Tài liệu Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần đô thị Sông Đà: LỜI MỞ ĐẦU
Ngày nay chúng ta đang chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nước nhà từ một nền kinh tế dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang một nền kinh tế có tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ cao, dựa trên nền tảng của kinh tế tri thức và xu hướng gắn với nền kinh tế toàn cầu. Chính sự chuyển dịch này đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho nhiều ngành kinh tế phát triển. Song cũng làm phát sinh nhiều vấn đề phức tạp đặt ra cho các doanh nghiệp những yêu cầu và thách thức mới, đòi hỏi các doanh ... Ebook Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần đô thị Sông Đà
85 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1185 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình tài chính tại Công ty Cổ phần đô thị Sông Đà, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp phải tự vận động, vươn lên để vượt qua những thử thách, tránh nguy cơ bị đào thải bởi quy luật cạnh tranh khắc nghiệt của cơ chế thị trường.
Trong bối cảnh kinh tế như thế, các doanh nghiệp muốn đứng vững trên thương trường cần phải nhanh chóng đổi mới, trong đó đổi mới về quản lý tài chính là một trong các vấn đề được quan tâm hàng đầu và có ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn đối với nhiều doanh nghiệp Việt Nam. Bởi lẽ, để hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đạt hiệu quả thì nhà quản lý cần phải nhanh chóng nắm bắt những tín hiệu của thị trường, xác định đúng nhu cầu về vốn, tìm kiếm và huy động nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu kịp thời, sử dụng vốn hợp lý, đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, các doanh nghiệp cần nắm được những nhân tố ảnh hưởng, mức độ và xu hướng tác động của từng nhân tố đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Điều này chỉ thực hiện được trên cơ sở phân tích tài chính.
Việc thường xuyên phân tích tình hình tài chính sẽ giúp nhà quản lý doanh nghiệp thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, từ đó có thể nhận ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp nhằm làm căn cứ để hoạch định phương án hành động phù hợp cho tương lai và đồng thời đề xuất những giải pháp hữu hiệu để ổn định và tăng cường tình hình tài chính giúp nâng cao chất lượng doanh nghiệp.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên trong thời gian thực tập tại Công Ty cổ phần đô thị Sông Đà, em quyết định đi sâu nghiên cứu đề tài sau:
“Phân tích tình hình tài chính tại Công Ty cổ phần đô thị Sông Đà”
Nội dung chuyên đề bao gồm 3 chương:
Chương I: Khái quát chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp
Chương II. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần đô thị sông đà.
Chương 3. Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại công ty cổ phần đô thị Sông Đà.
Trong quá trình thực hiện chuyên đề tôi xin chân thành cảm ơn công ty cổ phần đô thị Sông Đà đặc biệt là các anh chị phòng tài chính kế toán của công ty đã cung cấp tài liệu cũng như tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình thực tập tại công ty, tôi xin cảm ơn thầy giáo, thạc sỹ Phan Hữu Nghị đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong quá trình hoàn thiện chuyên đề này.
Hà nội ngày 28/4/2008
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Đình Dũng
Chương 1. Khái quát chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp.
Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính của doanh nghiệp.
Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ gắm trực tiếp với việc tổ chức huy dộng, phân phối, sử dụng và quản lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh nhà doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ tài chính thông qua phương thức giải quyết 3 vấn đề quan trọng sau đây:
- Thứ nhất : Nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với các loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài hạn của doanh nghiệp và là cơ sở để dự toán vốn đầu tư
- Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư từ đâu mà nhà doanh nghiệp có thể khai thác là nguồn nào?
- Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày như thế nào? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt chẽ đến quản lý tài sản lưu động ngắn hạn của doanh nghiệp.
Ba vấn đề trên không phải tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp, nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nó liên quan đến dự toán vốn đầu tư dài hạn, cơ cấu vốn và quản lý vốn lưu động.
Muốn sản xuất và tiêu thụ 1 loại hàng hóa nào đó doanh nghiệp phải mua sắm các yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, dự trữ, đất đai, lao động…là những yếu tố đầu vào hay nói cách khoác doanh nghiệp cần phải đầu tư vào các tài sản. Các tài sản của DN được phản ánh bên trái của bảng cân đối tài khoản kế toán và bao gồm 2 phần: Tài sản lưu động và tài sản cố định. Tuy nhiên việc DN nên đầu tư vào những tài sản nào? …. Giải đáp câu hỏi này là vấn đề dự toán vốn đầu tư là quá trình kế hoạch hóa và quản lý vống đầu tư dài hạn của DN hay quá trình các nhà quản lý tài chính DN phải tìm kiếm cơ hội đầu tư sao cho thu nhập do việc đầu tư mang lại lớn hơn chi phí đầu tư. Điều đó có nghĩa là giá trị các dòng tiền tệ do các tài sản đó tạo ra lớn hơn chi phí của các tài sản đó.
Nhà quản lý không chỉ quan tâm đến nhận được bằng tiền( dòng tiền tệ do các tài sản tạo ra) mà còn cần quan tâm đến việc khi nào thì nhận được và nhận được như thế nào? Giải đáp câu hỏi này là vấn đề quy mô, thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong tương lai. Đây là vấn đề cốt lõi của quá trình dự toán vốn đầu tư.
Muốn đầu tư vào các tài sản ban đầu, DN cần phải có nguồn tài trợ, nguồn tài trợ của DN được thể hiện ở phía bên phải của bảng cân đối tài khoản và bao gồm 2 phần chính: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Song, DN có thể tăng quỹ tiền mặt bằng cách nào để thực hiện chi tiêu cho đầu tư dài hạn? Giải đáp câu hỏi này là vấn đề cơ cấu vốn của DN, cơ cấu vốn của DN được thể hiện thông qua tỷ trọng của các nguồn tài trợ. Các nhà quản lý tài chính phải tính toán cân nhắc nên vay bao nhiêu? Cơ cấu của nợ và vốn tự có như thế nào là bảo đảm? Nguồn vốn nào là thích hợp cho việc đầu tư của DN?....
Khi đã có các câu trả lời về đầu tư vào đâu, nguồn tài trợ như thế nào, các nhà quản lý phải trả lời cho câu hỏi là làm sao để quản lý được vốn lưu động? quản lý bằng cách nào? Như thế nào? Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với các dòng tiền vào ra của DN, nhà quản lý phải xử lý sự chêch lệch giữa các dòng tiền của DN. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền tệ không tách rời với vốn lưu động ròng. Vốn lưu động ròng được xác định là khoản chêch lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn của DN. Quản lý vốn lưu động ròng là giải quyết việc DN nên giữ bao nhiêu tiền và dự trữ của DN có nên bán chịu không? Nếu bán chịu hay vay ngắn hạn hay trả tiền mặt? nếu vay ngắn hạn thì DN nên vay ở đâu? và vay như thế nào?....
Khái niệm, mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của phân tích hoạt động tài chính DN.
Khái niệm.
Phân tích hoạt động tài chính DN là quá trình thu thập sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của 1 DN, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của DN đồng thời cũng đưa ra những đánh giá về tiềm năng , hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai.
Mục đích, ý nghĩa.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đang phát triển rất nhanh chóng và năng động nhất trong nền kinh tế không ai khác chính các doanh nghiệp,vì thế có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của DN như chủ DN, nhà cho vay, nhà cung cấp, khách hàng, bảo hiểm,… kể cả các cơ quan nhà nước, cơ quan thuế và những người lao động. Mỗi đối tượng quan tâm dưới những góc độ khác nhau chẳng hạn như đối với chủ DN thì mục đích tối ưu của họ la tối đa hóa lợi nhuận, tìm kiếm khách hàng, nhà tài trợ,… Đối với các ngân hàng và các nhà cho vay tín dụng thì mối quan tâm chủ yếu của họ lại là khả năng trả nợ, thanh toán các khoản vay của DN trong điều kiện hiện tại và tương lai. Đối với các nhà đầu tư vào DN thì mối quan tâm của họ là các yếu tố rủi ro, thời gian hoàn vốn, mức sinh lãi và khả năng thanh toán vốn,… Nhưng nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán của DN.
