LỜI MỞ ĐẦU.
Dù cho doanh nghiệp được tổ chức theo bất kỳ hình thức nào, kinh doanh trong bất kỳ lĩnh vực nào, các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cũng như nguyên tắc quản lý tài chính doanh nghiệp về cơ bản đều như nhau. Hiệu quả quản lý tài chính là một vấn đề trọng tâm quyết định hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính cũng có thể nói là một tập hợp khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép thu thập và xử lý các thông tin kinh tế. Phân tích tình hình tài chính khôn
65 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1318 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phân tích và đề xuất biện pháp cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong giai đoạn 2005-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g chỉ quan trọng đối với chủ doanh nghiệp nhằm đánh giá một cách toàn diện tình hình tài chính về hai mặt: hiệu quả và rủi ro… mà quan trọng đối với rất nhiều đối tượng có liên quan khác, giúp các doanh nghiệp ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tốt, giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định tài trợ chính xác. Chính vì vậy mà việc phân tích tài chính là rất cần thiết, nó giúp doanh nghiệp có thể nhận ra được điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi và khó khăn, tìm hiểu nguyên nhân và đề ra biện pháp khắc phục giúp tình hình tài chính của doanh nghiệp ngày một tốt hơn.
Do tính quan trọng của phân tích tài chính và qua thực tế nghiên cứu, tìm hiểu ở DN sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong, em quyết định chọn đề tài: “ Phân tích và đề xuất biện pháp cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong giai đoạn 2005-2007”. Đồ án của em gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết chung về tài chính doanh nghiệp
Chương 2: Giới thiệu doanh nghiệp và phân tích tình hình tài chính của DN
Chương 3: Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính của DN.
Đề tài phân tích tài chính là đề tài truyền thống, do đó nó không có tính chất mới mẻ như các đề tài khác, tuy nhiên nếu vận dụng vào doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong là một điều hết sức cần thiết để nhận định và phân tích tình hình tài chính của mình.
Để hoàn thành đồ án tốt nghiệp này em đã được sự hướng dẫn tận tình của tận tình của thầy giáo Vũ Việt Hùng cùng với sự giúp đỡ kế toán trưởng, phòng TC-KT của doanh nghiệp. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng đồ án của em chắc chắn không tránh được nhiều sai sót. Rất mong được sự phê bình, góp ý của các thầy cô và các bạn để đồ án của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo thạc sỹ Vũ Việt Hùng và toàn thể các anh chị ở DN sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong đã giúp em hoàn thành đồ án tốt nghệp này.
Sinh viên thực hiện
Đào Thị Bình
Đặt vấn đề:
Sau một năm gia nhập WTO nền kinh tế Việt Nam đã có một diện mạo mới, một khởi sắc mới đang đón chờ tất cả các doanh nghiệp, các công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và cả những doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh thương mại. Tuy nhiên với những cơ hội mới, thuận lợi mới bao giờ cũng có những thách thức mới. Vì vậy đứng trước những cơ hội và thách thức mới thì tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế nước ta cần không ít nỗ lực để không những tồn tại mà còn phát triển hơn nữa khi nền kinh tế mở rộng ra với toàn cầu. Trong cuộc chạy đua của các doanh nghiệp thì vấn đề đòi hỏi được đặt ra với mọi người là nỗ lực hết mình để cùng doanh nghiệp của mình có chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Cùng với đó là sự chuẩn bị kỹ lưỡng, chu đáo và sự cần thiết đặc biệt quan trọng của hệ thống kế toán tài chính của mỗi doanh nghiệp.
Ngoài ra, thực tế cho thấy thông thường những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh có hiệu quả là những doanh nghiệp có công tác phân tích tài chính được tiến hành thường xuyên, có nề nếp, ngày nay ở Việt Nam việc phân tích tài chính của doanh nghiệp là một phần rất quan trọng, đóng góp vào sự phát triển bền vững và lâu dài của doanh nghiệp.
Trong xu hướng phát triển đó, doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong đã liên tục đổi mới chính mình để không những theo kịp mà còn khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong nền kinh tế Việt Nam. Với thế mạnh sẵn có của mình là sản xuất và kinh doanh, ngày nay, doanh nghiệp đã có những bước chuyển mình rất đáng kể để không những thực hiện tốt thế mạnh của mình là sản xuất mà còn phát triển để mở rộng thị trường. Cùng với đó là công tác phân tích tài chính đã được triển khai và dần đang đi đúng hướng, trở thành một công cụ rất quan trọng cho doanh nghiệp trong công tác tổ chức và triển khai sản xuất, kinh doanh trong từng thời kỳ, giúp cho doanh nghiệp định hướng và ngày càng trở thành một doanh nghiệp kinh tế mạnh hội nhập với nền kinh tế nước nhà trong thời kỳ mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu của mình là: “ Phân tích và đề xuất biện pháp cải thiện tình hình tài chính tại doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong giai đoạn 2005 – 2007”
2. Phạm vi nghiên cứu :
Phân tích tài chính là một công việc rất quan trọng trong khâu quản lý tài chính của doanh nghiệp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực như kế toán, tài chính, pháp luật và các chính sách quản lý tài chính của Nhà nước. Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu trong một doanh nghiệp, đó là doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong.
3. Mục tiêu nghiên cứu :
Tìm hiểu thực trạng tài chính và công tác phân tích tài chính của doanh nghiệp.
Vận dụng cơ sở lý luận đã được học để thực hiện công việc phân tích tài chính cho năm 2005 - 2007
Từ đó đưa ra các phương hướng cải thiện vị thế tài chính cho doanh nghiệp trong những năm tiếp theo.
4. Phương pháp nghiên cứu :
4.1 Các tài liệu nghiên cứu :
- Nhóm tài liệu nghiên cứu liên quan tới phương pháp nghiên cứu khoa hoc.
- Nhóm tài liệu về kế toán tài chính và kế toán quản trị doanh nghiệp.
- Các tài liệu về văn bản pháp luật liên quan tới doanh nghiệp.
- Nhóm tài liệu về tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp.
4.2 Các phương pháp nghiên cứu :
* Phương pháp quan sát: Được sử dụng để nắm vững tình hình công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Thông qua việc trao đổi với các cán bộ kế toán tài chính và các ban khác có liên quan của doanh nghiệp để hiểu rõ được cơ chế tài chính và công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
* Phương pháp điều tra: Thực hiện công việc thu thập các số liệu liên quan tới công tác kế toán tài chính và phân tích tài chính của doanh nghiệp.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Đề tài tổng hợp lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp.
Đề tài vận dụng các lý luận đó, để thực hiện phân tích tài chính cho doanh nghiệp.
6. Cấu trúc của đồ án :
Đồ án được tiến hành theo các phần như sau :
PHẦN MỞ ĐẦU.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU DN VÀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DN
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DN
PHẦN KẾT LUẬN
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ PHÂN TÍCH VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP
1. Cở sở lý thuyết về phân tích tài chính Doanh nghiệp
1.1. Các khái niệm cơ sở
Hoạt động tài chính doanh nghiệp:
Tài chính doanh nghiệp là các mối liên hệ phát sinh trong quá trình hình thành, phát triển và biến đổi vốn dưới hình thức có liên quan trực tiếp đến hiệu qủa sản xuấ kinh doanh của doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh doanh và có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp. Ngược lại tình hình tài chính tốt hay xấu lại có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó trước khi lập kế hoạch tài chính doanh nghiệp, cần phải nghiên cứu báo cáo tài chính của kỳ thực hiện. Các báo cáo tài chính được soạn thảo theo định kỳ phản ánh một cách tổng quát và toàn diện về tình hình tài sản, nguồn vốn, kết quả kinh doanh… Bằng các chỉ tiêu giá trị, nhằm mục đích thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp cho người lãnh đạo và bộ phận tài chính của doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp mình, chuẩn bị căn cứ để lập kế hoạch cho tương lai.
Nhưng tất cả các số liệu của kỳ thực hiện là những tài liệu có tính chất lịch sử và chưa thể thực hiện hết những nội dung mà những người quan tâm đòi hỏi. Vì vậy người ta phải dùng kỹ thuật phân tích để thuyết minh các mối quan hệ chủ yếu, giúp cho các nhà kế hoạch dự báo và đưa ra các quyết định tài chính tương lai, bằng cách đánh giá so sánh, xem xét xu hướng dựa trên các thông tin có tính chất lịch sử đó.
1.2. Các mối quan hệ tài chính chủ yếu của doanh nghiệp:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với nhà nước.
Đó là những quan hệ về cấp phát vốn đối với nhà nước, các khoản thuế, lệ phí nộp nhà nước với mọi loại hình doanh nghiệp. Những quan hệ này được giới hạn trong khuân khổ của luật định.
- Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính:
Doanh nghiệp thực hiện quá trình trao đổi, mua bán sản phẩm tài chính nhằm thỏa mãn nhu cầu về vốn của mình. Đối với thị trường tiền tệ, thông qua thị trường liên ngân hàng các doanh nghiệp có thể tạo được nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho hoạt động kinh doanh. Đối với thị trường vốn, doanh nghiệp có thể tạo nguồn vốn dài hạn bằng cách tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với thị trường khác:
Doanh nghiệp quan hệ với các doanh nghiệp khác, các tổ chức kinh tế thông qua thị trường với tư cách là chủ thể hoạt động kinh doanh. Doanh nghiệp quan hệ với thị trường cung cấp đầu vào và thị trường phân phối tiêu thụ sản phẩm đầu ra ( Thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường sức lao động). Thông qua các thị trường này doanh nghiệp có thể xác định nhu cầu về sản phẩm và dịch vụ cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định năng lực đầu tư tìm nguồn vốn tài trợ kế hoạch sản xuất, marketing nhằm thỏa mãn nhu cầu thị trường, không ngừng ổn định và phát triển doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp.
Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp là sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp: Quan hệ tài chính giữa các bộ phận sản xuất với nhau, giữa các cổ đông với nhà quản lý, giữa cổ đông với chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn với quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thông qua hàng loạt các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách phân phối thu nhập, chính sách đầu tư và cơ cấu đầu tư, chính sách cơ cấu vốn….
1.3.Mục tiêu, nhiệm vụ, ý nghĩa của phân tích tài chính Doanh nghiệp:
Mục tiêu:
Nhận dạng những điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi, khó khăn về mặt tài chính theo các tiêu chí:
- Hiệu quả tài chính (Khả năng sinh lợi và khả năng quản lý tài sản);
- Rủi ro tài chính (Công nợ và các khoản phải thu, khả năng thanh toán, khả năng quản lý nợ);
- Tổng hợp hiệu quả và rủi ro tài chính (Cân đối tài chính, các đòn bẩy và đẳng thức Du Pont);
- Tìm hiểu, giải thích các nguyên nhân đứng sau thực trạng đó và đề xuất giải pháp cải thiện vị thế tài chính của doanh nghiệp.
Ý nghĩa phân tích tài chính:
Phân tích tài chính là một phương pháp đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay, cũng như dự đoán tình hình tài chính trong tương lai, đồng thời đưa ra biện pháp để cải thiện tình hình tài chính và dần đưa đến hoàn thiện tình hình tài chính doanh nghiệp. Không những thế phân tích tài chính còn cung cấp những thông tin giúp cho nhà quản lý đánh giá được hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Phân tích tài chính là công cụ không thể thiếu trong công tác quản lý, không chỉ có ý nghĩa thiết thực với hoạt động sản xuất kinh doanh, nhằm đánh giá toàn diện tình hình tài chính, khả năng sinh lời, cách thức lựa chọn và quản lý nguồn vốn để đưa ra các quyết định tài chính và các quyết định đầu tư, đánh giá chính xác khả năng hoàn trả nợ vay...
Nhiệm vụ phân tích:
Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
- Đánh giá thực trạng của hoạt động tài chính trên các mặt: Đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh, quản lý và phân phối vốn, tình hình và hiệu quả sử dụng vốn, tình hình và khả năng thanh toán của doanh nghiệp, khả năng và tính chắc chắn của các dòng tiền ra, vào doanh nghiệp...
- Xác định rõ các nhân tố và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài chính của doanh nghiệp cũng như những nguyên nhân gây nên tình trạng biến động của các nhân tố trên;
- Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp tích cực nhằm nâng cao hơn hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phương pháp phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp:
Phương pháp so sánh:
Đây là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh doanh và thường được thực hiện ở bước khởi đầu việc phân tích. Việc sử dụng phương pháp so sánh nhằm mục đích:
- Đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ kế hoạch mà doanh nghiệp đã đặt ra bằng cách so sánh giữa trị số của chỉ tiêu kỳ thực tế so với trị số của chỉ tiêu kỳ kế hoạch.
- Đánh giá tốc độ, xu hướng phát triển của hiện tượng và kết quả kinh tế thông qua việc so sánh giữa kết quả kỳ này so với kết quả kỳ trước.
- Đánh giá mức độ tiên tiến hay lạc hậu của đơn vị bằng cách so sánh kết quả của các bộ phận hay của đơn vị thành viên với kết quả trung bình của tổng thể hoặc so sánh giữa kết quả của đơn vị này với kết quả của đơn vị khác có cùng quy mô hoạt động, trong cùng một lĩnh vực hoạt động.
Tuy nhiên, cần chú ý, khi thực hiện phép so sánh thì hai số liệu đưa ra phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Cùng nội dung kinh tế.
- Phải thống nhất về phương pháp tính;
- Phải cùng một đơn vị đo lường và phải được thu thập trong cùng mật độ thời gian;
- Ngoài ra, các chỉ tiêu cần phải quy đổi về cùng một quy mô và điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Về kỹ thuật so sánh có thể so sánh bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối hay so sánh bằng số bình quân:
+ So sánh bằng số tuyệt đối: Là kết quả cho phép trừ giữa trị số của chỉ tiêu kỳ phân tích so với trị số của chỉ tiêu kỳ gốc. Kết quả so sánh biểu hiện khối lượng, quy mô biến động của các chỉ tiêu kinh tế.
+ So sánh bằng số tương đối: Là kết quả của phép chia giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc của các chỉ tiêu kinh tế hoặc giữa trị số của kỳ phân tích so với kỳ gốc đã được điều chỉnh theo tỷ lệ hoàn thành kế hoạch của chỉ tiêu có liên quan theo hướng quyết định quy mô chung của nhóm chỉ tiêu phân tích.
Phương pháp thay thế liên hoàn:
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng để xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh tế khi các nhân tố ảnh hưởng này có quan hệ tích hoặc thương số với chỉ tiêu kinh tế. Phương pháp thay thế liên hoàn được thực hiện theo nội dung và trình tự sau đây:
- Thứ nhất, các công thức phản ánh mối liên hệ giữa các nhân tố đến các chỉ tiêu kinh tế.
- Thứ hai, sắp xếp các nhân tố theo một trật tự nhất định và không đổi trong quá trình phân tích. Theo quy ước, các nhân tố số lượng được xếp đứng trước nhân tố chất lượng, nhân tố hiện vật xếp trước nhân tố giá trị. Trong trường hợp có nhiều nhân tố số lượng cùng ảnh hưởng thì sắp các nhân tố chủ yếu trước các nhân tố thứ yếu.
- Thứ ba, xác định đối tượng phân tích: Đối tượng phân tích là mức chênh lệch giữa chỉ tiêu kỳ phân tích với chỉ tiêu kỳ gốc.
- Thứ tư, xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố: ở bước này, ta lần lượt thay thế số kế hoạch của mỗi nhân tố bằng số thực tế. Sau mỗi lần thay thế, lấy kết quả mới tìm được trừ đi kết quả mới trước đó. Kết quả cho phép trừ này là ảnh hưởng của nhân tố được thay thế.
- Thứ năm, tổng hợp ảnh hưởng của các nhân tố. Tổng mức độ ảnh hưởng của các nhân tố được xác định phải bằng đối tượng phân tích.
Phương pháp phân tích Dupont:
Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như tỷ suất sinh lợi tài sản (ROA), tỷ suất sinh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Từ đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp.
Nguồn tài liệu phân tích tình hình tài chính Doanh nghiệp
Bảng cân đối kế toán: Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ánh tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo hai cách đánh giá là tài sản và nguồn hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo. Các chỉ tiêu của bảng cân đối kế toán được phản ánh dưới hình thái giá trị và theo nguyên tắc cân đối là tổng tài sản bằng tổng nguồn vốn.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một bản báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tình hình và kết quả kinh doanh theo từng loại hoạt động của doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp về phương thức kinh doanh, về việc sử dụng tiềm năng vốn, lao động, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp, và chỉ ra các hoạt động kinh doanh đó có đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng lỗ vốn. Đây là báo cáo tài chính được các nhà lập kế hoạch quan tâm, vì nó cấp được số liệu về hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp đã thực hiện trong kỳ. Nó còn được coi như là một bản hướng dẫn để dự báo xem doanh nghiệp ra sao trong tương lai.
Thuyết minh báo cáo tài chính: Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành của hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp, được lập để giải thích hoặc bổ xung thêm thông tin về tình hình hoạt động, sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo mà các báo cáo tài chính khác không thể trình bày rõ về chi tiết được.
1.4. Nội dung phân tích tài chính
1.4.1. Đánh giá khái quát về tình hình tài chính
Phân tích cơ cấu tài sản:
Phân tích kết cấu tài sản là đánh giá sự biến động của các bộ phận cấu thành tổng tài sản của một doanh nghiệp.
Mục đích của việc phân tích này là:
Để tìm hiểu sự hợp lý trong phân bổ và sử dụng tài sản, từ đó đề ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản.
Đánh giá một cách tổng quát quy mô, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Khi phân tích cần xem xét tỷ suất đầu tư trang thiết bị tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Tỷ suất đầu tư được xác định theo công thức:
Tỷ suất đầu tư =
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn
Tổng tài sản
Việc đầu tư chiều sâu, mua sắm trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài. Tỷ suất này tăng lên chứng tỏ năng lực sản xuất có xu hướng tăng lên. Nếu các nhân tố khác không thay đổi thì đây là một dấu hiệu tích cực của doanh nghiệp.
