nghỉ ngơi xen kẽ hợp lý với lao động là sự cần thiết.
Khi xây dựng chế độ nghỉ ngơi phải xác định tổng số thời gian nghỉ ngơi theo các yếu tố gây mệt, doanh nghiệp phải thực hiện xây dựng chế độ lao động và nghỉ ngơi cho một ca, cho một ngày đêm, cho một tuần, một năm. Chế độ làm việc và nghỉ ngơi hợp lý nhằm ngăn ngừa bảo vệ sức khoẻ cho người lao động, duy trì lâu dài kết quả lao động cao.
* Cải thiện môi trường lao động:
Môi trường lao động là tất cả những yếu tố mang tính chủ quan, khách quan tác động đến sức khoẻ, điều kiện làm việc của người lao động. Đầu tư cải thiện môi trường lao động góp phần tích cực đảm bảo đầu vào trong quá trình sản xuất kinh doanh để quá trình đó đạt hiệu quả cao, bền lâu. Cải thiện môi trường phải tập trung vào việc áp dụng công nghệ, kỹ thuật tiến bộ, hợp lý hoá chế độ phân công lao động về các mặt chủ động các yếu tố môi trường lao động, ngăn chặn sự lan toả các yếu tố bất lợi đến con người lao động. Cải thiện môi trường lao động gồm các nhóm yếu tố vi khí hậu, vệ sinh, thẩm mỹ và quan hệ xã hội, cải thiện bầu không khí tập thể Do vậy quan tâm tới vấn đề cải thiện môi trường là trách nhiệm của các nhà quản lý trong doanh nghiệp hiện nay.
* Trả công lao động:
Tiền lương dưới chủ nghĩa xã hội là một bộ phận của thu nhập quốc dân, được nhà nước trả cho người lao động căn cứ vào số lượng và chất lượng lao động mà người đó đã cống hiến cho xã hội.
Tiền lương trong kinh tế thị trường được xem là giá cả của sức lao động được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động.
Hiện nay trong các doanh nghiệp thường áp dụng hình thức trả lương chính là: Trả lương theo sản phẩm và trả lương theo thời gian.
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương căn cứ vào số lượng sản phẩm hoặc công việc được giao, do một lao động hoặc một nhóm ngưòi lao động thực hiện đã hoàn thành đảm bảo về số lượng, chất lượng theo theo quy định và đơn giá của một đơn vị sản phẩm hoặc một đơn vị công việc. Công thức tính tiền lương theo sản phẩm:
Tiền lương Đơn giá lương Số sản phẩm
= x
Theo sản phẩm của một SP thực hiện được
Hình thức trả lương này quán triệt đầy đủ hơn nguyên tắc trả luơng theo năng lực lao động, nó có tác dụng khuyến khích người lao động nâg cao ý thức trách nhiệm phát huy tính năng động sáng tạo để nâng cao năng xuất lao động mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị trong đó có quyền lợi trực tiếp của bản thân họ.
Để trả lương theo sản phẩm được tốt thì cần phải có biện pháp cụ thể như :
+ Xây dựng được định mức lao động có căn cứ khoa học điều này tạo điều kiện để tính toán các đơn giá trả lương chính xác;
+ Đảm bảo tổ chức và phục vụ tốt nơi làm việc sẽ tạo điều kiện để hoàn thành vượt mức kế hoạch
+ Làm tốt công tác kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm nhằm đảm bảo sản phẩm được sản xuất ra đúng chất lượng đã quy định, tránh tình trạng chạy theo số lượng đơn thuần. Qua đó tiền lương sẽ được tính và trả đúng với kế haọch thực tế.
+ Giáo dục ý thức trách nhiệm cho người lao động để họ vừa phấn đấu nâng cao năng suất lao động vừa đảm bảo chất lượng sản phẩm, đồng thời tiết kiệm vật tư nguyên liệu và sử dụng c._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7477.doc