Việc phân tích tài chính DN có ý nghĩa rất quan trọng quyết định sự thành bại của một DN do đó việc phân tích hoạt động tài chính DN không nằm ngoài các mục tiêu như:
- Cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích, xác thực cho các nhà đầu tư, các tín chủ và những người sử dụng thông tin khác nhau để giúp họ có các quyết định đúng đắn khi ra các quyết định trong việc đầu tư, cho vay, sản xuất,….
- Phân tích hoạt động tài chính DN phải cung cấp đầy đủ thông tin cho việc đánh giá khả năng và tính chắc chắn của các dòng tiền mặt vào, ra và hiệu quả trong việc sử dụng vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của DN.
- Việc phân tích phải cung cấp thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các khảo nợ, kết quả của quá trình, sự kiện và các tình huống làm biến đổi nguồn vốn và các khoản nợ của DN.
Các báo cáo kế toán, báo cáo tài chính là những báo cáo phản ánh một cách tổng hợp và toàn diện về tình hình tài sản của DN nguồn vốn, dòng tiền vào ra, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu, chi phí,… của DN trong từng thời kỳ song những thông tin đó chỉ là những thông tin riêng biệt và chưa thể hiện được nhiều ý nghĩa cũng như các yêu cầu, nội dung mà những người sử dụng thông tin quan tâm do đó họ thường dùng các công cụ kỹ thuật cơ bản cũng như phức tạp để phân tích tình hình tài chính của DN nhằm thuyết minh các mối quan hệ chủ yếu trong báo cáo tài chính cũng như nghiên cứu tình hình tài chính hiện tại của DN và từ đó đưa ra những quyết định tài chính trong tương lai để thực hiện các mục đích của họ.
Nội dung hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
Những việc tiến hành trước khi phân tích.
Tài liệu phục vụ cho phân tích tài chính.
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu dự đoán tài chính. Từ khi pháp lệnh kế toán tài chính được ban hành, hệ thống các báo cáo tài chính đã được thống nhất và là tài liệu cơ sở quan trọng cho các nhà phân tích tài chính. Ngoài các báo cáo tài chính các nhà tài chính còn phải khai thác một số số liệu không có trong báo cáo tài chính chẳng hạn như: tiền lãi phải trả trong kỳ, phân phối lợi nhuận, sản phẩm tiêu thụ… Những số liệu này giúp cho nhà phân tích có cái nhìn sâu hơn và đưa ra những nhận xét ,kết luận, chính xác hơn.
Hệ thống báo cáo tài chính ở nước ta hiện nay bao gồm
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
- Bản thuyết minh báo cáo tài chính
Bảng cân đối kế toán:
Là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời diểm nhất định nào đó dưới hình thức tiền tệ. Đây là một báo cáo tài chính có ý nghiaxa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sỡ hữu, quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý đối với DN. Thông thường Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: Một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của DN.
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích nghiên cứu đánh giá một cách khái quát tình hình và kết quả kinh doanh, khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn cũng như và những triển vọng kinh tế, tài chính của DN.
Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Là báo cáo phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và phản ánh tình hình tài chính của DN trong một thời kỳ nhất định. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của DN phản ánh tóm lược các khoản thu chi, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh toàn DN, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo từng hoạt động kinh doanh( Sản xuất kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất thường). Bên cạnh đó nó cũng cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước của DN trong thời kỳ đó.
Dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm tra, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của DN trong kỳ, so sánh với kỳ trước hoặc với các DN khác để nhận biết khái quát hoạt động trong kỳ và xu hướng vận động.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Là báo cáo tài chính phản ánh dòng tiền vào ra thực sự trong DN, thể hiện tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của DN trong từng thời kỳ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về những luồng vào ra của tiền và coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu rủi ro lỗ về giá trị do những thay đổi vê lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và những khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động tài chính và lập theo phương pháp trực tiếp, gián tiếp.
Trên cơ sở dong tiền thu nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ, từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho DN nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
Thuyết minh báo cáo tài chính.
Là báo cáo nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời giải thích một số chỉ tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích thêm một cách cụ thẻ, rõ ràng.
Các báo cáo tài chính trong DN có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi sự thay đổi của một chỉ tiêu trong báo cáo này trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến các báo cáo kia. Để phân tích tình hình tài chính của một DN, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. Tất nhiên, muốn được như vậy, các nhà phân tích cần phải tìm hiểu thêm nội dung chi tiết các khoản mục của báo cáo tài chính.
Các bước tiến hành phân tích tài chính DN.
Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều chiều hướng khác nhau: Với mục tiêu tác nghiệp khác nhau, với mục đích nghiên cứu , thông tin hoặc theo vị trí của nhà phân tích tuy nhiên trình tự phân tích và dự đoán tài chính đều phải tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn dự đoán.
- Giai đoạn dự đoán: là giai đoạn mà ở đó các nhà phân tích chuẩn bị và xử lý các nguồn thông tin, thông tin bao gồm thông tin kế toán nội bộ và thông tin bên ngoài. Nghiệp vụ phân tích trong giai đoạn này là xử lý các thông tin kế toán, tính toán các chỉ số và tập hợp các biểu mẫu.
- Giai đoạn xác định biểu hiện đặc trưng: là giai đoạn xác định các điểm mạnh, yếu của DN. Nhiệm vụ chủ yêu trong giai đoạn này là giải thích và đánh giá các chỉ số và bảng biểu, các kết quả về cân bằng tài chính, năng lực hoạt động tài chính, cơ cấu vốn và chi phí vốn, cơ cấu đầu tư và doanh lợi.
- Giai đoạn phân tích thuyết minh: là giai đoạn xác định các nguyên nhân khó khăn, thuận lợi, các nguyên nhân thành công,…nhiệm vụ phân tích trong giai đoạn này là tổng hợp đánh giá, quan sát
- Giai đoạn tiên lượng và chỉ dẫn: là giai đoạn xác định cũng như dự đoán về tình hình tương lai của DN. Nghiệp vụ phân tích trong giai đoạn này là xác định rõ hướng phát triển, nêu ra các giải pháp tài chính hoặc các giải pháp khác.
Phương pháp phân tích.
Để tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh hay các hoạt động tài chính của DN người ta không chỉ dùng một phương pháp riêng lẻ nào mà sử dụng tổng hợp các phương pháp phân tích với nhau nhằm đánh giá tình hình hoạt động cũng như tình hình tài chính của DN một cách chính xác và nhanh nhất.
Phương pháp phân tích hoạt động tài chính DN là hệt thống các phương pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, quan hệ, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính trong hoạt động của DN, song phương phaps chủ yếu là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ.
Phương pháp tỷ lệ.
Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp tỷ số. Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số tài chính được sử dụng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ xung hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất: Nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp, thứ hai: Việc áp dụng công nghệ tin học cho phép phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tafichisnh của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích tài chính khác. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian( so sánh kỳ này với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chính doanh nghiệp, theo xu hướng không gian( so sánh với mức trung bình của ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành.
Phương pháp so sánh.
Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so sánh được các chỉ tiêu (phải thống nhất về nội dung, phương pháp, thời gian và đơn vị tính toán của các chỉ tiêu so sánh) và theo mục đích phân tích mà xác định gốc so sánh. Gốc so sánh có thể chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không gian. Kỳ( điểm) được chọn để phân tích gọi là kỳ phân tích( điểm phân tích). Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng kỳ tương ứng gọi là trị số tiêu kỳ gốc, kỳ phân tích. Và để phục vụ mục đích phân tích người ta có thể so sánh bằng cách: so snahs bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối, so sánh bằng số bình quân.
Phương pháp so sánh sử dụng trong phân tích tài chính DN là:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính của DN, thấy được sự cải thiện hay kém đi để có biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của DN.
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với trung bình ngành để thấy được tình hình tài chính của DN đang ở tình trạng tốt hay xấu, được hay chưa được so với các DN cùng ngành.
- So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng hợp ở mỗi bản báo cáo. So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến đổi về cả số tương đối lẫn số tuyệt đối của một khoản mục nào đó qua niên độ kế toán liên tiếp.
Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản( ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số tổng hợp.
Yêu cầu của phân tích tài chính doanh nghiệp.