Phân tích cơ cấu nguồn vốn:
Nguồn vốn phản ánh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo.
Trên bảng cân đối kế toán, cơ cấu của từng nguồn vốn trong tổng nguồn vốn phản ánh trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với các khoản vốn mà doanh nghiệp đang quản lý và sử dụng.
Mục đích của việc phân tích nguồn vốn là:
Phân tích khả năng tự tài trợ, phân tích khả năng chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp.
Qua đó đánh giá sự biến động của các loại nguồn vốn ở một doanh nghịêp (so sánh giá trị của tổng nguồn vốn và từng loại nguồn vốn qua mỗi kỳ).
Để thấy được tình hình huy động và sử dụng các loại nguồn vốn của doanh nghiệp.
Phân tích các cân đối tài chính:
Mối quan hệ cân đối giữa tài sản với nguồn vốn thể hiện:
Sự tương quan về cơ cấu vốn và giá trị của các tài sản của doanh nghiệp.
Đồng thời cũng phản ánh tương quan về chu kỳ luân chuyển tài sản và chu kỳ thanh toán nguồn vốn.
Và do vậy góp phần phản ánh khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Mối quan hệ cân đối này giúp nhà phân tích đánh giá được sự hợp lý giữa nguồn vốn huy động và việc sử dụng chúng trong đầu tư, mua sắm, dự trữ.
Tài sản
Nguồn vốn
- Vốn bằng tiền
Nợ ngắn hạn:
+ Phải trả
+ Vay ngắn hạn
Vốn dài hạn:
+ Nợ dài hạn
+ Vốn chủ sở hữu
- Đầu tư tài chính ngắn hạn
- Khoản phải thu
- Hàng tồn kho
- Tài sản lưu động khác
- Tài sản cố định
- Đầu tư tài chính dài hạn
- Xây dựng cơ bản dở dang
- Ký quỹ, ký cược dài hạn
Nếu tài sản ngắn hạn lớn hơn nợ ngắn hạn:
Hợp lý, doanh nghiệp giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn, sử dụng đúng mục đích nợ ngắn hạn. Đảm bảo nguyên tắc tài trợ về sự hài hoà kỳ hạn giữa nguồn vốn và tài sản ngắn hạn.
Ngược lại nếu tài sản ngắn hạn nhỏ hơn nợ ngắn hạn:
Doanh nghiệp không giữ vững quan hệ cân đối giữa tài sản ngắn hạn với nợ ngắn hạn. Xuất hiện dấu hiệu doanh nghiệp đã sử dụng một phần nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ cho tài sản dài hạn.
Mặc dù nợ ngắn hạn có thể do chiếm dụng hợp pháp hoặc có mức lãi thấp hơn lãi nợ dài hạn. Tuy nhiên, chu kỳ luân chuyển tài sản khác với chu kỳ thanh toán có thể dẫn đến những vi phạm nguyên tắc tín dụng và một hệ quả tài chính xấu hơn có thể xảy ra.
Nếu tài sản dài hạn lớn hơn nợ dài hạn:
Và phần thiếu hụt được bù đắp từ vốn chủ sở hữu thì điều này là hợp lý, doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích nợ dài hạn và cả vốn chủ sở hữu.
Nhưng nếu như phần thiếu hụt được bù đắp bằng nợ ngắn hạn thì điều này là bất hợp lý như trình bày ở phần cân đối tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn.
Nếu phần tài sản dài hạn nhỏ hơn nợ dài hạn:
Một phần nợ dài hạn đã được sử dụng để tài trợ tài sản ngắn hạn.
Hiện tượng này vừa lãng phí lãi vay nợ dài hạn vừa thể hiện sử dụng sai mục đích nợ dài hạn.
Dẫn tới lợi nhuận kinh doanh giảm và rối loạn tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích doanh thu:
Doanh thu bán sản phẩm và dịch vụ từ hoạt động kinh doanh là tiền bán sản phẩm, hàng hoá sau khi đã trừ các khoản tiền chiết khấu bán hàng, giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại (có chứng từ hợp lệ), thu từ phần nợ giá của nhà nước nếu doanh nghiệp có cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo yêu cầu của Nhà nước.
Doanh thu hoạt động tài chính là doanh thu từ hoạt động mua bán trái phiếu, tín phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, góp vốn liên doanh, thu lãi tiền gửi.
Doanh thu khác là các khoản thu nhập khác, lãi các khoản thu tiền mặt….
Phân tích chi phí:
Phân tích chỉ tiêu chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thường được tiến hành bằng cách so sánh tăng giảm chi phí so với kỳ trước hoặc kỳ kế hoạch, hoặc so với chỉ số trung bình ngành. So sánh có thể được tiến hành theo chỉ tiêu tổng chi phí, hoặc chi phí bình quân, hoặc tỷ trọng phí, theo từng khoản mục hoặc từng thành phần phí hoặc theo từng đơn vị bộ phận trực thuộc hoặc trung bình toàn doanh nghiệp. Để có thể nhận định được sự thay đổi chi phí luôn cần đặt chúng trong mối quan hệ với khối lượng, sản lượng hàng hoá tiêu thụ. Khi so sánh, nếu thay đổi chi phí có xu hướng dẫn tới làm tăng mức chi phí bình quân hoặc làm tỷ trọng phí thì cần đặt dấu hỏi và phân tích sâu hơn nguyên nhân kinh tế, kỹ thuật liên quan.
Phân tích lợi nhuận:
Lợi nhuận của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của bộ phận sản phẩm thặng dư do kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mang lại.
Lợi nhuận là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh kết quả của quá trình sản xuất kinh doanh.
Mục đích của phân tích lợi nhuận là:
Đánh giá số lượng và chất lượng hoạt động của doanh nghiệp, kết quả sử dụng các yếu tố sản xuất về tiền vốn, lao động, vật tư...
So sánh lợi nhuận thực hiện, lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận các kỳ trước (tháng, quý, năm), qua đó thấy được mức độ tăng giảm của lợi nhuận từ các hoạt động.
Đánh giá tổng quát về tình hình thực hiện kế hoạch của doanh nghiệp.
Đồng thời chúng ta cũng cần phải xem xét tỷ trọng về lợi nhuận của từng loại hoạt động trong tổng lợi nhuận chung của doanh nghiệp để có cái nhìn toàn vẹn hơn.
Nội dung phân tích lợi nhuận bao gồm:
Đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch lợi nhuận của từng bộ phận và của toàn doanh nghiệp.
Nhận dạng những nguyên nhân, xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình biến động lợi nhuận.
Phân tích tình hình lãi suất chung: Tỷ suất lợi nhuận tính trên lãi suất bán ra được xác định theo công thức:
Tỷ suất lợi nhuận =
Lợi nhuận
Doanh thu
Chỉ tiêu này cho biết với một trăm đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Đề ra các biện pháp khai thác khả năng tiềm tàng nhằm không ngừng nâng cao lợi nhuận.
1.4.2 Phân tích hiệu quả tài chính.
1.4.2.1. Phân tích khả năng quản lý tài sản:
+ Là đánh giá hiệu suất, cường độ sử dụng (mức độ quay vòng) và mức sản xuất của tổng tài sản trong năm,
+ Là trả lời câu hỏi một đồng tài sản có thể tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu?
a. Vòng quay tổng tài sản
Một đồng tài sản góp phần tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu?
Vòng quay TTS =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
- Đánh giá tổng hợp khả năng quản lý tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp.
- Vòng quay tổng tài sản cao chứng tỏ các tài sản của doanh nghiệp có chất lượng cao, được tận dụng đầy đủ không bị nhàn rỗi và không bị giam giữ trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh.
- Vòng quay tổng tài sản cao là cơ sở tốt để có lợi nhuận cao.
- Vòng quay tổng tài sản thấp là do yếu kém trong quản lý tài sản cố định, quản lý tiền mặt, quản lý khoản phải thu, chính sách bán hàng, quản lý vật tư, quản lý sản xuất, quản lý bán hàng.
Vòng quay tài sản cố định (TSCĐ):
Một đồng tài sản cố định góp phần tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu?
Vòng quay TSCĐ =
Doanh thu thuần
TSCĐ bình quân
- Vòng quay TSCĐ càng cao chứng tỏ tài sản cố định có chất lượng cao, được tận dụng đầy đủ, không bị nhàn rỗi và phát huy hết công suất.
- Vòng quay TSCĐ cao là có cơ sở tốt để có lợi nhuận cao nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí sản xuất.
- Vòng quay TSCĐ cao là một điều kiện quan trọng để sử dụng tốt tài sản lưu động.
- Vòng quay TSCĐ thấp là do nhiều TSCĐ không hoạt động, chất lượng tài sản kém, hoặc không hoạt động hết công suất.
Vòng quay tài sản lưu động (TSLĐ):
Một đồng tài sản lưu động góp phần tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu?
