Phân tích tình hình tài chính của Công ty dệt may Hà Nội

Mục lục Trang Lời mở đầu: 3 Phần I: Giới thiệu khái quát về Công ty dệt may Hà Nội 4 I.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 4 I.2 Chức năng và nhiệm vụ của Công ty 6 I.2.1 Chức năng 6 I.2.2 Nhiệm vụ ư 7 I.3 Dây chuyền công nghệ sản xuất 8 I.4 Hình thức và kết cấu tổ chức sản xuất của Công ty 9 I.5 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của Công ty 11 I.6 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty 15 Phần II: Cơ sở lý luận 19 I. Khái niệm, chức năng của tài chính doa

doc89 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2140 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình tài chính của Công ty dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh nghiệp 19 II. Quản lý tài chính doanh nghiệp, vai trò, nội dung, mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp 22 III. Khái niệm và mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp 25 IV. Phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 26 1. Phương pháp phân tích tài chính 26 2. Nội dung phân tích tài chính 27 Phần III: Phân tích tình hình tài chính của Công ty dệt may Hà Nội 47 I. Đánh giá chung trạng thái tài chính của Công ty 47 II. Phân tích nhu cầu vốn và nguồn tài trợ 49 III. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của Công ty 57 IV.Phân tích tình hình quản lý, hiệu quả sử dụng tài sản, khả năng hoàn vốn 65 Phần IV: Một số biện pháp để cải thiện tình hình tài chính của Công ty 72 1. Biện pháp thu hồi công nợ. 72 2. Biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho: 78 3. Một số hướng nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty 80 4. Đánh giá hiệu quả mang lại khi sử dụng các biện pháp để cải thiện tình hình tài chính của Công ty……………………………………………...81 Kết luận: Tài liệu tham khảo Lời Nói đầu Đất nước ta từ khi chuyển sang nền kinh tế thị truờng có sự quản lý của nhà nước đã tạo ra hàng loạt các doanh nghiệp mới đa dạng và năng động. Với cơ chế mới này đòi hỏi các doanh nghiệp phải luôn năng động, học hỏi vươn lên để tìm chổ đứng vững chắc và ổn định trên thị trường. Do vậy hiệu quả kinh doanh là mục tiêu chiến lược và có ý nghĩa sống còn đối với mọi doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh có hiệu quả sẽ bù đắp chi phí đem lại lợi nhuận, tăng khả năng tích luỹ để tái đầu tư và mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty Dệt may Hà Nội là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng Công ty Dệt may Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh các sản phẩm dệt may phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hiện nay, thị trường của Công ty đang được mở rộng cả trong và ngoài nước, sản phẩm của Công ty đa dạng về mẫu mã chủng loại, tình hình sản xuất kinh doanh đã đi vào ổn định và phát triển góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của ngành. Với mục đích giúp người sử dụng thông tin đánh giá chính xác sức mạnh của tài chính, khả năng sinh lãi và sức mạnh tài chính của Công ty. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty. Được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Lê Phương Hiệp và các thầy cô trong khoa kinh tế và quản lý cùng các cô chú, anh chị trong Công ty dệt may Hà Nội mà em đã hoàn thành đồ án này. Sinh Viên Lê thị Hương Lan I.1 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty Công ty Dệt may Hà Nội (tên giao dịch Hanosimex) là một Doanh nghiệp nhà nước, là thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty dệt may Việt Nam (Vinatex). Công ty dệt may Hà Nội có trụ sở chính ở Số 1 Mai Động, Hai Bà Trưng, Hà Nội và nhiều chi nhánh đóng tại các địa bàn khác. Gồm có: - Nhà máy sợi Nhà máy sợi Vinh Nhà máy dệt vải Denim Nhà máy dệt Hà Đông Nhà máy dệt nhuộm Nhà máy may 1, 2, 3 Nhà máy may thời trang Công ty được xây dựng từ năm 1979 dựa trên cơ sở giúp đỡ của hãng UNIONMATEX (Cộng hoà liên bang Đức). Hiện nay, toàn công ty có tổng diện tích 24 ha, được trang bị toàn bộ các thiết bị của những nước có công nghệ hiện đại như Italia, CHLB Đức, Hà Lan, Hàn Quốc… nên năng lực của Công ty là rất lớn. * Quá trình xây dựng và phát triển Ngày 7/4/1978: Tổng Công ty nhập khẩu thiết bị và hãng UNIONMATEX (CHLB Đức) chính thức ký hợp đồng xây dựng nhà máy sợi Hà Nội. Tháng 12/1979: Khởi công xây dựng nhà máy. Tháng 1/1982: Công nhân, kĩ sư Việt Nam cùng với các chuyên gia CHLB Đức, Bỉ, Hà Lan, Italia bắt đầu lắp đặt thiết bị công nghiệp và phụ trợ. Những chiếc máy kéo đầu tiên của phân xưởng sợi 2 (sợi bông) đã bắt đầu hoạt động với dây chuyền công nghệ bao gồm 31 máy chải, 11 máy ghép, 10 máy thô, 65 máy sợi con, 10 máy ống, 35000 cọc sợi với công suất thiết kế 4000 tấn/năm sản xuất ra các loại sợi bông có chỉ số Nm 54, Nm 40, Nm 41. Phấn khởi trước những thành tích đạt được, cán bộ công nhân viên nhà máy ra sức thi đua hoàn thành một lúc 2 nhiệm vụ: vừa tiến hành lắp ráp phân xưởng sợi 1 (sợi pha), vừa chuẩn bị lao động để phân xưởng sợi pha bước vào hoạt động. Tháng 6/1983: Phân xưởng sợi pha bắt đầu hoạt động với dây chuyền sản xuất bao gồm 40 máy chải, 20 máy ghép, 118 sợi con, 13 máy ống, 450.000 cọc sợi với công suất thiết kế 4.000 tấn/năm, sản xuất ra các loại pha chỉ số Nm 76, Nm 102. Cùng với 2 phân xưởng chính, các phân xưởng động lực và phân xưởng cơ khí cũng đi vào hoạt động phục vụ hỗ trợ cho 3 phân xưởng chính. Ngày 21/11/1984: Hoàn thành các hạng mục cơ bản và chính thức bàn giao công trình cho nhà máy quản lý và điều hành. Tháng 10/1985: Nhà máy thành lập thêm phân xưởng sản xuất phụ để tận dụng bông phế liệu bị loại ra trong quá trình sản xuất chính để sản xuất khăn bông với sản lượng 4.000 chiếc/năm. Đến năm 1989, nhà máy mở rộng qui mô, từ đó phân xưởng dệt kim ra đời. Dây chuyền sản xuất bao gồm nhiều loại máy với chất lượng cao, có công suất 190.000 sản phẩm quần áo các loại hàng năm và 300 tấn vải các loại. Tháng 4/1990: Bộ kinh tế đối ngoại cho phép nhà máy được kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp, tên giao dịch đối ngoại là HANOSIMEX. Ngày 30/4/1991: Căn cứ vào nhiệm vụ sản xuất theo quyết định số 138/QĐ và 139/QĐ, Nhà máy sợi Hà Nội thành xí nghiệp liên hiệp sợi- dệt kim Hà Nội. Từ đó, các phân xưởng trở thành các nhà máy trực thuộc xí nghiệp liên hiệp. Tháng 6/1993: xây dựng dây chuyền dệt kim số 2 và tháng 3/1994 đưa vào sử dụng. Ngày 19/5/1993: Khánh thành nhà máy Dệt kim. Tháng 10/1993: Bộ công nghiệp nhẹ quyết định sát nhập nhà máy sợi Vinh (Nghệ An) vào xí nghiệp liên hiệp. Tháng 1/1995: Khởi công xây dựng Nhà máy thêu Đông Mỹ. Công ty dệt Hà Đông cũng chính thức trở thành nhà máy thành viên của xí nghiệp liên hiệp và khánh thành nhà máy may thêu Đông Mỹ. Xí nghiệp liên hiệp đã đưa thêm một nhà máy thành viên vào hoạt động. Để phù hợp với cơ chế quản lý và thuận tiện trong việc giao dịch điều hành, tháng 6/1995 Bộ công nghiệp nhẹ quyết định đổi tên Xí nghiệp liên hiệp sợi – Dệt kim Hà Nội thành công ty Dệt Hà Nội (tên giao dịch là HANOSIMEX). Như vậy, cho đến nay Công ty dệt Hà Nội có 9 thành viên (trong đó Nhà máy Dệt kim gồm 2 thành viên nhỏ hơn là nhà máy Dệt nhuộm và Nhà máy may Hà Nội) và 1 tổ hợp dịch vụ sản xuất và xây dựng. Với thiết bị công nghệ hiện đại, đội ngũ công nhân lành nghề. Vì vậy sản phẩm của công ty luôn đạt chất lượng cao, được tặng thưởng nhiều huy chương vàng, bạc và bằng khen tại các hội chợ triển lãm kinh tế kỹ thuật hàng năm và được khách hàng đánh giá cao. Sản phẩm của công ty được xuất sang nhiều nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc,CHLB Đức, Thụy Sĩ… Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt tới 10 triệu USD. Nhiều năm qua công ty luôn duy trì được sản xuất và tái sản xuất đạt hiệu quả kinh tế cao, có uy tín với khách hàng trong nước và nhiều công ty trên thế giới. Công ty luôn mở rộng hình thức kinh doanh mua bán gia công, trao đổi hàng hoá, sẵn sàng hợp tác với bạn hàng trong nước và ngoài nước để đầu tư máy móc hiện đại, tăng sản lượng và nâng cao chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh và mở rộng dây chuyền kéo sợi và dệt kim. Công ty Dệt may Hà Nội là một doanh nghiệp lớn với tổng số lao động 4394 người trong đó bộ phận hành chính chiếm 224 người và nguồn vốn tính đến cuối năm 2001 là 608 tỷ. I.2 Chức năng và nhiệm vụ của Công ty I.2.1 Chức năng Là một doanh nghiệp lớn của ngành công nghiệp may Việt Nam được Trang bị toàn bộ thiết bị của Italia, CHLB Đức, Bỉ, Hàn quốc, Nhật Bản… Công ty dệt Hà Nội có chức năng chính sau đây : Công ty chuyên sản xuất kinh doanh, xuất khẩu các sản phẩm có chất lượng cao như các loại sợi, sản phẩm dệt kim… Công ty chuyên nhập các loại bông, xơ, phụ tùng thiết bị chuyên ngành, hoá chất thuốc nhuộm. Bên cạch đó, công ty có thêm chức năng là thực hiện các hoạt động thương mại, dịch vụ có liên quan đến hoạt động của công ty, trực tiếp tham gia mua bán với các đối tác nước ngoài. I.2.2 Nhiệm vụ Công ty dệt may Hà Nội là một trong những công ty lớn của tổng Công ty dệt may Việt Nam. Công ty được nhà nước giao vốn cho toàn quyền sử dụng, tự quản lý điều hành sản xuất nhằm phát huy hiệu quả đồng vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Công ty sản xuất các mặt hàng sợi cung cấp cho các đơn vị dệt may trong nước và xuất khẩu. Nhiệm vụ trực tiếp của Công ty là điều hành các dây chuyền sản xuất, tìm nguồn nguyên vật liệu, vật tư phụ tùng, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm. Công ty tự chủ thiết lập các mối quan hệ với các đối tác kinh tế, thiết lập các mối liên doanh, liên kết nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh. Chú trọng phát triển mặt hàng xuất khẩu, tạo công ăn việc làm và đảm bảo thu nhập ổn định cho gần 5000 người lao động. Không ngừng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật, chuyên môn cho cán bộ công nhân viên trong Công ty. Phấn đấu nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí sản xuất Bảo vệ công ty, bảo vệ sản xuất, bảo vệ môi trường, giữ gìn trật tự an toàn xã hội, làm tròn nghĩa vụ Quốc phòng. Công ty chuyên sản xuất kinh doanh, xuất khẩu các loại sản phẩm có chất lượng cao: 1, Sợi Cotton, sợi Peco, sợi PE. 2, Các loại vải dệt kim và các sản phẩm may mặc bằng vải Rib, Interlok, Single, Lacost. 