Dự báo doanh thu.
Doanh thu bán hàng là khởi đầu của hầu hết các dự báo tài chính. Có nhiều biến số khác nhau được dự kiến thể hiện trong mối liên hệ với mức doanh thu bán hàng ước tính. Do đó, tính chính xác của dự báo tổng thể phụ thuộc rất lớn vào sự chính xác của mức doanh số bán ước tính.
Trong hoạch định có khá nhiều phương pháp dự báo đã được tạo ra, sử dụng những kỹ năng khá tinh vi hoặc đánh giá theo trực giác của người làm dự báo. Tất cả những phương pháp này đều có những điểm mạnh và điểm yếu riêng và chúng thường xuyên có những khác biệt lớn về cả chi phí và cách thức tiến hành.
- Phương pháp dự báo bình quân di động: Khi muốn dự báo doanh số của kỳ tiếp theo chúng ta có thể sử dụng số liệu của các kỳ quá khứ gần nhất để lập dự báo. Để tăng tính khách quan và loại bỏ những số liệu không cần thiết, số liệu xa thời điểm báo cáo. Cứ sau mỗi kỳ chúng ta lại thêm vào tiếp sau một số liệu của kỳ tiếp theo và loại bỏ một số liệu của kỳ quá khứ.
- Phương pháp dự báo san bằng số mũ giản đơn: Trong phương pháp nà dự báo bình quân di động không có trọng số ứng với mỗi điểm dữ liệu. Do đó để tăng chính xác, chúng ta có thể sử dụng trọng số trong tính toán với nguyên tắc là chọn giá trị trọng số càng gần thời điểm dự báo thì giá trị trọng số càng lớn và ngược lại.
- Phương pháp Brown: Phương pháp này sử dụng phương pháp san bằng số mũ với sự thừa nhận khuynh hướng đi lên của dữ liệu.
- Phương pháp Holt: Phương pháp này được áp dụng cho cả xác lập dữ liệu và độ nghieepng của khuynh hướng.
Tất cả các phương pháp trên đều dựa trên cơ sở toán học, có thể được tính toán nhanh chóng và dễ dàng bằng phần mềm tin học Microsoft Excell.
Dự đoán nhu cầu ngân quỹ.
Dự đoán nhu cầu ngân quỹ là một bộ phận của tài chính ngắn hạn. tài chính ngắn hạn là những vấn đề tài chính phát sinh hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng và nói chung là những vấn đề tài chính phát sinh trong vòng 1 năm. Do đó phân tích tài chính là cơ sở để đưa ra cách thức làm thể nào để bố trí được một lưu lượng vốn lưu động hợp lý lại vừa đáp ứng được nhu cầu của việc sản xuất kinh doanh mà vẫn đảm bảo được việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu quả.
Dự kiến tiền mặt: Phải đảm bảo và dự toán được các nguồn và việc sử dụng các nguồn tiền mặt. Việc dự đoán này nhằm mục đích là dự đoán về nhu cầu tiền mặt trong tương lai và đưa ra khả năng về tiền sẽ thu được để đáp ứng các nhu cầu trên.
Có nhiều cách khác nhau để dự kiến tiền mặt. Trong các công ty lớn thường sử dụng các chương trình máy tính để dự toán. Trong các công ty vừa và nhỏ thường dự kiến tiền mặt theo cách lập bẳng dự kiến thu chi tiền mặt trong từng quý, từng tháng và từng năm.
Bảng 1.1. Bảng dự kiến tiền mặt trong DN
Chỉ tiêu
Quý I
Quý II
Quý III
Quý IV
I. Các nguồn tiền mặt
1. Nguồn tiền thu từ bán hàng
2. Từ các nguồn khác
Tổng các nguồn
II. Sử dụng tiền mặt
1. Thanh toán các khoản phải trả
2. Tiền lương và chi khác
3. Chi đầu tư cơ bản
4. Thuế, lợi tức và trả lãi cổ phần
Tổng số sử dụng tiền mặt.
III. Các nguồn trừ đi sử dụng nguồn
1. Tiền mặt ở đầu quý.
2. Sự thay đổi về cân đối tiền mặt.
(Nguồn trừ đi sử dụng nguồn)
3. Tiền mặt cuối quý
IV. Lượng tiền hoạt động tối ưu
V. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn cộng dồn
Dựa vào bảng tính toán trên nhà phân tích có thể đưa ra các quyết định tài chính như vay ngân hàng theo mức tín dụng thế nào thì phù hợp, trì hoãn các khoản trả tiền…. để phù hợp với các quyết định cân đối ngân quỹ.
Dự báo tình tình hình tài chính.
Dự báo tình hình tài chính là một yêu cầu cần thiết trong việc lập kế hoạch tài chính ngắn hạn và có hiệu quả. Thay cho việc phán quyết, các dự báo dựa vào các nguồn dữ liệu và các phương pháp dự báo khác nhau nhưng nhìn chung thì các dự báo vẫn sử dụng các mô hình kinh tế lượng là chính, các tính toán qua lại của các biến số kinh tế. Trong các trường hợp khác, nhà dự báo tài chính có thể sử dụng các phương pháp thống kê trong việc phân tích các chuỗi thời gian.
Nội dung dự kiến bao gồm:
Phân tích các lựa chọn về tài trợ và đầu tư của DN.
Dự tính các hiệu ứng tương lai của các quyết định trong hiện tại.
Quyết định nên xem thực hiện phương án nào.
So sánh các kết quả hoạt động và các mục tiêu lập ra ban đầu.
Để làm được điều này cần phải sử dụng các nhóm chỉ tiêu tài chín đặc trưng của DN trong quá khứ để làm căn cứ, cơ sở khoa học cho việc xây dựng một hệ thống báo cáo tài chính dự kiến.
Các dự báo tổng hợp có tính nhất quán về doanh thu, luồng tiền, thu nhập và các dự báo khác là rất phức tạp và tốn nhiều thời gian, tuy nhiên nhiều tính toán cần thiết có thể được thực hiện một cách tự động bởi mô hình kế hoạch. Bằng cách đó, sản phẩm của nhà phân tích tài chính trong hoạch định tài chính sẽ là một hệ thống các bảng cân đối tài sản, báo cáo thu nhập và báo cáo luồng tiền dự tính. Số liệu trong dự báo có thể là con số trung gian nào đó giữa số dự báo thực và số thực tế kỳ vọng đạt tới.
Chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp.
Nhằm đánh giá sự thay đổi của doanh nghiệp trong kỳ( đầu kỳ và cuối kỳ), hoặc trong năm, hay năm nay với năm khác về sự tăng giảm của tài sản, vốn,…để có cái nhìn tổng quát nhất về doanh nghiệp.
Khi phân tích tổng quát về tình hình tài chính của DN chúng ta thường xem xét các yếu tố sau đây
Cơ cấu tài sản của DN
Xem xét tỷ trọng của từng loại tài sản trong tổng tài sản, đối với những DN kinh doanh từng ngành khác nhau thường có tỷ trọng đối với từng loại tài sản là khác nhau, dựa vào đặc thù của ngành. Qua đó so sánh giữa các loại tài sản cũng như các biến động của từng loại tài sản qua các thời kỳ nhằm đánh giá xem sự biến động đó có hợp lý và phản ánh đúng thực tế sản xuất kinh doanh cũng như theo đúng mong muốn của nhà quản trị DN hay chưa. Việc phân tích cơ cấu tài sản cố định còn cho chúng ta biết được tỷ suất đầu tư
Tỷ suất đầu tư =
Bảng 1.2 .Bảng phân tích cơ cấu tài sản trong DN.
Chỉ tiêu
Năm n
Năm (n+1)
Chêch lệch
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
I.TSLD và đầu tư ngắn hạn
1.Vốn bằng tiền.
2.Các khoản đầu tư ngắn hạn
3.Các khoản phải thu
4.Hàng tồn kho
5.Tài sản lưu động khác
II.TSCĐ và đầu tư dài hạn
1.TSCĐ hữu hình
2.TSCĐ vô hình
3.Các khoản đầu tư dài hạn
4.Chi phí xây dựng cơ bản
Tổng cộng
Cơ cấu vốn và chi phí vốn.