Vòng quay TSLĐ =
Doanh thu thuần
TSLĐ bình quân
- Vòng quay TSLĐ cao chứng tỏ tài sản lưu động có chất lượng cao, được tận dụng đầy đủ không bị nhàn rỗi và không bị giam giữ trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Vòng quay TSLĐ cao là cơ sở tốt để có lợi nhuận cao nhờ tiết kiệm được chi phí và giảm được lượng vốn đầu tư.
- Vòng quay TSLĐ thấp do tiền mặt nhàn rỗi, thu hồi khoản phải thu kém, chính sách bán chịu quá rộng rãi, quản lý vật tư không tốt, quản lý sản xuất không tốt, quản lý bán hàng không tốt.
d.Vòng quay hàng tồn kho:
Một đồng vốn đầu tư vào hàng tồn kho góp phần tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu?
Vòng quay hàng tồn kho =
Doanh thu thuần
HTK bình quân
- Số chu kỳ sản xuất được thực hiện trong vòng một năm.
- Vòng quay hàng tồn kho cao là cơ sở tốt để có lợi nhuận cao nếu doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trên cở sở sử dụng tốt các tài sản khác.
- Vòng quay hàng tồn kho thấp là do quản lý vật tư, tổ chức sản xuất cũng như tổ chức bán hàng chưa tốt.
Kì thu nợ bán chịu:
Kỳ thu nợ =
Phải thu x 360
Doanh thu
- Kì thu nợ dài phản ánh chính sách bán chịu táo bạo, có thể là dấu hiệu tốt nếu tăng tốc độ doanh thu lớn hơn tốc độ tăng khoản phải thu. Nếu vận động đúng, chính sách bán chịu là một công cụ tốt để mở rộng thị phần và để tăng doanh thu.
- Kì thu nợ dài có thể do yếu kém trong việc thu hồi khoản phải thu, doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn, khả năng sinh lời thấp.
- Kì thu nợ ngắn có thể do khả năng thu hồi khoản phải thu tốt, doanh nghiệp ít bị chiếm dụng vốn, lợi nhuận có thể cao.
- Kì thu nợ ngắn có thể do chính sách bán chịu quá chặt chẽ, dẫn tới đánh mất cơ hội bán hàng và cơ hội mở rộng sản xuất kinh doanh.
1.4.2.2 Phân tích khả năng sinh lời:
Khả năng sinh lời phản ánh năng lực kinh doanh, là điều kiện tiền đề cho tương lai, cho phép doanh nghiệp đánh giá được tình trạng tiềm năng tăng trưởng. Qua phân tích giúp doanh nghiệp điều khiển lại, cơ cấu lại cơ cấu tài chính và hoạch định chiến lược ngăn ngừa rủi ro ở mức tốt nhất, cũng như hướng tăng trưởng trong tương lai.
Phân tích tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (lợi nhuận biên) ROS:
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ROS =
LN sau thuế
Doanh thu thuần
Chỉ số này cho biết trong một trăm đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lãi cho chủ sở hữu.
Phân tích tỷ suất sinh lợi tài sản, ROA:
ROA =
LN trước lãi vay và thuế
Tổng tài sản bình quân
- Chỉ số này cho biết một trăm đồng vốn đầu tư vào doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lãi cho chủ sở hữu.
Phân tích tỷ suất thu hồi vốn chủ sở hữu, ROE:
ROE =
LN sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
- Chỉ số này cho biết một trăm đồng vốn chủ sở hữu đầu tư vào doanh nghiệp góp phần tạo ra bao nhiêu đồng lãi cho chủ sở hữu.
Đây là chỉ số tài chính quan trọng nhất và thiết thực nhất đối với chủ sở hữu
1.4.3. Phân tích rủi do tài chính
1.4.3.1 Phân tích tình hình công nợ và khoản phải thu:
Để đánh giá mối quan hệ giữa các khoản phải thu và các khoản phải trả, ta cần xem xét tổng số tiền thu so với tổng số tiền phải trả.
Mức độ doanh nghiệp sử dụng vốn trong kinh doanh:
Hệ số công nợ =
Các khoản phải thu
Các khoản phải trả
Nếu các khoản phải thu lớn hơn các khoản phải trả có nghĩa là doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn. Và ngược lại thì có nghĩa là doanh nghiệp đang chiếm dụng vốn của người khác. Chiếm dụng vốn và bị chiếm dụng vốn trong hoạt động kinh doanh là bình thường tuy nhiên cần phải xem xét tình hình hợp lý để có biện pháp quản lý công nợ được tốt hơn.
1.4.3.2 Phân tích khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán của doanh nghiệp cho biết năng lực tài chính trước mắt và lâu dài của doanh nghiệp. Do vậy phân tích khả năng thanh toán của doanh nghiệp sẽ cho phép nhà quản lý đánh giá được sức mạnh tài chính hiện tại, tương lai cũng như dự đoán được tiềm lực thanh toán và sự an toàn của tài chính doanh nghiệp
a. Khả năng thanh toán tổng quát:
Chỉ số thanh toán tổng quát =
Tổng tài sản
Tổng nợ
Chỉ số khả năng thanh toán tổng quát phản ánh một cách chung nhất khả năng doanh nghiệp chi trả các khoản nợ như thế nào? ( Là khả năng chuyển đổi các tài sản thành tiền trong khoảng thời gian ngắn, qui thành 1 chu kỳ kinh doanh dưới 1 năm)
Các chỉ số khả năng thanh toán:
Khả năng thanh toán hiện hành =
TSLĐ
Nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán hiện thời cao tức là khả năng thanh toán nợ đến hạn tốt, kết luận này không chắc chắn vì nó không tính đến kết cấu của tài sản lưu động, Rõ ràng nều doanh nghiệp có nhiều tiền mặt và khoản phải thu sẽ được đánh giá là có khả năng cao hơn các doanh nghiệp có nhiều hàng tồn kho.
Khả năng thanh toán nhanh =
Tài sản lưu động – hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn
Ngay cả khi khả năng thanh toán nhanh rất cao song tỷ trọng khoản phải thu lớn và khoảng thời gian thu tiền của các khoản phải thu dài doanh nghiệp vẫn gặp khó khă._.n trong việc thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Khả năng thanh toán tức thời =
Tiền
Nợ ngắn hạn
Tóm lại khả năng thanh toán của doanh nghiệp mà cao thì rủi ro thanh toán sẽ thấp, tuy nhiên lợi nhuận có thể thấp vì khoản phải thu nhiều và hàng tồn kho nhiều.
Khả năng thanh toán mà thấp thì rủi ro thanh toán cao, xong lợi nhuận có thể cao vì tài sản lưu động sử dụng có hiệu quả, nguồn vốn đầu tư vào tài sản lưu động nhỏ, ROA và ROE có thể tăng.
Chỉ số khả năng thanh toán lãi vay:
Khả năng thanh toán lãi vay =
EBIT
Lãi vay
- Chỉ số này cho biết một đồng lãi vay đến hạn được che chở bởi nhiều đồng lợi nhuận trước lãi vay và thuế EBIT.
- Lãi vay là một trong các nghĩa vụ ngắn hạn rất quan trọng của doanh nghiệp.
- Mất khả năng thanh toán lãi vay có thể làm giảm uy tín đối với chủ nợ, tăng rủi ro và nguy cơ phá sản của doanh nghiệp.
1.4.3.3 Phân tích khả năng quản lý vốn vay
Mức độ doanh nghiệp sử dụng vốn trong kinh doanh:
Tỷ số nợ =
Tổng nợ
Tổng tài sản
Tỷ số nợ càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng nhiều vốn vay trong cơ cấu vốn. Đây là một cơ sở để có lợi nhuận cao. Tỷ số nợ cao cũng thể hiện doanh nghiệp có uy tín đối với các chủ nợ. Tuy nhiên, tỷ số nợ cao lại làm cho khả năng thanh toán của doanh nghiệp giảm, tăng rủi ro của doanh nghiệp.
1.4.4.Phân tích tổng hợp tình hình tài chính :
Đẳng thức dupont tổng hợp:
Công ty Dupont là công ty đầu tiên ở Mỹ sử dụng các mối quan hệ tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính chủ yếu để phân tích các chỉ số tài chính, vì vậy phương pháp này còn có tên là phương pháp phân tích tài chính Dupont.
Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét các mối quan hệ tương tác giữa hệ số sinh lợi doanh thu với hiệu suất sử dụng tổng tài sản (ROA).
Khi phân tích ROA cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận trước lãi vay và thuế của doanh nghiệp. Tiếp theo, chúng ta xem xét tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được tạo thành bởi các mối quan hệ giữa tỷ số tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu. Trên cơ sở đó nhà quản trị đưa ra các giải pháp phù hợp để đem lại lý lợi nhuận cho doanh nghiệp.
ROA =
LN trước lãi vay và thuế
=
LN trước lãi vay và thuế
x
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bq
ROE =
LN sauthuế
=
LN sau thuê
x
Doanh thu thuần
x
Tổng tài sản bq
Vốn chủ sở hữu bq
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bq
Vốn chủ sở hữu bq
ROE =
ROS x
VQTTS x
Tổng tài sản bq
Vốn chủ sở hữu bq
- ROE phụ thuộc vào ba nhân tố lợi nhuận trước lãi vay và thuế/doanh thu thuần, vòng quay tổng tài sản và tỷ số Tổng tài sản bình quân/Vốn chủ sở hữu bình quân. Các nhân tố này có thể ảnh hưởng trái chiều đối với ROE.
