Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng - Lắp đặt ở Công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam

Lời mở đầu Nền kinh tế Việt Nam khởi sắc và đạt những thành tựu lớn từ khi thực hiện chính sách mở cửa, đặc biệt là sau khi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào sự ổn định phát triển kinh tế. Cùng với sự gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam các loại hình bảo hiểm phục vụ đầu tư, đặc biệt là bảo hiểm xây dựng (CAR) và Bảo hiểm lắp đặt (EAR) đã góp phần quan trọng vào việc tạo ra một

doc76 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1201 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng - Lắp đặt ở Công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
môi trường đầu tư an toàn thuận tiện cho các nhà đầu tư trong cũng như ngoài nước. Bảo hiểm xây dựng -lắp đặt (XDLĐ) không thể phát huy được vai trò quan trọng của mình nếu tách rời tái bảo hiểm (TBH). Đặc trưng của bảo hiểm XDLĐ là việc bảo hiểm đòi hỏi phải có trình độ cao trong việc khai thác, đánh giá rủi ro. Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm XDLĐ lại thường có giá trị lớn. Chính vì vậy, TBH là hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho các nhà bảo hiểm có thể triển khai nghiệp vụ một cách có hiệu quả. Đặc biệt , ở Việt Nam ,đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm XDLĐ là các công trình thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng có giá trị rất lớn. Mặt khác trình độ bảo hiểm của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước còn rất hạn chế nên TBH lại càng cần thiết. Bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam gắn liền với TBH. Trên thị trường Việt Nam, VINARE là công ty TBH chuyên nghiệp duy nhất và nghiệp vụ TBH XDLĐ được VINARE triển khai ngay từ khi VINARE đi vào hoạt động. Ngoài việc nhận TBH bắt buộc từ các công ty bảo hiểm trong nước, VINARE còn nhận TBH tự nguyện với tư cách là một pháp nhân kinh doanh . Qua tám năm triển khai nghiệp vụ, VINARE đã góp phần rất lớn vào việc điều tiết thị trường, ngăn chặn đáng kể việc chuyển phí bảo hiểm kỹ thuật nói chung và bảo hiểm XDLĐ nói riêng ra nước ngoài. Tuy nhiên , lượng phí giữ lại cho thị trường trong nước còn nhỏ. Các công ty bảo hiểm trong nước vẫn nhượng một lượng lớn phí bảo hiểm XDLĐ ra nước ngoài và chỉ nhượng phần bắt buộc , phần phí nhượng tự nguyện qua VINARE ngày một giảm. Đây là những vấn đề đặt ra yêu cầu phải có biện pháp khắc phục Trong thời gian thực tập tại VINARE, dưới sự hướng dẫn của các cán bộ nghiệp vụ phòng TBH Kỹ thuật- Dầu khí, kết hợp với những kiến thức đã tiếp thu được trong quá trình học tập tại Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội em mạnh dạn chọn đề tài : “ Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng -lắp đặt ở công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam ” nhằm góp phần vào việc tìm ra những biện pháp khắc phục những vấn đề đó. Đề tài gồm ba phần: Phần thứ nhất: Lí luận chung về bảo hiểm xây dựng -lắp đặt và tái bảo hiểm xây dựng -lắp đặt. Phần thứ hai : Thực tế triển khai nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng -lắp đặt ở Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam trong thời gian qua. Phần thứ ba : Một số biện pháp nhằm phát triển nghiệp vụ tái bảo hiểm xây dựng -lắp đặt ở Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam. Đề tài được thực hiện dưới sự hướng dẫn của cô giáo,thạc sỹ Phạm Thị Định , giảng viên Bộ môn Bảo hiểm, Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội và các cán bộ nghiệp vụ Phòng Dầu khí Kỹ thuật, VINARE. Do còn hạn chế về thời gian và trình độ chắc chắn đề tài không tránh được sự thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô, các cán bộ nghiệp vụ và các bạn sinh viên quan tâm đến đề tài này. Phần thứ nhất Lí luận chung về bảO hiểm xây dựng lắp đặt Và TáI bảo hiểm xây dựng lắp đặt I.Khái quát về Bảo hiểm xây dựng lắp đặt 1.Khái niệm, sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng - lắp đặt 1.1. Sự ra đời của bảo hiểm kỹ thuật Bảo hiểm xây dựng -lắp đặt (XDLĐ )là một nghiệp vụ bảo hiểm hết sức quan trọng của bảo hiểm kĩ thuật.Chính vì vậy, sự ra đời và quá trình phát triển của Bảo hiểm XDLĐ gắn liền với sự ra đời và quá trình phát triển của bảo hiểm kĩ thuật. Bảo hiểm kỹ thuật là loại hình bảo hiểm sinh sau đẻ muộn hơn nhiều so với các loại hình bảo hiểm truyền thống khác như bảo hiểm hàng hải (1667), bảo hiểm cháy (1687). Bảo hiểm kỹ thuật bắt đầu ở nước Anh công nghiệp vào giữa thế kỷ 19 ... Vào lúc các đơn bảo hiểm cháy tương đối phổ biến thì một hiểm hoạ có tính chất huỷ diệt tương tự khác đã gây thiệt hại cho nhà máy bông ở Lancashire, đó là vụ nổ nồi hơi. Không những vụ nổ này gây ra thiệt hại có tính chất tàn phá và thiệt hại về người, mà sự gián đoạn sản xuất sau đó đã làm nhiều doanh nghiệp có liên quan bị phá sản. Tại sao các vụ nổ có tính chất thảm hoạ này lại thường xảy ra như vậy ? Rõ ràng, có thể đổ lỗi phần nào cho những sai sót trong thiết kế do thiếu kinh nghiệm đối với công nghệ mới này. Nhưng, thông thường hơn, còn có rủi ro đạo đức; sử dụng nồi hơi quá mức bình thường, bất cẩn, hoặc những tập quán làm việc nguy hiểm với ý định nâng cao hiệu suất hoạt động của nồi hơi và mức độ sản xuất. Rõ ràng, những người chủ của nhà máy đã phải làm một việc gì đó. Trong thực tế, họ đã làm theo một hình thức quản lý rủi ro sơ khai bằng cách cùng phối hợp kinh nghiệm và kiến thức sản xuất của họ. Các kỹ sư lành nghề, được lựa chọn từ nhiều nhà máy, đã cố gắng thực hiện nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra tất cả các nồi hơi thuộc sở hữu của các bên tham gia, cung cấp ý kiến tư vấn về vận hành và bảo dưỡng. Sự hợp tác tương hỗ này là nhằm không cho bất kỳ bên nào có được lợi thế thương mại. Thực tế, khái niệm này có sức mạnh đến mức các tổ chức này sẵn sàng nhận cấp đơn bảo hiểm Nổ nồi hơi (BE) cho các nồi hơi đã được kiểm tra để bồi thường thiệt hại của nồi hơi do nổ, bồi thường thiệt hại tài sản xung quanh, cũng như bồi thường cho các bên thứ ba trong trường hợp chết, bị thương và thiệt hại tài sản. Và vì thế, năm 1858, công ty bảo hiểm đầu tiên trong số các công ty bảo hiểm chuyên ngành này, Công ty Bảo hiểm Nồi hơi (The Steam Boiler Assurance Company), đã được thành lập. Chẳng bao lâu, ý tưởng này đã lan rộng sang các nước khác đang diễn ra quá trình công nghiệp hoá. Bảo hiểm Đổ vỡ Máy móc cũng dần dần được đưa ra thị trường và đầu thế kỷ 20, đơn bảo hiểm Mất lợi nhuận đầu tiên (tiếp theo bảo hiểm Đổ vỡ Máy móc) cũng đã được tung ra thị trường. Đơn bảo hiểm Mọi rủi ro Xây dựng (CAR) đầu tiên được cấp năm 1929 để bảo hiểm cho việc xây dựng cầu Lamberth bắc qua sông Thames, và sau đó chẳng bao lâu là đơn bảo hiểm Mọi rủi ro Lắp đặt (EAR). Tuy nhiên, cả hai đơn bảo hiểm này chỉ giành được vị trí quan trọng trong giai đoạn xây dựng sau chiến tranh sau năm 1945 và công cuộc phát triển sau đó trên thế giới của các nền kinh tế đang nổi lên. Sự phát triển thương mại và công nghệ sau đó đã thúc đẩy việc đưa ra các phạm vi bảo hiểm mới, phức tạp ; các đơn bảo hiểm thiệt hại vật chất như là bảo hiểm Máy tính (EDP), bảo hiểm thiết bị điện tử điện áp thấp (LVEE), bảo hiểm Máy móc và Thiết bị xây dựng (CPE), và bảo hiểm Rủi ro đối với công trình xây dựng dân dụng đã hoàn thành (CECR) đã xuất hiện, và còn thêm cả các đơn bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh/tài chính như là bảo hiểm Hư hỏng hàng hoá trong kho (DOS) và Bảo hiểm Mất lợi nhuận dự tính (ALOP). 1.2. Khái niệm bảo hiểm xây dựng -lắp đặt: Qua việc tìm hiểu về lịch sử của bảo hiểm kỹ thuật, trong đó có cả bảo hiểm XDLĐ, ta cũng có thể thấy XDLĐ liên hệ chặt chẽ với lĩnh vực kỹ thuật. Vì vậy, trước tiên cần thiết phải hiểu thế nào được gọi là lĩnh vực kỹ thuật và nó có đặc trưng gì? Theo một định nghĩa tương đối phổ dụng trong những người làm kỹ thuật thì: lĩnh vực kỹ thuật là lĩnh vực mà trong đó các quá trình hoạt động, thực hiện các chức năng được tiến hành với sự tham gia của các kỹ sư và nó bao gồm các ứng dụng cuả khoa học cũng như tính toán mà trên cơ sở đó của cải vật chất cũng như các nguồn năng lượng tự nhiên được sử dụng để tạo ra các cấu trúc nhà cửa, máy móc, các sản phẩm hệ thống, quá trình công nghệ phục vụ cho lợi ích của con người. Bảo hiểm XDLĐ có một mối liên hệ chặt chẽ với các khái niệm trên, trong đó các nhà bảo hiểm sử dụng một tập hợp các điều khoản điều kiện để xây dựng nên nhiều loại đơn bảo hiểm khác nhau nhằm mục đích bảo vệ các công việc xây dựng lắp đặt và hoạt động của các máy móc. Từ những khía cạnh trên ,ta có thể hiểu một cách khái quát về bảo hiểm XDLĐ như sau: Bảo hiểm XDLĐ là một loại bảo hiểm tài sản trong đó sự hoạt động, tồn tại, và sản xuất của đối tượng được bảo hiểm; việc đánh giá rủi ro và định phí;việc đề phòng và hạn chế tổn thất và việc phục hồi, thay thế các đối tượng được bảo hiểm bị tổn thất đòi hỏi phải có sự tham gia của các kỹ sư, sự vận dụng các phương pháp và bí quyết thuộc về khoa học kỹ thuật công nghệ. Như vậy, đặc trưng của bảo hiểm XDLĐ là các khâu của quy trình bảo hiểm đều liên quan tới khía cạnh kỹ thuật. Trên thực tế , khi tiến hành bảo hiểm cho các công trình xây dựng lắp đặt, các máy móc thiết bị đều cần phải có sự tham gia của những kỹ sư, chuyên gia am hiểu lĩnh vực kỹ thuật. Chính đặc trưng này cho phép phân biệt bảo hiểm XDLĐ với các loại hình bảo hiểm truyền thống khác như bảo hiểm cháy, bảo hiểm hàng hải. Rủi ro luôn tồn tại cùng với sự tồn tại phát triển của con người. Trong lĩnh vực KHKT, sản xuất và đời sống các công trình, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất và đời sống luôn bị đe doạ bởi các rủi ro hết sức đa dạng và phức tạp, từ các rủi ro thiên tai: mưa, bão, lụt, động đất núi lửa... cho tới các rủi ro do con người như: sai lầm do thiết kế, khuyết tật của nguyên liệu, sai lầm của công nhân điều khiển, hành động phá hoại...Chỉ cần một rủi ro, có thể rất nhỏ có thể dẫn đến những hậu quả to lớn không thể lường trước được, gây tác hại không chỉ cho một ngành hay một khu vực kinh tế quốc dân mà còn nhiều ngành và nhiều lĩnh vực khác nhau, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt, với sự phát triển của KHKT, ngày càng nhiều công trình, máy móc thiết bị với các chức năng tự động hoá, chuyên môn hoá cao có giá trị rất lớn. Thêm vào đó , ngày càng xuất hiện nhiều các rủi ro kỹ thuật mới rất phức tạp có ác hại không lường trước được. Tai nạn xảy ra có thể dẫn tới thiệt hại hết sức to lớn không những có thể gây ra phá sản cho một nhà đầu tư, một tổ chức mà còn có thể làm mất ổn định nền kinh tế. Vụ nổ tàu con thoi "Chanllenger" của Mỹ hay vụ cháy dàn khoan "Pipe alpha" trên vùng biển Bắc Âu là những ví dụ cho thấy rõ tác hại ghê gớm của các tổn thất trong khoa học kỹ thuật và bảo hiểm kỹ thuật. Chính vì lẽ đó nảy sinh nhu cầu bảo đảm về mặt tài chính cho các nhà đầu tư, các tổ chức kinh tế khi tiến hành các hoạt động đầu tư, sản xuất nhằm đảm bảo cho các công trình, dự án của họ tiến triển liên tục và có hiệu quả. Để thực hiện công việc xử lý rủi ro có thể dùng nhiều biện pháp khác nhau song bảo hiểm với cơ chế chuyển giao và phân tán rủi ro là biện pháp hữu hiệu nhất để đảm bảo về mặt tài chính cho các công trình, dự án. Thông qua cơ chế chuyển giao và phân tán rủi ro, rủi ro kỹ thuật khi xảy ra đối với một số ít các thành viên hậu quả của nó trước hết về mặt tài chính được chia nhỏ thông qua hoạt động của các tổ chức bảo hiểm cho số đông các thành viên của cộng đồng cùng gánh chịu. 2.Phân loại bảo hiểm xây dựng -lắp đặt . Bảo hiểm XDLĐ thường được phân thành hai nhóm chính: các loại hình bảo hiểm XDLĐ không thể tái tục (chỉ một lần) và có thể tái tục. 2.1. Các loại hình bảo hiểm không thể tái tục Các đơn bảo hiểm loại này được kí kết để bảo hiểm cho các dự án đang trong giai đoạn xây dựng, lắp đặt. Số tiền bảo hiểm cho những dự án như vậy có thể dễ dàng đạt tới hàng triệu USD. Vì thế, bảo hiểm thực sự là nhu cầu cần thiết cho các nhà đầu tư cũng như các nhà thầu. ở một số nước, bảo hiểm cho các dự án xây dựng, lắp đặt là bắt buộc. Hầu hết các tổ chức tài chính sẽ không cấp vốn cho các dự án trừ khi chúng được bảo vệ bằng các đơn bảo hiểm thích hợp. Thời hạn bảo hiểm, đồng thời cũng là thời gian xây dựng lắp đặt của dự án bắt đầu ngay sau khi tài sản được bảo hiểm được dỡ xuống công trường hoặc bắt đầu công việc theo hợp đồng, kết thúc khi công trình được bàn giao cho chủ đầu tư, đưa vào sử dụng hoặc ngày đã được xác định trong hợp đồng bảo hiểm. Vì thế thời hạn bảo hiểm thực tế được xác định bởi thời gian thi công xây lắp. Các đơn bảo hiểm loại này đều có phần điều kiện chung và loại trừ chung. Sau đây là một số điểm chính: Điều kiện chung: - Người được bảo hiểm phải thực hiện tất cả các biện pháp đề phòng hợp lý nhằm ngăn chặn tổn thất hay trách nhiệm xảy ra và tuân theo mọi qui chế ,kiến nghị của nhà sản xuất đưa ra để đảm bảo hoạt động an toàn của máy móc thiết bị. Hơn nữa, người được bảo hiểm phải duy trì đầy đủ các điều kiện đó. - Người được bảo hiểm phải báo ngay cho người bảo hiểm bất kỳ sự thay đổi nào của rủi ro (thay đổi số tiền bảo hiểm, thời hạn xây lắp, tiêu chuẩn thiết kế v.v... ). Điều này rất quan trọng bởi vì những thay đổi như vậy sẽ có tác động đến các điều khoản, điều kiện về rủi ro đã đồng ý trước đây. - Trong trường hợp xảy ra sự cố có thể dẫn đến việc đòi bồi thường theo đơn bảo hiểm, người được bảo hiểm phải ngay lập tức thông báo cho người bảo hiểm và cung cấp tất cả những thông tin, chứng từ, văn bản theo yêu cầu. Loại trừ chung: - Những tổn thất có tính hậu quả như tiền phạt, tổn thất do chậm trễ không đảm bảo công việc,thiệt hại hợp đồng, công việc ngừng. - Hành động cố ý hay cố tình sơ xuất của người được bảo hiểm hay đại diện của họ. - Rủi ro hạt nhân như phản ứng hạt nhân, phóng xạ hạt nhân hay nhiễm phóng xạ. - Rủi ro chính trị như chiến tranh, bạo động dân sự v.v... Một điểm chung của các dự án được bảo hiểm bởi các đơn loại này là thường hạn chế sự tương đồng trong xây dựng lắp đặt hoặc các loại rủi ro. Những rủi ro đơn giản, đồng nhất như nhà ở cư dân một, hai tầng thì xác lập mức phí với biểu phí cố định. Các rủi ro phức tạp phải được xử lý một cách riêng rẽ. Mức phí hướng dẫn dựa vào kinh nghiệm và phân tích thống kê giúp các nhà bảo hiểm xử lý rủi ro nhưng tỉ lệ phí cuối cùng được xác định một cách riêng rẽ dựa trên các thông tin do người được bảo hiểm cung cấp. Một số loại hình phổ biến là : * Bảo hiểm Mọi rủi ro xây dựng (CAR) Đây là loại hình bảo hiểm "Mọi rủi ro" bảo vệ cho Chủ đầu tư và Chủ thầu đối với thiệt hại vật chất bất ngờ và không lường trước được gây ra cho các công trình dân dụng và công nghiệp trong quá trình xây dựng. Đơn bảo hiểm này cũng bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba (TPL) có giới hạn cho các bên được bảo hiểm. * Bảo hiểm Mọi rủi ro Lắp đặt (EAR) Đây là đơn bảo hiểm "Mọi rủi ro" bảo vệ cho Chủ đầu tư và Chủ thầu đối với thiệt hại vật chất bất ngờ và không lường trước được gây ra cho máy móc cơ khí/điện hoặc từng máy móc trong quá trình lắp đặt và chạy thử. Đơn bảo hiểm này cũng bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba (TPL) có giới hạn cho các bên được bảo hiểm. Đơn bảo hiểm EAR về cơ bản giống như đơn bảo hiểm CAR. Trên thực tế các dự án lắp đặt thường đòi hỏi có một khối lượng công việc xây dựng nhất định. Nếu giá trị của phần việc xây dựng không vượt quá 20% giá trị của cả công trình thì áp dụng đơn bảo hiểm EAR. Nếu giá trị của phần việc xây dựng lớn hơn 20% nhưng nhỏ hơn 50% giá trị toàn bộ công trình thì phí bảo hiểm cho phần xây dựng được tính riêng theo biểu phí của bảo hiểm CAR mặc dừ vẫn áp dụng đơn bảo hiểm EAR. * Bảo hiểm Mọi rủi ro Xây Lắp (CWAR = Sự kết hợp giữa đơn bảo hiểm CAR và EAR) Sở dĩ phải kết hợp đơn bảo hiểm CAR với EAR là vì: Nhiều dự án xây dựng bao gồm sự kết hợp của các công trình dân dụng/nhà/điện/cơ khí. Thí dụ, sơ đồ nhà máy thuỷ điện gồm có đập, đường hầm dẫn dòng, đê quai, cống lấy nước, trụ chống chịu lực, kênh xả, tua bin thuỷ lực, máy phát điện, bảng điện, thiết bị chuyển mạch, máy biến thế và hệ thống điều khiển v.v... Rõ ràng, trong những trường hợp đó, cần hiểu rõ để đưa những đặc điểm của cả đơn bảo hiểm CAR và EAR vào việc bảo hiểm dự án đó. Công ty Swiss Re đã đạt được điều này đơn giản bằng cách kết hợp hai phần thiệt hại vật chất của đơn bảo hiểm CAR và EAR, và đưa hai phần này vào trong Phụ lục đơn bảo hiểm cơ bản, Các điều kiện chung, Các điểm loại trừ chung, Phần bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ ba hoặc, khi cần thiết, đưa thêm cả các điều khoản khác. 2.2. Các loại hình bảo hiểm có thể tái tục. Các loại hình bảo hiểm này đảm bảo cho máy móc thiết bị khi chúng đã sẵn sàng cho hoạt động thương mại, tức là sau khi xây dựng, lắp đặt xong, chạy thử thành công. Các đơn bảo hiểm loại hình này có thể được tái tục hàng năm. Vì thế , các điều kiện điều khoản của hợp đồng có thể được xem xét lại sau 12 tháng. Các đơn bảo hiểm loại này có những tính chất riêng liên quan đến phạm vi bảo hiểm . Các đơn bảo hiểm loại này cũng có những điều kiện chung và các loại trừ chung. Điều kiện chung: Giống như điều kiện chung của các đơn bảo hiểm không thể tái tục. Loại trừ chung: Ngoài các loại trừ giống như qui định trong các đơn bảo hiểm không thể tái tục còn loại trừ: - Lỗi và các khuyết tật tồn tại tại thời điểm bắt đầu của đơn bảo hiểm trong khả năng hiểu biết của người được bảo hiểm - Tổn thất mà các nhà sản xuất hoặc cung cấp phải chịu trách nhiệm bởi luật pháp hoặc theo hợp đồng Trong nhiều trường hợp việc thiết lập mức phí chính xác cho loại hình bảo hiểm có thể tái tục dễ dàng hơn so với bảo hiểm không thể tái tục bởi vì các máy móc được bảo hiểm có nhiều đặc điểm chung và thường phát sinh các khiếu nại tương tự nhau. Vì vậy, những phân tích thống kê cho phép xác định mức phí cho các loại máy móc hoặc các ngành công nghiệp khác nhau. Tuy nhiên do sự tiến bộ nhanh chóng của khoa học kỹ thuật người bảo hiểm (underwriters) đối mặt với những khó khăn lớn trong việc xác định mức phí cho các máy móc mới hoặc các máy móc nguyên mẫu vì không có sẵn các kết quả thống kê. Vì thế, trong những ttường hợp như vậy cần thiết phải có sự tham gia của những kĩ sư với kiến thức sâu vể công nghệ mới. Dưới đây là một số loại hình chính : * Bảo hiểm rủi ro đối với các công trình xây dựng dân dụng đã hoàn thành (CECR) Đó là đơn bảo hiểm các hiểm hoạ chỉ đích danh có thể tái tục hàng năm bảo hiểm cho nhiều loại công trình xây dựng dân dụng đã hoàn thành đối với thiệt hại vật chất gây ra bởi các hiểm hoạ chính bên ngoài. * Bảo hiểm máy móc thiết bị xây dựng (CPE) Đó là đơn bảo hiểm "Mọi rủi ro" thiệt hại vật chất có thể tái tục hàng năm bảo hiểm cho thiết bị xây dựng và máy móc di động hạng nặng (thường thuộc quyền sở hữu của chủ thầu hay do chủ thầu thuê mượn) đối với các hiểm hoạ chính bên ngoài. Các hạng mục được bảo hiểm sẽ được bảo hiểm trong khi đang hoạt động, tạm ngừng hoạt động, đang được bảo dưỡng/đại tu, hoặc khi được chuyên chở bằng đường bộ, đường sắt hoặc đường thuỷ nội địa và điều kiện bổ sung. 3.Bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam Từ khi Đảng và Nhà nước ta đề ra chính sách Đổi Mới và nhất là từ khi “Luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam” được ban hành, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu khởi sắc, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam không ngừng tăng nhanh,... thì bắt buộc cần phải có các loại hình bảo hiểm phục vụ đầu tư, trong đó có bảo hiểm XDLĐ. Bảo hiểm XDLĐ là hết sức cần thiết nhằm đảm bảo an toàn về vốn cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam cũng như góp phần tạo ra một môi trường đầu tư thuận lợi, an toàn ở Việt Nam. Như vậy bảo hiểm XDLĐ có tác dụng kích thích đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đơn bảo hiểm XDLĐ được cấp lần đầu tiên ở Việt Nam là đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt (EAR) cho Trạm thu phát vệ tinh mặt đất Láng Trung của Bảo Việt. Đây là công trình liên doanh giữa Tổng công ty bưu chính viễn thông và hãng Telstra- úc vào năm 1988. Kể từ đó đến nay bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam đã không ngừng phát triển với nhiều loại hình bảo hiểm khác nhau, đóng góp không nhỏ vào việc phục vụ cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước ổn định kinh doanh và sản xuất tại Việt Nam. Trong những năm qua bảo hiểm XDLĐ phát triển với tốc độ rất cao. Nếu như năm đầu tiên triển khai nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ năm 1988 tổng phí thu được ước khoảng 85.000 USD thì 10 năm sau, năm 1998 tổng phí toàn thị trường nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ đạt khoảng 7,85 triệu USD, tức là tăng lên 92 lần. Và cho tới năm 2002, tổng phí bảo hiểm XDLĐ ở nước ta đã lên tới khoảng 10,5 triệu USD (số liệu thống kê tới ngày 25/12/2002 ). Nhiều công trình xây dựng,lắp đặt lại thường có giá trị rất lớn. Ví dụ, giá trị bảo hiểm của một số công trình có giá trị lớn ở Việt Nam là như sau: Cầu Tân đệ (Thái bình): 25 triệu USD; Nhà máy đóng tàu Hyundai Vinashin (Khánh hoà): 133 triệu USD; Nhà máy xi măng Nghi sơn (Thanh hoá): 122 triệu USD; Nhà máy điện Hàm thuận Đami: 155 triệu USD; Nhà máy điện Phả lại 2: 552 triệu USD. Do nền kinh tế Việt Nam trước đây còn yếu kém và lạc hậu, mà muốn phát triển nền kinh tế thì điều kiện tiên quyết là phải có một cơ sở hạ tầng tốt. Do vậy , một trong những ưu tiên hàng đầu của Nhà nước Việt Nam hiện nay là tập trung cho việc phát triển các cơ sở hạ tầng như cần phải xây dựng và nâng cấp hàng chục cầu cảng, xây dựng một loạt các nhà máy nhiệt, thuỷ điện trong cả nước, xây dựng nhà máy lọc dầu số I và số II, xây dựng và nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt và đường thuỷ đạt tiêu chuẩn quốc tế... Chỉ tính riêng dự án "Qui hoạch phát triển hệ thống sân bay toàn quốc” mà Chính phủ vừa phê duyệt để đầu tư nâng cấp các sân bay cũ và xây dựng sân bay mới cho đến năm 2010 là 138 sân bay thì cần phải chi phí đến 23.000 tỷ VND. Ngoài việc đầu tư của Nhà nước, các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đã đầu tư số vốn đến trên 34 tỷ USD vào xây dựng nhà máy, công xưởng, khách sạn,...mà các công trình này đều là loại công trình xây lắp mới và giá trị của nó thường rất lớn,... do đó càng cần thiết phải có bảo hiểm XDLĐ – một loại hình bảo hiểm đầu tư quan trọng đồng thời đây cũng là điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và phát triển các loại hình bảo hiểm kỹ thuật ở Việt Nam . II.TBH xây dựng -lắp đặt: 1.Sự cần thiết phải TBH trong bảo hiểm xây dựng -lắp đặt: 1.1.Khái niệm chung về TBH Về TBH có thể có rất nhiều định nghĩa khác nhau, song định nghĩa chung và dễ hiểu nhất là "TBH là bảo hiểm lại cho người bảo hiểm". Cụ thể hơn, về cơ bản, TBH là một phương thức trong đó các công ty bảo hiểm gốc chuyển một phần của một hay nhiều rủi ro cho một hay nhiều công ty bảo hiểm hoặc TBH khác. Mục đích của việc làm này là để phân tán rủi ro và giảm trách nhiệm bồi thường của các công ty bảo hiểm gốc trong trường hợp có tổn thất xảy ra, đảm bảo số tiến bồi thường không vượt quá khả năng dự trữ tài chính của các công ty này. Định nghĩa về TBH một cách đầy đủ thì : Tái bảo hiểm là quá trình phân tán rủi ro đã được bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc cho các công ty nhận tái bảo hiểm . Tái bảo hiểm xuất phát từ người bảo hiểm; tái bảo hiểm có thể chỉ tái cho một nhà tái bảo hiểm hoặc nhiều hơn . (giáo trình Kinh tế bảo hiểm , trường Đại học KTQD , 2000). Sau khi chấp nhận bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm bằng hợp đồng bảo hiểm trực tiếp, người bảo hiểm trực tiếp đề nghị một hay nhiều người bảo hiểm khác bảo hiểm lại một phần trách nhiệm của hợp đồng bảo hiểm trực tiếp qua một hay nhiều hợp đồng TBH mặc dù TBH phát sinh gắn với nhu cầu được bảo hiểm của người bảo hiểm. Tuy nhiên người được bảo hiểm và người nhận TBH không có mối quan hệ hợp đồng ràng buộc. Nếu có thiệt hại xảy ra cho đối tượng được bảo hiểm thì về nguyên tắc cơ bản người được bảo hiểm không có quyền khiếu nại trực tiếp đối với người nhận TBH. 1.2.Sự cần thiết của TBH XDLĐ Một công ty bảo hiểm, cũng giống như hầu hết các công ty trách nhiệm hữu hạn khác, được thành lập với số vốn nhất định, do vậy khả năng nhận bảo hiểm cho một rủi ro và giữ lại toàn bộ rủi ro đó bị giới hạn trong phạm vi số vốn này. Song trong quá trình kinh doanh, công ty có thể nhận được các yêu cầu cấp đơn bảo hiểm với số tiền vượt xa khả năng của mình. Để có thể bảo hiểm cho những rủi ro lớn như vậy và cung cấp được mọi dịch vụ mà khách hàng yêu cầu, cần thiết phải tiến hành TBH cho những phần vượt quá mức giữ lại cho một hay nhiều các công ty bảo hiểm hay TBH khác trên thị trường. Trong bảo hiểm XDLĐ, TBH đặc biệt cần thiết xuất phát từ những lí do sau: Thứ nhất, đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm XDLĐ có giá trị rất lớn và có xu hướng ngày càng gia tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau: do sự khan hiếm nguyên vật liệu ngày càng gia tăng, sự tiến bộ khoa học kỹ thuật v.v...Với số tiền bảo hiểm lớn như vậy nếu sự cố xảy ra thì trách nhiệm bồi thường của người bảo hiểm rất lớn có thể ảnh hưởng đến toàn bộ kết quả nghiệp vụ. Thứ hai, các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm XDLĐ khác nhau đáng kể về qui mô. Thêm vào đó, sự phân tán rủi ro thấp vì số lượng rủi ro tương đối ít. Công ty bảo hiểm tìm đến TBH khi triển khai nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ để chia sẻ rủi ro và nhận được sự tư vấn giúp đỡ của người nhận tái về kỹ thuật và nghiệp vụ. Chỉ có những công ty TBH với phạm vi hoạt động rộng, có đội ngũ chuyên gia có trình độ và kinh nghiệm mới có thể giúp cho các công ty bảo hiểm gốc triển khai nghiệp vụ an toàn và có hiệu quả. Sự cần thiết của TBH XDLĐ còn được thể hiện ở những tác dụng to lớn của TBH XDLĐ. Đó là: +Tăng khả năng kí kết của công ty bảo hiểm. Nhờ có các hợp đồng TBH khả năng kí kết của công ty bảo hiểm gốc được tăng lên bởi phần trách nhiệm được chấp thuận từ công ty nhận TBH. Có thể nói, TBH giúp các công ty bảo hiểm với một khả năng tài chính hạn chế có thể linh hoạt chủ động hơn trong việc chấp thuận bảo hiểm cho các đối tượng có giá trị lớn, đáp ứng sự đa dạng trong nhu cầu bảo hiểm XDLĐ. + ổn định tình hình tài chính của công ty bảo hiểm. Người nhận TBH với tư cách là người bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm sẽ cùng chia sẻ tổn thất với công ty bảo hiểm trong trường hợp sự cố xảy ra gây tổn thất lớn nhờ vậy góp phần ổn định tình hình tài chính của công ty bảo hiểm gốc. + Giúp sửa chữa tính bất thường, đột biến của rủi ro. + Giúp các công ty bảo hiểm mới triển khai nghiệp vụ ổn định và phát triển qua việc tăng cường năng lực bảo hiểm của công ty bảo hiểm và tư vấn giúp đỡ về kỹ thuật nghiệp vụ cho công ty . + Tư vấn về nghiệp vụ và kỹ thuật. Đây là một chức năng hết sức quan trọng của TBH XDLĐ bởi vì các công ty TBH có bộ phận chuyên môn về bảo hiểm XDLĐ với những chuyên gia có trình độ rất cao về kỹ thuật cũng như nghiệp vụ có thể tư vấn cho các công ty bảo hiểm gốc trong việc đánh giá quản lý rủi ro và định phí. Sự cần thiết phải có TBH XDLĐ một phần là do bảo hiểm XDLĐ có rất nhiều thách thức trong giai đoạn hiện nay. Đó là: Số tiền bảo hiểm khổng lồ của các dự án công nghiệp và cơ sở hạ tầng cần thiết phải TBH Nhu cầu phải có các nhà bảo hiểm chuyên ngành kỹ thuật và đội ngũ cán bộ giải quyết khiếu nại chuyên nghiệp Sự tiến bộ công nghệ nhanh chóng cùng với sự thay đổi của rủi ro Tần số tổn thất cao và các chi phí quản lý có liên quan Thiếu các rủi ro đồng nhất dẫn đến làm mất cân đối bảng danh mục tổng số lượng dịch vụ bảo hiểm XDLĐ. Doanh thu phí bảo hiểm dao động trong chu kỳ kinh tế Lạm dụng các loại hình bảo hiểm (thí dụ, phí bảo hiểm CAR thấp) để thu hút các loại bảo hiểm khác có lãi hơn. Đương đầu với các kỹ năng về bảo hiểm và tài chính đặc biệt có liên quan đến loại bảo hiểm Gián đoạn kinh doanh Cần phải có sự hỗ trợ về kỹ thuật và TBH từ người nhận TBH có tiềm lực tài chính tốt và đáng tin cậy. Những thách thức trên đòi hỏi người bảo hiểm phải luôn duy trì mối quan hệ chặt chẽ với người nhận tái. Có thể nói , bảo hiểm XDLĐ không thể tách rời TBH. 2.Nội dung cơ bản của TBH xây dựng -lắp đặt: 2.1. Hình thức và phương pháp TBH : Các hình thức và phương pháp TBH sử dụng trong TBH XDLĐ không khác gì so với các hình thức và phương pháp sử dụng trong các loại nghiệp vụ khác. TBH XDLĐ có thể thu xếp theo phương pháp tỉ lệ hoặc phi tỉ lệ dưới hình thức cố định, tạm thời . 2.1.1 Các phương pháp TBH +Tái bảo hiểm tỉ lệ. Đặc trưng của phương pháp TBH tỉ lệ là số tiền bảo hiểm, phí bảo hiểm và số tiền bồi thường cùng được phân chia giữa người nhận và người nhượng theo cùng một tỉ lệ nhất định. Tỉ lệ này được xác định dựa vào các cơ sở khác nhau, có thể là tỉ lệ giống nhau đối với mọi rủi ro được nhượng trong TBH số thành hoặc khác nhau theo từng rủi ro trong TBH mức dôi. Trong TBH tỉ lệ, cái giá mà người nhận tái phải trả để nhận được dịch vụ là hoa hồng TBH. Hoa hồng này người nhận tái trả cho người nhượng và thường được xác định bằng một tỉ lệ % của phí TBH. Ban đầu, mục đích của việc trả hoa hồng phí là giúp cho người bảo hiểm trang trải chi phí để có dịch vụ và chi phí hoạt động. Các chi phí này bao gồm hoa hồng đại lý, chi phí quản lý và giải quyết bồi thường. Tuy nhiên, ngày nay hoa hồng mang tính thương mại rõ rệt. Đó là căn cứ quan trọng cho cả người nhận và người nhượng thu xếp TBH . +TBH phi tỉ lệ. Trong TBH phi tỉ lệ không có việc xác định trước tỉ lệ phân chia phí và bồi thường tổn thất giữa người nhận và người nhượng. Đặc trưng của phương pháp này là việc phân chia trách nhiệm về số tiền bảo hiểm không được đặt ra. Việc xác định phí TBH và phân bổ số tiền bồi thường phụ thuộc vào số tiền bồi thường thực tế. Số tiền bồi thường mà người nhượng phải gánh chịu được thoả thuận trước trong hợp đồng. Nó có thể được xác định bằng một tỉ lệ (tỉ lệ tổn thất) trong phương pháp TBH vượt tỉ lệ bồi thường hoặc một số tiền trong phương pháp TBH vượt mức. Người nhận tái chịu trách nhiệm đối với phần vượt quá mức khấu trừ cho đến mức giới hạn thoả thuận trước. Mức giới hạn đó cũng có thể được xác định một cách tương ứng bằng một tỉ lệ hoặc một số tiền. Cái giá cho việc cung cấp đảm bảo TBH phi tỉ lệ mà người nhận tái muốn nhận được là một phần của phí bảo hiểm gốc. Để xác định mức giá này người nhận tái xem xét các tổn thất xảy ra trong các năm trước đã được giải quyết (định phí theo kinh nghiệm) hoặc tổn thất tương lai dự tính theo loại rủi ro liên quan ( định phí theo nguy cơ tổn thất). Người nhận chỉ buộc phải bồi thường khi tổng lượng hoặc một rủi ro thuộc phạm vi TBH chịu tổn thất vượt quá mức khấu trừ. Về mặt lý thuyết, các phương pháp TBH có thể được áp dụng trong mọi nghiệp vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, trong TBH kỹ thuật nói chung và TBH XDLĐ nói riêng thì phương pháp tỉ lệ giữ vai trò thống trị. Theo thống kê 95% phí TBH kĩ thuật trên thế giới là phí TBH theo phương pháp tỉ lệ. Sau đây là một số phương pháp TBH tỉ lệ được sử dụng chủ yếu trong TBH kĩ thuật nói chung. a) Tái bảo hiểm số thành: Trong hợp đồng TBH số thành người nhận tái nhận một phần trách nhiệm theo tỉ lệ giống nhau đối với mọi đơn vị rủi ro được bảo hiểm thuộc phạm vi hợp đồng TBH. Tỉ lệ đó được xác định trước trong hợp đồng theo sự thoả thuận giữa hai bên và đó là tỉ lệ được tuân thủ khi xác định số phí TBH và phân bổ số tiền bồi thường. Ví dụ: Một công ty bảo hiểm gốc có thể quyết định thu xếp một hợp đồng TBH số thành 80% các dịch vụ XDLĐ. Điều đó có nghĩa là phần giữ lại của công ty sẽ là 20% của mỗi rủi ro riêng biệt và phần TBH cho ._.công ty TBH là 80%. Do đó, người TBH sẽ phải có trách nhiệm với 80% các rủi ro, nhận 80% phí bảo hiểm (phải trừ hoa hồng TBH) và trả 80% tổn thất rơi vào hợp đồng XDLĐ. Ưu điểm: - TBH số thành đơn giản về kỹ thuật và chi phí quản lý thấp Nhược điểm: - Mức giữ lại của người nhượng không thể bằng nhau đối với các đơn vị rủi ro gốc có số tiền bảo hiểm khác nhau. Như vậy nhiều khi người nhượng không giữ lại được phần trách nhiệm thật phù hợp với khả năng tài chính của mình nhất là đối với những rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ hoàn toàn không cần thiết phải tái đi. - Số phí bị chuyển nhượng đi lớn hơn so với các phương pháp khác. b) Tái bảo hiểm mức dôi: Trong TBH mức dôi việc phân định trách nhiệm về nguyên tắc được tiến hành như sau: - Người nhượng ấn định cho mình mức giữ lại về STBH trên mỗi rủi ro. - Phần STBH vượt quá mức giữ lại được tái đi, trách nhiệm của người nhân tái được xác định bằng số lần, một lần tương ứng với mức giữ lại của người nhượng. Nếu đơn vị rủi ro thuộc nghiệp vụ tái có STBH vượt quá mức giữ lại của người nhượng thì số tiền dôi ra sẽ được sắp xếp lần lượt theo thứ tự cho các mức dôi. Trong trường hợp có nhiều mức dôi thì mức dôi sau chỉ can thiệp một khi mức dôi trước đó đã bão hoà. Sau khi sắp xếp số tiền bảo hiểm sẽ hình thành nên những tỉ lệ nhất định, đó cũng chính là tỉ lệ cho việc xác định phí TBH và phân bổ số tiền bồi thường giữa người nhượng và các nhà nhận tái Theo thông lệ thị trường TBH XDLĐ thì mức dôi đầu tiên trong hợp đồng mức dôi là 30 lần. Điều đó có nghĩa là công ty TBH sẽ chấp nhận bảo hiểm một số tiền tối đa là 30 lần mức giữ lại của công ty nhượng. Số tiền dôi ra đó có thể được xếp thành một hay nhiều hợp đồng mức dôi hoặc TBH theo hình thức tạm thời. Phương thức này cũng là TBH theo tỷ lệ, nhưng tỷ lệ không được quy định ngay từ khi ký kết hợp đồng mà nó thay đổi theo STBH của từng đơn vị bảo hiểm. Đối với công ty nhượng, hợp đồng mức dôi có: Ưu điểm: - Chỉ phải TBH phần rủi ro vượt quá mức giữ lại của công ty, do đó đối với những rủi ro nhỏ, công ty có thể giữ lại toàn bộ. - Bằng cách giữ lại nhiều đối với rủi ro tốt và giữ lại ít đối với rủi ro xấu, công ty nhượng có thể làm ăn có lãi hơn. - Hợp đồng mức dôi là công cụ tuyệt vời cho người nhượng tạo ra sự cân bằng trong tổng lượng rủi ro Nhược điểm: Chi phí quản lý hành chính cao vì phải tuyển dụng những kỹ thuật viên có kinh nghiệm để xác định mức giữ lại cho mỗi rủi ro theo dạng rủi ro, chất lượng rủi ro, nguy cơ xảy ra tổn thất và chi phí bảo hiểm. Trách nhiệm của người nhượng vẫn bị đe doạ bởi các trường hợp tập trung tích tụ rủi ro. Đối với công ty nhận TBH, hợp đồng mức dôi có nhược điểm: Công ty nhượng giữ lại phần lớn những rủi ro tốt, nên nhà TBH chỉ nhận được phần lớn các rủi ro xấu. Hơn nữa, nhà TBH phải nhận phần lớn các rủi ro đỉnh vì công ty nhượng giữ lại phần lớn các rủi ro nhỏ. Thực tế, đối với người nhận TBH, không có một ưu điểm nào trong việc chấp nhận hợp đồng mức dôi chỉ có vì những nhược điểm nêu trên mức hoa hồng TBH trả cho công ty nhượng nhỏ hơn theo hợp đồng số thành. Mặt khác, công việc quản lý cũng nặng nề , phức tạp. c) Tái bảo hiểm kết hợp số thành và mức dôi: Đây không phải là dạng thứ ba của phương