Cơ cấu vốn là sự phản ánh các tỷ lệ nguồn vốn khác nhau mà DN sử dụng từ các nguồn tài trợ trên tổng tài sản.
Chi phí vốn là chi phí trả cho việc DN huy động và sử dụng vốn hay còn gọi là giá vốn.
Việc phân tích cơ cấu vốn và chi phí vốn cho chúng ta biết được mức độ tự chủ về vốn của DN cũng như các tỷ lệ các khoản nợ mà DN đang gánh chịu. Nếu tỷ trọng của vốn chủ sở hữu chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn vốn của DN thì DN có khả năng trong việc tự đảm bảo về mặt tài chính và mức độ độc lập đối với các chủ nợ cao. Ngược lại nếu tỷ trọng của nợ phải trả cao thì sẽ phản ánh khả năng đảm bảo tài chính của DN thấp, DN có rủi ro cao hơn. Do đó phân tích cơ cấu nguồn vốn có vai trò rất quan trọng trong phân tích tài chính DN.
Bảng 1.3. Bảng phân tích cơ cấu vốn và chi phí vốn trong DN.
Chỉ tiêu
Quý III
Quý IV
Chêch lệch
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
Lượng
Tỷ trọng
A. Nợ phải trả
I. Nợ ngắn hạn
1.Các khoản phải trả khác
2.Nợ đến hạn trả
3.Phải trả người bán
4.Người mua trả tiền trước
5.Thuế phải nộp nhà nước
6.Phải trả công nhân viên
7.Phải trả cho đơn vị nội bộ
8.Phải trả khác
II.Nợ dài hạn
III. Nợ khác
1.Chi phí phải trả
B. Nguồn vốn chủ sở hữu
I. Nguồn vốn- quỹ
1.Nguồn vốn kinh doanh
2. Quỹ trợ cấp mất việc
3.Chêch lệch tỷ giá
4. Quỹ phát triển kinh doanh
5.Quỹ dự trữ
6.Lãi chưa phân phối
7.Quỹ khen thưởng phúc lợi
8.Nguồn vốn đầu tư XDCB
II.Nguồn kinh phí
Tổng nguồn
Tỷ suất tự tài trợ =
- Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, DN cần phải tập hợp các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động nguồn vốn. Nhu cầu vốn của DN tại bất cứ thời điểm nào cũng chính bằng tổng số tài sản DN cần phải có để đảm bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Có thể phân nguồn vốn (nguồn tài trợ) thành hai loại:
+ Nguồn tài trợ thường xuyên (nguồn tài trợ dài hạn): là nguồn mà DN được sử dụng thường xuyên, lâu dài vào hoạt động kinh doanh. Bao gồm nguồn vốn chủ sở hữu và nguốn vốn vay dài hạn, trung hạn (trừ nợ quá hạn).
+ Nguồn tài trợ tạm thời (nguồn vốn ngắn hạn): là nguồn mà DN tạm thời được sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một khoảng thời gian ngắn. Thuộc nguồn tài trợ tạm thời bao gồm các khoản vay ngắn hạn, nợ ngắn hạn, các khoản vay-nợ quá hạn (kể cả vay-nợ dài hạn), các khoản chiếm dụng bất hợp pháp của người mua, người bán và cán bộ công nhân viên chức.
Phân tích tình hình đảm bảo vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, cần tính ra và so sánh tổng nhu cầu về tài sản (TSLĐ, TSCĐ) với nguồn vốn chủ sở hữu hiện có và nguồn vốn vay-nợ dài hạn. Nếu tổng số nguồn đủ hoặc lớn hơn tổng số nhu cầu về tài sản thì DN cần sử dụng số thừa này một cách hợp lý, tránh bị chiếm dụng. Ngược lại, khi nguồn vốn không đáp ứng đủ nhu cầu về tài sản thì DN phải có biện pháp để huy động và sử dụng phù hợp, trành bị chiếm dụng bất hợp pháp.
- Phân tích chỉ tiêu vốn lưu động thường xuyên.
Một trong các nguyên tắc trong quản lý tài chính là DN phải dùng nguồn vốn dài hạn để hình thành tài sản cố định, phần dư của nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn được đầu tư hình thành tài sản lưu động và nguồn vốn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên.
VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn –TSCĐ
= Nguồn vốn ngắn hạn – TSLĐ
Kết quả tính toán xảy ra một trong ba trường hợp sau:
+ Trường hợp 1: VLĐ thường xuyên > 0, nguồn vốn dài hạn dư thừa đầu tư vào tài sản cố định, phần dư thừa đó đầu tư vào tài sản lưu động. Đồng thời, tài sản lưu động > nguồn vốn ngắn hạn, do vậy khả năng thanh toán của DN tốt.
+ Trường hợp 2: VLĐ thường xuyên = 0, có nghĩa là nguốn vốn dài hạn đủ tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động, đủ cho doanh nghiệp trả cho các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh.
+ Trường hợp 3: VLĐ thường xuyên < 0, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho TSCĐ. DN phải đầu tư vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn, TSLĐ không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của DN mất thăng bằng, DN phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn phải trả.
Như vậy, VLĐ thường xuyên là chỉ tiêu tổng hợp quan trọng để đánh giá tình hình tài chính DN, chỉ tiêu này cho biết hai điều cốt yếu: Một là, DN có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? Hai là, TSCĐ của DN có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
Ngoài khái niệm VLĐ thường xuyên được đề cập trên đây, trong phân tích tài chính người ta còn nghiên cứu chỉ tiêu nhu cầu VLĐ thường xuyên.
Nhu cầu VLĐ thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn mà DN cần phải tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là tiền).
Nhu cầu VLĐ thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn
- Phân tích mối quan hệ và tình hình biến động các khoản mục trong báo cáo kết._. qủa kinh doanh.
Để kiểm soát các hoạt động và hiệu quả kinh doanh của DN, cần đi sâu phân tích mối quan hệ và tình hình biến động của các khoản mục trong báo cáo kết quả kinh doanh. Khi phân tích, cần tính ra và so sánh mức và tỷ lệ biến động của kỳ phân tích so với kỳ gốc trên từng chỉ tiêu. Đồng thời, so sánh tình hình của từng chỉ tiêu so với doanh thu thuần.
Mục tiêu của phương pháp này là xác định, phân tích mối quan hệ và đặc điểm các chỉ tiêu trong báo cáo kết quả kinh doanh, đồng thời so sánh chung qua một số liên độ kế toán liên tiếp với số liệu trung bình ngành (nếu có) để đánh giá xu hướng thay đổi từng chỉ tiêu và kết quả kinh doanh của DN với DN khác.
Phân tích một vài chỉ số thanh toán cơ bản.
Tình hình tài chính của một DN được thể hiện rõ nét qua khả năng thanh toán. Nếu DN có khả năng thanh toán cao thì tình hình tài chính sẽ khả quan và ngược lại. Do vậy khi đánh giá khái quát tình hình tài chính DN không thể bỏ qua việc xem xét khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán ngắn hạn.
Để đo khả năng này, khi phân tích cần tính và so sánh các chỉ tiêu sau
Hệ số TT hiện hành = Tổng TSLĐ / Tổng nợ ngắn hạn
Hệ số này cho thấy khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn (phải thanh toán trong vòng 1 năm hay 1 chu kỳ kinh doanh) là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn hoặc bằng 1 thì DN có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính khả quan.
Hệ sô TT của VLĐ = Tổng vốn bằng tiền/ Tổng TSLĐ
Hệ số này phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của TSLĐ.Thực tế cho thấy, nếu chỉ tiêu này tính ra mà lớn hơn 0,5 hoặc nhỏ hơn 0,1 đều không tốt vì sẽ gây ứ đọng hoặc thiếu tiền để thanh toán.
Hệ số thanh toán tức thời =
Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh trong thực tế cho thấy,
Nếu hệ số này > 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, còn < 0,1 thì DN có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ. Do đó, DN có thể phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Tuy nhiên, nếu hệ số này quá cao lại phản ánh một tình hình không tốt vì vốn bằng tiền quá nhiều, vòng quay tiền chậm lại giảm hiệu quả sử dụng vốn.