3, Các loại khăn: khăn tắm, khăn ăn… 4, Các loại vải Denim và các sản phẩm quần áo Jeans. 5, Các loại Mũ. I.3 Dây chuyền công nghệ sản xuất Hiện nay, tại nhà máy sợi Vinh có 1 dây chuyền sản xuất sợi chải kỹ vừa sản xuất sợi chải thô. Tại nhà máy sợi cũng có dây chuyền sản xuất trên đồng thời cũng có dây chuyền sản xuất sợi phế OE. *Dây chuyền sản xuất sợi đơn chải thô (điển hình là sợi Ne 32 Cot CTDK) Máy bông Máy chải thô Máy ghép Máy thô Máy sợi con Máy ống Bông Cotton B1 B2 B3 B4 B5 Thành phẩm đã được đánh ống Bông trước khi đưa vào máy bông được trộn với một tỷ lệ nhất định để đảm bảo chất lượng sợi và đảm bảo cho sản xuất từ đầu đến cuối dây chuyền. B1: Bông được xé tơi, trộn đều, làm sạch, loại trừ xơ ngắn để đảm bảo cung cấp cho máy chải thô. B2: Máy chải thô phân chải xơ thành các xơ đơn liên kết tạo màng bông thành cúi chải, loại trừ các tạp chất điểm tật (kết tạp), duỗn thẳng và song song các xơ, loại trừ xơ ngắn. B3: Máy ghép làm đều cúi, duỗi thẳng và song song xơ. B4: Máy thô là công đoạn trung gian để chuyển thành sợi thô, kéo nhỏ dần sản phẩm cuối ghép để chuẩn bị cho công đoạn kéo sợi con. B5: Máy sợi con: hình thành sợi con. Máy ống: tạo thành sợi ống có dung lượng lớn từ các quả sợi con có dung lượng sợi nhỏ. *Dây chuyền sản xuất sợi phế OE Bông phế Máy xử lý bông phế Máy bông Máy ghép Máy sợi con không cọc Máy ống B1 B2 B3 B4 Thành phẩm sợi phế OE B1: Bông phế qua máy xử lý bông phế làm sạch bông, loại trừ tạp chất. B2: Bông được xé tơi, trộn đều, làm sạch, loại trừ xơ ngắn để đảm bảo cung cấp cho máy chải thô. B3: Máy ghép làm đều cúi, duỗi thẳng và song song xơ. B4: Máy sợi con không cọc hình thành sợi con dùng được ngay. Hiện nay dây chuyền sản xuất sợi này tương đối tiên tiến, Công ty đã sản xuất được những sợi với chỉ số cao, chất lượng tốt đạt tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. I.4 Hình thức tổ chức sản xuất và kết cấu tổ chức SX của doanh nghiệp * Hình thức tổ chức sản xuất Công ty có nhiều loại dây chuyền để sản xuất bốn chủng loại mặt hàng chính: Sợi, sản phẩm dệt kim, khăn bông và vải Denim. Các dây chuyền chủ yếu là dây chuyền sản xuất liên tục. Sản phẩm hình thành là kết quả của quá trình chế biến từ khi đưa nguyên vật liệu ở khâu đầu vào cho đến khi được thành phẩm, tạo thành một chu trình khép kín. Các bộ phận sản xuất được chuyên môn hóa, mỗi máy chỉ làm một công việc nhất định và người đứng máy cũng được chuyên môn hoá. * Kết cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp Hệ thống sản xuất là tập hợp các phân xưởng sản xuất chính, phân xưởng sản xuất phụ trợ và các bộ phận phục vụ mang tính chất sản xuất cùng với mối liên hệ giữa chúng trong quá trình sản xuất. Các phân xưởng sản xuất chính như phân xưởng sợi, phân xưởng dệt, phân xưởng nhuộm, và các nhà máy may. Các phân xưởng sản xuất phụ trợ như bộ phận sữa chữa, động lực, cơ khí. Các bộ phận phục vụ có tính chất sản xuất công nghiệp như hệ thống kho tàng, bộ phận vận chuyển, vệ sinh công nghiệp. Nguyên vật liệu từ kho được chuyển đến phân xưởng sợi để dệt sợi. Sản phẩm sợi được đưa đến nhà máy dệt để dệt vải, sau đó vải được đưa đến các nhà máy may. Khi sản phẩm được hoàn thành thì được đưa vào kho. Bộ phận vận chuyển sẽ đưa thành phẩm từ các phân xưởng này đến các phân xưởng khác. Và để cho hệ thống này hoạt động thì phải có điện, các bộ phận làm mát và các bộ phận sữa chữa. Tổ chức hệ thống sản xuất này cơ ưu điểm là có khả năng thích ứng cao với sự biến động về thị trường sản phẩm. Việc quản lý kỹ thuật chuyên môn đơn giản vì tính thống nhất về chuyên môn kỹ thuật trong một đơn vị sản xuất, có khả năng tập trung các chuyên gia để xử lý những vấn đề chuyên môn đặc biệt và có khả năng tận dụng được năng lực sản xuất của máy móc thiết bị Nhược điểm lớn nhất của hệ thống này là tổ chức phối hợp giữa các đơn vị sản xuất rất phức tạp, dự trữ vật tư bán thành phẩm trong sản xuất lớn, chi phí vận chuyển lớn. I.5 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp Chức năng nhiệm vụ cơ bản của các phòng ban trong Công ty + Tổng giám đốc công ty Là người có quyền cao nhất trong Công ty, điều hành toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Tổng Giám Đốc chịu trách nhiệm trước Tổng công ty dệt may Việt Nam và Nhà nước về toàn bộ kết quả sản xuất kinh doanh, về bảo toàn vốn phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn vốn nhà nước giao. Tổng giám đốc trực tiếp điều hành phòng kế toán tài chính và phòng xuất nhập khẩu. + Phó tổng giám đốc: Có nhiệm vụ giúp Tổng giám đốc điều hành công ty theo sự uỷ quyền của Tổng giám đốc. Các phòng ban thuộc khối điều hành của Công ty sẽ làm các công tác nghiệp vụ, triển khai các nhiệm vụ đã được Tổng giám đốc duyệt xuống các nhà máy và các đơn vị liên quan, đồng thời làm công tác tham mưu cho Tổng giám đốc về mọi mặt sản xuất kinh doanh, giúp tổng giám đốc ra quyết định nhanh chóng, chính xác. Bên cạnh đó các phòng ban có mối liên hệ chặt chẽ với nhau để đảm bảo việc sản xuất được xuyên suốt và thuận lợi. + Phòng kế toán tài chính: Quản lý nguồn vốn quỹ của công ty. Thực hiện công tác tín dụng, kiểm tra phân tích kết quả hoạt động kinh doanh, phụ trách cân đối thu chi, báo cáo quyết toán. Tính và trả lương cho cán bộ công nhân viên chức. Thực hiện thanh quyết toán đối với khách hàng và thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Thực hiện đầy đủ chế độ báo cáo tài chính theo luật kế toán thống kê và chế độ lương theo quy định của Nhà nước. + Phòng kế hoạch thị trường Có nhiệm vụ xây dựng các kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn (chiến lược sản xuất). Nhận ký kết các hợp đồng trong nước, thừa nhận về các lĩnh vực cung ứng vật tư, quản lý vật tư, tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời nắm được giá cả đầu vào, đầu ra, phát huy hiệu quả đồng vốn và đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, đạt hiệu quả kinh tế. Quản lý tiêu thụ sợi, vải Denim, vải dệt kim. + Phòng Thương mại Xây dựng điều hành việc thực hiện kế hoạch SX của Công ty, xây dựng kế hoạch cung ứng và dự trữ vật tư và tổ chức công tác Marketing tiêu thụ sản phẩm. + Trung tâm KCS Phụ trách về công nghệ dệt kim, công nghệ sợi, chất lượng sản phẩm sợi, dệt, may mặc. Kiểm tra nguyên liệu đầu vào, thí nghiệm, kiểm tra chất lượng sản phẩm. + Phòng Xuất nhập khẩu Nghiên cứu thị trường nước ngoài, giao dịch với khách hàng nước ngoài. Nhập thiết bị để đáp ứng nhu cầu của Công ty, xuất bán sản phẩm ra nước ngoài, ký kết các hợp đồng xuất nhập khẩu. + Phòng kỹ thuật đầu tư Lập nên các dự án đầu tư, duyệt các thiết kế mẫu của các mã khách hàng, duyệt phiếu công nghệ may, đồng thời có nhiệm vụ xây dựng các định mức. Quản lý toàn bộ các định mức kinh tế kỹ thuật, các chỉ tiêu kỹ thuật của toàn công ty. + Phòng tổ chức hành chính Có nhiệm vụ quản lý, tuyển dụng lao động cho toàn Công ty, bố trí đào tạo, bảo đảm kịp thời cho sản xuất, thực hiện chế độ đối với công nhân viên chức, giúp tổng giám đốc nghiên cứu và xây dựng bộ máy quản lý. + Trung tâm y tế Thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, khám chữa bệnh cho công nhân, cán bộ Công ty, điều trị, cấp cứu tai nạn xảy ra. Sơ đồ Tổ chức của công ty dệt may Hà Nội Tổng giám đốc PGĐ Kỹ thuật PGĐ Tài Chính PGĐ-Sản Xuất P-KHTT P-XNK P- TCHC P-BVQS Nhà máy Sợi Nhà máy sợi Vinh Nhà máy dệt vải Denim Nhà máy dệt Hà Đông Nhà máy dệt nhuộm NM may thêu Đông Mỹ NM may thời trang NM may 1,2,3 P-KTTC P-TM P-KTĐT P-KCS Trong đó P-KTĐT: Phòng Kỹ thuật đầu tư. P-KHTT: Phòng Kế hoạch thị trường. P-KTTC: Phòng Kế toán tài chính. P-TCHC: Phòng Tổ chức hành chính. P-XNK: Phòng Xuất nhập khẩu. P- TM: Phòng Thương mại. P-BVQS: Phòng Bảo vệ quân sự Bộ máy tổ chức công ty được sắp xếp theo kiểu trực tuyến chức năng nhằm tạo sự năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chủ trương của Công ty là giảm biên chế sao cho bộ máy phát huy một cách hiệu quả nhiệm vụ chức năng từng phòng ban. Theo cơ cấu này các bộ phận chức năng không ra lệnh trực tiếp cho các đơn vị sản xuất, mà chỉ tham mưu cho Tổng giám đốc. Đây là cơ cấu quản lý có hiệu quả, phù hợp