- Phân tích dupont là xác định ảnh hưởng của ba nhân tố này đến ROE của doanh nghiệp để tìm hiểu nguyên nhân tăng giảm chỉ số này.
Tài sản / Vốn CSH
Tỷ suất thu hồi vốn góp ROE
Tỷ suất sinh lợi tài sản ROA
Lợi nhuận biên
Vòng quay
Tổng tài sản
x
Lãi ròng
Doanh thu
x
:
Doanh thu
Tổng tài sản
:
Doanh thu
Tổng chi phí
-
Tài sản cố định
Tài sản lưu động
Các chi phí hoạt động khác
+
Khấu
hao
+
Lãi
vay
+
Thuế
Tiền mặt và TSLĐ khác
+
Khoản phải thu
+
Hàng tồn kho
Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ PHÂN TÍCH DU PONT
1.4 Phương hướng chung để cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp
Từ kết quả của việc lập báo cáo thu nhập và bảng cân đối kế toán, người ta tiến hành tính các chỉ số tài chính chủ yếu.
So sánh các chỉ số tài chính của công ty với các chỉ số trung bình nghành và nhận định vị thế của doanh nghiệp.
STT
Chỉ tiêu
1
Chỉ số hiện hành
2
Vòng quay HTK
3
Kì thu Nợ
4
Vòng quay TTS
5
Chỉ số nợ
6
Lợi nhuận biên
7
ROA
8
ROE
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP GIAI ĐOẠN 2005 - 2007
2.1. Giới thiệu khái quát về DN sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong.
Tên doanh nghiệp: Doanh nghiệp Sản Xuất và Kinh Doanh thương mại Thành Phong
Trụ sở chính của Doanh nghiệp đặt tại số 5B2 – khu công nghiệp Trại Gà – Cổ Nhuế - Từ Liêm – Hà Nội.
Số điện thoại (04) 8372011 Fax (04) 7643931
2.1.1. Hình thức tổ chức của doanh nghiệp
Tiền thân của Doanh nghiệp SX & KDTM Thành Phong là cơ sở nội thất Hiệp Phong được thành lập ngày 19/08/1997 quyết định số 0101000685 do sở kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp.
Sau đó ngày 02/10/2002 cơ sở được thành lập lại theo quyết định số 0101000754 và được đổi tên thành doanh nghiệp tư nhân sản xuất & kinh doanh thương mại Thành Phong.
Doanh nghiệp SX & KDTM Thành Phong là một doanh nghiệp tư nhân, hạch toán kinh tế độc lập và có tư cách pháp nhân đầy đủ. Mặc dù còn non trẻ nhưng DN tư nhân SX& KDTM thành phong đã khẳng định chỗ đứng vững chắc của mình trên thị trường, đảm bảo chất lượng sản phẩm và hoàn thành đúng kế hoạch tiến độ theo các đơn đặt hàng theo yêu cầu của người tiêu dùng, DN tư nhân SX & KDTM Thành Phong đã mạnh dạn đổi mới các trang thiết bị máy móc, áp dụng các sáng kiến khoa học kỹ thuật, không ngừng tìm tòi các giải pháp hữu hiệu nhằm tăng năng suất lao động, tiết kiệm nhân lực và hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng kỹ thuật cao và an toàn lao động. Doanh nghiệp rất chú trọng đến việc bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ công nhân viên, nâng cao nghiệp vụ để mọi người có thể phát triển trình độ quản lý và sử dụng thành thạo các phương tiện máy móc hiện đại sử dụng trong DN
Quy mô hiện tại của DN: DN SX & KDTM Thành Phong là một DN vừa với tổng số cán bộ công nhân viên trong DN là trên 145 người, đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, có nhiều công nhân lành nghề được đào tạo cơ bản có tinh thần trách nhiệm và sáng tạo trong lao động. Liên tục được bồi dưỡng thêm kiến thức để có trình độ quản lý và sử dụng thông thạo các phương tiện hiện đại. Nhờ có sự đổi mới về quản lý tổ chức Doanh nghiệp SX & KDTM Thành Phong đã được thử thách, rèn luyện qua nhiều sản phẩm với chủng loại, mẫu mã đa dạng, phong phú.
2.1.2 Tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp:
Mô hình cơ cấu bộ máy quản lý: Bộ máy quản lý của công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng, thực hiện cơ chế quản lý theo chế độ một thủ trưởng, nếu có sai lầm thì qui trách nhiệm dễ dàng.
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ CỦA DOANH NGHIỆP
Giám đốc
Phó giám đốc
Phòng
VT TB
và bảo dưỡng
Phòng KCS
Phòng kinh doanh và MKT
Phòng tổ chức hành chính
Tổ, đột, dập, cắt
Tổ hàn
Tổ tẩy rửa
Tổ sơn
Tổ kiểm tra chất lượng sản phẩm
Phòng tài chính kế toán
Phòng
VT TB
và bảo dưỡng
Phòng kế toán
Chức năng, nhiệm vụ cơ bản của các bộ phận quản lý
Giám đốc: Là người quyết định và điều hành mọi họat động chung của công ty theo chủ trương, chính sách của pháp luật.
Phó giám đốc: Là người nhận nhiệm vụ từ giám đốc và điều hành mọi họat động chung cho cấp dưới.
Phòng kế hoạch và quản lý sản xuất:
Thiết kế các sản phẩm mới
Quản lý hồ sơ kỹ thuật các sản phẩm của DN
Thiết kế định mức kỹ thuật cơ bản của sản phẩm.
Thực hiện nhiệm vụ thiết kế theo đúng hợp đồng kinh tế đã ký với khách hàng.
Quản lý kiểm tra hướng dẫn các phân xưởng thực hiện chế tạo các sản phẩm đúng mẫu mã, đúng yêu cầu kỹ thuật, qui trình kỹ thuật.
Phòng vật tư thiết bị và bảo dưỡng:
Cung cấp vật tư, quản lý vật tư tồn kho.
Kiểm soát biểu giá vật tư thiết bị phụ tùng dùng trong sản xuất kinh doanh của DN.
Quản lý thiết bị máy móc, quản lý điện toàn công ty: Chuyên sửa chữa bảo dưỡng các máy móc, dây truyền công nghệ của DN
Phòng KCS:
Kiểm tra chất lượng sản phẩm của DN
Giám sát, kiểm tra chất lượng của từng sản phẩm, của từng phân xưởng trong từng công đoạn công nghệ từ khi bắt đầu cho đến khi hoàn thành sản phẩm.
Phòng kinh doanh và maketting.
Khai thác thị trường, chào hàng, và bán các sản phẩm của DN.
Tổ chức phối hợp hoạt động của các phòng, các phân xưởng để hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh của DN.
Báo cáo tổng hợp tình hình kinh doanh của DN với ban giám đốc.
Phòng tổ chức hành chính:
Phối hợp cùng các phòng quản lý nhân lực toàn công ty
Quản lý hồ sơ nhân lực và các hồ sơ quan trọng toàn công ty, các thủ tục tiếp nhận và thôi việc
Quản lý công tác an toàn lao động, y tế, vệ sinh môi trường.
Phòng tài chính kế toán:
Thiết lập và giám sát các chính sách tài chính kế toán.
Chịu trách nhiệm chính tất cả các vấn đề về kể toán, tài chính với các cơ quan chức năng
Thực hiện phân tích các báo cáo tài chính nội bộ cho ban giám đốc.
Tư vấn các quyết định vể tài chính
Kiểm tra, giám sát chi phi và giá thành sản xuất.
Hỗ trợ các họat động giữa các bộ phận: Thông tin, hợp tác, tổ chức nhân sự.
2.1.3.Sản phẩm chính của doanh nghiệp:
- Khung nhà kho thép tiền chế kiểu Zamin
- Cửa kim loại giả vân gỗ công nghệ cao an toàn chống cháy theo TCVN
- Sản phẩm phục vụ cho ngành may công nghiệp bao gồm toàn bộ thiết bị phụ trợ của dây truyền may công nghiệp và điện xí nghiệp.
- Sản phẩm là giá kệ, tủ văn phòng, tủ trưng bày, giường bằng kim loại và gỗ phục vụ cho các bảo tàng, trường học, bệnh viện, văn phòng các cơ quan, siêu thị nhà hàng.
- Sản phẩm dành cho quảng cáo như các loại giá trưng bày hàng hóa, các loại xe đẩy hàng…
- Sản phẩm là bàn ghế học sinh, bàn ghế hội trường, bảng chống lóa chất liệu Hàn Quốc.