Trong phân tích tài chính, các tỷ số tài chính chủ yếu thường được phân thành 4 nhóm:
- Tỷ số về khả năng thanh toán: Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
- Tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
- Tỷ số về khả năng sinh lãi: Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất- kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
Và cũng tương ứng với nó là 3 nhóm trong phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phân tích tình hình và khả năng thanh toán.
Phân tích về cơ cấu tài chính.
Phân tích hiệu quả kinh doanh.
Tùy theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều hơn tới việc phân tích nhóm này hay nhóm kia, tỷ số này hay tỷ số khác. Chẳng hạn, các chủ nợ ngắn hạn đặc biệt quan tâm tới tình hình khả năng thanh toán của người đi vay. Trong khi đó, các nhà đầu tư dài hạn quan tâm nhiều hơn đến khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất- kinh doanh. Họ cũng cần nghiên cứu tình hình về khả năng thanh toán để đánh giá khả năng của doanh nghiệp đáp ứng nhu cầu thanh toán hiện tại và xem xét lợi nhuận để dự tính khả năng trả nợ cuối cùng của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, họ cũng chú trọng tới tỷ số về cơ cấu vốn vì sự thay đổi tỷ số này sẽ ảnh hưởng đáng kể tới lợi ích của họ.
Mỗi nhóm phân tích cũng như nhóm tỷ số trên bao gồm nhiều tỷ số và trong từng trường hợp các tỷ số được lựa chọn phụ thuộc vào bản chất, qui mô của hoạt động phân tích. Phần tiếp theo sẽ đề cập tới những tỷ số chủ yếu nhất, phổ biến nhất được dùng trong phân tích, đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc phân tích các tỷ số này sẽ có ý nghĩa hơn nếu sử dụng số liệu trong các báo cáo tài chính để minh hoạt bản chất, các tính toán và ý nghĩa của các tỷ số.
Phân tích tình hình và khả năng thanh toán.
Phân tích tình hình công nợ.
Nội dung chính trong việc phân tích khả năng thanh toán là phản ánh chất lượng của công tác tài chính. Nếu nguồn bù đắp cho nguồn tài sản dự trữ yếu thì nghĩa là DN đang bị chiếm dụng vốn và ngược lại nếu nguồn dự trữ thừa nghĩa là DN đang chiếm dụng vốn. Tuy nhiên trong trường hợp nguồn vốn cân bằng với tài sản dự trữ thì vẫn có khả năng xảy ra tình trạng chiếm dụng và bị chiếm dụng vốn lẫn nhau trong DN. Việc chiếm dụng và bị chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp tồn tại như một thực tế khách quan và thường xảy ra.
Phân tích tình hình thanh toán.
Để biết được tình hình tài chính tốt hay xấu cần phải xem xét khả năng thanh toán của DN như thế nào? Nếu tình hình tài chính tốt SN sẽ ít có công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, itd đi chiếm dung. Điều đó tạo điều kiện cho DN chủ động vốn và đảm bảo cho quá trình kinh doanh thuận lợi. ngược lại nếu tình hình tài chính gặp khó khăn thì DN nợ nần, dây dưa kéo dài, mất tính chủ động trong kinh doanh và đôi khi dẫn tới tình trạng phá sản.
Để nghiên cứu các khoản phải thu có ảnh hưởng thế nào đến tình hình tài chính của DN như thế nào, cần so sánh tổng số các khoản thu với tổng số tài sản lưu động hoặc so sánh với tổng số phải thu với các khoản phải chi khác.
Phân tích khả năng thanh toán.
Thường dựa vào các chỉ số sau:
* Khả năng thanh toán hiện hành =
Tài sản lưu động thường bao gồm: tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng( tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ( tồn kho), còn nợ ngắn hạn thường bao gồm các khoản vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác,….Cả tài sản lưu động và nợ ngắn hạn đều có thời hạn nhất định- tới 1 năm. Tỷ số khả năng thanh toán hiện hành là thước đo khả năng thanh toán các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Để đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu vốn lưu động ròng hay vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cũng là một yếu tố quan trọng và cần thiết cho việc đánh giá điều kiện cân bằng tài chính của một doanh nghiệp. Nó được xác định là phần chênh lệch giữa tổng tài sản lưu động và tổng nợ ngắn hạn, hoặc là phần chênh lệch giữa vốn thường xuyên ổn định với tài sản cố định ròng. Khả năng đáp ứng nghĩa vụ thanh toán, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và khả năng nắm bắt thời cơ thuận lợi của nhiều doanh nghiệp phục thuộc phần lớn vào vốn lưu động ròng. Do vậy sự phát triển của không ít doanh nghiệp còn được thể hiện ở sự tăng trưởng của vốn lưu động ròng.
* Tỷ số khả năng thanh toán nhanh=
Tỷ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán tài sản dự trữ( tồn kho) và được xác định bằng cách lấy tài sản lưu độn trừ phần dự trữ( tồn kho) chia cho nợ ngắn hạn.
* Tỷ số về khả năng thanh toán tức thời =
Tỷ số này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trực tiếp bằng tiền mặt, đánh giá khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp.
Phân tích về cơ cấu tài chính.
Phân tích bao gồm cơ cấu về tài sản và cơ cấu về nguồn vốn của DN. Sử dụng cơ cấu tài sản và nguồn vốn tối ưu sẽ tạo ra hiệu ứng đòn bẩy tài chính dương. Hiệu ứng này làm gia tăng tiềm năng tạo ra lợi nhuận cho Dn. Rủi ro của các chủ nợ cũng gia tăng cùng hệ số nợ. khi số nợ của DN càng nhiều so với vốn chủ sở hữu thì khả nang vỡ nợ của DN càng cao, nguy cơ các chủ nợ không thu hồi được các khoản cho vay càng lớn. Do đó phân tích tài chính có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với chủ DN mà còn đối với các chủ nợ và chủ đầu tư.
Việc phân tích cơ cấu tài chính giúp cho nhà phân tích thấy được mức đóng góp của chủ sỡ hữu DN so với phần vốn tài trợ của các chủ nợ. chủ nợ sẽ nhìn vào hệ số nợ để quyết định xem có nên cho DN vay hay tiếp tục vay nữa hay không, đồng thời dựa vào số vốn của DN để xem xét mức độ an toàn của các món nợ. còn về phía DN khi sử dụng nhiều nợ vay và tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ lệ lãi vay thì Dn được lợi và ngược lại. Trong thời kỳ kinh tế suy thoái, tỷ suất lợi nhuận thấp hơn tỷ lệ lãi vay, DN nào sử dụng nhiều nợ thì sẽ nguy cơ phá sản càng cao. Nhưng trong thời kỳ bùng nổ kinh tế tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ lệ lãi vay các Dn sẽ sử dụng nhiều nợ vay sẽ có cơ hội phát triển cao hơn. Đồng thời khi sử dụng nợ vay chủ sở hữu chỉ đóng góp một tỷ lệ nhỏ hơn thì rủi ro trong sản xuất kinh doanh sẽ chủ yếu do các chủ nợ gánh chịu mà chủ DN vẫn nắm quyền kiểm soát DN và điều hành DN ra, nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận từ tiền vay thì lợi nhuận cho các chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng đáng kể.
Trong phân tích về cơ cấu tài chính
Việc phân tích cơ cấu tài chính còn thường được chú ý vào các hệ số sau:
* số nợ trên tổng tài sản( hệ số nợ): Tỷ số này được sử dụng để xác định nghĩa vụ của chủ doanh nghiệp đối với các chủ nợ trong việc góp vốn. Thông thường các chủ sở hữu thích tỷ số nợ trên tổng tài sản vừa phải vì tỷ số này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sỡ hữu doanh nghiệp ưa thích tỷ số này cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhan và muốn toàn quyền kiểm soát doang nghiệp. Song, nếu tỷ số này quá cao, dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
* Khả năng thanh toán lãi vay hoặc số lần có thẻ trả lãi:
Thể hiện ở tỷ số giữa lợi nhuận trước thuế và lãi trên lãi vay. Nó cho biết mức độ lợi nhuạn đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản nợ này sẽ thể hiện khả năng doanh nghiệp có nguy cơ bị phá sản.