thức TBH theo tỷ lệ mà là sự kết hợp giữa hai dạng số thành và mức dôi. Với những công ty bảo hiểm mới thành lập hoạc triển khai nghiệp vụ việc kết hợp này là rất phù hợp. Bởi vì , các công ty bảo hiểm mới bắt đầu hoạt động kinh doanh, khối lượng dịch vụ mà họ nhận bảo hiểm chưa đủ ổn định để có thể tránh khỏi trường hợp không may rủi ro lớn xảy ra, đồng thời đảm bảo cho họ có thể đứng vững trên thị trường và phục vụ được những nhu cầu khác nhau của khách hàng mua bảo hiểm, công ty nhượng cần thiết phải TBH mức dôi. Bên cạch đó, vì mới thành lập nên chưa đủ số tiền dự trữ đảm bảo đương đầu với những biến thiên tổn thất theo các chu kỳ khác nhau, do vậy cân phải bảo vệ phần giữ lại gộp của mình bằng một hợp đồng số thành. Thông thường khi áp dụng dạng này, công ty nhượng đem TBH cho cùng một số nhà TBH, tức là cả hai khoản nhượng này đều cùng được đưa vào một thoả ước chung. Nguyên lý của phương pháp này: - Đầu tiên tiến hành xác định trách nhiệm về số tiền bảo hiểm của phương pháp số thành theo giới hạn trách nhiẹm đã được ấn định . Phần số tiền bảo hiểm còn lại tiếp tục được sắp xếp vào các mức dôi. - Việc phân chia trách nhiệm về số tiền bảo hiểm như vậy đã hình thành nên các tỉ lệ nhất định về trách nhiệm của các bên. Tỉ lệ đó là căn cứ để xác định phí TBH và phân bổ số tiền bồi thường. Trong dạng TBH kết hợp này, TBH số thành là hợp đồng cơ sở, TBH mức dôi là hợp đồng bổ xung tự động. Ưu điểm: - Công ty nhượng đảm bảo khả năng gia tăng về nhận trách nhiệm bảo hiểm một cách tự động mà không ảnh hưởng đến mức giữ lại của bản thân công ty (tức là không phải tăng mức giữ lại ). - Hợp đồng cơ sở ổn định hơn và phân tán trách nhiệm dễ dàng hơn. Nhược điểm: - Thủ tục và chi phí điều hành phức tạp hơn sử dụng hợp đồng số thành thuần tuý. - Phần đem TBH vào hợp đồng mức dôi cần phải có bản thông báo. - Thủ tục phí TBH thu được của phần đưa vào hợp đồng mức dôi thấp hơn so với thủ tục phí TBH đưa vào hợp đồng số thành . 2.1.2 Các hình thức tái bảo hiểm : a)TáI bảo hiểm tạm thời . TBH trong đó công ty nhượng có toàn quyền lựa chọn rủi ro cần phải TBH và ngược lại nhà TBH có quyền nhận hay từ chối rủi ro đó. Mỗi dịch vụ bảo hiểm đem nhượng theo cơ sở tạm thời là một hợp đồng TBH tách biệt, bao gồm toàn bộ hay một phần rủi ro mà công ty nhượng muốn nhượng cho thị trường TBH. Trong TBH XDLĐ, TBH tạm thời được sử dụng trong các trường hợp: - TBH cho phần vượt quá các hợp đồng TBH cố định hiện có của công ty nhượng. - Giảm bớt việc bảo hiểm vào các khu vực mà do sự tích lũy rủi ro, công ty bảo hiểm đã có nguy cơ chịu nhiều rủi ro lớn. - Giúp công ty bảo hiểm gốc có thể trao đổi dịch vụ bảo hiểm - Tăng khả năng nhận bảo hiểm đối với những dịch vụ bảo hiểm mới không nêu trong các hợp đồng cố định hiện hành. - Các dịch vụ phát sinh lớn vượt quá mức giới hạn trách nhiệm khống chế trong hợp đồng cố định hoặc hợp đồng cố định có những qui định loại trừ như phạm vi lãnh thổ khai thác. - Người bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một loại rủi ro nào đó và cần có sự tư vấn của người nhận tái. Người nhận tái có thể xác định mức phí, những điều khoản cũng như những hạn chế cần thiết cho những dịch vụ mà người bảo hiểm gốc chấp nhận. Với những điều kiện trên, hình thức TBH tạm thời có nhiều mặt giống như nghiệp vụ bảo hiểm trực tiếp, đòi hỏi công ty nhượng phải cung cấp các thông tin nhanh, đầy đủ và chính xác, đồng thời các nhà TBH phải có khả năng xét đoán rủi ro chuẩn xác, kịp thời. Ưu điểm: - Hình thức TBH này hoàn toàn không ràng buộc đối với cả 2 bên, nó cho phép nhà TBH và người nhượng TBH có được một ý niệm đúng về những rủi ro mà mình phải gánh chịu trước khi tham gia hợp đồng. - Công ty nhượng có thể phân bổ rủi ro được biểu hiện tới nhiều người nhận TBH khác nhau, do vậy rủi ro bảo hiểm sẽ được dàn trải rộng rãi. - Giúp công ty nhượng, nhất là các công ty bảo hiểm của các quốc gia đang phát triển còn non trẻ, ít kinh nghiệm để có thể hoàn thành việc nhận bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro ở địa phương mà có giá trị bảo hiểm lớn, vượt quá khả năng của thị trường TBH quốc tế. - Giúp công ty nhượng có điều kiện lựa chọn để duy trì kim ngạch bảo hiểm của mình được cân đối, bằng cách loại bỏ những rủi ro đặc biệt lớn hoặc nguy hiểm mà một khi tổn thất thuộc đơn vị rủi ro này xảy ra có thể làm ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của mình trong năm kế hoạch. Đặc biệt, đối với lĩnh vực bảo hiểm cho các rủi ro công nghiệp, số tiền bảo hiểm được gia tăng không ngừng, sự tập trung giá trị của tài sản được bảo hiểm ngày càng tăng và kéo dài, người ta thường ghép các loại bảo hiểm với nhau như bảo hiểm thiệt hại về lợi nhuận, khai thác... do đó buộc phải áp dụng hình thức TBH tạm thời. - Giúp cho công ty nhượng có quyền chủ động trong việc chấp nhận bảo hiểm cho những loại rủi ro có thể không được chấp nhận trong các hợp đồng TBH bắt buộc truyền thống của mình, chẳng hạn như: rủi ro về động đất.... Nhược điểm: - Công ty nhượng phải thông báo đầy đủ chi tiết của nghiệp vụ bảo hiểm gốc. - Chi phí hành chính, thủ tục giấy tờ tốn kém . - Với hình thức này, hợp đồng bảo hiểm gốc chỉ được thiết lập sau khi đã có thỏa thuận các hợp đồng TBH. Do đó, công ty nhượng không có sự đảm bảo chắc chắn của thị trường TBH khi họ nhận bảo hiểm một rủi ro nào đó, họ sẽ mất cơ hội tranh thủ bảo hiểm nếu như ở thị trường đó có công ty bảo hiểm khác có khả năng phục vụ tốt hơn, cung cấp dịch vụ bảo hiểm nhanh hơn. Họ có thể mất uy tín về sự chậm trễ trả lời người mua bảo hiểm. - Thường xuyên phải đàm phán, tái lập lại hợp đồng TBH trước khi ký kết bảo hiểm gốc với khách hàng mà trong nhiều trường hợp đáng lẽ không cần thiết phải thay đổi hay hủy bỏ hợp đồng đã ký đó. - Trong trường hợp khi khả năng tiếp cận rủi ro của thị trường TBH quốc tế đã gần đạt mức bão hòa, hoặc khi phí bảo hiểm gốc quá thấp so với phí trung bình của thị trường thì hình thức TBH tạm thời chỉ có thể thực hiện được với một mức phí cao hơn mức phí gốc hoặc phải giảm bớt thủ tục phí TBH. Trong trường hợp này, mức sai biệt đó sẽ do công ty nhượng tự gánh chịu, hoặc nếu không muốn vậy, công ty nhượng buộc phải giảm bớt phần trách nhiệm mà mình cam kết trong bảo hiểm gốc. bTái bảo hiểm cố định : Hình thức TBH cố định là sự thỏa thuận giữa công ty bảo hiểm gốc với một hay nhiều người nhận TBH trong đó qui định trong thời gian hiệu lực của hợp đồng tất cả các dịch vụ gốc phát sinh phù hợp với những thỏa thuận trong hợp đồng TBH đều được tự động chuyển nhượng cho người nhận TBH không cần có thương lượng gì thêm. Thời hạn hợp đồng thông thường là một năm và có thể được tái tục qua nhiều năm nếu hai bên không có ý kiến gì. Quan hệ TBH diễn ra theo nguyên tắc tin tưởng tuyệt đối. Ưu điểm: Hợp đồng TBH cho phép giảm được thủ tục đàm phán phức tạp và những chi phí liên quan. Với hình thức này, người nhận TBH có được thị trường, nhận được lượng dịch vụ ổn định hơn do vậy có điều kiện thu được số phí lớn nhất, phù hợp với nguyên tắc “Quy luật số đông”. Đối với người nhượng với hình thức này người nhượng có toàn quyền tự do chấp nhận và định mức phí bảo hiểm cho những đơn vị rủi ro mà người được bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm không cần phải tham khảo trước ý kiến của nhà TBH. Như vậy, người nhượng có được sự đảm bảo chắc chắn, không phải bận tâm nhiều đến việc TBH. Mặt khác, người nhượng cũng được quyền tự động thanh toán các vụ tổn thất của những rủi ro được bảo hiểm trong giới hạn cho phép . Như vậy, hình thức TBH cố định là thỏa ước ràng buộc các bên với nhau một cách chặt chẽ hơn là những dịch vụ bảo hiểm nhượng theo hình thức TBH tạm thời. Nhược điểm: Hai bên bị ràng buộc trên một số phương diện. Người nhận tái hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả triển khai nghiệp vụ của người bảo hiểm gốc. Vì vậy, người nhận tái thường đưa thêm những điều khoản để hạn chế phạm vi của hợp đồng cố định. c)Tái bảo hiểm lựa chọn-bắt buộc (fac-ob) Đặc trưng của hình thức này là việc chuyển nhượng rủi ro của người nhượng là tự nguyện trong khi việc chấp nhận của người nhận tái lại có tính bắt buộc: người nhượng có quyền lựa chọn rủi ro và sắp xếp đưa vào các Fac-ob đã kí kết trong khi đó người nhận tái bắt buộc phải chấp nhận những dịch vụ mà người nhượng đã đưa vào hợp đồng tái. Hợp đồng này được sử dụng khi người nhượng muốn giảm bớt những bất thuận của hợp đồng tạm thời và cũng chưa đủ điều kiện để nâng mức trách nhiệm hoặc thu xếp một hợp đồng cố định. Hình thức TBH này rất hiếm được áp dụng do sự phức tạp và thiếu tính ràng buộc pháp lý của nó. TBH mở sẵn chỉ áp dụng cho một số loại nghiệp vụ đặc biệt So với hình thức TBH tạm thời, người nhận TBH bất lợi hơn vì không có quyền được từ chối không nhận những rủi ro mà một khi họ không muốn. Để bù đắp thiệt thòi nói trên, trong hình thức TBH này, người nhận TBH có điều kiện thu nhập nguồn phí TBH lớn hơn và có phần thăng bằng hơn so với hình thức TBH tạm thời. Tuy nhiên, hoa hồng TBH thường cao hơn so với TBH tạm thời. Đối với công ty nhượng, trong trường hợp có nhiều đơn vị rủi ro cần phải đem TBH thì cho phí hành chính cho việc áp dụng hình thức TBH này sẽ rất tốn kém vì những rủi ro cần TBH đó thường đòi hỏi các điều kiện TBH khác nhau, công tác tính toán phí và sổ sách kế toán sẽ phức tạp và khó khăn hơn nhiều. 2.2. Một số điều khoản, điều kiện chủ yếu của hợp đồng TBH xây dựng -lắp đặt : Như đã trình bày ở trên TBH tỉ lệ là phương pháp chủ yếu sử dụng trong TBH XDLĐ. Vì vậy, ở đây chỉ đề cập đến nội dung của hợp đồng TBH tỉ lệ. Về mặt hình thức, một hợp đồng TBH XDLĐ đầy đủ có ba phần: - Hợp đồng. - Phụ lục Hợp đồng. - Bảng mức giữ lại. Về nội dung, hợp đồng TBH XDLĐ đề cập đến các nội dung chủ yếu sau: - Đối tượng và phạm vi của hợp đồng . - Qui định về điều kiện bảo hiểm áp dụng cho các nghiệp vụ bảo hiểm thuộc phạm vi hợp đồng. - Phân chia trách nhiệm. - Hoa hồng. - Giải quyết bồi thường. - Một số quyền và nghĩa vụ của người nhượng và người nhận liên quan tới việc theo dõi, quản lý hợp đồng. - Thời hạn bắt đầu và kết thúc hợp đồng. - Trọng tài. Việc khai thác và TBH cho các rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm XDLĐ khác so với các loại hình bảo hiểm truyền thống ở một số khía cạnh. Những khác biệt này có thể tóm tắt như sau: - Thiếu sự phân tán rủi ro do số lượng rủi ro khá ít. - Nguy cơ rủi ro của sự thay đổi công nghệ như nguyên vật liệu mới, phương pháp xây dựng mới, thiết kế thay đổi, nhiệt độ tăng lên v.v.. - Nguy cơ rủi ro cao hơn mức bình thường của các hiểm hoạ tự nhiên và bản chất dài hạn của các loại hình bảo hiểm. Những điểm này khiến cho cần thiết phải đi sâu xem xét một số điều kiện điều khoản sau đây: * Hoa hồng phí: Trong TBH tỉ lệ thì hoa hồng là cái giá mà người nhận phải trả để nhận được hợp đồng. Nguồn gốc của hoa hồng xuất phát từ ý tưởng chia sẻ chi phí quản lý khai thác dịch vụ giữa người nhận và người nhượng. Người nhận tái không phải bỏ ra các chi phí khai thác, quản lý theo dõi hợp đồng trong khi đó phí nhượng cho người nhận bao gồm cả những khoản chi phí này. Như vậy, hoa hồng là khoản người nhận tái trả cho người nhượng những chi phí khai thác dịch vụ , quản lý và giải quyết bồi thường. Song ,ngày nay, hoa hồng được xác định không còn dựa nhiều vào các chi phí này của người nhượng tái. Hoa hồng như giá cả của dịch vụ TBH chủ yếu phụ thuộc vào cung cầu trên thị trường. Thông thường hoa hồng được xác định theo công thức: Hoa hồng phí = tỉ lệ % thoả thuận X phí TBH Ngoài cách tính trên còn có phương pháp xác định hoa hồng theo thang bậc, song trong TBH XDLĐ thì hoa hồng theo thang không được sử dụng mà chỉ có khoản hoa hồng thông thường xác