với công ty. Cơ cấu này chỉ đạo sản xuất kinh doanh một cách nhạy bén, phát huy được thế mạnh của các bộ phận chức năng. Tuy nhiên việc thực hiện mệnh lệnh giữa các phòng ban là độc lập nên có thể tiến độ thực hiện mệnh lệnh giữa các phòng ban là không đồng đều. Vì vậy để thực hiện tốt công tác quản lý theo hình thức này thì các phòng ban phải phối hợp nhịp nhàng với nhau, thông tin cho nhau để quá trình quản lý đạt hiệu quả hơn. I.6 Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Chỉ tiêu ĐVT Năm So sánh (%) 2000 2001 2001/2000 Tổng doanh thu trđ 473.932 557.015 118% Chi phí từ HĐSXKD trđ 457.179 532.276 116% Lợi nhuận từ HĐSXKD trđ 15.198 23.598 155% Lợi nhuận sau thuế trđ 1.436 1.544 108% Tổng số lao động người 4.694 4.394 94% Tổng tài sản trđ 496.097 608.215 123% Nguồn: Phòng tài chính kế toán Đây là một số chỉ tiêu chủ yếu phản ánh hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 2 năm 2000 và 2001. Nhìn chung, ta thấy tất cả các chỉ tiêu về doanh thu, lợi nhuận, chi phí, tổng tài sản đều tăng và tổng số lao động giảm. Đây là dấu hiệu tốt trong việc sử dụng lao động. Muốn biết được hiệu quả của các chỉ tiêu có ảnh hưởng như thế nào đến hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thì ta sẽ đi vào phân tích từng chỉ tiêu sau: Qua bảng trên cho thấy Doanh thu của năm 2001 so với năm 2000 tăng 18% do công ty đã không ngừng đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở thị trường trong và ngoài nước. Chủ yếu là tiêu thụ sản phẩm Sợi và dệt kim năm 2001 tăng. Chi phí của năm 2001 tăng 16% so với năm 2000 nguyên nhân chủ yếu là do chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí quản lý tăng nhưng tốc độ tăng của chi phí (16%) nhỏ hơn tốc độ tăng của doanh thu (18%) nên việc tăng chi phí ở đây là hợp lý. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh tăng 55% so với năm 2000 do công ty có thêm một số bạn hàng mới ở nước ngoài. Các mặt hàng của công ty bán được với giá cao, đặc biệt là mặt hàng Sợi, công ty đã đầu tư máy móc thiết bị mới, nâng cao chất lượng sản phẩm để xuất khẩu ra nước ngoài. Lợi nhuận của năm 2001 tăng 8% so với năm 2000 chủ yếu là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh. Cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty mang lại lợi nhuận. Tổng số lao động của năm 2001 giảm 6% so với năm 2000. Tổng số lao động giảm nhưng doanh thu và lợi nhuận tăng. Đây là một dấu hiệu tốt, chứng tỏ công ty đã sử dụng lao động có hiệu quả. Bảng 2: Cơ cấu lao động trong công ty ĐV: người Năm TSLĐ Nam Nữ BPHC Bộ phận SXTT Trình độ ĐH CĐ-TC C N 1999 4.971 1.444 3.527 359 4.491 350 420 4.201 2000 4.694 1.491 3.203 330 4.191 370 425 3.899 2001 4.394 1.303 3.091 224 3.876 380 435 3.579 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính. Số lao động trong bộ phận hành chính năm 2001 chiếm 5% trong tổng số lao động chứng tỏ bộ máy quản lý của Công ty gọn nhẹ. Bộ phận HC giảm đi từng năm do công ty áp dụng chính sách chặt chẽ, không để tình trạng dư thừa tập trung vào bộ phận hành chính. Do Công ty là dệt may nên lao động chủ yếu của Công ty là nữ. Lực lượng lao động nam của Công ty chủ yếu tập trung ở những bộ phận kỹ thuật, bộ phận bảo toàn, bảo dưỡng, các nhà máy cơ khí, nhà máy điện cơ. Vì đặc điểm có nhiều lao động là nữ nên lao động của Công ty luôn có nhiều biến động vì họ phải nghỉ do thai sản, ốm đau. Lực lượng lao động của công ty là lao động trẻ. Tổng số lao động trẻ dưới 35 tuổi là 3120 người chiếm 71% tổng số lao động. Lao động trẻ có ưu điểm là khoẻ và dễ nắm bắt cái mới, dễ tiếp cận với khoa học công nghệ mới nhưng có ưu điểm là thiếu kinh nghiệm. Công ty thường xuyên bồi dưỡng đào tạo công nhân đặc biệt là công nhân nhà máy sợi. Trình độ lao động của công nhân viên trong công ty là chưa cao. Số người có trình độ đại học chiếm 8,64%, số công nhân kỹ thuật chiếm 81,45%. Vấn đề hiện nay của doanh nghiệp là trình độ của công nhân trực tiếp sản xuất còn thấp . Vì vậy công ty cần thường xuyên tổ chức đào tạo lại. Tổng tài sản của công ty đến năm 2001 là 608 tỷ tăng 23% so với năm 2000. Do công ty đầu tư thêm một số máy móc thiết bị. Nhìn chung, các chỉ tiêu này thì năm sau đều cao hơn năm trước, nhưng để đánh giá được tình hình sản xuất kinh doanh của công ty thì ta liên hệ giữa các chỉ tiêu với nhau. Chỉ tiêu giữa tổng doanh thu tăng 18% so với tổng tài sản tăng 23% cho thấy sự tăng lên của doanh thu cũng khá cao so với sự tăng lên của tài sản. Chỉ tiêu giữa tổng tài sản tăng 23% so với lợi nhuận sau thuế tăng 8% cho thấy lợi nhuận sau thuế thu được được thì rất thấp so với tổng tài sản, phản ánh tình hình sử dụng tài sản để sinh ra lợi nhuận của Công ty là thấp. Nhưng để biết được việc sử dụng tài sản có hiệu quả không thì ta cần xem xét cụ thể ở phần sau. Qua việc phân tích một số chỉ tiêu tổng quát phản ánh tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Bằng những nỗ lực của mình công ty đã đạt được một số kết quả nhất định thể hiện qua việc năm 2001 doanh thu, lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh, lợi nhuận sau thuế và tổng tài sản so với năm 2000 đều tăng. Nhưng khi so sánh các cặp chỉ tiêu giữa doanh thu so với tổng tài sản thì cao nhưng cặp chỉ tiêu lợi nhuận so với tổng tài sản thì thấp. Điều này ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi của tổng tài sản, chứng tỏ chúng tôi làm ăn có lợi nhuận nhưng hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp chưa cao. Trải qua hơn 20 năm xây dựng và trưởng thành đến nay Công ty Dệt may Hà Nội đã có những cơ sở sản xuất ổn định, số lượng và chất lượng sản phẩm không ngừng tăng, bộ máy quản lý có năng lực đáp ứng với tình hình xu thế hiện nay. Sản phẩm của Công ty không những tiêu thụ trong nước mà còn tiêu thụ ở các nước trên thế giới như Nhật Bản, Thái Lan, Đài Loan, Hồng Kông… Trong nền kinh tế thị trường mở, các nước đều hạ thuế xuất nhập khẩu vì thế không chỉ riêng công ty dệt may Hà Nội mà tất cả các công ty trong nước đều chịu sự cạnh tranh với các hàng hoá nhập từ nước ngoài vào và đó cũng là cơ hội cho công ty xuất khẩu hàng đi đến các nước trong khu vực. Công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm để tìm kiếm thêm nhiều bạn hàng trong và ngoài nước. Mặc dù chịu mọi sự cạnh tranh gay gắt nhưng Công ty vẫn luôn đứng vững theo nguyên tắc tự trang trải, hạch toán kinh doanh độc lập và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước. Sau khi phân tích một số chỉ tiêu phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, tôi thấy chỉ tiêu lợi nhuận là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh là tiêu chuẩn để đánh giá của các hoạt động của doanh nghiệp tăng không hợp lý so với sự tăng lên của tổng tài sản. Chính vì vậy tôi lựa chọn vấn đề “Phân tích tình hình tài chính và biện pháp để cải thiện tình hình tài chính của doanh nghiệp” làm nội dung để làm đồ án tốt nghiệp. Nếu cải thiện được tình hình tài chính, thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty . i. Khái niệm chức năng của tài chính doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế, là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ. Để tiến hành hoạt động kinh doanh, bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định, đó là tiền đề cần thiết. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp. Trong quá trình đó, đã phát sinh các luồng tiền tệ gắn liền với hoạt động đầu tư và các hoạt động kinh doanh thường xuyên của doanh nghiệp, các luồng tiền đó bao hàm các luồng tiền tệ đi vào và các luồng tiền tệ đi ra khỏi doanh nghiệp, tạo thành sự vận động của các luồng tài chính của doanh nghiệp. Gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị tức là các quan hệ tài chính trong doanh nghiệp. * Quan hệ giữa doanh nghiệp với Nhà nước Đây là mối quan hệ phát sinh khi doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ thuế đối với nhà nước, khi nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp. * Quan hệ giữa doanh nghiệp với thị trường tài chính Quan hệ này được thể hiện thông qua việc doanh nghiệp tìm kiếm các nguồn tài trợ. Trên thị trường tài chính, doanh nghiệp có thể vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn, có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Ngược lại doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, trả lãi cổ phần cho các nhà tài trợ. Doanh nghiệp cũng có thể gửi tiền vào ngân hàng, đầu tư chứng khoán bằng số tiền tạm thời chưa sử dụng. * Quan hệ giữa doanh nghiệp với các thị trường khác Trong nền kinh tế, doanh nghiệp có quan hệ chặt chẽ với các doanh nghiệp khác trên thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường sức lao động. Đây là những thị trường mà tại đó doanh nghiệp tiến hành mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, tìm kiếm lao động v.v.. Điều quan trọng là thông qua thị trường, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu hàng hoá và dịch vụ cần thiết cung ứng. Trên cơ sở đó, doanh nghiệp hoạch định ngân sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị nhằm thoả mãn nhu cầu thị trường. * Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp Đây là quan hệ giữa các bộ phận sản xuất – kinh doanh, giữa