Phân tích hiệu quả kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của DN để đạt được kết quả cao nhất trong quá trình kinh doanh với chi phí thấp nhất.
Hiệu quả kinh doanh của DN là một vấn đề phức tạp, có quan hệ với tất cả các yếu tố trong quá trình kinh doanh( lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động) nên DN chỉ đạt được hiệu quả kinh doanh khi việc sử dụng các yếu tố lao động một cách có hiệu quả.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của DN cần phải xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng quát và các chỉ tiêu cụ thể. Các chỉ tiêu phải phản ánh được sức sản xuất, khả năng sinh lợi cũng như suất hao phí của từng yếu tố, từng loại vốn và phải thống nhất với công thức tính hiệu quả chung.
. Hiệu quả kết quả đầu ra
=
kinh doanh Kết quả đầu vào
Kết quả đầu ra được xác định bằng các chỉ tiêu như: tổng sản lượng, doanh thu thuần, lãi gộp, thu nhập thuần,…còn các yếu tố đầu vào bao gồm lao động, tư liệu lao động, đối tượng lao động, vốn vay, vốn chủ sở hữu,…
Chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh phản ánh sức sản xuất, sức sinh lợi của các chỉ tiêu đầu vào.
Hiệu quả kinh doanh còn được đo bằng cách nghịch đảo.
Hiệu quả Kết quả đầu vào
=
kinh doanh Kết quả đầu ra
Chỉ tiêu nghịch đảo phản ánh suất hao phí của các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có được một đơn vị kết quả đầu ra thì hao phí hết bao nhiêu đơn vị đầu vào. Việc phân tích hiệu quả kinh doanh thường dựa vào các chỉ số sau:
Các tỷ số hoạt động được:
Sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành tổng tài sản của doanh nghiệp. Chỉ tiêu doanh thu được sử dụn chủ yếu trong tính toán các tỷ số này xem xét khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
* Vòng quay tiền
Tỷ số này được xác định bằng cách chia doanh thu trong năm cho tổng số tiền và các loại tài sản tương đương tiền bình quân( chứng khoán dễ ngắn hạn dễ chuyển nhượng), nó cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
* Vòng quay dự trữ( tồn kho)
Là một chỉ tiêu khá quan trọng để đánh giá hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vòng quay dự trữ được xác định bằng tỷ số giữa doanh thu trong năm và giá trị dự trữ: nguyên vật liệu, phụ liệu, sản phẩm dở dang, ….
* Kỳ thu tiền bình quân= Các khoản phải thu*360/ doanh thu
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng thu tiền trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu bình quân một ngày. Các khoản phải thu lớn hay nhỏ phụ thuộc vào chính sách tín dụng thương mại của doanh nghiệp và các khoản trả trước.
* Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong một năm.TSCĐ ở đây xác địn theo giá trị còn lại đến thời điểm lập báo cáo.
* Hiệu suất sử dụng tổng tài sản =
Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ tài sản, nó được đo bằng tỷ số giữa doanh thu và tổng tài sản và cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhieu đồng doanh thu.
Các tỷ số về khả năng sinh lãi.
Nếu như các tỷ số trên đây phản ánh hiệu quả từng hoạt động riêng biệt của doanh nghiệp thì tỷ số về khả năng sinh lãi phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất – kinh doanh và hiệu năng quản lý doanh nghiệp.
* Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm =
Chỉ tiêu này được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho doanh thu. Nó phản ánh lợ nhuận sau thuế trong một trăm đồng doanh thu.
* Tỷ số thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu( Doanh lợi vốn chủ sở hữu): ROE
ROE =
Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu được xác định bằng cách chia thu nhập sau thuế cho vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quantam khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tăng mức doanh lợ vốn chủ sở hữu là một mục tiêu quan trọng nhât trong hoạt động quản lý tài chính doang nghiệp.
* Doanh lợi tài sản: ROA
ROA = hoặc
ROA =
Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của một đồng vốn đầu tư. Tùy thuộc vào tình hình cụ thể mà doanh nghiệp được phân tích và phạm vi so sánh mà người ta lựa chọn thu nhập trước thuế và lãi hoặc thu nhập sau thuế để so sánh với tổng tài sản.
Ngoài các tỷ số trên, các nhà phân tích cũng đặc biệt chú ý tới việc tính toán và phân tích những tỷ số liên quan tới các chủ sở hữu và giá trị thị trường. Chẳng hạn:
* Tỷ lệ hoàn vốn cổ phần =
* Thu nhập cổ phiếu =
* Tỷ lệ trả cổ tức =
* Tỷ lệ giá/ lợi nhuận =
* ……………………………
Một điều cần chú ý là trong phân tích tài chính, các nhà phân tích thường kết hợp chặt chẽ những đánh giá về trạng thái tĩnh với những đánh giá về trạng thái động để đưa ra một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính doanh nghiệp. Nếu như trạng thái tĩnh được thể hiện thông qua Bảng cân đối kế toán thì trạng thái động được phản ánh qua bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn( Bảng tài trợ), qua báo cáo kết quả kinh doanh. Thông qua các báo cáo tài chính này, các nhà phân tích có thể đánh giá sự thay đổi về vốn lưu động ròng, về nhu cầu vốn lưu động, từ đó có thể đánh giá những thay đổi về ngân quỹ của doanh nghiệp. Như vậy, giữa các báo cáo tài chính có mối liên hệ rất chặt chẽ. Những thay đổi trên bảng cân đối kết toán được lập đầu kỳ và cuối kỳ cùng với khả năng thanh tự tài trợ được tính từ báo cáo kết quả kinh doanh được thẻ hiện trên bảng tài trợ và liên quan mật thiết tới ngân quỹ của doanh nghiệp.
Khi phân tích trạng thái động, trong một số trường hợp nhất định, người ta còn chú trọng tới các chỉ tiêu quản lý trung gian nhằm đánh gia chi tiết hơn về tình hình tài chính và dự báo những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp. Những chỉ tiêu này là cơ sở để xác lập nhiều hệ số rất có ý nghĩa về hoạt động, cơ cấu, … của doanh nghiệp.
* Lãi gộp = Doanh thu – Giá vốn hàng bán
* Thu nhập trước KH và lãi vay = Lãi gộp – Chi phí bán hàng, quản lý( không kể KH và lãi vay)
* Thu nhập trước thuế và lãi = Thu nhập trước KH và lãi – KH
* Thu nhập trước thuế = Thu nhập trước thuế và lãi – Lãi vay
* Thu nhập sau thuế = Thu nhập trước thuế - Thuế TNDN
Trên cơ sở đó nhà phân tích có thể xác định mức tăng tuyệt đối và mức tăng tương đối của các chỉ tiêu qua các thời kỳ để nhận biết tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Đồng thời, nhà phân tích cũng cần so sánh chúng với các chỉ tiêu cùng loại của các doanh nghiệp cùng ngành để đánh giá vị thế của doanh nghiệp.
Tổng hợp kết quả phân tích.
Một số đánh giá chung về phân tích tỷ số.
Phân tích khuynh hướng
Trong quá trình phân tích, đánh giá tình hình tài chính của DN, chúng ta thường có những nhận định là chúng quá cao hoặc quá thấp. Để đưa ra những nhận định này, chúng ta cần phải xem xét dựa trên các hình thức liên hệ của các tỷ số này do đó có 3 yếu tố cần phải xem xét khi tiến hành phân tích tỷ số đó là:
Khuynh hướng phát triển.
So sánh với tỷ số của các DN trong ngành.
Những đặc điểm đặc thù của DN.
Trước hết xem xét khuynh hướng biến động theo thời gian là biện pháp quan trọng trong việc đánh giá tỷ số đang trở nên xấu đi hay đang phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Điều này thể hiện ở chỗ khi phân tích các tỷ số tài chính chủ yếu của DN cần so sánh với giá trị của những năm trước để tìm ra khuynh hướng của sự phát triển.