định theo phương pháp trên (thủ tục phí) và hoa hồng theo lãi: Trong hợp đồng TBH XDLĐ thường có điều khoản hoa hồng theo lãi. Điều khoản này qui định người nhận tái phải chuyển cho người nhượng một phần lãi có được từ kết quả hợp đồng TBH. Hoa hồng theo lãi = tỉ lệ % thoả thuận X số lãi sau khi cân đối thu chi nghiệp vụ của người nhận tái. Điều khoản này thường qui định kèm theo việc chuyển trừ lỗ đến hết hoặc trong một số năm nhất định (3 - 5 năm). Chuyển trừ lỗ tức là hoa hồng theo lãi không chỉ căn cứ vào kết quả lỗ lãi của từng năm tài chính. Nếu như chuyển trừ lỗ được qui định đến hết thì người nhận tái chỉ trả cho người nhượng khoản hoa hồng theo lãi của năm tài chính theo lãi mà lỗ của năm tài chính trước đã được trừ hết từ lãi của năm đó và của những năm trước. Điều khoản hoa hồng phí theo lãi đảm bảo kết quả tốt đẹp giữa hai bên , đảm bảo mỗi bên có tỉ lệ lãi thích hợp. * Điều kiện bảo hiểm Đa số các công ty trên thế giới đều sử dụng các mấu đơn và biểu phí của một số công ty TBH lớn có uy tín trong lĩnh vực này như Munich Re, Swiss Re. Mặt khác, doanh số phí bảo hiểm XDLĐ thường chiếm tỉ trọng không lớn trong tổng lượng phí của các công ty bảo hiểm . Do đó, vì lí do chi phí việc triển khai nghiệp vụ thường do phòng bảo hiểm hỗn hợp đảm nhiệm. Điều này rõ ràng làm hạn chế việc tích luỹ kinh nghiệm và bí quyết khai thác. Trong khi đó, các công ty TBH thường có một bộ phận chuyên phụ trách nghiệp vụ kỹ thuật có kinh nghiệm trình độ. Vì vậy. người nhận tái cung cấp cho công ty nhượng các mẫu hợp đồng và những hướng dẫn định phí . Do vậy, trong hợp đồng TBH XDLĐ thường có điều khoản qui định về điều kiện bảo hiểm mà công ty nhượng áp dụng triển khai nghiệp vụ . Điều khoản đó qui định công ty TBH sẽ cung cấp cho người nhượng các điều kiện, điều khoản của đơn/hợp đồng bảo hiểm và những hướng đẫn định phí cũng như những kinh nghiệm của mình và công ty nhượng sẽ coi đây là cơ sở cho các hoạt động khai thác nghiệp vụ. Và các điều kiện đơn bảo hiểm cũng như biểu phí áp dụng cho các nghiệp vụ thuộc phạm vi hợp đồng TBH được coi như một phần không tách rời của hợp đồng. Bất kỳ thay đổi bổ sung đáng kể nào về điều kiện , biểu phí phải được thông báo ngay cho người nhận tái. * Giải quyết bồi thường: Để nhận được kinh nghiệm trong việc giải quyết bồi thường của người nhận tái trong hợp đồng TBH thường có điều khoản qui định khi tổn thất xảy ra vượt quá một mức thoả thuận trước ghi trong hợp đồng. Người nhượng sẽ giải quyết bồi thường với sự tư vấn, giúp đỡ của người nhân tái. Và cũng để kiểm soát người nhượng, người nhận tái có quyền tham gia vào giải quyết khiếu nại bằng cách cử một đại diện tham gia. * Mức trách nhiệm của hợp đồng So với hợp đồng TBH nghiệp vụ khác, hợp đồng TBH XDLĐ thường rất mất cân bằng. Nếu như một hợp đồng TBH cháy thường có tỉ lệ lượng phí trên mức trách nhiệm hợp đồng là 1: 1 hoạc 1: 2 thì tỉ lệ này trong hợp đồng XDLĐ thường ở mức 1: 10 và thậm chí có thể lên tới 1: 30 hay hơn nữa. Lí do chính là phần nhượng các rủi ro XDLĐ rất bất thường do bản chất không thể tái tục và giá trị bảo hiểm có thể dao động từ mức khá khiêm tốn tới mức rất cao. Có thể thu xếp một hợp đồng mức dôi thứ hai trên mức thứ nhất để nâng trách nhiệm. Tuy nhiên trừ khi số lượng chuyên nhượng đủ lớn và mối quan hệ giữa mức trách nhiệm bổ sung như vậy với nguy cơ rủi ro tương đối cân bằng, người ta thường sử dụng hợp đồng tạm thời cho phần vượt quá giới hạn hợp đồng . Mức dôi thứ nhất vì rủi ro được bảo hiểm trong bảo hiểm XDLĐ thường có nguy cơ rủi ro cao, mặt khác chỉ cần một tổn thất đơn nhất cũng có thể làm hỏng kêt quả hợp đồng trong nhiều năm. * Mức giữ lại: Trong hợp đồng TBH XDLĐ luôn kèm theo bảng mức giữ lại. Mục đích chính của bảng mức giữ lại là tạo ra sự cân bằng tối ưu trong mức giữ lại của người nhượng và giới hạn trách nhiệm của hợp đồng TBH đối với những rủi ro lớn mà có khả năng xảy ra tổn thất lớn. Điều quan trọng đỗi với bảng mức giữ lại là phải được sử dụng một cách đúng đắn. Và người nhượng phải cùng với người nhận thoả luận về chức năng và cách thức áp dụng bảng mức giữ lại . Việc áp dụng không đúng có thể dẫn tới lượng phí nhượng thấp và mức trách nhiệm của hợp đồng TBH không bình thường. Trong việc xác định mức giữ lại của loại hình bảo hiểm có thể tái tục thì mức giữ lại thường được xác định dựa trên số tiền bảo hiểm cao nhất của các hạng mục được bảo hiểm chứ không dựa trên tổng số tiền bảo hiểm hoặc từng hạng mục đơn lẻ. Lí do là vì trong các loại hình bảo hiểm này rất ít khi xảy ra tổn thất toàn bộ. Hầu hết các tổn thất là tổn thất bộ phận và chỉ ảnh hưởng đến một hạng mục mà thôi. Ngược lại ,trong bảo hiểm XDLĐ nguy cơ xảy ra tổn thất toàn bộ là rất lớn nên phải tính mức giữ lại dựa trên tổn số tiền bảo hiểm của phần thiệt hại vật chất cộng với các đảm bảo bổ sung như máy móc của chủ thầu... Phần thứ hai Thực tế nghiệp vụ TBH XÂY DựNG -LắP ĐặT ở Công ty TBH quốc gia Việt Nam (VINARE ) I. Vài nét về Công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam (VINARE) 1.Sự hình thành và phát triển. Công ty Tái Bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (viết tắt là VINARE) là doanh nghiệp Nhà nước, trực thuộc Bộ Tài Chính, tên giao dịch quốc tế là VIETNAM NATIONAL REINSURANCE COMPANY, thành lập ngày 27/09/94 theo quyết định 920/QĐ/TCCB của Bộ Tài Chính và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1995. VINARE hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh Tái bảo hiểm (TBH) theo luật pháp của Nhà nước và theo các qui định trong điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty do Bộ Tài Chính ban hành. Công ty TBH quốc gia Việt Nam là một pháp nhân hạch toán kinh tế độc lập được Nhà nước cấp vốn điều lệ, được tự chủ về hoạt động kinh doanh tài chính, được mở và sử dụng các tài sản bằng tiền Việt Nam, ngoại tệ tại các ngân hàng theo quy định của Nhà nước, trực tiếp thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách Nhà nước theo luật hiện hành. 1.1. Chức năng, nhiệm vụ của VINARE: Với số vốn ban đầu do Nhà nước cấp là 40 tỷ VNĐ, VINARE là công ty TBH chuyên nghiệp duy nhất hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ sau: - Thực hiện kinh doanh nhận TBH của các doanh nghiệp bảo hiểm trong và ngoài nước. - Thực hiện TBH phần vượt quá khả năng tài chính của mình trên nguyên tắc sử dụng có hiệu quả khả năng nhận TBH của thị trường bảo hiểm trong nước tới mức tối đa. - Giúp đỡ và tư vấn về việc thu xếp TBH cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. - Tổ chức việc tiếp nhận và cung cấp thông tin về thị trường bảo hiểm, TBH thế giới (quy tắc, hợp đồng, điều khoản, tỷ lệ phí bảo hiểm, hoa hồng bảo hiểm, TBH... ) cho các doanh nghiệp bảo hiểm. - Nghiên cứu và tiến hành các biện pháp tăng cường khả năng tài chính của công ty để đảm bảo thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với Nhà nước và khách hàng, đồng thời có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn theo các quy định hiện hành. - Thông tin tuyên truyền mở rộng và phát triển hoạt động TBH. Để thực hiện các nhiệm vụ trên, công ty TBH quốc gia có quyền: - Quan hệ với các công ty bảo hiểm, TBH trong nước và ngoài nước trong lĩnh vực kinh doanh TBH. - Ký kết và thực hiện các hợp đồng liên quan đến hoạt động kinh doanh TBH với các khách hàng trong và ngoài nước. - Được liên doanh, liên kết với các tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của Nhà nước. - Được phép vay vốn bằng tiền Việt Nam hoặc ngoại tệ của các ngân hàng và huy động vốn của các tổ chức kinh tế khác theo quy định của Nhà nước khi cần thiết để phục vụ hoạt động kinh doanh. - Được phép đầu tư vốn theo các quy định của Nhà nước. - Ban hành các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo về các hoạt động nghiệp vụ, lệ phí hoa hồng dịch vụ thuộc phạm vi hoạt động TBH của công ty TBH quốc gia. - Yêu cầu các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp các tài liệu liên quan đến việc thu xếp TBH cho các dịch vụ bảo hiểm, tiến hành giám định và đánh giá về giá trị bảo hiểm, tổn thất về tài sản được bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thu xếp TBH và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với các doanh nghiệp bảo hiểm. - Khởi kiện các tranh chấp trong quan hệ với khách hàng trước cơ quan toà án kinh tế. 1.2. Tổ chức bộ máy của công ty VINARE bao gồm : 1.2.1. Văn phòng công ty: Văn phòng công ty có chức năng tham mưu giúp việc cho Giám đốc công ty trong quá trình điều hành, quản lí và chỉ đạo các hoạt động của công ty; trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ TBH và các dịch vụ liên quan; thống nhất thực hiện mọi quan hệ hợp tác đối ngoại của công ty trong hoạt động TBH. Cơ cấu bộ máy của văn phòng công ty : Giám đốc Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng nhân sự và đào tạo Phòng Phòng Phòng tổng hợp kế toán kĩ thuật - dầu khí Phòng Phòng Phòng Hành chính đầu tư phi hàng hải Phòng Phòng hàng không hàng hải Các chi nhánh 1.2.2. Chi nhánh của công ty ở trong nước ( TP Hô Chí Minh): Là đơn vị hạch toán phụ thuộc, được thành lập tại các tỉnh, thành phố; có con dấu riêng mang tên Chi nhánh và thực hiện các nhiệm vụ do Giám đốc Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam giao. Việc thành lập hay giải thể Chi nhánh trong nước do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam. 1.2.3. Văn phòng đại diện hay chi nhánh ở nước ngoài ( hiện chưa thành lập ): Chức năng của văn phòng này (nếu có) sẽ là trực tiếp hoặc dết hợp với các Công ty môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm thu xếp các hợp đồng tái bảo hiểm, nhận tái bảo hiểm theo yêu cầu của Công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam hoặc các Công ty bảo hiểm khác. Việc thành lập, giải thể các Chi nhánh hoặc Văn phòng đại diện của Công ty tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam ở nước ngoài do Bộ trưởng Bộ Tài chính quyết định trên cơ sở đề nghị của Giám đốc Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam và theo đúng quy chế của Nhà nước. Với nghĩa vụ và quyền hạn như trên, VINARE tham gia vào thị trường TBH trước hết với tư cách là một công ty nhận TBH từ các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Sau đó, VINARE còn hoạt động như một người nhượng TBH khi công ty chuyển nhượng phần vượt quá khả năng của mình cho các công ty bảo hiểm nội địa và thị trường TBH quốc tế. II.Những nhân tố ảnh hưởng tới sự triển khai nghiệp vụ TBH xây dựng -lắp đặt : 1 .Thuận lợi : 1.1.Quy định TBH bắt buộc của Bộ tài chính Bảo hiểm là một loại buôn bán vô hình và cũng là một biện pháp quan trọng để tích luỹ vốn, tăng thêm sức mạnh cho nhà nước. Phí bảo hiểm bị thất thoát ra nước ngoài là một vấn đề thường hay gặp phải trong các nước đang phát triển như Việt Nam. Để giải quyết mâu thuẫn giữa việc mở cửa thị trường bảo hiểm và phí bảo hiểm bị thất thoát ra nước ngoài, cách nhận định và giải quyết vấn đề này của từng nước tuy có khác nhau nhưng đều áp dụng biện pháp phù hợp với đặc điểm của nước mình, để cho số phí bảo hiểm giữ lại cho nước mình được nhiều nhất. Thực tế đã chứng minh rằng, giới bảo hiểm trong các nước này đang phát triển, liên hợp lại, xây dựng thành tập đoàn TBH, đó là một trong những giải pháp có hiệu quả. Đối với những nước đang phát triển, nhất là khi nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu về bảo hiểm ngày càng phong phú hơn, đồng thời yêu cầu về giám sát, quản lý bảo hiểm cũng ngày càng cao hơn. Ngoài cách sử dụng biện pháp hành chính, công cụ pháp luật, biện pháp kinh tế, thì việc vận dụng phương thức TBH bắt buộc là điều rất cần thiết và cũng là một trong những giải pháp có hiệu quả tốt. TBH