cổ đông và người quản lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn. Các mối quan hệ này được thể hiện thông qua hàng loạt chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức (phân phối thu nhập), chính sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí… Từ những vấn đề trên có thể rút ra: Tài chính doanh nghiệp là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ phát sinh trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm góp phần đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp. Các hoạt động có liên quan đến việc tạo lập , phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ thuộc các hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Các quan hệ kinh tế phát sinh gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp hợp thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp. Tổ chức tốt các mối quan hệ tài chính trên cũng nhằm đạt tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Chức năng tài chính của doanh nghiệp Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, nơi kết hợp các yếu tố cần thiết để sản xuất và bán các sản phẩm, dịch vụ tạo ra với mục đích thu lợi nhuận. Hoạt động của doanh nghiệp được đặc trưng bởi hai dạng 1.Sản xuất: Thực hiện chế biến các sản phẩm và dịch vụ mua vào để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ có thể bán. 2.Trao đổi: Mua các yếu tố đầu vào (cung ứng) để sản xuất ra các sản phẩm, dịch vụ và đem bán (thương mại). Hai chức năng cơ bản của doanh nghiệp là thương mại và cung ứng sản xuất. Hai chức năng này được gọi chung là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Để có thể tạo ra sản phẩm và dịch vụ có thể bán được, doanh nghiệp cần dùng vốn để mua sắm các tài sản và sử dụng các tài sản đó nhằm tạo ra thu nhập và phân chia thu nhập cho các chủ thể có liên quan. Tạo ra vốn và phân bổ hợp lý vốn huy động được vào các tài sản dùng trong hoạt động của doanh nghiệp để tạo ra thu nhập ổn định, ngày càng lớn và phân chia thu nhập tạo ra cho các chủ thể có liên quan đến doanh nghiệp là hoạt động cơ bản hình thành nên chức năng thứ ba của doanh nghiệp là Tài chính hay được gọi là hoạt động tài sản của doanh nghiệp. Chức năng tài chính trước hết là hổ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành ổn định và có hiệu quả bằng các tài sản dùng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, hoạt động này cũng có thể tạo ra những thu nhập ngoài sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp bằng các tài sản tài chính. Hai mảng hoạt động tài chính này cấu thành hoạt động tài chính trọn vẹn trong doanh nghiệp và có mối quan hệ mật thiết với nhau cho dù mỗi mãng có đặc trưng riêng. Chu trình tài chính của doanh nghiệp Chu trình tài chính của doanh nghiệp thể hiện quá trình chuyển hoá Tiền – Hàng hoá - Tiền trong mối quan hệ với môi trường và có 2 chu kỳ. Chu kỳ tạo vốn Chu kỳ này là khởi điểm cho việc thực hiện những cơ hội kinh doanh hoặc chiến lược phát triển mà doanh nghiệp đã lưạ chọn. Chu kỳ này sẽ được khởi động sau khi đã trả lời được các câu hỏi: Nhu cầu vốn là bao nhiêu? Những nguồn nào có thể huy động? Phương thức huy động?. Cơ hội kinh doanh Chiến lược phát triển Nhu cầu vốn. 2 . Nguồn vốn. 3. Phương thức huy động vốn Tạo vốn Đối với các doanh nghiệp mới, tạo vốn là điểm khởi đầu cho việc hình thành và hoạt động. Còn đối với các doanh nghiệp đang tồn tại thì tạo vốn là việc thường xuyên diễn ra để đáp ứng những nhu cầu của các hoạt động thường xuyên theo kế hoạch hoặc những nhu cầu nảy sinh bất thường. Tính chất đa dạng của việc tạo vốn phụ thuộc vào sự đa dạng của nguồn vốn có thể huy động và các phương thức huy động có thể thực hiện được. Điều này có nghĩa là môi trường hoạt động của doanh nghiệp ảnh h._.ưởng rất mạnh đến hoạt động tạo vốn của doanh nghiệp, đặc biệt là tính mềm dẻo của tiến trình huy động vốn và khả năng tìm kiếm, lựa chọn nguồn vốn, phương thức huy động vốn với chi phí thấp. Chu kỳ sử dụng vốn Doanh nghiệp chuyển hoá vốn đã tạo thành các loại tài sản và sử dụng các tài sản để thực hiện mục tiêu sinh lợi của mình. Phần vốn tạo ra các tài sản dùng trong quá trình sản xuất kinh doanh góp phần tạo ra giá trị gia tăng của doanh nghiệp. Phần vốn tài trợ cho các tài sản tài chính sẽ tạo ra thu nhập tài chính. Chu kỳ sử dụng vốn đóng vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Trong chu kỳ này, doanh nghiệp quyết định phân bổ vốn cho các loại hình tài sản khác nhau về hình thái về chu kỳ sống, về khả năng sinh lợi… Như vậy, nếu việc phân bổ vốn cho các loại hình tài sản không hợp lý về cơ cấu thì doanh nghiệp sẽ đứng trước nguy cơ suy giảm hoạt động. II. Quản lý tài chính doanh nghiệp, vai trò, nội dung, mục tiêu của quản lý tài chính doanh nghiệp. Quản lý tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra các quyết định tài chính, tổ chức thực hiện những quyết định đó nhằm đạt tới mục tiêu hoạt động tài chính của doanh nghiệp đó là tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng làm tăng giá trị của doanh nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. * Vai trò của quản lý tài chính doanh nghiệp Quản lý tài chính doanh nghiệp có vai trò to lớn trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, tài chính doanh nghiệp giữ vai trò chủ yếu sau: - Huy động đảm bảo đầy đủ và kịp thời vốn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. - Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả. - Giám sát kiểm tra chặt chẽ các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Nội dung quản lý tài chính doanh nghiệp Quản lý tài chính doanh nghiệp thường bao gồm những nội dung chính sau: Tham gia đánh giá, lựa chọn các dự án đầu tư và kế hoạch kinh doanh. Xác định nhu cầu vốn, tổ chức huy động các nguồn vốn để đáp ứng cho hoạt động của doanh nghiệp. Tổ chức sử dụng tốt số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chi, đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Thực hiện tốt việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp. Đảm bảo kiểm tra, kiểm soát thường xuyên đối với tình hình hoạt động của doanh nghiệp và thực hiện tốt việc phân phối tài chính. Thực hiện tốt việc lập kế hoạch tài chính nhằm giúp doanh nghiệp đưa ra các giải pháp kịp thời khi có sự biến động của thị trường. Quá trình thực hiện kế hoạch tài chính cũng là quá trình ra các quyết định thích hợp nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. * Mục tiêu quản lý tài chính doanh nghiệp Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp v.v.. song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêu bao trùm nhất là tối đa hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. Bởi lẽ, một doanh nghiệp phải thuộc về các chủ sở hữu nhất định, chính họ phải nhận thấy giá trị đầu tư của họ tăng lên, khi doanh nghiệp đặt ra mục tiêu là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu, doanh nghiệp phải tính đến sự biến động của thị trường, các rủi ro trong hoạt động kinh doanh. Quản lý tài chính doanh nghiệp là nhằm thực hiện được mục tiêu đó. Có thể thấy rằng mục tiêu của quản lý tài chính sẽ đồng nghĩa với việc tối đa hoá lãi sản xuất kinh doanh và tối đa hoá lãi tài chính qua từng thời kỳ. Rõ ràng là lãi sản xuất kinh doanh sẽ đóng vai trò cơ bản trong mục tiêu tối đa hoá giá trị của doanh nghiệp. Song trong môi trường tài chính năng động thì lãi tài chính cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu của quản lý tài chính vì nó làm thay đổi tổng tích luỹ của doanh nghiệp trong từng thời kỳ xem xét. Các quyết định tài chính trong doanh nghiệp : quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn, quyết định về phân phối, ngân quỹ có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong quản lý tài chính, nhà Quản lý phải cân nhắc các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài để đưa ra các quyết định làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu, phù hợp với lợi ích của chủ sở hữu. Để thực hiện mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ của quản lý tài chính là: Dài hạn: Hoạch định các giải pháp tối ưu trong từng chu kỳ của hoạt động tài chính, đảm bảo sự liên kết chặt chẽ trong chu trình tài chính khép kín. Ngắn hạn: Luôn đảm bảo năng lực thanh toán của doanh nghiệp với nguồn tài chính tối ưu (đủ về số lượng đúng về thời hạn). III Khái niệm và mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tài chính hiện hành và quá khứ. Thông qua việc phân tích báo cáo tài chính, người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng, hiệu quả kinh doanh cũng như những rủi ro trong tương lai. Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chứ công cộng. Đặc biệt là sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. Những người phân tích tài chính ở những cương vị khác nhau nhằm các mục tiêu khác nhau. * Phân tích tài chính đối với nhà quản trị Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính, dự báo tài chính : kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý. * Phân tích tài chính đối với nhà đầu tư Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu – lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vôn vào doanh nghiệp hay không * Phân tích tài chính đối với người cho vay Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Ngoài ra, phân tích tài chính cũng rất cần thiết đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp, đối với cán bộ thuế, thanh tra, cảnh sát kinh tế, luật sư… Dù họ công tác ở các lĩnh vực khác nhau, nhưng họ đều muốn hiểu biết về các hoạt động của doanh nghiệp để thực hiện tốt hơn công việc của họ. Như vậy, mối quan tâm của các nhà phân tích tài chính là đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai. Nói cách khác, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính. IV. Phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 1. Phương pháp phân tích tài chính Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính là phương pháp tỷ số. Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất: nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp, thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ số, thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng các tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp cần so sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy phương pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp tài chính khác. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian (so sánh kỳ này so với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chính của doanh nghiệp, theo không gian (so sánh với mức trung bình ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính DUPONT. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối liên hệ nhân quả với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đối với tỷ số tổng hợp. 2. Nội dung của phân tích tài chính gồm 4 phần sau: Đánh giá chung trạng thái tài chính của Công ty . Phân tích nhu cầu vốn, cơ cấu tài sản và nguồn tài trợ. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của Công ty. Phân tích hiệu quả sử dụng tài sản và khả năng hoàn vốn của Công ty 2.1. Đánh giá trạng thái tài chính của Công ty . Để đánh gía trạng thái tài chính, các nhà phân tích phải thu thập, sử dụng mọi nguồn thông tin: từ thông tin nội bộ doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài doanh nghiệp, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị. Những thông tin đó đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét, kết luận tinh tế và xác đáng. Những thông tin bên ngoài, cần lưu ý thu thập những thông tin chung (thông tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, cơ hội kinh doanh, lãi suất..), thông tin về kinh doanh (thông tin liên quan đến vị trí của ngành trong nền kinh tế, sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ..) và các thông tin về pháp lý, kinh tế đối với doanh nghiệp (Các thông tin mà các doanh nghiệp phải báo cáo các cơ quan quản lý như tình hình quản lý, kiểm toán, kế hoạch sử dụng, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp…). Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của doanh nghiệp, có thể sử dụng thông tin kế toán trong nội bộ như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Với những đặc trưng hệ thống đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đánh giá cho phân tích tài chính. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính, được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu: Đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Thông thường, bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản, một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán có cấu trúc hai bên cân bằng. Phía bên trái của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là tài sản lưu động và tài sản cố định. Phía bên phải liệt kê các nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động để tài trợ cho tài sản. Đó là vốn chủ và các khoản nợ. Các khoản mục trên bảng cân đối kế toán được sắp xếp theo khả năng chuyển hoá thành tiền giảm dần từ trên xuống. Với cách trình bày trên, phần tài sản thể hiện giá trị và cơ cấu sử dụng vốn trong doanh nghiệp còn phần Nguồn vốn chỉ rõ giá trị và cấu trúc nguồn tài trợ cho hoạt động của doanh nghiệp. Bảng báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong sản xuất kinh doanh và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh giúp các nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá, dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất kinh doanh: lỗ hay lãi trong năm. Như vậy bảng báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ nhất định. Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên báo cáo Kết quả kinh doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó. Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của doanh nghiệp Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 1. Bố trí cơ cấu vốn Tài sản cố định/ Tổng tài sản (%) Tài sản lưu định/ Tổng tài sản (%) 2. Tỷ suất lợi nhuận Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (%) Tỷ suất lợi nhuận trên vốn (%) 3. Tình hình công nợ Tỷ lệ nợ phải trả so với tổng tài sản (%) Khả năng thanh toán (%) Tổng quát: TSLĐ/ Nợ ngắn hạn Thanh toán nhanh: Tiền hiện có/ Nợ ngắn hạn 2.2. Phân tích nhu cầu vốn và nguồn tài trợ. Để đảm bảo có đủ tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tập trung các biện pháp tài chính cần thiết cho việc huy động, hình thành nguồn vốn. Nguồn vốn của doanh nghiệp được hình thành trước hết từ nguồn vốn của bản thân chủ sở hữu, sau nữa được hình thành từ nguồn vốn vay và nợ hợp pháp (vay ngắn hạn, dài hạn, trung hạn, nợ người cung cấp, nợ công nhân viên chức..) Cuối cùng, nguồn vốn được hình thành từ các nguồn bất hợp pháp (nợ quá hạn, vay quá hạn, chiếm dụng bất hợp pháp của người bán, của công nhân viên chức). Phân tích nội dung và cơ cấu tài sản. Tài sản là cách biểu hiện vốn của doanh nghiệp dưới dạng giá trị. Phần tài sản trong bảng cân đối kế toán phản ảnh giá trị hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản. Tổng tài sản gồm có: Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn Tài sản lưu động là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản của doanh nghiệp có thời gian luân chuyển ngắn, thường là trong vòng một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. + Vốn bằng tiền: gồm tiền mặt tại quỹ, tiền gửi ngân hàng và các khoản tiền đang chuyển. Các mục này dùng một đơn vị tiền tệ thống nhất là “đồng” ngân hàng Việt Nam. Vốn bằng tiền bao gồm: Tiền mặt tại quỹ là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp có tại quỹ để phục vụ cho nhu cầu chi trả bằng tiền mặt phát sinh hằng ngày. Bao gồm tiền thu do bán hàng mà doanh nghiệp chưa kịp nộp vào ngân hàng hoặc chưa dùng để chi cho các hoạt động khác, khoản phải trả, phải nộp nhưng chưa đến hạn trả, hạn nộp cũng được coi như tiền mặt của doanh nghiệp. Tiền gửi ngân hàng là lượng tiền doanh nghiệp gửi vào ngân hàng trên tài khoản tiền gửi mà doanh nghiệp đã đăng ký nhờ ngân hàng giữ hộ để thanh toán cho các nhà cung cấp khi họ cung cấp hàng hoá và dịch vụ cho doanh nghiệp. Tiền đang chuyển là khoản tiền mà doanh nghiệp đã nộp vào ngân hàng, kho bạc hoặc chuyển qua bưu điện để chuyển cho ngân hàng hay người được hưởng nhưng vẫn chưa nhận được giấy báo có. Tỷ trọng loại vốn này tăng lên cho thấy doanh nghiệp sẽ chủ động hơn trong kinh doanh, đáp ứng khả năng thanh toán kịp thời. Doanh nghiệp có thể dùng tiền để thoả mãn mọi nhu cầu trong kinh doanh một cách nhanh chóng. Tuy nhiên không nên dự trữ tiền mặt và tiền gửi ngân hàng quá lớn mà phải đưa nó vào sản xuất kinh doanh để tăng vòng quay vốn. + Các khoản đầu tư ngắn hạn: là việc bỏ vốn mua các chứng khoán có giá trị hoặc góp vốn liên doanh bằng tiền, hiện vật có thể thu hồi kịp thời trong một chu kỳ kinh doanh hoặc trong thời hạn không quá một năm (như tín phiếu kho bạc, trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng..) và các loại đầu tư khác không quá một năm. Tỷ trọng khoản này tăng lên cho thấy doanh nghiệp đã chú ý đến việc đầu tư vào thị trường chứng khoán ngắn hạn hoặc cho vay ngắn hạn. + Các khoản phải thu: là các khoản biểu hiện bằng tiền giá trị của những hàng hoá, dịch vụ mà doanh nghiệp đã cung cấp cho khách hàng nhưng chưa thu được tiền hoặc khách hàng trả chậm trong một khoảng thời gian nhất định. Trong thực tế kinh doanh chúng ta thấy rằng việc mua bán chịu thường xuyên xảy ra, đôi khi để tăng khối lượng hàng hoá bán ra thì doanh nghiệp phải có những chính sách ưu đãi cho người mua bằng cách thu tiền sau. Ngoài ra những khoản cung cấp bằng vốn hoặc tài sản lưu động mà doanh nghiệp cung cấp cho các đơn vị trực thuộc cũng hình thành nên khoản thu nội bộ. Trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp vừa có thể là chủ nợ của doanh nghiệp này đồng thời có thể là con nợ cuả doanh nghiệp khác. Do đó nêu một doanh nghiệp kinh doanh thất bại sẽ ảnh hưởng đến những doanh nghiệp khác. Để tránh bị ảnh hưởng về mặt tài chính, bảo toàn vốn kinh doanh thì doanh nghiệp phải nộp các khoản dự phòng cho những khoản công nợ mà xét thấy nó có thể không thanh toán được. Các khoản nợ đó gọi là nợ phải thu khó đòi, còn các khoản dự phòng được lập gọi là dự phòng nợ phải thu khó đòi. + Hàng tồn kho: Phản ánh giá vốn của các loại vật tư, hàng hoá mà doanh nghiệp đang nắm giữ để bán ra hoặc phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Đối với sự gia tăng hàng tồn kho, phải xem xét có loại hàng tồn đọng, kém phẩm chất, không phù hợp với nhu cầu tiêu thụ hay không, có sự đồng bộ về dự trữ nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất hay không. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì khoản mục nguyên, vật liệu tồn kho phải bảo đảm đủ cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục, không gây ứ đọng. Còn đối với doanh nghiệp kinh doanh thì hàng hoá tồn kho phải chiếm tỷ trọng tương đối cao trong tổng số hàng tồn kho. Nếu giảm được hàng tồn kho thì giảm định mức vật tư, sản phẩm dở dang, bằng các biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu, tìm nguồn cung cấp hợp lý.. nhưng vẫn đảm bảo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. RI = Doanh thu thuần Hàng hoá tồn kho Tỷ số vòng quay hàng tồn kho (RI): Tỷ số này đo lường mức doanh số bán liên quan đến mức hàng hoá tồn kho của các loại thành phẩm, nguyên vật liệu… Nếu giá trị của tỷ số này thấp chứng tỏ rằng các loại hàng hoá tồn kho quá cao so với doanh số bán. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn Tài sản cố định (TSCĐ) là những tư liệu lao động có giá trị lớn và thời gian sử dụng dài. Khi tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, tài sản cố định bị hao mòn dần và giá trị của nó được dịch chuyển từng phần vào chi phí kinh doanh. Tài sản cố định tham gia nhiều chu kỳ kinh doanh và giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu cho đến lúc hư hỏng. Gồm có các loại: + Tài sản cố định hữu hình. + Tài sản cố định vô hình. + Tài sản cố định thuê tài chính. Tài sản cố định hữu hình là biểu hiện bằng tiền giá trị của các loại tư liệu lao động của doanh nghiệp có giá trị lớn, thời gian sử dụng dài như: nhà cửa, máy móc thiết bị. Tài sản cố định đi thuê dài hạn là tài sản được ghi vào loại này theo hợp đồng thuê, quyền sở hữu tài sản cố định được chuyển cho bên đi thuê khi hết hạn hợp đồng hoặc bên đi thuê có thể mua TSCĐ với giá trị thấp hơn giá trị TSCĐ thuê tại một thời điểm nào đó, hoặc vào lúc kết thúc hợp đồng. Tài sản cố định vô hình là TSCĐ không có hình thái vật chất, là những giá trị biểu hiện những quyền của doanh nghiệp như đặc quyền nhượng, quyền sử dụng giá trị bằng phát minh sáng chế, lợi thế thương mại. Ngoài ra phần này cũng gồm những giá trị đã được đầu tư những phí thành lập doanh nghiệp, chi phí chuẩn bị sản xuất kinh doanh, chi phí nghiên cứu… Hao mòn luỹ kế tài sản cố định: giá trị hao mòn luỹ kế của ba loại tài sản cố định kể trên được ghi ở khoản này. Đầu tư dài hạn: gồm “góp vốn liên doanh” bằng bất cứ hình thái nào (hiện vật hay tiền), “đầu tư chứng khoán dài hạn” (cổ phiếu, trái phiếu) và đầu tư dài hạn khác (đặc biệt là đầu tư kinh doanh bất động sản). Nhìn chung, TSCĐ và đầu tư dài hạn tăng lên là tốt. Bởi vì điều này thể hiện quy mô sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật tăng. Tuy nhiên không phải lúc nào tài sản cố định tăng lên cũng tốt, nếu doanh nghiệp đầu tư máy móc thiết bị, nhà xưởng nhiều nhưng thiếu nguyên vật liệu sản xuất hoặc đầu tư nhiều nhưng sản xuất sản phẩm không tiêu thụ được. Để đánh giá Tài sản cố định và đầu tư dài hạn trước tiên ta phải tính đến chỉ tiêu tỷ suất đầu tư Tỷ suất đầu tư = Tài sản cố định đã và đang đầu tư Tổng số tài sản Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Để tiến hành phân tích cơ cấu tài sản cần lập bảng phân tích sau: Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 00/01 Số tiền (trđ) Tỷ trọng (%) Số tiền (trđ) Tỷ trọng (%) Số tiền (trđ) Tỷ trọng (%) A TS lưu động và Đtư NH I. Vốn bằng tiền II Đầu tư NH III Các khoản phải thu IV. Hàng tồn kho V. Tài sản lưu động khác B. Tài sản cố định, đầu tư DH I. Tài sản cố định II. Các khoản ĐT tài chính dài hạn III. Chi phí xây dựng cơ bản DD IV. Các khoản ký quỹ, ký cược DH Tổng cộng Tài Sản Phương pháp phân tích là tiến hành xác định tỷ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu năm và cuối kỳ và sự thay đổi về tỷ trọng giữa đầu năm và cuối kỳ và tìm nguyên nhân cụ thể của chênh lệch tỷ trọng này. Qua đó so sánh bằng số tuyệt đối và tỷ trọng có thể thấy sự thay đổi về số lượng quy mô và tỷ trọng từng loại tài sản. Để có thể rút ra nhận xét xác đáng và phù hợp, cần liên hệ với tình hình biến động của từng khoản mục tài sản cụ thể. Qua đó đánh giá tính hợp lý của từng biến động. Phân tích nội dung và cơ cấu nguồn vốn Vốn là yếu tố không thể thiếu trong mọi quá trình sản xuất – kinh doanh. Vì vậy, quản lý vốn trở thành nội dung quan trọng của quản lý tài chính. Tuỳ theo mỗi loại hình doanh nghiệp và các đặc điểm cụ thể, mỗi doanh nghiệp có thể có các phương thức huy động vốn khác nhau. Bằng việc so sánh giá trị hiện tại của các luồng thu nhập theo dự tính, các nhà quản lý có thể tìm được lời giải cho vấn đề có nên đầu tư hay không. Phần nguồn vốn bao gồm: + Nợ phải trả. + Nguồn vốn chủ sở hữu. Nợ phải trả Nợ phải trả là các khoản phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải trả cho các chủ nợ trong kỳ hạn nhất định và được coi là nguồn vốn của doanh nghiệp. Xu hướng nợ phải trả giảm về số tuyệt đối và tỷ trọng trong khi tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp tăng lên trong trường hợp này được đánh giá là tốt, do nguồn vốn chủ của doanh nghiệp cao. Nhưng nợ phải trả giảm trong khi nguồn vốn, quy mô và nhiệm vụ sản xuất bị thu hẹp thì được đánh giá là không tốt. Nợ phải trả bao gồm nợ ngắn hạn, nợ dài hạn và nợ khác. + Nợ ngắn hạn là những khoản nợ mà doanh nghiệp có trách nhiệm thanh toán trong vòng một năm hay một chu kỳ kinh doanh. Nợ ngắn hạn gồm vay ngắn hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, phải trả người bán, thuế và các khoản phải nộp, phải trả công nhân viên.. + Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm. Gồm vay dài hạn và nợ dài hạn. + Nợ khác: Gồm chi phí phải trả, tài sản thừa chờ xử lý, nhận ký quỹ ký cược dài hạn. Nguồn vốn chủ sở hữu Nguồn vốn chủ sở hữu là vốn do chủ sở hữu đầu tư ban đầu và bổ sung trong quá trình kinh doanh. Có 3 nguồn tạo nên vốn chủ sở hữu: số tiền góp vốn của các nhà đầu tư, tổng số tiền tạo ra từ hoạt động sản xuất kinh doanh (lãi chưa phân phối) và chênh lệch đánh giá lại tài sản. Vốn kinh doanh gồm vốn góp (Nhà nước, các bên tham gia liên doanh, cổ đông, các chủ doanh nghiệp) và phần lãi chưa phân phối của kết quả sản xuất kinh doanh . Chênh lệch đánh giá lại tài sản (chủ yếu là tài sản cố định) khi nhà nước cho phép hoặc các thành viên quyết định. Các quỹ của doanh nghiệp hình thành từ kết quả sản xuất kinh doanh: quỹ phát triển, quỹ dự trữ, quỹ khen thưởng phúc lợi. Ngoài ra vốn chủ sở hữu còn bao gồm vốn đầu tư xây dựng cơ bản và kinh phí sự nghiệp (khoản kinh phí do ngân hàng Nhà nước cấp phát không hoàn lại, giao cho doanh nghiệp chi tiêu cho mục đích kinh tế lâu dài, cơ bản, mục đích chính trị xã hội..). Nguồn vốn đi vay: Hiện nay thiếu vốn là tình trạng thường gặp ở các doanh nghiệp. Nguồn vốn chủ sở hữu có khi không đáp ứng được nhu cầu về vốn của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh do đó doanh nghiệp phải vay vốn của các đối tượng khác như ngân hàng, tư nhân hoặc các doanh nghiệp khác. Đối với nguồn vốn này ngoài nghĩa vụ bảo toàn và phát triển vốn thì doanh nghiệp còn phải trả lãi tiền vay cho người cho vay. Nguồn vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu: Trong nền kinh tế thị trường hiện nay có nơi thừa vốn, có nơi thiếu vốn. Vì vậy ngoài việc đi vay vốn doanh nghiệp có thể thu hút bằng cách kêu gọi góp vốn liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu từ những cá nhân, tổ chức trong nước và ngoài nước. Nguồn vốn khác: Trên thực tế trong hoạt động kinh doanh thường có những khoản phải trả, phải nộp khác nhưng chưa đến kỳ hạn trả, kỳ hạn nộp. Doanh nghiệp có thể tận dụng chúng trong một thời gian nhất định. Những khoản này được coi là vốn tự có của doanh nghiệp mặc dù doanh nghiệp không có quyền sở hữu nhưng vẫn có quyền tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh mà không phải trả bất cứ một khoản chi phí nào. Khi phân tích tình hình phân bổ vốn là đánh giá sự biến động các bộ phận cấu thành tổng số vốn cuả doanh nghiệp nhằm thấy được trình độ sử dụng vốn và việc phân bổ giữa các loại vốn trong các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh có hợp lý không, từ đó đề ra biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên cả về số tuyệt đối và tỷ trọng thì được đánh giá là tốt. Vì nó biểu hiện hiệu quả sản xuất tăng, tích luỹ tăng, thông qua việc bổ sung vốn từ lợi nhuận và quỹ phát triển sản xuất. Để đánh giá sự biến động của nguồn vốn chủ sở hữu trước hết phải tính đến chỉ tiêu hệ số tự tài trợ. Chỉ tiêu này phản ánh khả năng tự bảo đảm về mặt tài chính và mức độ độc lập của mỗi doanh nghiệp, nó cho biết vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng số nguồn vốn Hệ số tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu Tổng số nguồn vốn Chỉ tiêu này chiếm tỷ trọng càng cao trong tổng số nguồn vốn và càng cao so với kỳ trước, chứng tỏ mức độ độc lập về mặt tài chính của doanh nghiệp càng cao bởi vì hầu hết tài sản