Thứ hai , việc so sánh các chỉ số tài chính của DN với các DN khác trong ngành và các tiêu chuẩn của ngành cũng cho phép các nhà phân tích rút ra những nhận xét rất có ý nghĩa của tình hình DN trên thị trường, sức mạnh tài chính của DN đối với đối thủ cạnh tranh…Trên cơ sở đó các nhà quản trị đưa ra các quyết định phù hợp với khả năng của DN.
Cuối cùng tất cả các DN đều có đặc thù riêng của mình và chính các đặc thù ấy tạo ra sự độc nhất đối với DN. Các đặc điểm thể hiện trong đầu tư công nghệ, rủi ro, đa dangj hóa sản phẩm và nhiều lĩnh vực….Do đó môi Dn cần thiết lập một tiêu chuẩn cho chính mình, sau khi các yếu tố này được đưa vào xem xét bởi vì chuẩn mực để đánh giá trong các ngành là khác nhau.
Tính đồng bộ khi phân tích các chỉ số tài chính.
Mặc dù mỗi tỷ số tài chính phải được tính toán và đánh giá dựa trên những giá trị riêng của nó, song việc phân tích các tỷ số tài chính có hiệu quả cao nhất khi tất cả các chỉ số cùng được sử dụng để tạo ra một bức tranh chung, rõ ràng về tình hình tài chính của DN.
Thận trọng khi diễn giải các tỷ số tài chính.
Trong thực tế các khoản mục của bảng cân đối tài sản có thể chịu ảnh hưởng rất lớn của cách tính toán mang nặng tính hình thức. Cách tính toán này có thể che đậy các giá trị thực của các tỷ số tài chính. Một trở ngại khác có thể gây cản trở cho việc thực hiện chính xác các chỉ số tài chính là sự khác biệt giá trị theo sổ sách kế toán và thị giá của các loại tài sản. Cần thiết phải cẩn htaanj với những khác biệt này và phải so sánh các kết quả của các tỷ số về cả mặt thời gian và cả với các DN khác trong ngành.
Giá trị trung bình ngành và sự phân bổ của các tỷ số tài chính cũng là một tiêu chuẩn để khảo sát, ngay cả trong trường hợp sự tính toán thực sự khách quan và không có sự chêch lệch giữa giá trị theo sổ sách và thị giá. Các giá trị của ngành không được coi là những giá trị mà DN phải cố gắng đạt tới.
Mỗi DN có đặc điểm riêng về cơ cấu đầu tư, công nghệ, chất lượng sản phẩm, công chúng đầu tư,… và khác nhau về giá trị kỳ vọng của các tỷ số. bởi vậy không có gì là sai lầm khi DN thực hiện một chiến lược bán hàng với giá thấp và thu lợi nhuận trên một đơn vị sản phẩm thấp để đạt được mức doanh thu thuần cao. Do đó tình hình tài chính mạnh không nhất thiết DN phải đạt “trên trung bình” đối với các chỉ số.
Những quan niệm thận trọng này khong có nghĩa là sự so sánh các tỷ số không có ý nghĩa mà là phải có những tiêu chuẩn cụ thể cho ngành để làm chuẩn mực chung trong ngành.
Tóm lại khi thiết lập được một cách chính xác và khách quan, chỉ số tài chính sẽ là người dẫn đường cho các nhà quản trị DN trong việc nhận định về khuynh hướng tương lai của DN.
Tổng hợp và đánh giá.
Trong công tác phân tích tài chín DN việc nghiên cứu có tính chất tổng hợp những đặc trung tài chính của một ngành sản xuất kinh doanh cho phép đánh giá những đặc thù tài chính DN cá biệt trong ngành sản xuất nào đó.
Sau khi phân tích các chỉ tiêu tài chính chủ yếu, nhà phân tích tiến hành lựa chọn và sắp xếp các chỉ tiêu lập bảng để so sánh, đánh giá tùy theo góc đọ của nhà nghiên cứu.
Đối với DN, nhà quản trị tài chính DN tính ra các chỉ tiêu và lập bảng phân tích như sau:
Bảng 1.4. Bảng tổng hợp phân tích.
STT
Chỉ tiêu
Năm
Năm
Năm
Số liệu TB
n
n+1
n+2
Ngành
1
Nhóm chỉ tiêu về luồng tiền
.......................
2
Nhóm chỉ tiêu về thanh toán
.......................
3
Nhóm chỉ tiêu về cơ cấu tài chính
........................
4
Nhóm chỉ tiêu về hiệu quả sản xuất kinh doanh
....................
Tổng hợp
Đối với các nhà tài trợ cho vay của DN, các chỉ tiêu chủ yếu được lựa chọn và thiết lập là:
Bảng 1.5. Bảng phân tích.
Stt
Chỉ tiêu
Năm n
Năm n+1
Số liệu trung bình ngành
Cho điểm tín dụng
1
Hệ số thanh toán ngắn hạn
2
Hệ số thanh toán nhanh
3
Hệ số thanh toán tức thời
4
Hệ số nợ trên tổng tài sản
5
Hệ số vốn cổ phần
6
Hệ số thanh toán lãi vay
7
Hệ số sử dụng tổng tài sản
8
Hệ số sinh lợi tổng tài sản
Chương 2: Thực trạng công tác phân tích tài chính tại công ty cổ phần đô thị sông đà.
Vài nét về công ty cổ phần đô thị sông đà.
Công ty Cổ phần Đô thị Sông Đà, đơn vị thành viên của Tổng công ty Sông Đà, là một doanh nghiệp được thành lập theo Quyết định số 26/TCT-HĐQT ngày 13/2/2007 của Hội đồng quản trị Tổng công ty Sông Đà và Đăng ký kinh doanh số 0103016226 tại Sở Kế hoạch Đầu tư Hà Nội.
Đăng kí thay đổi lần thứ : 1 ngày 25 tháng 01 năm 2008
Với mục tiêu phát triển: đa dạng hóa ngành nghề, sản phẩm trên cơ sở phát triển chính ngành đầu tư bất động sản và tài chính, Công ty Cổ phần Đô thị Sông Đà nỗ lực phấn đấu phát huy mọi nguồn lực để tạo ra sự tăng trưởng và phát triển bền vững cho Công ty.
Tên Công ty : Công Ty Cổ Phần Đầu Tư Xây Dựng Và Phát Triển Đô thị Sông Đà.
Tên giao dịch Quốc tế : Song Da Urban Investment Construction And Development Joint Stock Company.
Tên viết tắt : SURICOD.,JSC
Trụ sở chính : Tầng 7, Nhà G10, Đường Nguyễn Trãi, Phường Thanh Xuân, Quận Thanh Xuân, Hà Nội.
Điện thoại : (84.4) 552 6353; (84.4) 552 6354
Fax : (84.4) 552 6348
Email : SongDaUrban@Gmail.com
Website : www.sdu.com.vn;
www.dothisongda.com.vn;
www.dothisongda.vn;
www.songdaurban.com.vn;
www.songdaurban.com
Mã số thuế : 0102186917
Vốn điều lệ : 100.000.000.000 đồng.(Một trăm tỷ đồng VN. Trong đó, vốn bằng thương hiệu là: 5.000.000.000 đồng VN)
Ngành nghề kinh doanh.
Công ty Cổ phần Đô thị Sông Đà hoạt động ở các lĩnh vực sau:
+ Xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp;
+ Xây dựng các công trình giao thông và hạ tầng kỹ thuật, công
trình thuỷ điện, công trình dân dụng công nghiệp;
+ Đầu tư khai thác và chế biến khoáng sản;
+ Kinh doanh các dịch vụ phục vụ khu đô thị;
+ Kinh doanh vật liệu xây dựng, trang trí nội ngoại thất;
+ Lập, Thẩm định dự án đầu tư các công trình dân dụng, công nghiệp, giao thông, thủy lợi, thủy điện, các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị;
+ Tư vấn lập hồ sơ mời thầu xây lắp, hồ sơ mời thầu thiết bị các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp, thủy lợi, thủy điện, các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị;
+ Dịch vụ nhận ủy thác đầu tư;
- Kinh doanh bất động sản bao gồm;
+ Đầu tư tạo lập nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
+ Mua nhà, công trình xây dựng để bán, cho thuê, cho thuê mua;
+ Thuê nhà, công trình xây dựng để cho thuê lại;
+ Đầu tư cải tạo đất và đầu tư các công trình hạ tầng trên đất thuê để cho thuê đất đã có hạ tầng;
+ Nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất, đầu tư công trình hạ tầng để chuyển nhượng, cho thuê; thuê quyền sử dụng đất đã có hạ tầng để cho thuê lại;
- Kinh doanh dịch vụ bất động sản bao gồm:
+ Dịch vụ tư vấn bất động sản (không bao gồm hoạt động tư vấn về giá đất);
+ Dịch vụ quảng cáo bất động sản;
+ Dịch vụ quản lý bất động sản
+ Dịch vụ môi giới bất động sản
+ Dịch vụ đấu giá bất động sản
+ Dịch vụ sàn giao dịch bất động sản
+ Thiết kế quy hoạch xây dựng: Thiết kế kiến trúc công trình
+ Thiết kế xây dựng công trình dân dụng, công nghiệp, hạ tầng kỹ thuật
+ Thiết kế kết cấu công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp
+ Giám sát thi công xây dựng và hoàn thiện công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp hạ tầng kỹ thuật.