bắt buộc là một biện pháp thường hay áp dụng trong các nước đang phát triển. Nó có tác dụng rất tốt trong việc bảo vệ sự phát triển của ngành bảo hiểm nội địa, nâng cao thêm trình độ năng lực và khả năng nhận bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, tăng cường sự trao đổi và hợp tác giữa các công ty bảo hiểm. TBH bắt buộc là một giai đoạn quá độ trong quá trình kinh doanh bảo hiểm của các nước đang phát triển nhưng lại là một giai đoạn không thể thiếu để cuối cùng sẽ tiến tới TBH tự nguyện, hoàn toàn tự do. Các quy định về TBH bắt buộc ở Việt Nam: TBH bắt buộc ở Việt Nam được qui định rõ trong Nghị định 100/CP ngày18/12/1993 của chính phủ về hoạt động kinh doanh bảo hiểm (điều 6), Qui định về TBH bắt buộc gắn liền với sự hoạt động của VINARE trong việc triển khai các nghiệp vụ. Nó tạo điều kiện hết sức thuận lợi cho VINARE khi bắt đầu triển khai các nghiệp vụ cũng như trong những năm sau này 1.2.Tiềm năng lớn của bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam Bảo hiểm XDLĐ thực sự được triển khai từ khi có đầu tư nước ngoài vào Việt Nam (năm 1988). Năm 1988 với tổng số phí bảo hiểm thu được ban đầu ước khoảng 85.000 USD. Nhưng đến năm 1998 tổng phí của nghiệp vụ này trên toàn thị trường bảo hiểm Việt Nam ước lên đến 7,85 triệu USD, tức là tăng lên gấp 92 lần so với năm đầu tiên triển khai nghiệp vụ bảo hiểm này.Cho tới năm 2002,con số này đã là 10,5 triệu USD .Theo đánh giá của các nhà phân tích thuộc công ty TBH lớn nhất thế giới MunichRe thì thị trường bảo hiểm XDLĐ ở Việt Nam còn đầy tiềm năng. Bảo hiểm XDLĐ phát triển mạnh nhờ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam gia tăng, chính sách chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của Nhà nước đồng thời nhờ có những quy định, thông tư của Chính phủ, của Bộ Tài chính quy định về bảo hiểm kỹ thuật nói chung và XDLĐ nói riêng (Luật Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam - sửa đổi quy định các công trình xây dựng có vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam phải tham gia bảo hiểm tài sản và trách nhiệm tại các công ty bảo hiểm được phép hoạt động tại Việt Nam). Những điều kiện trên đã tác động tích cực đối với sự phát triển của loại hình bảo hiểm này ở nước ta. 1.3.Quan hệ chặt chẽ với các công ty bảo hiểm gốc Thực hiện chức năng của một công ty TBH quốc gia, VINARE đã cung cấp điều kiện điều khoản , biểu phí cho các công ty bảo hiểm trong nước - những khách hàng của mình giúp các công ty bảo hiểm gốc đặc biệt là các công ty bảo hiểm mới ra đời triển khai nghiệp vụ, thu xếp các chương trình TBH, đào tạo cán bộ nghiệp vụ. Đặc biệt, trong nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ, một loại hình bảo hiểm mà việc khai thác, định phí rất khó khăn các cán bộ nghiệp vụ của VINARE đã thường xuyên giúp đỡ các cán bộ nghiệp vụ của các công ty gốc trong xử lý nghiệp vụ , giải đáp những thắc mắc, vướng mắc của họ trong kỹ thuật nghiệp vụ; cung cấp cho các công ty gốc các điều kiện điều khoản phù hợp nhất làm cơ sở cho các công ty này triển khai nghiệp vụ. Qua những hoạt động đó,VINARE đă thắt chặt mối quan hệ nhờ đó tranh thủ nhận được các dịch vụ tự nguyện từ các công ty này. Mặt khác, việc am hiểu tình hình củacác công ty giúp VINARE có những chính sách thích hợp trong nghiệp vụ . 1.4 .Sự giúp đỡ của các công ty bảo hiểm ,môi giới bảo hiểm và TBH lớn trên thế giới. Một thuận lợi lớn trong hoạt động của VINARE trong việc triển khai nghiệp vụ TBH XDLĐ là có sự hỗ trợ giúp đỡ nhiều mặt của các công ty bảo hiểm , TBH, môi giới bảo hiểm lớn trên thế giới. Munich Re, Swiss Re - hai công ty TBH hàng đầu thế giới với đội ngũ chuyên gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực bảo hiểm và TBH đã giúp đỡ công ty đào tạo cán bộ nghiệp vụ, cung cấp các điều kiện điều khoản, biểu phí cũng như các phương pháp , cách thức xử lý nghiệp vụ. Nhiều chuyên gia của Munich Re đã trực tiếp sang Viẹt nam để giúp đỡ công ty. 2.Khó khăn: 2.1.Lực lượng và cơ sở vật chất còn hạn chế : Một trong những khó khăn lớn của VINARE trong triển khai các nghiệp vụ là lực lượng cán bộ và cơ sở vật chất. Công ty mới ra đời cơ ._.à quản lý ngành bảo hiểm. - Liên kết các tổ chức bảo hiểm trong một tổ chức thống nhất để có thể thực hiện tốt hơn việc hợp tác với các tổ chức nghề nghiệp khác trong nền kinh tế cũng như các tổ chức nghề nghiệp bảo hiểm trên phạm vi thế giới. ở những nước có thị trường bảo hiểm phát triển, các Hiệp hội bảo hiểm được thành lập rất sớm và đóng góp tích cực cho việc phát triển tích cực. ở Việt Nam, kể từ khi ban hành Nghị định 100/CP, thị trường bảo hiểm bước vào giai đoạn cạnh tranh với sự tham gia của các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Trong quá trình kinh doanh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm tất yếu phát sinh sự cạnh tranh và hợp tác. Tuy nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm ngày càng quyết liệt và có biểu hiện không lành mạnh còn sự hợp tác giữa các doanh nghiệp rất hạn chế và không thường xuyên. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp bảo hiểm quay lưng lại với nhau và hoạt động theo kiểu mạnh ai người nấy chạy, không nhằm mục đích phát triển tổng thể ngành. Lợi dụng sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước các tổ chức nước ngoài có những hoạt động bất hợp pháp gây thiệt hại rất lớn cho các công ty trong nước, cho thị trường bảo hiểm và Nhà nước. Như vậy, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp bảo hiểm như hiện nay không chỉ làm thiệt hại cho bản thân các doanh nghiệp bảo hiểm mà còn làm suy yếu thị trường bảo hiểm nói chung; Nhà nước thất thoát một nguồn ngoại tệ lớn do phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam có những vai trò rất lớn. Nó thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động đồng bảo hiểm và TBH giữa các doanh nghiệp qua đó nâng cao mức giữ lại cho thị trường, ngăn chặn phí bị chảy ra nước ngoài cũng như ngăn chặn được những hoạt động thao túng thị trường của các tổ chức bảo hiểm nước ngoài. Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam sẽ hoà nhập vào Hiệp hội bảo hiểm ASEAN và các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có thể tham gia vào các hoạt động của các công ty bảo hiểm ASEAN và hội nhập vào thị trường bảo hiểm thế giới. Như vậy, Hiệp hội bảo hiểm mang lại lợi ích to lớn, có tính chất quyết định đến sự phát triển của thị trường bảo hiểm trong cơ chế cạnh tranh và chỉ khi đó VINARE mới thực sự phát huy được vai trò của một công ty TBH quốc gia. 3. Tăng cường vốn cho VINARE. Trong những năm qua, VINARE đã cố gắng đến mức tối đa để nâng cao mức giữ lại phí bảo hiểm cho thị trường trong nước. Nếu như năm 1995 trong nghiệp vụ TBH XDLĐ, tỉ trọng phí nhượng ra nước ngoài là 89% thì đến năm 1998, chỉ còn khoảng 65%. Có thể nói đây là nỗ lực lớn của công ty cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước. Tuy nhiên, phần chuyển ra nước ngoài như vậy vẫn còn là quá lớn. Nguyên nhân chủ yếu là do khả năng tài chính của VINARE còn quá nhỏ. Trong kinh doanh TBH, về mặt lý thuyết mức giữ lại tối đa của một tổ chức bảo hiểm được xác định theo công thức: Z= trong đó: Z: là mức giữ lại tối đa F: toàn bộ vốn tự có (vốn +dự trữ) P: doanh thu phí và thu nhập khác C: những chi phí phát sinh S: số lượng thiệt hại (xác định bằng các lấy số lượng rủi ro nhân với xác suất xảy ra thiệt hại). Việc xác định mức giữ lại thực tế tất nhiên còn chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác song không được quá sai lệch so với mức giữ lại xác định theo công thức trên. Từ công thức ta thấy muốn tăng mức giữ lại thì tổ chức bảo hiểm phải tăng vốn tự có F. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế. Trên thực tế, khi xác định mức giữ lại tổ chức bảo hiểm cần phải căn cứ và khả năng tài chính của mình. Vốn lớn thì tổ chức bảo hiểm có thể ấn định mức giữ lại lớn. VINARE bắt đầu hoạt động với số vốn ban đầu là 40 tỉ VNĐ, tương đương 4 triệu USD. Sau 4 năm hoạt động, đến hết năm 1998 công ty đã nâng mức vốn hoạt động lên 150 tỉ VNĐ.Và cho tới cuối năm 2002 ,công ty đã nâng mức vốn hoạt động lên gần 300 tỷ VNĐ. Đây là cố gắng lớn của công ty. Song so với số vốn của công ty bảo hiểm, TBH trong khu vực như công ty TBH quốc gia Malaysia (75 triệu USD) thì số vốn của công ty vẫn còn quá nhỏ. Số vốn nhỏ lại phải dàn trải cho các nghiệp vụ, chủ yếu là nghiệp vụ bảo hiểm đối ngoại mà trách nhiệm bảo hiểm rất lớn, có khi lên tới hàng trăm triệu USD. Chính vì vậy, mức giữ lại của VINARE đối với nghiệp vụ TBH XDLĐ cũng như các nghiệp vụ khác rất thấp. Để tồn tại khi thị trường có các công ty bảo hiểm nước ngoài cần phát triển vốn. Để VINARE thực hiện tốt chức năng của mình thì Nhà nước cần phải bổ sung thêm vốn cho VINARE và các công ty bảo hiểm nhà nước khác. Vậy tăng vốn cho VINARE bằng cách nào? Nhà nước không thể tăng vốn trực tiếp bằng cách cấp thêm vốn bởi vì cấp thêm vốn bổ sung thì phải nhận thêm nhiệm vụ và như vậy hầu như không có tác dụng. Mặt khác, trong điều kiện vốn ngân sách eo hẹp, việc bổ sung thêm vốn cũng khó khăn. Có ý kiến cho rằng nên cổ phần VINARE trong đó Nhà nước nắm cổ phần chi phối, phần còn lại sẽ do các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nắm giữ. Với biện pháp như vậy có thể đạt được 2 mục tiêu: - Tăng nguồn vốn đáng kể cho VINARE. - Thắt chặt quan hệ giữa các công ty bảo hiểm trong nước do sự ràng buộc về lợi ích. Các công ty bảo hiểm gốc có những đóng góp tích cực cho hoạt động của VINARE như ưu tiên TBH phần tự nguyện qua VINARE. Song theo em giải pháp như vậy là chưa thích hợp trong điều kiện hiện nay khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam mới hoạt động và thị trường bảo hiểm Việt Nam, hoạt động kinh doanh TBH vẫn còn cần phải được Nhà nước kiểm tra, giám sát qua một tổ chức như VINARE. Giải pháp cho vấn đề này là Nhà nước nên bỏ thuế vốn và miễn thuế thu nhập cho công ty trong 7-10 năm. Việc thu thuế vốn đối với ngân sách cấp cho doanh nghiệp nhà nước nói chung, VINARE như hiện nay là không hợp lý. Nhà nước không thể đánh thuế trên chính vốn của Nhà nước. Thực chất thuế vốn là biện pháp mang tính chất thu hồi vốn của Nhà nước. Việc trừ thuế vốn vào lãi sau thuế làm cho VINARE không có điều kiện bổ sung các quỹ dự phòng kỹ thuật và quỹ phát triển kinh doanh. Ngoài việc bỏ thuế vốn thì Nhà nước cần miễn thuế thu nhập cho VINARE. VINARE không thuần tuý là một tổ chức kinh doanh mà còn đóng vai trò của một cơ quan quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam. Để tăng cường năng lực cho VINARE thì Nhà nước phải miễn thuế thu nhập trong khoảng thời gian nhất định (10 năm). Năm 2001, VINARE đóng góp vào ngân sách nhà nước gần 5 tỉ đồng.Nếu như được miễn thuế trong 10 năm thì công ty được bổ sung thêm khoảng 50 tỉ đồng. Số vốn bổ sung đó cộng với cố gắng tăng cường các quỹ dự phòng kỹ thuật, quỹ phát triển kinh doanh, công ty sẽ tăng cường đáng kể tiềm lực tài chính của mình. Nhờ đó, VINARE có thể đứng vững trên thị trường trong điều kiện cạnh tranh có sự tham gia hoạt động của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Là một công ty TBH chuyên nghiệp trong nước, ở một chừng mực nào đó, VINARE có những lợi thế cạnh tranh tự nhiên: nhận thức đầy đủ và hiểu biết rõ hơn về ngôn ngữ, môi trường cùng với những đặc điểm về chính trị, xã hội và pháp lý trong nước, tập quán, cách xâm nhập thị trường, mối quan hệ cá nhân lâu dài với các công ty khác trên thị trường và các cơ quan giám sát IV. Một số biện pháp nhằm nâng cao nghiệp vụ TBH xây dựng lắp đặt ỏ VINARE 1. Tăng tỉ lệ hoa hồng. Như đã trình bày ở phần thứ nhất, phương pháp TBH được sử dụng trong TBH XDLĐ là phương pháp tỉ lệ. Trong TBH tỉ lệ, các giá mà người nhận tái phải trả để nhận được dịch vụ chính là hoa hồng phí. Tỉ lệ hoa hồng trong nước do VINARE trả và tỉ lệ hoa hồng do các công ty nước ngoài trả chênh nhau ít nhất là 5%. Đó là lí do chính để các công ty bảo hiểm gốc không muốn nhượng cho VINARE phần ngoài bắt buộc mà thường nhượng ra nước ngoài. Để đạt được mục tiêu giành được phần tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc thì VINARE phải đưa ra tỉ lệ hoa hồng cạnh tranh. Cụ thể: - Tăng tỉ lệ hoa hồng, thậm chí có thể ngang bằng với tỉ lệ các công ty nước ngoài trả. Cho đến nay, thì nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ vẫn là nghiệp vụ có kết quả rất tốt hoàn toàn cho phép VINARE tăng tỉ lệ hoa hồng. Mặc dù tăng tỉ lệ hoa hồng có thể làm giảm kết quả kinh doanh của từng dịch vụ nhưng xét tổng thể VINARE sẽ thu được tổng lợi nhuận lớn hơn do số lượng dịch vụ tăng lên. Hiệu ứng này giống như chính sách giảm giá bán sản phẩm trong lĩnh vực sản xuất nhằm tăng lượng sản phẩm bán ra. Tăng tỉ lệ hoa hồng là việc làm tất yếu nếu muốn giành được thêm nhiều dịch vụ tự nguyện. Tỉ lệ hoa hồng cạnh tranh cộng với những lợi thế của công ty chắc chắn sẽ giúp nhận được nhiều dịch vụ tự nguyện hơn từ các công ty trong nước. - Bổ sung điều khoản hoa hồng theo lãi vào các hợp đồng nhận tái. Các công ty bảo hiểm gốc khi nhượng cho các công ty bảo hiểm nước ngoài thì ngoài hoa hồng cố định thông thường ( thủ tục phí ) còn nhận thêm được hoa hông theo lãi với tỉ lệ 15- 17% lãi của hợp đồng TBH. trong khi đó trong các hợp đồng TBH cố định của VINARE thì chỉ có hoa hồng thông thường. Vì vậy, cùng với việc tăng tỉ lệ hoa hồng thì trong thời gian tới để thu hút được phần tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc thì cũng cần thiết đưa điều khoản hoa hồng theo lãi vào trong các hợp đồng TBH. Tác dụng của biện pháp này cũng tương tự như việc tăng tỉ lệ hoa hồng. Ngoài ra,còn có tác dụng như một biện pháp giữ khách hàng bởi vì điều khoản này đảm bảo tỉ lệ lãi thích hợp giữa người nhượng và người nhận, khiến cho người nhượng quan tâm đến chất lượng của dịch vụ. Công ty chưa đưa điều khoản này vào hợp đồng nhận tái là do mới thành lập, nghiệp vụ TBH XDLĐ cũng như các nghiệp vụ khác mới triển khai (ở Việt Nam chủ yếu là bảo hiểm xây lắp là dài hạn), cho đến nay vẫn chưa xác định được kết quả của các hợp đồng nhận tái do vậy chưa có số liệu thống kê để xác định tỉ lệ thích hợp. Trong thời gian tới cần phải đưa điều khoản này vào hợp đồng đối với những khách hàng nhượng cho công ty phần TBH ngoài bắt buộc lớn, đặc biệt là những công ty mới ra đời- những công ty mà VINARE sẽ có điều kiện nhận được phần tự nguyện lớn để thực hiện tốt chiến lược giữ khách. Tóm lại, việc tăng hoa hồng phí hiện nay là cần thiết. Nó không những cho phép công ty đạt được kết quả kinh doanh tốt hơn mà còn đảm bảo cho công ty thực hiện tốt chức năng của mình: giảm lượng phí chuyển ra nước ngoài, tăng mức giữ lại cho thị trường bởi vì mức chuyển nhượng lại cho các công ty trong nước tỉ lệ thuận với lượng phí mà công ty nhận được. 2. Chú trọng chính sách giữ khách hàng: Muốn duy trì và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung, nghiệp vụ TBH XDLĐ nói riêng trong điều kiện thị trường bảo hiểm cạnh tranh, trước hết công ty phải bảo vệ được phần thị trường hiện có của mình. Nhất là trong điều kiện hiện nay khi VINARE mất một phần đáng kể phần TBH tự nguyện từ các công ty bảo hiểm gốc do khách hàng cũng không duy trì các hợp đồng TBH như những năm đầu các công ty này hoạt động. VINARE phải hết sức chú trọng tới việc giữ khách hàng, đảm bảo các hợp đồng ký kết được tái tục ngầm, không để xảy ra tình trạng các công ty bảo hiểm gốc không tái tục phần TBH tự nguyện. Có thể dễ dàng thấy được lợi ích của việc giữ một khách hàng cũ so với có một khách hàng mới ở các điểm sau: - Tiết kiệm được chi phí: để có một khách hàng mới công ty phải bỏ ra các chi phí nhất là những chi phí ban đầu như chi phí thông tin để lôi kéo khách hàng, chi phí cho hoạt động thương mại, thậm chí cả chi phí "chiêu đãi khách hàng" và cuối cùng là chi phí quản lý gắn với việc lập một khách hàng mới v.v... Tất nhiên công ty sẽ tiết kiệm được những chi phí này nếu nhu khách hàng cũ tái tục hợp đồng. - Xác định được các kết quả kỹ thuật: đối với các công ty bảo hiểm- các khách hàng cũ VINARE sẽ xác định được các kết quả kỹ thuật như phí gốc thu được, tỉ lệ tổn thất v.v... từ dó có chiến lược thích hợp cho việc kinh doanh. Việc giữ khách hàng cũng góp phần ổn định các đảm bảo đã kí kết, ổn định số phí nhận tái và điều quan trọng là quan hệ tin cậy - một nguyên tắc hàng đầu cần coi trọng trong TBH. - Tăng mức nhượng tái của khách hàng: tuỳ thuộc vào tiến triển về kinh tế, những thay đổi liên quan; chính sách; thái độ của công ty, công ty bảo hiểm gốc sẽ có nhu cầu kí kết các đảm bảo mới, tăng phần nhượng TBH tự nguyện cho công ty. - Lôi kéo khách hàng mới: việc giữ khách hàng không những làm ổn định và tăng doanh số phí nhận tái của công ty mà còn có tác dụng mang lại cho công ty những khách hàng mới, nhất là những công ty bảo hiểm gốc mới ra đời mà khách hàng cũ là một cổ đông hoặc có phần vốn góp lớn. Mối liên hệ này sẽ như một dây chuyền nếu được mở rộng hoặc khuyến khích bằng các công cụ hay đòn bẩy kinh tế liên quan đến lợi ích của khách hàng. Để giữ được khách hàng, công ty cần quan tâm đến những yếu tố có ảnh hưởng đến mối quan hệ với khách hàng nhằm tìm ra những điểm hạn chế có ảnh hưởng đến sự ổn định của khách hàng. Cụ thể công ty cần phải chú trọng tới các vấn đề vấn đề sau: + Chính sách giá: chính sách giá trong TBH XDLĐ chính là chính sách chi trả hoa hồng. Để giữ khách công ty cần luôn điều chỉnh tỉ lệ hoa hồng cho phù hợp với hoàn cảnh các khách hàng theo hướng làm cho tỉ lệ hoa hồng ngày càng hấp dẫn hơn (có cả hoa hồng theo lãi). Tuy nhiên, nói chung khách hàng thường quan tâm hơn tới dịch vụ mà công ty đưa lại. Công ty phải chú ý đến chính sách dịch vụ. + Chính sách dịch vụ: nói tới chính sách dịch vụ tức là nói tới chất lượng dịch vụ TBH mà VINARE cung cấp cho khách hàng. Để nâng cao chất lượng dịch vụ TBH cung cấp cho khách hàng trong bảo hiểm XDLĐ, trên cơ sở phân tích, đánh giá dịch vụ TBH đã cung cấp các cán bộ nghiệp vụ cần: - Luôn chủ động tiếp xúc với các công ty bảo hiểm gốc khi các hợp đồng TBH sắp sửa kết thúc để thảo luận, trao đổi với các công ty về việc thực hiện hợp đồng, sửa đổi, bổ sung các điều kiện, điều khoản của hợp đồng cho phù hợp với sự biến đổi của thị trường và các yếu tố có liên quan nhằm đảm bảo lợi ích giữa hai bên. - Thu xếp các hợp đồng nhanh chóng, đặc biệt là các hợp đồng nhận tạm thời để khách hàng chủ động trong khai thác dịch vụ. Khi nhận được bản chào tái phải lập tức xem xét kỹ và nhanh để ra quyết định. - Giải quyết bồi thường nhanh gọn, cố gắng tối đa trong việc phối hợp, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc giải quyết khiếu nại lớn, phức tạp. + Tăng cường công tác tư vấn, giúp đỡ các công ty bảo hiểm gốc trong khai thác dịch vụ: Sự trung thành của khách hàng phải dựa trên việc xây dựng mối quan hệ tích cực và thường xuyên giữa công ty và khách hàng. Mối quan hệ giữa VINARE và các công ty bảo hiểm gốc không chỉ hạn chế ở mối quan hệ gọi phí và thanh toán bồi thường mà bên cạnh đó VINARE cần tăng cường vai trò của công ty TBH chuyên nghiệp: giúp đỡ tư vấn cho các công ty bảo hiểm gốc về các vấn đề có liên quan, đặc biệt là việc khai thác dịch vụ. Việc khai thác các dịch vụ bảo hiểm XDLĐ rất khó khăn và phức tạp. Nó đòi hỏi các chuyên gia với trình độ cao, đáp ứng được chuẩn mực quốc tế. Tuy nhiên, do kinh nghiệm và chuyên môn còn hạn chế, các công ty bảo hiểm trong nước gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác dịch vụ. Hầu hết các dịch vụ bảo hiểm XDLĐ trong thời gian vừa qua, đặc biệt là của dịch vụ bảo hiểm cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài hoặc từ nguồn vốn vay từ nước ngoài do các công ty bảo hiểm nước ngoài môi giới bảo hiểm và ngoài nước khai thác sau đó mới chuyển cho các công ty bảo hiểm Việt Nam. Các công ty bảo hiểm Việt Nam chịu thiệt thòi rất lớn vì môi giới phí rất cao, có khi chiếm 12 - 15% tổng chi phí gốc. Hơn nữa các công ty này lại thừơng phải TBH theo chỉ định cho công ty TBH nước ngoài với tỉ lệ rất cao mà chỉ nhận được hoa hồng rất thấp, chỉ 5 - 7%, chỉ để lại lượng phí rất nhỏ cho thị trường bảo hiểm trong nước. Như vậy, không riêng gì các công ty bảo hiểm gốc trong nước mà ngay cả VINARE cũng thiệt thòi. Vì vậy, nhiệm vụ quan trọng của các cán bộ nghiệp vụ của công ty là với năng lực, trình độ và kinh nghiệm của mình cố gắng tối đa giúp các công ty bảo hiểm gốc khai thác dịch vụ một cách trực tiếp, mở rộng thị phần bảo hiểm XDLĐ cho các công ty này. Làm được như vậy có 2 tác dụng: - Củng cố mối quan hệ giữa VINARE và các công ty gốc thực hiện chính sách trung thành hoá khách hàng. - Tăng được phần TBH bắt buộc do tăng phí gốc và tăng được phần TBH tự nguyện bởi vì các công ty bảo hiểm gốc khi khai thác được dịch vụ với sự giúp đỡ của VINARE chắc chắn sẽ ưu tiên tái cho VINARE một tỉ lệ không nhỏ. 3. Mở rộng phạm vi nhận tái ra ngoài nước. Bản chất của TBH đã mang tính quốc tế. Vì vậy, để tăng doanh số phí nhận tái cũng như phân tán rủi ro trong nước ra ngoài khu vực và thế giới thì VINARE cần phải đẩy mạnh hoạt động nhận tái từ ngoài nước. Tất nhiên công việc này không phải là đơn giản bởi vì thị trường TBH thế giới và khu vực hiện nay có tính cạnh tranh rất cao do năng lực TBH dư thừa. Các công ty TBH lớn như Munich Re, Swiss Re có chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới và đặc biệt đang rất quan tâm đến các thị trường đang phát triển Đông Nam á. Các nước này đều ưu tiên cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng làm tiền đề cho phát triển kinh tế vì vậy tiềm năng của bảo hiểm XDLĐ là rất lớn. Tuy nhiên, VINARE có thể tăng cường nhận TBH từ nước ngoài bằng cách: Tăng cường trao đổi dịch vụ với các công ty nhận TBH nước ngoài, nhất là các nước châu á và ASEAN. Trao đổi dịch vụ là việc một công ty TBH nhượng lại một phần dịch vụ mà công ty này nhận được cho một công ty khác, đổi lại công ty đó cũng nhượng lại một phần tương ứng mà công ty nhận được cho công ty kia. Trao đổi dịch vụ thường được tiến hành theo hợp đồng số thành. Đây là quan hệ có đi có lại nhằm phân tán rủi ro của một khu vực nhất định. Trong năm 1998, VINARE có thực hiện trao đổi dịch vụ với một công ty bảo hiểm nước ngoài. Đây là bước thử nghiệm trong kinh doanh TBH quốc tế, phản ánh những cố gắng lớn của các cán bộ nghiệp vụ và lãnh đạo. Trong thời gian tới, cần phải mạnh dạn đẩy mạnh trao đổi dịch vụ nhằm đa dạng hoá hoạt động kinh doanh, đa dạng hoá khách hàng và tăng doanh số phí nhận tái. Để làm tốt việc đó các cán bộ nghiệp vụ cần phải được cung cấp thông tin tốt để có thể đánh giá được rủi ro và tính được hiệu quả kinh doanh. Lãnh đạo công ty và Bộ Tài chính cần phải có những trợ giúp để có thể thực hiện tốt việc nhận tái từ bên ngoài- một hoạt động mà Bộ Tài chính rất khuyến khích. Mở văn phòng đại diện ở khu vực. Kinh nghiệm thành công của Công ty TBH quốc gia Hàn Quốc Korean Re - công ty TBH đứng thứ 37 trong thị trường TBH thế giới theo xếp hạng của S&P cho thấy để mở rộng hoạt động nhận tái cần phải mở các chi nhánh hoặc văn phòng đại diện ở nhiều nước. Korean Re thành lập năm 1963, đến năm 1969 đã thành lập chi nhánh đầu tiên ở Việt Nam (tuy nhiên bị đóng cửa vào 4/1975). Korean Re có chi nhánh ở Singapore và văn phòng đại diện ở hầu hết các nước trong khu vực cũng như trên thị trường Luân Đôn và New York. Với tiềm lực như