mà doanh nghiệp có đều được đầu tư bằng số vốn của mình. Để tiến hành phân tích cơ cấu nguồn vốn cần lập bảng phân tích sau Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 01/00 Số tiền (trđ) Tỷ trọng (%) Số tiền (trđ) Tỷ trọng (%) Số tiền (trđ) Tỷ trọng (%) A Nợ phải trả I. Nợ ngắn hạn II. Nợ dài hạn III. Nợ khác B. Nguồn vốn chủ sỡ hữu I. Nguồn vốn, quỹ II. Nguồn kinh phí Tổng cộng nguồn vốn Phương pháp phân tích là tiến hành xác định tỷ trọng từng khoản vốn ở thời điểm đầu năm và cuối kỳ và sự thay đổi về tỷ trọng giữa đầu năm và cuối kỳ và tìm nguyên nhân cụ thể của chênh lệch tỷ trọng này. Qua đó so sánh bằng số tuyệt đối và tỷ trọng có thể thấy sự thay đổi về số lượng quy mô và tỷ trọng từng loại vốn. Để có thể rút ra nhận xét xác đáng và phù hợp, cần liên hệ với tình hình biến động của từng loại vốn. Phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Phân tích tình hình công nợ Tình hình thanh toán của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu phản ánh nợ phải thu và các chỉ tiêu phản ánh nợ phải trả. Về mặt tổng thể, tình hình thanh toán các khoản nợ phải thu và thanh toán nợ phải trả được thể hiện qua các chỉ tiêu sau: + Tỷ lệ các khoản phải thu so với các khoản nợ phải trả (%): Chỉ tiêu này phản ánh các khoản doanh nghiệp bị chiếm dụng so với các khoản đi chiếm dụng và được tính như sau: Hệ số công nợ = Các khoản phải thu Các khoản phải trả x 100 Nếu các khoản phải thu lớn hơn các khoản phải trả có nghĩa là doanh nghiệp đang bị chiếm dụng vốn. Nếu ngược lại, chứng tỏ doanh nghiệp đang chiếm dụng vốn của người khác. Tuy nhiên ngày nay trong nền kinh tế thị trường, việc mua bán nợ là không thể thiếu, nên ta cần phải xem xét khoản nào là hợp lý, khoản nào không hợp lý để có giải pháp tích cực nhằm quản lý tốt công nợ. Khi tình hình tài chính doanh nghiệp gặp khó khăn, doanh nghiệp thường xuyên phải chiếm dụng vốn, thậm chí nợ nần dây dưa kéo dài và mất chủ động trong kinh doanh. Hks = Các khoản phải thu Tổng tài sản + Hệ số kiểm soát nợ Hệ số kiểm soát nợ chỉ được phép 10% thì khả năng kiểm soát nợ của doanh nghiệp là thấp. + Để đánh giá các khoản phải thu có ảnh hưởng như thế nào đến tình hình tài chính của doanh nghiệp, cần xác định tỷ trọng các khoản phải thu trong tổng số vốn lưu động ở đầu năm và cuối kỳ. Tỷ trọng = Các khoản phải thu Tổng số vốn lưu động x 100 + Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân = Các khoản phải thu Doanh thu bình quân một ngày Số ngày trong kỳ thu tiền bình quân thấp, chứng tỏ doanh nghiệp không bị ứ đọng vốn trong khâu thanh toán, không gặp những khoản nợ khó đòi. Ngược lại nếu tỷ số này cao, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân tích chính sách bán hàng để tìm ra nguyên nhân nợ tồn đọng. Trong nhiều trường hợp, do công ty muốn chiếm lĩnh thị phần thông qua hàng bán trả chậm, hay tài trợ cho các chi nhánh đại lý nên dẫn tới số ngày thu tiền bình quân cao. Phân tích khả năng thanh toán Trước hết cần tính ra và so sánh giữa cuối kỳ và đầu năm trên các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán như sau: Để đánh giá khả năng thanh toán tạm thời các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo, cần sử dụng chỉ tiêu “Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn”. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn = Tổng giá trị thuần của TSLĐ Tổng số nợ ngắn hạn Hệ số thanh toán nợ._.tiêu “Tỷ suất thu hồi tài sản” (ROA) Tỷ suất thu hồi tài sản = Lợi nhuận thuần Tổng tài sản bình quân = Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần x Doanh thu thuần Tổng tài sản bình quân Tỷ suất thu hồi tài sản = 1.436 433.349 Năm 2000 = 1.436 472.377 x 472.377 433.349 = 0,003 x 1,09 = 0,0033 Tỷ suất thu hồi tài sản = 1.544 556.949 Năm 2001 = 1.544 555.873 x 555.873 556.949 = 0,0028 x 0,998 = 0,0028 Năm 2001 tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản thấp hơn năm 2000 Tỷ số lợi nhuận trên tổng tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố: + Năm 2001 Thu nhập của doanh nghiệp trên 1 đồng doanh thu là 0,0028 thấp hơn năm 2000 là 0,003 do năm 2001 Công ty vay nợ ngắn hạn nhiều nên Công ty phải trả lãi vay nhiều. + Năm 2001 Một đồng tài sản thì tạo ra được 0,998 đồng doanh thu thấp hơn so với năm 2000 là 1,09 do hiệu quả sử dụng tài sản cố định không tốt. Nguồn gốc làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp là do năm 2001 doanh thu bán hàng không đủ lớn để tạo ra lợi nhuận và do lợi nhuận thuần trên mỗi đồng doanh thu quá thấp hơn so với năm 2000 và cũng có thể do nguồn huy động vốn vay quá lớn nên chi phí cho hoạt động tài chính là lớn là một trong những nguyên nhân làm giảm lợi nhuận. Hệ số lãi của vốn chủ sở hữu (ROE) ROE = Lợi nhuận thuần Vốn CSH = Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần x Doanh thu thuần Tổng giá trị bình quân tài sản x Tổng tài sản Vốn CSH Tổng tài sản Vốn CSH = Tổng tài sản Tổng tài sản – Nợ phải trả = 1 1 - Nợ phải trả Tổng tài sản = 1 1 - Tỷ số nợ Trong đó: 1 Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần x Doanh thu thuần Tổng tài sản x 1 - Tỷ số nợ ROE = Năm 2000 1 1 - 334.976 496.097 = 1 1 - 0,675 = 3,079 Năm 2001 1 1 - 452.877 608.215 = 1 1 - 0,744 = 3,9154 Tỷ số nợ năm 2001 là 74,4% cao hơn năm 2000, chứng tỏ gánh nặng nợ nần của công ty là khá nặng nề. Với tỷ số nợ này công ty khó có thể vay mượn thêm được tiền từ các nhà tài trợ. ROE = Lợi nhuận thuần Doanh thu thuần x Doanh thu thuần Tổng tài sản x 1 - Tỷ số nợ 1 ROE2000 = 0,003 x 0,952 x 3,079 = 0,0089 ROE2001 = 0,028 x 0,914 x 3,9154 = 0,0099 Tóm lại: Sau khi phân tích sự biến đổi của chỉ tiêu lợi nhuận của một đồng doanh thu, chỉ tiêu vòng quay vốn kinh doanh và chỉ tiêu hệ số nợ. Ta thấy chỉ tiêu lợi nhuận của một đồng doanh thu, chỉ tiêu vòng quay vốn kinh doanh làm giảm lợi nhuận của vốn chủ sở hữu và chỉ tiêu hệ số nợ làm tăng tỷ suất lợi nhuận của vốn kinh doanh. Chứng tỏ doanh nghiệp rất năng động trong việc vay vốn và sử dụng vốn vay có hiệu quả. Qua việc phân tích khả năng sinh lời của vốn, cho thấy Công ty làm ăn có lợi nhuận đảm bảo cho việc bảo toàn và phát triển vốn. Kết luận: Sau khi phân tích tình hình tài chính của công ty dệt may Hà Nội, tôi có một số nhận xét sau: Công ty chỉ tự tài trợ 25,5% phần còn lại 74,5% công ty phải huy động từ các nguồn khác mà phần nhiều là các khoản vay ngắn hạn và một phần là khoản vay dài hạn chứng tỏ khả năng tự chủ về mặt tài chính của Công ty chưa mạnh. Doanh nghiệp có khả năng thanh toán, đặc biệt là khả năng thanh toán nhanh. Nhưng bên cạnh đó công ty đang bị chiếm dụng vốn nhiều, công ty cần phải có biện pháp để giảm các khoản phải thu, tránh tình trạng nợ nần dây dưa kéo dài và khó đòi. Hiệu quả sử dụng tài sản năm 2001 thấp hơn năm 2000. Công ty làm ăn có lợi nhuận đảm bảo cho việc bảo toàn và phát triển vốn nhưng hệ số hoàn vốn năm 2001 thấp hơn năm 2000. Đây là một số căn cứ cơ sở để đề ra một số biện pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của công ty. Qua quá trình phân tích tình hình tài chính của Công ty dệt may Hà Nội, ta thấy nổi bật một số vấn đề lớn phản ánh bộ mặt tài chính của công ty như sau: Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty của Công ty chiếm phần nhỏ trong tổng nguồn vốn, nên khả năng tự chủ về mặt tài chính của Công ty chưa mạnh. Công ty có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Công ty còn bị khách hàng chiếm dụng vốn quá nhiều, nếu để lâu sẽ ảnh hưởng không tốt đến tình hình tài chính của công ty. Giá trị hàng tồn kho tăng trong đó hàng tồn kho của dệt kim chủ yếu là hàng kém chất lượng chưa tiêu thụ được. Chỉ tiêu về khả năng sinh lãi trên tài sản năm 2001 giảm so với năm 2000. Công ty cần cố gắng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Do đặc trưng của ngành nên việc đầu tư nguồn vốn tập trung nhiều vào các tài sản. Mục tiêu của Công ty là nâng cao doanh thu, nâng cao chất lượng sản phẩm để sản phẩm của Công ty có thể cạnh tranh được với các Công ty khác và có lợi nhuận. Để cải thiện được tình hình tài chính tôi thấy cần phải có biện pháp sau: -Thu hồi công nợ của khách hàng. -Giảm hàng tồn kho cho mặt hàng dệt kim. 1. Biện pháp thu hồi công nợ bằng cách chiết khấu hàng bán. Cơ sở căn cứ của biện pháp: Năm 2001 các khoản phải thu tăng 44,2% tương đương 42203 triệu đồng so với năm 2000. Năm 2000 các khoản phải thu chiếm 19,3% trên tổng tài sản nhưng đến năm 2001 tăng đến 22,7%, Các khoản phải thu này tăng chủ yếu là phải thu của khách hàng tăng 43474 triệu đồng. Năm 2001 phải thu của khách hàng là 972677 triệu đồng. Các khoản nợ chiếm phần nhiều là do việc bán sản phẩm Sợi. Chiếm phần lớn là khách hàng ở Miền Nam. Tuỳ từng khách hàng mà họ có thời gian trả nợ khác nhau. Do đặc điểm của ngành dệt phụ thuộc nhiều vào tình hình sản xuất và nhu cầu về các sản phẩm nên việc các Công ty nợ lẫn nhau và có thời gian trả nhanh chậm khác nhau Bảng 10: Danh sách một số khách hàng nợ chủ yếu: Tên khách hàng ĐVT Tổng số tiền Thời gian trả bình quân Công ty TNHH Vĩnh Thành tr.