Các khách hàng chính của doanh nghiệp:
Doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong có các khách hàng quen thuộc như: Cung cấp, lắp đặt hệ thống điện chiếu sáng xưởng may Cty may Vitgarment, cung cấp và lắp đặt thiết bị phụ trợ ngành may công nghiệp và lắp đặt hệ thống điện Cty may Sông Hồng – Thành Phố Nam Định, cung cấp thiết bị trường học – Sở giáo dục và đào tạo tỉnh Lạng Sơn…..Các siêu thị lớn trong thành phố và ngoài thành phố. Các công trình do Doanh nghiệp SX & KDTM Thành Phong thi công, lắp đặt đều đảm bảo chất lượng tốt, có uy tín với khách hàng. Với phương châm lấy chữ tín làm đầu và dựa trên mối quan hệ hợp tác hai bên cùng có lợi, cạnh tranh lành mạnh. DN SX & KDTM Thành Phong có nhiều mối quan hệ với nhiều khách hàng, bạn hàng, tạo lập uy tín lớn như: Công ty may Sông Hồng – TP Nam Định, Công ty may Vitgarment, Công ty cổ phần may Hưng Yên…
2.2. Tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Phân tích tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là yêu cầu cần thiết đối với chủ doanh nghiệp, với các nhà quản trị điều hành doanh nghiệp, cũng như các đầu tư… Đặc biệt phân tích thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp cho phép nhận định một cách tổng quát tình hình phát triển kinh doanh của doanh nghiệp, hiệu quả tài chính của doanh nghiệp, cũng như khả năng thanh toán, khả năng vay tín dụng. Sự hình thành nguồn vốn kinh doanh ban đầu cũng như sự phát triển của nguồn vốn, giúp cho những nhà quản lý ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tốt và đánh giá thực trạng tiềm năng của doanh nghiệp.
Để đánh giá chính xác một cách cơ bản tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì ta phải sử dụng nguồn thông tin phản ánh đầy đủ các báo cáo tài chính.
2.2.1. Tình hình lao động của doanh nghiệp:
Ngày nay, khoa học công nghệ ngày càng phát triển hiện đại máy móc dần thay thế sức lao động của con người nhưng yếu tố con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất và không thể thay thế được, đặc biệt đối với doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm cần sự khéo léo của bàn tay và trí óc con người như doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong.
Lượng lao động ở khu công nghiệp chế biến có tỷ số tương đương ở các tổ. Đây là 1 tỷ lệ hợp lý vì công việc chế biến ở các tổ phụ thuộc lẫn nhau, các khâu trong quá trình sản xuất là cần thiết và hỗ trợ nhau.
LĐ nữ chiếm 14%, lao động nam chiếm 86%, 1 tỷ lệ cũng phù hợp với thực tế của ngành sản xuất cần đến lao động khỏe mạnh. Lao động có trình độ đại học và trên đại học của doanh nghiệp chiếm 14%. Lao động của công nhân lao động lành nghề chiếm 48%, lao động có trình độ trung cấp cũng chiếm 17%. Nhìn chung lao động của DN đều đã qua đào tạo và cũng đủ điều kiện để nhân viên học tập và cập nhật những thông tin mới liên quan đến công việc cho nhân viên.
2.2.2. Tình hình tài sản cố định.
Tài sản cố định của doanh nghiệp được ghi theo giá gốc. Trong quá trình sử dụng, tài sản cố định được ghi theo nguyên giá, hao mòn lũy kế và giá trị còn lại. Khấu hao được trích theo phương pháp đường thẳng. Thời gian khấu hao được ước tính như sau:
Bảng 1: Bảng thời gian khấu hao
Nhà cửa
5 – 10 năm
Máy móc thiết bị
3 – 10 năm
Phương tiện vận tải
5 – 10 năm
Thiết bị văn phòng
3 năm
Bảng 2: Một số tài sản chính của doanh nghiệp
ĐVT: Triệu Đồng
STT
Tài sản
Nguyên giá
Giá trị còn lại
% theo NG
% theo GTCL
1
Nhà cửa, vật kiến trúc
6.781
4.989
28.54%
26.44%
2
Máy móc thiết bị
7.914
7.041
33.31%
37.32%
3
Phương tiện vận tải,
7.165
5.083
30.17%
26.94%
4
Thiết bị, dụng cụ quản lý
975
816
4.11%
4.33%
5
Tài sản cố định khác
922
938
4.07%
4.97%
Tổng cộng
23.757
18.867
100.0%
100%
Nguồn: Bản cáo bạch
Ta nhận thấy rằng trong TSCĐ của toàn doanh nghiệp thì máy móc thiết bị và nhà cửa kiến trúc chiếm tỷ trọng lớn nhất, điều này phù hợp với đặc thù của nghành sản xuất và kinh doanh thương mại. Riêng máy móc thiết bị tỷ trọng nguyên giá chiếm 33,31% nhưng giá trị còn lại chiếm 37.32%, cho thấy rằng máy móc thiết bị mới đang được đầu tư thêm trong năm qua. Hiện tại thiết bị máy móc kỹ thuật dùng trong sản xuất đã cũ, doanh nghiệp cũng dự định trong năm 2008 sẽ mua thêm một số thiết bị máy móc mới của Đức để cải thiện thêm chất lượng sản phẩm.
Bảng 3: Bảng một số chỉ tiêu hoạt động của DN
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2006
Năm 2007
So Sánh
Tăng giảm
Tỷ trọng (%)
1. Tổng tài sản
Triệu đ
69.254
84.097
14.843
21.43%
2. Tổng DT thuần
Triệu đ
34.045
48.889
14.844
43.60%
3. Lợi nhuận sau thuế
Triệu đ
666
2.460
1.794
269.37%
4. Cán bộ CNV
Người
90
145
55
61.11%
5. Lương bq/1CN
1000đ
800
1.700
900
37.5%
Nguồn phòng tài chính kế toán
Doanh nghiệp Thành Phong là một một doanh nghiệp có quy mô sản xuất vừa và nhỏ. Tuy vậy tổng doanh thu thuần của doanh nghiêp so năm 2006 với 2007 là khá cao do đó lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp năm 2007 đạt rất cao so với năm 2006. Năm 2006 lương bình quân của công nhân viên khoảng gần 1triệu đến năm 2007 đã tăng lên la 1,7 triệu đồng. Có thể nói doanh nghiệp đang trên đà phát triển, và trong những năm tới DN sẽ là một trong những doanh nghiệp phát triển mạnh về sản xuất đồ gia dụng, và tạo được công ăn việc làm cho nhiều công nhân.…………..
2.3. Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp.
2.3.1. Phân tích sự biến động của tài sản và nguồn vốn.
Phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ cung cấp 1 cách tổng quát tình hình tài chính có khả quan hay không, và để thấy rõ thực chất của quá trình sản xuất kinh doanh của DN. Đánh giá chung tình hình tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp nhằm mục đích đánh giá kết quả trạng thái tài chính của doanh nghiệp cũng như dự tính được rủi ro và tiềm năng tài chính trong tương lai.
Qua bảng cân đối kế toán giữa hai năm 2006 và 2007 (phụ lục), ta thấy các khoản mục đều biến động lớn. Năm 2006 qui mô tài sản của công ty là 69.254 triệu đồng, nhưng năm 2007 tài sản của công ty là 84.097 triệu đồng như vậy là so với năm 2006 thì tài sản của doanh nghiệp năm 2007 tăng 14.843 triệu đồng tương ứng là 21.43%. Sau đây ta xem xét cụ thể những biến động của từng khoản mục.
a.Phân tích cơ cấu tài sản:
Bảng 4: Bảng cơ cấu tài sản tại thời điểm cuối năm 2006, 2007
ĐVT:Triệu đồng
Chỉ tiêu
2006
2007
So sánh 2006 - 2007
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
A.Tài sản ngắn hạn
22.792
32.91
30.583
36.37
7.791
34.18
1.Tiền
960
1.4
319
0.38
(641)
(66.77)
2. Khoản phải thu
11.860
17.23
19.124
22.74
7.264
61.25
3. Hàng tồn kho
8.141
11.76
9.564
11.37
1.423
17.50
4.Tài sản ngắn hạn khác
1.831
2.7
1.576
1.87
(255)
(13.93)
B.Tài sản dài hạn
46.462
67.09
53.514
63.6
7.052
15.18
Tổng tài sản
69.254
100
84.097
100
14.842
21.43
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Tài sản ngắn hạn
Nhìn vào bảng cơ cấu tài sản của doanh nghiệp ta thấy tài sản ngắn hạn của năm 2007 là 30.583 triệu đồng, và tài sản của năm 2006 là 22.792 triệu đồng, tăng so với năm 2006 là 7.791 triệu đồng tương đương với 34.18%. Nguyên nhân tăng tài sản ngắn hạn là do tiền, khoản phải thu, hàng tồn kho tăng:
-Tiền: Năm 2006 số tiền của doanh nghiệp là 960 triệu đồng, năm 2007 là 319 triệu đồng, giảm so với năm 2006 là 641 triệu đồng tương đương với 66.77%. Tiền mặt tại quỹ và tiền gửi ngân hàng tại doanh nghiệp giảm là do doanh nghiệp đang dùng tiền để mua nguyên vật liệu về phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh đang diễn ra đồng thời dự trữ hàng hóa nguyên vật liệu để tránh việc trượt giá của đồng tiền. Tuy nhiên tiền giảm có nghĩa là tính chủ động tài chính trong việc mở rộng quy mô, chớp lấy thời cơ kinh doanh thuận lợi có thể bị giảm sút. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải điều chỉnh lượng tiền một cách hợp lý. Thực tế cho thấy doanh nghiệp đang có nhiều cố gắng trong việc sử dụng tiền, với số tiền giảm còn ít hơn nhưng doanh thu tăng.