hiện nay, VINARE không có tham vọng lớn thành lập ngay chi nhánh hay văn phòng đại diện ở các nước ngoài khu vực. Trước mắt cần thành lập văn phòng ở khu vực, có thể đặt ở Singapore hoặc Malaysia- những quốc gia có thị trường BH tương đối phát triền. Chi nhánh được thành lập sẽ có nhiều tác dụng: - Nghiên cứu thị trường bảo hiểm và TBH khu vực, thu thập thông tin cần thiết cho hoạt động nhận tái. - Có điều kiện tiếp xúc, khai thác các dịch vụ phù hợp. - Tiến hành giao dịch nhượng TBH, nhất là các dịch vụ bảo hiểm tạm thời. Văn phòng đại diện sẽ hoạt động có hiệu quả trong tương lai không xa khi mà việc hợp tác về tài chính trong đó có hợp tác về bảo hiểm giữa các thành viên ASEAN ngày càng được đẩy mạnh. Một thị trường bảo hiểm khu vực rộng lớn cùng những quy định thống nhất về các điều kiện, điều khoản, biểu phí tạo điều kiện cho văn phòng này khai thác nhiều dịch vụ. 4. Triển khai phương pháp TBH mới. Xuất phát từ đặc thù của bảo hiểm XDLĐ mà phương pháp TBH chủ yếu được sử dụng trong TBH XDLĐ là phương pháp tỉ lệ. Nói như vậy không có nghĩa là không thể sử dụng phương pháp phi tỉ lệ. Nghiệp vụ XDLĐ là một nghiệp vụ có kết quả tốt, tỉ lệ tổn thất thường rất thấp vì thế hầu hết các công ty bảo hiểm gốc triển khai nghiệp vụ này đều ấn định mức giữ lại khá cao. Việc ấn định mức giữ lại cao như vậy sẽ rất nguy hiểm cho công ty bảo hiểm nếu xảy ra tổn thất lớn do sự tích tụ tập trung rủi ro hoặc do rủi do thiên tai. Để không ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh các công ty bảo hiểm trong nước chắc chắn sẽ muốn có những đảm bảo cho mức giữ lại bằng cách tìm đến hợp đồng phi tỉ lệ, mà thông thường là hợp đồng vượt mức.Nhưng mặt khác, công ty bảo hiểm gốc (trừ Bảo Việt) có doanh số phí thu được từ nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ không lớn lắm trong cơ cấu phí. Và như vậy sẽ không kinh tế nếu thu xếp một hợp đồng vượt mức chỉ để bảo vệ cho một số ít dịch vụ. Các công ty bảo hiểm gốc sẽ phải tìm tới giải pháp thu xếp hợp đồng vượt mức bảo vệ cho nghiệp vụ XDLĐ và một nghiệp vụ khác có tính chất tương đối gần với bảo hiểm XDLĐ. Thực tế cho thấy, nghiệp vụ bảo hiểm cháy có tính chất gần giống với bảo hiểm XDLĐ. Từ những phân tích trên có thể thấy, VINARE có thể triển khai TBH phi tỉ lệ cung cấp sự bảo về mức giữ lại nghiệp vụ bảo hiểm XDLĐ và bảo hiểm cháy cho các công ty bảo hiểm gốc. Phòng nghiệp vụ TBH kỹ thuật cần phải phối hợp với phòng TBH phi hàng hải để soạn ra các điều kiện, điều khoản hợp đồng TBH vượt mức để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Như vậy, vừa cạnh tranh được sự đơn điệu trong hoạt động kinh doanh lại tăng thêm phí nhận tái cho nghiệp vụ TBH XDLĐ và phi hàng hải. 5. Xây dựng hệ thống môi giới của công ty. Trong hoạt động TBH, các môi giới đóng vai trò rất quan trọng. Nghiệp vụ TBH chủ yếu được giải quyết thông qua môi giới TBH, đó là cách làm thông thường và thành công trên thế giới. ở Việt Nam hiện nay, chỉ có duy nhất một công ty môi giới chuyên nghiệp được phép hoạt động là AON - liên doanh giữa Bảo Việt với AON-một công ty môi giới lớn nhất thế giới. Trong nghiệp vụ TBH XDLĐ, VINARE vẫn nhận tái trực tiếp từ các công ty bảo hiểm gốc mà không thông qua môi giới. Nhưng các công ty bảo hiểm trong nước chỉ chiếm 30 - 40% thị trường bảo hiểm XDLĐ trong khi đó phần còn lại (60-70%) là của các công ty bảo hiểm nước ngoài dù các công ty này chưa được phép hoạt động tại Việt Nam. Phần 60-70% này về mặt danh nghĩa là do các công ty bảo hiểm bảo hiểm trong nước tái theo chỉ định nhưng thực ra chính các công ty bảo hiểm nước ngoài mới là người bảo hiểm chính bởi vì các công ty này thực hiện khai thác bất hợp pháp rồi giới thiệu cho một công ty bảo hiểm trong nước cấp đơn với điều kiện, điều khoản, biểu phí do họ áp đặt và phải ưu tiên TBH cho họ. Như vậy VINARE đã mất đi một phần lớn các dịch vụ trên thị trường. Môi giới TBH là người được người bảo hiểm uỷ quyền thu xếp TBH. Sau khi cùng với người bảo hiểm thương lượng về các điều kiện điều khoản cần đạt được, các môi giới sẽ tìm cách “bán” được dịch vụ với các điều kiện tốt nhất. Các môi giới mang lại dịch vụ cho các nhà nhận tái và người nhận tái phải trả hoa hồng môi giới cho môi giới mặc dù môi giới được người bảo hiểm uỷ thác. Vai trò các môi giới giống như chiếc cầu giữa người bảo hiểm với người nhận tái. Thông thường một môi giới tiến hành cả môi giới bảo hiểm và môi giới TBH. Trong nhiều trường hợp sau khi được khách hàng uỷ thác các môi giới chào dịch vụ và kèm theo điều kiện phải TBH cho một công ty nào đó ( TBH chỉ định ) Nhận TBH qua môi giới "đắt" hơn việc nhận trực tiếp vì phải trả hoa hồng môi giới. Tuy nhiên, môi giới là người am hiểu thị trường và thường được các khách hàng uỷ thác. Đây là ưu thế mà các công ty nhận TBH, công ty bảo hiểm không có được. Chính các môi giới đem lại nhiều dịch vụ cho các công ty nhận tái hoặc công ty bảo hiểm. Như vậy các môi giới có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với các công ty nhận tái cũng như các công ty bảo hiểm. Khi thị trường bảo hiểm phát triển, quan hệ TBH chủ yếu thực hiện qua các môi giới TBH, môi giới bảo hiểm. Vì thế để tăng được nguồn dịch vụ VINARE cần thiết phải có kế hoạch xây dựng cho mình hệ thống môi giới. Các môi giới có vai trò như những người khai thác dịch vụ cho công ty nhưng tất nhiên vẫn phải theo đúng nguyên tắc hoạt động môi giới: đạt được điều kiện tốt nhất cho khách hàng. Các môi giới riêng các công ty tất nhiên luôn ưu tiên mang lại dịch vụ cho công ty đến mức tối đa có thể. Việc xây dựng được một hệ thống môi giới riêng như vậy không đơn giản. Công ty phải nghiên cứu kỹ những môi giới có uy tín và xác lập mối quan hệ trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Môi giới sẽ ưu tiên mang dịch vụ cho VINARE, đổi lại VINARE cũng phải có những ưu tiên cho môi giới. 6. Tiếp tục hoàn thiện hoạt động nhượng tái. Hoạt động nhượng tái về bản chất là việc TBH một lần nữa của người nhận TBH nhằm phân tán rủi ro. Nhượng tái cũng là một chức năng quan trọng của VINARE. Phương châm của hoạt động nhượng tái là ưu tiên chuyển nhượng tối đa dịch vụ cho các công ty bảo hiểm trong nước và phải đạt hiệu quả cao nhất.Cụ thể cần: * Tiếp tục tăng tỉ lệ nhượng cho các công ty trong nước, giảm tỉ lệ nhượng cho các công ty nước ngoài. Thực tế cho thấy khả năng tài chính của các công ty trong nước càng ngày càng tăng lên, có đủ khả năng để nhận thêm dịch vụ. Các cán bộ nghiệp vụ tiếp tục thay đổi cấu trúc hợp đồng nhượng tái theo hướng giảm phần của các công ty nước ngoài, tăng phần nhượng cho các công ty trong nước. Nhượng cho các công ty trong nước không những là biện pháp để thực hiện tốt nhiệm vụ của công ty mà còn có tác dụng thắt chặt mối quan hệ với các công ty trong nước, tăng cường trao đổi dịch vụ. * Thu xếp hợp đồng bảo vệ cho mức giữ lại của nghiệp vụ. Mức giữ lại thuần nghiệp vụ TBH XDLĐ tăng dần và với mức như hiện nay là khá cao. Sự gia tăng mức giữ lại kéo theo sự gia tăng rủi ro. Nếu như có một sự cố thiên tai xảy ra thì trách nhiệm bồi thường của VINARE sẽ rất lớn. Vì vậy, trước khi tính tới việc phát triển nghiệp vụ, mở rộng thị trường cần phải chú trọng đến sự ổn định, bảo toàn vốn. Sự bất ổn định về thời tiết và sự xuất hiện của các cơn bão với sự tàn phá lớn là những nguy cơ đe doạ tới hoạt động kinh doanh nghiệp vụ TBH XDLĐ. Công ty cần phải thu xếp một hợp đồng vượt mức cho sự cố thiên tai để bảo vệ phần giữ lại của công ty tránh để ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh nghiệp vụ. 7. Nâng cao trình độ cán bộ nghiệp vụ. Trong mọi hoạt động thì vai trò của nhân tố con người giữ vị trí quyết định. Vì vậy, để phát triển nghiệp vụ TBH XDLĐ không thể không nói đến nhân tố con người. Như đã nhiều lần nói đến trong các phần trên TBH đòi hỏi phải có những chuyên gia có trình độ kỹ thuật nghiệp vụ cao đáp ứng được chuẩn mực quốc tế. Đội ngũ cán bộ nghiệp vụ của VINARE phần lớn còn rất trẻ kinh nghiệm chưa có nhiều trong khi đó trình độ còn hạn chế. Trong những năm tới công ty cần phải chú trọng bồi dưỡng đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trẻ này. Công ty cần tạo điều kiện cho các cán bộ này có cơ hội đào tạo ở các nước có trình độ bảo hiểm phát triển để tiếp thu những kiến thức nghiệp vụ hiện đại, học hỏi được những kinh nghiệm của các chuyên gia có trình độ. Đi đôi với đào tạo nâng cao trình độ nghiệp vụ cần phải tạo điều kiện cho các cán bộ nâng cao trình độ ngoại ngữ, đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành bảo hiểm. 8. Nâng cấp hệ thống thông tin Trong thời đại bùng nổ thông tin, vai trò của công nghệ thông tin hết sức quan trọng. Trong kinh doanh bảo hiểm ngày nay không thể không nói đến vài trò quan trọng của hệ thống thông tin. Công nghệ thông tin với sự xuất hiện của máy tính đã góp phần rất lớn vào việc giảm nhẹ sức lao động trong ngành bảo hiểm. Hiện nay, hầu hết các công ty bảo hiểm đều sử dụng các chương trình tính phí trên máy tính, dùng máy tính để quản lý các hợp đồng và xử lý thông tin. VINARE đưa máy tính vào giải quyết công việc xử lý nghiệp vụ, quản lý hợp đồng ngay từ khi thành lập. Nghiệp vụ TBH XDLĐ là nghiệp vụ áp dụng tin học nhiều và có hiệu quả .Nhờ vậy khối lượng công việc được giảm đáng kể mà chất lượng xử lý nghiệp vụ rất cao, nhanh chóng. Tuy nhiên, do kinh phí còn hạn hẹp công ty không có điều kiện đổi mới hệ thống máy tính đa phần là cũ và chưa có chính sách khuyến khích hợp lý nên hệ thống thông tin chậm được cải tiến, hoạt động thiếu ổn định gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của nghiệp vụ. Vì vậy, theo em, công ty nên: - Đầu tư đổi mới hệ thống máy tính : thay thế các máy tính đã cũ bằng các máy mới của các hãng danh tiếng, đặc biệt là máy chủ. Sự ổn định của máy chủ quyết định tới toàn bộ hoạt động của hệ thống xử lý thông tin. - Có biện pháp khuyến khích hoàn thiện, cải tiến các chương trình máy tính,tận dụng tiềm năng chất xám của những cán bộ có trình độ tin học Kết luận Tóm lại, qua ba phần ở trên ,luận văn đã nêu bật những nét cơ bản của TBH nói chung, thực tiễn của TBH XDLĐ tại VINARE. Qua đó, luận văn đã cho thấy những bất cập hiện tại của hoạt động TBH XDLĐ xét trên các mặt cơ sở pháp lý, thị trường TBH và kỹ thuật TBH. Từ những bất cập đó, với những xu hướng phát triển của nhu cầu TBH XDLĐ tại Việt nam ,luận văn đã đề ra một số giải pháp cơ bản mang tính khả thi nhằm củng cố và phát triển hoạt động BH cũng như TBH XDLĐ. Ngành BH đối với mọi quốc gia là một ngành kinh tế hết sức nhạy cảm với những thách thức của quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Những thách thức sẽ càng lớn đối với một nước có nền kinh tế đang phát triển với ngành BH non trẻ như Việt nam. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Thạc sỹ Phạm Thị Định, giảng viên bộ môn Kinh tế bảo hiểm, trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà nội cùng toàn thể cán bộ nghiệp vụ phòng TáI bảo hiểm kĩ thuật dầu khí ,cong ty TáI bảo hiểm Quốc gia Việt Nam . Tài liệu tham khảo Chương XVI: “Tái bảo hiểm” .Giáo trình Kinh tế bảo hiểm , trường Đại học Kinh tế Quốc dân ,Hà Nội,Nhà xuất bản Thống kê,2000. Tạp chí : “Thông tin thị trường bảo hiểm và tái bảo hiểm”, Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam,năm 1999,2000, 2001. Tài liệu Tái bảo hiểm Kĩ thuật của công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (bản tiếng Anh). Tài liệu về Bảo hiểm Xây dựng lắp đặt của công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam . Các tạp chí về Tái bảo hiểm của MUNICH RE và SWESS RE. Baó cáo Tài chính năm 1999, 2000 của VINARE. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34293.doc
Tài liệu liên quan