Hội đổng quản trị của công ty
Các thành viên Hội đồng Quản trị bao gồm:
Tên Chức danh
Ông Hoàng Văn Anh Chủ tịch Hội đồng Quản trị kiêm Tổng Giám đốc
Ông Phạm Bá Tôn Uỷ viên HĐQT
Ông Nguyễn Ngọc Thịnh Ủy viên HĐQT
Ông Đỗ Quang Thắng Uỷ viên HĐQT
Ông Nguyễn Thế Lợi Ủy viên HĐQT
Nhân sự của công ty.
Công ty Cổ phần Đô thị Sông Đà có đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, có năng lực và chuyên môn cao, có kinh nghiệm tổ chức và quản lý ở nhiều lĩnh vực ngành nghề khác nhau, ở những công trình có quy mô lớn yêu cầu kỹ thuật và chất lượng cao.
Tổng số cán bộ công nhân viên toàn Công ty là: 117 người:
Trong đó:
Trình độ trên đại học : 06 người.
Trình độ đại học : 101 người.
Trình độ cao đẳng, trung cấp : 10 người.
Tuy là 1 công ty mới thành lập nhưng công ty cổ phần đô thị Sông Đà đã làm chủ đầu tư của nhiều dự án lớn đang trong quá trình thi công hoặc bắt đầu triển khai thi công như:
- Tòa nhà Sông Đà- Hà Đông,
- Dự án nhà khách bộ Xây dựng 20 Thể Giao
- Dự án cải tạo khu tập thể Phương Mai
- Dự án cải tạo khu tập thể Văn phòng Chính Phủ 222A Đội Cấn
- Dự án 25 Tân Mai quận Hoàng Mai
- Dự ánh khu dân cư An Phú, quận 2, TP Hồ Chí Minh
- Dự án bến xe Hà Đông cũ
Và một số dự án khác đang trong quá trình xúc tiến đầu tư, công ty cũng tham gia góp vốn vào các công ty, đối tác khác….
Sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty.
Hình 2.1. Sơ đồ tổ chức bộ máy trong công ty.
Chủ tịch hội đồng quản trị
Ban kiểm soát
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc
Phòng kỹ thuật
Phòng hành chính tổng hợp
Phòng tài chính kế toán
Phòng kinh tế kế hoạch
Chi nhánh TP Hồ Chí Minh
Chi nhánh Hà Đông
Ban quản lý dự án Hà Nội
Ban quản lý dự án Hà Đông
Hình 2.2. Bộ máy quản lý của công ty.
Hợp tác đầu tư
Với năng lực về tài chính, nhân sự và kinh nghiệm, Công ty Cổ phần Đô thị Sông Đà có đủ khả năng để thực hiện đầu tư có hiệu quả các dự án.
Công ty luôn luôn sẵn sàng hợp tác với các đối tác trong và ngoài nước trên mọi phương diện, với phương châm ”Hợp tác phát triển-Hai bên cùng có lợi”.
Thực trạng phân tích tài chính tại công ty cổ phần đô thị Sông Đà.
Bộ máy kế toán và quản trị tại công ty cổ phần đô thị Sông Đà.
Chức năng nhiệm vụ.
Chức năng.
- Là phòng chức năng tham mưu giúp việc cho Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc công ty trong các lĩnh vực tài chính- kế toán, tín dụng và hạch toán kinh doanh toàn công ty.
- Tham mưu giúp việc cho Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc kiểm soát bằng tiền toàn bộ các hoạt động đầu tư, hoạt động sản xuất kinh doah trong công ty theo đúng các quy định hiện hành về quản lý kinh tế của Nhà nước và của công ty. Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật về tài chính kế toán.
Nhiệm vụ.
- Thu thập, phân loại xử lý tổng hợp số liệu thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nhằm xác định, cung cấp thông tin cần thiết cho các đối tượng sử dụng thông tin khác nhau theo nhu cầu quản lý.
- Phản ánh ghi chép các nghiệp vụ kinh tế- tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty một cách đầy đủ, trung thực và kịp thời. Tổ chức lưu trữ, bảo quản các tài liệu kế toán theo quy định.
- Tổ chức vận dụng chế độ hạch toán kế toán, hệ thống tài khoản kế toán theo đúng quy định hiện hành của Bộ tài chính. Tổng hợp số liệu, lập các báo cáo tài chính và báo cáo quản trị theo quy định. Lập các báo cáo đột xuất thuộc các lĩnh vực tài chính – kế toán-tín dụng- đầu tư theo yêu cầu của lãnh đạo công ty và công tác quản lý.
- Phân tích thông tin kinh tế, thông tin tài chính kế toán để tham mưu, đề xuất với lãnh đạo công ty các giải pháp trong quá trình xúc tiến- chuẩn bị- thực hiện các dự án đầu tư để đảm bảo sự phát triển và đạt hiệu quả kinh tế cao nhất trong các hoạt động của công ty.
- Xây dựng, triển khai thực hiện các kế hoạch tài chính- tín dụng, kế hoạch đầu tư, các dự toán chi phí sản xuất, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí bán hàng,…Tham gia quyết toán các khoản chi phí trên đảm bảo chấp hành đúng các chính sách, chế độ của Nhà nước về kinh tế- tài chính.
- Tổ chức và đôn đốc công tác thu tiền bán hàng, quản lý và các khoản thu hồi công nợ một cách chặt chẽ, kịp thời.
- Tổ chức khai thác, sử dụng tiền vốn và các nguồn lực khác của công ty cũng như huy động để phục vụ hoạt động đầu tư và hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty theo nguyên tắc: Đạt hiệu quả cao nhất, tránh rủi ro, bảo toàn và phát triển vốn theo đúng chế độ quy định.
- Tham mưu, giúp việc cho Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong việc tham gia thị trường chứng khoán, tham gia đầu tư vào các tổ chức tài chính.
- Tổ chức, thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước và các cơ quan liên quan đảm bảo đúng chế độ, chính sách.
Tham gia chấp hành các quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về công tác thanh tra, kiểm tra.
Nguồn tài liệu phục vụ cho phân tích.
Do là công ty mới thành lập do đó trong 6 tháng đầu năm 2007 các hoạt động của công ty cổ phần đô thị mới chỉ ở dạng bước đầu và chưa có những hoạt động đáng kể nên khi phân tích chúng ta sẽ phân tích tình hình tài chính của công ty trong 2 quý cuối năm. Việc phân tích sẽ dựa chủ yếu vào các tài liệu sau đây.
Bảng 2.3 Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong năm 2007
Chỉ tiêu
Kỳ này
Lũy kế từ đầu năm
1. Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
2. Các khoản giảm trừ
+Chiết khấu thương mại
+Giảm giá hàng bán
+Hàng bán bị trả lại
+Thuế tiêu thụ đặc biệt
3. Doanh thu thuần bán hàng và cung cấp dịch vụ
4. Giá vốn hàng bán.
5. Lợi nhuận gộp bán hàng và cung cấp dịch vụ.
6. Doanh thu từ hoạt động tài chính.
1.864.413.517
1.864.416.517
7. C._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11776.doc