-Các khoản phải thu:
Nhìn vào bảng cơ cấu tài sản ta thấy các khoản phải thu năm 2006 là 10.860 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 17.23% trong tổng tài sản năm 2006, các khoản phải thu năm 2007 là 19.124 triệu đồng chiếm 22.74% trong tổng tài sản năm 2007, các khoản phải thu năm 2007 tăng so với năm 2006 một giá trị là 7.264 triệu đồng, tương ứng với 61.25%. Thực tế cho thấy doanh nghiệp đang đứng trước những lựa chọn hết sức khó khăn so với các đối thủ cạnh tranh, ngày nay với những trang thiết bị hiện đại và tiên tiến, trình độ dân trí cao, để giữ chân khách hàng doanh nghiệp có chính sách bán chịu cho khách hàng, xong có những khách hàng không thực hiện cam kết trả tiền đúng hạn hoặc có những khách hàng xấu không chịu thanh toán tiền nên khoản phải thu của doanh nghiệp ngày càng tăng, khoản phải thu của doanh nghiệp năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006, điều đó cho thấy doanh nghiệp bán được nhiều hàng nhưng tỷ lệ cho nợ quá cao, doanh nghiệp bị bạn hàng chiếm dụng vốn lâu, nếu tình trạng này kéo dài dẫn đến doanh nghiệp không thu được vốn và có thể phá sản.
-Hàng tồn kho:
Hàng tồn kho năm 2006 là 8.141 triệu đồng chiếm 17.23% so với tổng tài sản, hàng tồn kho của năm 2007 là 9.564 triệu đồng chiếm 11.37% trong tổng tài sản của năm, như vậy hàng tồn kho của năm 2007 tăng so với năm 2006 là 1.423 triệu tương đương với tỷ lệ là 17.50.%. Nguyên nhân chính là do nguyên liệu vật liệu tồn kho của năm 2007 lớn hơn năm 2006 một giá trị là 778 triệu đồng tương đương với tỷ lệ là 34.56%, và thành phẩm tồn kho năm 2007 lớn hơn 2006 là 1.025 triệu đồng tương đương tỷ lệ là 21.40%. Thực tế cho thấy lượng hàng tồn kho tăng lên do doanh nghiệp tích cực dự trữ nguyên vật liệu để dùng cho hoạt động sản xuất, hơn nữa ban quản lý doanh nghiệp nhận thấy trong tình hình hiện nay hàng hóa có thể bị leo thang, trượt giá nên tích trữ nguyên vật liệu tồn kho là là nhu cầu chính đáng. Hơn nữa sản phẩm của doanh nghiệp không mang tính thời vụ, nhu cầu sử dụng ngày càng nhiều, các công ty, siêu thị và trường học được mở ra rất nhiều và doanh nghiệp phải sản sàng cung cấp nhu cầu sử dụng cửa, tủ, bàn ghế cho thị trường bất cứ lúc nào. Và doanh thu của doanh nghiệp tăng thì hàng tồn kho tăng là chuyện bình thường.
Tài sản dài hạn:
Xét tỷ suất đầu tư trang thiết bị tài sản cố định và đầu tư dài hạn :
Tỷ suất đầu tư =
Tài sản dài hạn
Tổng tài sản
Tỷ suất đầu tư năm 2006 = = 67.09%
Tỷ suất đầu tư năm 2007 = = 63.63%
Tỷ suất đầu tư vào tài sản cố định năm 2006 là 67.09%, tỷ suất đầu tư vào tài sản cố định năm 2007 là 63.63% điều này chứng tỏ máy móc, trang thiết bị, cơ sở vật chất của doanh nghiệp vẫn tốt và doanh nghiệp có thể sử dụng, chưa cần phải mua mới thiết bị.
b.Phân tích nguồn vốn
Bảng 5: Bảng cơ cấu nguồn vốn tại thời điểm cuối năm 2006, 2007.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Chênh lệch
Giá trị
%
Giá trị
%
Giá trị
%
A. Nợ phải trả
57.121
82.48
65.861
78.32
8.740
15.30
1. Nợ ngắn hạn
39.190
56.59
46.953
55.83
7.763
19.81
2. Nợ dài hạn
17.932
25.89
18.908
22.48
976
5.44
B. Nguồn vốn CSH
12.132
17.52
18.236
21.68
6.104
50.31
Tổng nguồn vốn
69.254
100
84.097
100
14.843
21.43
Nguồn: phòng hành chính kế toán
Tổng nguồn vốn năm 2006 là 69.254 triệu đồng, năm 2007 là 84.097 triệu đồng tăng so với năm 2006 là 14.843 triệu đồng tương đương tăng 21.43% do:
Nợ ngắn hạn: Nợ ngắn hạn của năm 2006 là 39.190 triệu đồng, năm 2007 là 46953 triệu đồng tăng 7.763 triệu đồng tương đương với 19.81%
Nợ dài hạn: Nợ dài hạn của doanh nghiệp năm 2006 là 17.932 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 25.89% trong tổng nguồn vốn. Năm 2007 là 18.908 triệu đồng chiếm tỷ trọng là 21.68% trong tổng nguồn vốn.
Sở dĩ nợ ngắn hạn của doanh nghiệp nhiều là do vay và nợ ngắn hạn của doanh nghiệp khá cao. Mấy năm trước đây doanh nghiệp Thành Phong vay nợ ngắn hạn để mua sắm tài sản cố định và nhu cầu cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy khi đến hạn trả doanh nghiệp không có tiền trả nợ ngân hàng, điều đó làm cho doanh nghiệp mất khả năng thanh toán.
Nguồn vốn chủ sở hữu tuy không nhiều nhưng sang năm 2007 cũng tăng đáng kể là 6.104 triệu đồng tương ứng với 50.31% so với năm 2006. Vốn chủ sở hữu tăng thể hiện công ty luôn chú trọng đến tổ chức khai thác và huy động vốn của mình, giữ lại lợi nhuận để bổ sung thêm vào nguồn vốn của chủ. Tỷ trọng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp lúc đầu năm là 12.132 triệu đồng cuối năm tăng lên 18.236 triệu đồng. Điều này cho thấy tình hình tài chính và mức độ tự chủ của doanh nghiệp đã phần nào được cải thiện.
Nói chung: Nguồn vốn chủ sở hữu tăng, nợ phải trả tăng, phải trả người bán tăng, thuế và các khoản phải trả nhà nước giảm. Các khoản vay ngắn hạn, dài hạn,
phải trả người bán, phải trả công nhân viên tăng. Nguồn tài trợ của doanh nghiệp vẫn còn bị phụ thuộc nhiều từ bên ngoài nhưng đã có chiều hướng được cải thiện. Tận dụng được cơ hội chiếm dụng vốn từ bên ngoài là điều hợp lý trong cơ chế thị trường. Tuy nhiên doanh nghiệp cũng cần phải duy trì tốt kỷ luật thanh toán để giữ mối quan hệ với bạn hàng.
Để hiểu rõ hơn về tình hình huy động vốn và sử dụng các nguồn vốn của doanh nghiệp ta xét các tỷ số sau:
Tỷ suất tự tài trợ =
Nguồn vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Tỷ suất tự tài trợ 2006 = x 100% = 17.52%
Tỷ suất tự tài trợ 2007 = x 100% = 21.68%
Nhìn vảo các chỉ số tự tài trợ của doanh nghiệp Thành Phong ta thấy chỉ số này là thấp, tuy nhiên đang có chiều hướng tăng, cụ thể tỷ suất tự tài trợ năm 2007 là 21.68% cao hơn tỷ suất tự tài trợ năm 2006 là 17.52%. Điều này cho thấy mức độ độc lập về mặt tài chính đang có chiều hướng tích cực. Nguyên nhân tăng chỉ số tự tài trợ là do năm 2007 lượng vốn chủ sở hữu được bổ sung thêm 6.104 triệu đồng.
c.Phân tích mối quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn:
Mối quan hệ giữa tài sản và nguồn vốn thể hiện mối tương quan giữa giá trị tài sản và cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Trong hoạt động sản xuất kinh doanh mối quan hệ này giúp ta nhận thức được sự hợp lý giữa nguồn vốn huy động và việc sử dụng nó trong đầu tư, mua sắm, dự trữ và sử dụng có hiệu quả hay không. Mối quan hệ này được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng6: quan hệ cân đối tài sản và nguồn vốn:
Năm 2006 Năm2007
Tài sản ngắn hạn 32.91%
Tài sản dài hạn 67.09%
Nợ ngắn hạn
56.59%
Nợ dài hạn
25.89%
VCSH 17.52%
Tài sản ngắn hạn 36.40%
Tài sản dài hạn 63.60%
Nợ ngắn hạn
55.83%
Nợ dài hạn
22.48%
VCSH 21.68%
Nhìn vào bảng quan hệ cân đối giữa tài sản và nguồn vốn cả hai năm 2006 và 2007 ta thấy: Cơ cấu tài sản và nguồn vốn là không hợp lý, nợ dài hạn không đủ để tài trợ cho tài sản dài hạn, doanh nghiệp cần phải thay đổi lại cơ cấu nguồn vốn bằng cách giảm tỷ trọng nợ ngắn hạn và tăng tỷ trọng nợ dài hạn để đầu tư vào tài sản ngắn hạn giảm bớt các chi phí phải trả, hoặc doanh nghiệp phải thanh lý một số tài sản cố định để làm tăng tài sản ngắn hạn, và dùng giá trị thu được sau thanh lý để trả bớt nợ ngắn hạn giúp cơ cấu tài sản và nguồn vốn cân đối hơn trong doanh nghiệp.
2.3.2 Phân tích tình hình doanh thu, chi phí của công ty:
Mục tiêu cơ bản của phân tích tình hình doanh thu, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp là tìm hiểu nguồn gốc, thực trạng và xu hướng của doanh thu, chi phí, lợi nhuận. Giúp nhà quản lý nhận biết được những thông tin và xu hướng của chúng trong tương lai và tìm biện pháp để giải quyết
Phân tích tình hình doanh thu:
Doanh thu của doanh nghiệp là toàn bộ số tiền đã hoặc sẽ thu được do tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, cung cấp dịch vụ, lao vụ và các hoạt động khác của doanh nghiệp (gồm cả khoản trợ cấp, trợ giá) trong 1 thời kỳ nhất định.
Tình hình doanh thu tại doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh thương mại Thành Phong
Bảng 7 :Tình hình doanh thu của doanh nghiệp
ĐVT: Triệu Đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm2007
Tăng, giảm
Tỷ trọng (%)
1. Doanh thu thuần
34.054
48.890
14.836
43.57
2. Giá vốn hàng bán
28.789
38.172
9.383
32.59
3.Lợi nhuận gộp
5.265
10.718
5.453
103.57
4.Giá vốn/DT thuần (%)
84.54
77.02
(7.52)
(8.90)
5.LNthuần/DT thuần (%)
15.17
22.98
7.81
51.48
Nguồn: Phòng tài chính kế toán
Nhìn vào bảng trên ta thấy doanh thu thuần của doanh nghiệp tăng là 14.836 triệu tương đương với 43.57%, giá vốn tăng 9.383 triệu đồng tương đương với 32.59%, đặc biệt lợi nhuận thuần của doanh nghiệp tăng 103.57%. Tỷ trọng giá vốn trên doanh thu thuần năm 2007 giảm so với năm 2006 là 8.90%, điều đó khiến cho tỷ trọng lợi nhuận thuần trên doanh thu thuần của doanh nghiệp tăng.
b)Phân tích tình hình chi phí:
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện hao phí lao động cá biệt của doanh nghiệp bao gồm chi phí sản xuất, chi phí bán hàng, chi phí mua hàng và chi phí quản ly doanh nghiệp
Bảng 8: Các khoản chi phí kinh doanh tại doanh nghiệp Thành Phong.
ĐVT:Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Tăng giảm
Tỷ trọng (%)
1.Chi phí QLDN
2.333
1.971
(362)
(15.52)
2. Chi phí bán hàng
-
109
(109)
-
3.Tổng chi phí
2.333
2.080
(253)
(10.84)
4.Lãi gộp
5.265
10.717
5452
103.57
5.Doanh thu thuần
34.054
48.890
14.836
43.57
6.CPQL/DT thuần (%)
6.85
4.03
(2.82)
(41.17)
7.CPBH/DT thuần (%)
-
0.23
(0.23)
-
8. Tổng Chi phí/DT
`6.85
4.26
(2.59)
(37.81)
9.T ổng chi phí/lãi gộp(%)
44.31
19.41
24.9
56.19
Nguồn số liệu: Phòng tài chính kế toán
Nhìn vào bảng trên ta thấy: Chi phí quản lý doanh nghiệp giảm từ 2.333 triệu năm 2006 xuống còn 1.971 triệu đồng của năm 2007 như vậy chi phí quản lý doanh nghiệp giảm là 362 tương đương là 15.52%. Điều này chứng tỏ bộ máy quản lý của doanh nghiệp làm việc có hiệu quả. Chi phí bán hàng của năm 2006 gộp chung với chi phí quản lý doanh nghiệp đến năm 2007 tách riêng ra thành hai khoản mục. Do chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp dẫn đến tổng chi phí của doanh nghiệp giảm. Các khoản chi phí giảm nên lãi gộp của doanh nghiệp tăng đáng kể, cụ thể là năm 2007 tăng 103.57% so với năm 2006.
Nhận xét chung: Từ những phân tích trên cho thấy doanh thu của doanh nghiệp tăng, phản ánh mức tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp tương đối tốt mặc dù doanh nghiệp đang tồn đọng những khoản nợ lớn. Có thể nói doanh nghiệp đã có rất nhiều thuận lợi khi tìm khách hàng và thị trường mới. Mức lợi nhuận tăng nhiều một phần do nhu cầu cuộc sống tăng mà mặt hàng sản xuất của doanh nghiệp đáp ứng được nhu cầu đó, hơn nữa doanh nghiệp đã biết tiết kiệm trong các khâu như khâu quản lý chi phí doanh nghiệp và quản lý bán hàng…
2.4 Phân tích hiệu quả tài chính của doanh nghiệp
2.4.1 Phân tích khả năng quản lý tài sản:
a. Vòng quay tổng tài sản:
Vòng quay tổng tài sản =
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
Vòng quay tổng TS 2006 = = 0.57 (vòng)
Vòng quay tổng TS2007 = = 0.64 (vòng)
Một đồng đầu tư cho tài sản năm 2006 tạo ra 0.57 đồng doanh thu. Một đồng đầu tư cho tài sản năm 2007 tạo ra 0.64 đồng doanh thu. Như vậy cứ một đồng vốn sử dụng trong năm 2007 tăng hơn so với năm 2006 là 0.07 đồng, điều này cho thấy vòng quay tổng tài sản của doanh nghiệp tăng nhưng không đáng kể.
b) Vòng quay tài sản cố định:
Vòng quay tài sản cố định =
Doanh thu thuần
Tài sản cố định bình quân
Vòng quay tài sản cố định 2006 = = 0.76 (vòng)
Vòng quay tài sản cố định 2007 = = 0.98 (vòng)
Vòng quay tài sản cố định cho ta biết một đồng tài sản cố định góp phần tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Quan sát vòng quay tài sản cố định năm 2006 và 2007 ta thấy vòng quay tài sản cố định có chiều hướng tăng, năm 2006 là 0.76 vòng, năm 2007 là 0.98 vòng tăng 0.22 vòng
C) Vòng quay tài sản lưu động:
Vòng quay tài sản cố định =
Doanh thu thuần
Tài sản lưu động bình quân
Vòng quay tài sản lưu động 2006 = = 2.34 (vòng)
Vòng quay tài sản lưu động 2007 = = 1.83 (vòng)
Quan sát vòng quay tài sản lưu động năm 2006 ta thấy cứ một đồng đầu tư cho tư cho tài sản lưu động tạo ra 2.34 đồng doanh thu. Năm 2007 một đồng tài sản lưu động đầu tư tạo ra 1.83 đồng doanh thu. Như vậy, cứ một đồng bỏ ra đầu tư vào tài sản lưu động năm 2007 giảm 0.51 đồng so với năm 2006. Vòng quay tài sản lưu động giảm chứng tỏ sự điều hành, quản lý tài sản lưu động của doanh nghiệp không tốt, điều này được thể hiện ở hàng tồn kho và khoản phải thu lớn.
d) Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho:
Vòng quay hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Trị giá hàng tồn kho bình quân
Vòng quay hàng tồn kho2006 = = 5.18 (vòng)
Vòng quay hàng tồn kho 2007 = = 4.31 (vòng)
Số ngày của một vòng quay hàng tồn kho:
Số ngày tồn kho =
360
Vòng quay hàng tồn kho
Số ngày tồn kho 2006 = = 69.5 (ngày/vòng)
Số ngày tồn kho 2007 = = 83.5 (ngày/vòng)
Vòng quay hàng tồn kho của doanh nghiệp có xu hướng giảm dần qua 2 năm. Cụ thể năm 2006 vòng quay hàng tồn kho là 5.18 vòng giảm xuống còn 4.31 vòng năm 2007. Điều này dẫn đến số ngày tồn kho của doanh nghiệp tăng lên hay nói cách khác hàng hóa lưu kho trung bình trong 2 năm 2006 và 2007 tăng lên, cụ thể năm 2006 là 69.5 ngày/vòng sang năm 2007 tăng lên 83.5 ngày/vòng. Sự tăng lên của số ngày tồn kho này khiến cho doanh nghiệp mất thêm khoản chi phí cho việc quản lý hàng tồn kho ấy, làm giảm hiệu quả kinh doanh của doanh n._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- DA2108.DOC