đồng 1.537 1 tháng Công ty Dệt kim Thắng lợi " 3.750 1 tháng Công ty Dệt kim Đông Xuân " 2.654 1 tháng Tổng cộng 7.941 Công ty Thiên Nam " 4.462 2 tháng Công ty thương mại Trung Tín " 4.461 2 tháng Công ty Quân Việt " 6.095 2 tháng Tổng cộng 15.018 Công ty Vinatex Đà Nẵng " 2.756 6 tháng Công ty TNHH Tiên Tiến " 1.824 6 tháng Công ty TNHH Nguyên Long " 1.257 6 tháng Tổng cộng 5.837 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Các khách hàng như Công ty TNHH Vĩnh Thành, Công ty dệt kim Thắng Lợi, Công ty dệt kim Đông Xuân là những khách hàng thường xuyên của Công ty, họ có uy tín trong việc thanh toán nợ. Vì thế, để khuyến khích những Công ty này mua hàng Công ty để cho những khách hàng này thanh toán chậm hơn so với hợp đồng. Các khách hàng như Công ty thương mại Trung Tín, Công ty Quân Việt, là những đều có uy tín trả nợ nhưng do họ cũng bị một số công ty khác nợ lại và hàng hoá nhập về để dự trữ cho sản xuất hoặc dự trữ để bán nên các có một số khách hàng trả nợ chậm. Vì thế cần phải khuyến khích những khách hàng này để họ trả nợ sớm. Còn đối với các khách hàng như Công ty Vinatex Đà Nẵng, Công ty TNHH Tiên Tiến, Công ty TNHH Thiên Long thì họ có khó khăn trong việc thanh toán nợ họ cũng bị một số công ty khác nợ lại, hàng hoá tồn kho nhiều… Vì thế, Công ty có chính sách thu nợ riêng đối với các khách hàng này. Mục tiêu của biện pháp thu hồi nợ Việc thu hồi các khoản nợ sẽ giúp Công ty hạn chế các rủi ro do nợ khó đòi cao, chi phí thu tiền bán hàng và chi phí sử dụng vốn. Công ty có thể dùng các khoản phải thu đó để đầu tư vào các hoạt động tài chính, thanh toán các khoản nợ đến hạn và làm tăng vòng quay vốn lưu động. Giải pháp đưa ra: Để khuyến khích người mua và nhằm tăng doanh thu, Công ty đã áp dụng phương pháp bán hàng chịu đối với khách hàng. Do đó các khoản nợ phải thu của khách hàng tăng. Hiện tại, Công ty chưa có chính sách tín dụng đối với khách hàng. Thể hiện qua việc bán mặt hàng sợi, theo hợp đồng bán hàng Công ty chỉ cho khách hàng thanh toán nợ trong 15 ngày nhưng chưa có chính sách rõ ràng để khuyến khích người mua hàng trả nợ. Đối với sản phẩm dệt kim, Công ty giảm giá 6% so với giá đã được niêm yết cho khách hàng. Sử dụng tín dụng thương mại đối với từng khách hàng, nếu khách hàng có uy tín thấp muốn bán chịu cũng không nên quá rộng rãi để tránh rủi ro. Để có chính sách tín dụng thương mại hợp lý công ty cần thẩm định kỹ mức độ rủi ro hay uy tín cuả khách hàng. Đồng thời đánh giá kỹ ảnh hưởng của chính sách bán chịu đối với lợi nhuận của Công ty. Để đánh giá mức độ rủi ro có thể gặp trong việc bán chịu sản phẩm hàng hoá, Công ty có thể xem xét các khía cạnh: mức độ uy tín của khách hàng, tình trạng tài chính tổng quát của mỗi doanh nghiệp, giá trị của tài sản dùng để đảm bảo tín dụng. Nói chung đối với mỗi chính sách bán chịu cần đánh giá kỹ các thông số chủ yếu sau đây: Số lượng hàng hoá dự kiến tiêu thụ được. Giá bán sản phẩm Các chi phí phát sinh thêm do việc tăng khoản nợ. Các khoản chiết khấu chấp nhận được. Thời hạn thu hồi nợ bình quân đối với các khoản nợ. Để giúp doanh nghiệp có thể nhanh chóng thu hồi các khoản phải thu, hạn chế việc phát sinh các chi phí không cần thiết hoặc rủi ro, Công ty cần có các biện pháp sau: Phải mở sổ theo dõi chi tiết các khoản nợ phải thu và thường xuyên đôn đốc để thu hồi nợ đúng hạn. Có các biện pháp phòng ngừa rủi ro không được thanh toán đó là lựa chọn khách hàng, giới hạn giá trị tín dụng, tạm ứng hoặc trả trước một phần giá trị đơn đặt hàng. Có chính sách bán chịu đúng đắn đối với từng khách hàng. Khi bán chịu cho khách hàng phải xem xét kỹ khả năng thanh toán trên cơ sở hợp đồng kinh tế đã ký kết. Có sự ràng buộc chặt chẽ trong hợp đồng bán hàng, nếu vượt quá thời hạn thanh toán theo hợp đồng thì Công ty phải thu lãi suất tương ứng như lãi suất quá hạn của ngân hàng. Có biện pháp xử lý các khoản nợ quá hạn thích hợp như gia hạn nợ, thoả ước xử lý xoá một phần nợ cho khách hàng hoặc yêu cầu toà án kinh tế giải quyết theo luật phá sản doanh nghiệp.. Phương án 1 Sử dụng điều khoản tín dụng chiết khấu bán hàng, có nghĩa là khách hàng sẽ được chiết khấu nếu họ thanh toán tiền mua hàng trong một khoảng thời gian quy định kể từ ngày giao hàng. áp dụng chính sách chiết khấu thương mại với những khách hàng có thời hạn trả nợ trung bình là 2 tháng như các khách hàng Công ty thương mại Trung Tín, Công ty Quân Việt, Công ty Thiên Nam. Công ty có rất nhiều khách hàng có thời hạn trả nợ là 2 tháng và giá trị của các khoản nợ này chiếm 60% trong khoản phải thu của khách hàng. 60% x 97.267 = 58.360,2 triệu đồng. Dự kiến rằng khi sử dụng biện pháp chiết khấu này một số khách hàng tham gia và Công ty thu nợ được 30% tổng số tiền là 58.360,2 triệu đồng. Số tiền mà Công ty dự kiến thu được là: 58.360,2 x 30% = 17.508 triệu đồng. Bảng 11: Các trường hợp chiết khấu ĐVT:triệu đồng Trường hợp Thời điểm 0 ngày Thời điểm 30 ngày Thời điểm 60 ngày Tỷ lệ chiết khấu Hiện nay 17.508 17.508 Trả hết 0% Trường hợp 1 Trả hết 1% Trường hợp 2 17.508 Trả hết 0,5% Công ty sẽ chiết khấu cho khách hàng với chính sách sau: Nếu khách hàng trả tiền ngay sẽ nhận được chiết khấu 1% trên tổng số tiền đã ghi trên hoá đơn bán hàng. Nếu khách hàng trả tiền sau ngày nhận được hàng là 30 ngày thì sẽ nhận được chiết khấu 0,5% trên tổng số tiền đã ghi trên hoá đơn bán hàng. Bảng 12: So sánh các trường hợp chiết khấu với lãi vay ngân hàng ĐVT: Triệu đồng Trường hợp Chi phí chiết khấu Chi phí lãi vay Chênh lệch (lãi vay – chiết khấu) Hiện nay 0 189,670 189,670 Trường hợp 1 175,08 189,670 14,590 Trường hợp 2 87,54 94,835 7,295 Lãi suất mà Công ty đi vay vốn ngắn hạn phải trả cho ngân hàng trung bình là 6,5%/ năm. Thời hạn thu hồi nợ bình quân đối với các khách hàng là 60 ngày. Lãi mà Công ty phải trả cho ngân hàng khi đi vay 17.508 triệu đồng trong vòng 2 tháng là 2 tháng x (6,5%/12) x 17.508 = 189,67 triệu đồng. Chi phí mà công ty phải chịu khi chiết khấu và trích lãi vay ngân hàng là TH1: Nếu khách hàng trả tiền hàng ngay Công ty sẽ trích chiết khấu với số tiền là 1% x 17.508 = 175,08 triệu đồng. TH2: Nếu khách hàng trả tiền sau ngày nhận được hàng là 30 ngày thì công ty sẽ trích chiết khấu với số tiền là 0,5% x 17.508 = 87,54 triệu đồng. Lãi vay mà Công ty phải trả cho ngân hàng trong một tháng là: 175,08 x (6,5%/12) = 94,835 triệu đồng. * Tính toán kết quả đem lại: Đối với trường hợp 1 Công ty sẽ thu hồi được nợ ngay là 17.508 – 175,08 = 17.332,92 triệu đồng và Công ty sẽ tiết kiệm được chi phí là: 189,67 – 175,08 = 14,59 triệu đồng. Đối với trường hợp 2 Công ty sẽ thu hồi được nợ sau 1 tháng là 17.508 – 87,54 = 17420,46 triệu đồng và Công ty sẽ tiết kiệm được chi phí là: 189,67 – (87,54 +94,835)=189,67 –182,375= 7,295 triệu đồng. Phương án 2. Đối với những khách hàng có kỳ thu nợ bình quân dài khoảng 6 tháng. Trong bảng 10 ta có 3 khách hàng, đó là Công ty Nguyên Long 1.257 triệu đồng, Công ty Tiên Tiến 1.824 triệu đồng, Công ty Vinatex Đà Nẵng 2.756 triệu đồng. Mặc dù những khách hàng này vẫn có uy tín trả nợ nhưng do một số lý do như những khách hàng này cho một số công ty khác nợ mà chưa thu hồi được, hay hàng tồn kho của khách hàng nhiều chưa tiêu thụ được. Các khách hàng này nợ lâu sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của Công ty và rủi ro không thanh toán được ngày càng cao. Để hạn chế được số nợ của những khách hàng này, Công ty cần có một số biện pháp sau: - Tăng cường thu nợ đối với các khách hàng này bằng cách gửi giấy báo, điện thoại, cho nhân viên đến tận nơi… - Giảm lượng hàng bán chịu cho các khách hàng này để tránh nợ mới chồng lên nợ cũ quá nhiều. Khi bán hàng, nên yêu cầu các khách hàng này thanh toán ngay từ 70% đến 80% trên tổng số giá trị hàng hoá mua. Khi bán hàng cho các khách hàng này phải có hợp đồng ghi rõ nếu quá thời hạn thanh toán tiền các khách hàng này sẽ phải chịu lãi vay ngân hàng cho Công ty. Để làm được điều này, Công ty nên kết hợp giữa 2 ngân hàng bên mua, bên bán và có cơ sở để kiện ra toà án kinh tế trong trường hợp không thu được tiền. 2. Biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho bằng cách giảm giá Cơ sở căn cứ Hàng tồn kho năm 2001 tăng 9,7% so với năm 2000. Giá trị hàng tồn kho tăng trong đó hàng tồn kho của dệt kim chủ yếu là hàng kém chất lượng chưa tiêu thụ được và những mặc hàng xuất khẩu bị trả về nhập lại kho. Hàng dệt kim tồn kho trong năm 2001 chiếm 30.552 triệu đồng. Hiện nay, do Công ty chưa chú trọng lắm trong việc giải phóng hàng tồn kho nên Công ty chỉ bán hàng giảm giá ở 2 cửa hàng: 1 ở trước cổng Công ty và 1 đại lý nằm trên đường Trần Nhân Tông. Vì thế số sản phẩm tiêu thụ được chỉ chiếm gần 20% trong tổng số hàng tồn kho. Bảng 13: Chi tiết hàng tồn kho dệt kim Loại đvt Giá trị Hàng xuất khẩu tr.đồng 1.527 Hàng nội địa " 29.025 Bộ quần áo thể thao " 3.784 Bộ quần áo trẻ em " 2.902 áo T-Shirt " 12.957 áo Poloshirt " 9.382 Nguồn: Phòng tài chính kế toán Mục tiêu của biện pháp Đẩy mạnh tiêu thụ hàng tồn kho dệt kim mục đích là làm giảm chi phí gồm 2 loại, đó là chi phí hoạt động như bảo hiểm hàng tồn kho, chi phí bảo quản hàng hoá và chi phí tài chính như chi phí sử dụng vốn, trả lãi vay do nguồn kinh phí vay mượn để tạo ra hàng hoá. Tránh tình trạng ứ đọng vốn quá nhiều. Giải pháp thực hiện Công ty định giá lại những mặt hàng dệt kim dựa trên cơ sở lấy lại giá vốn hàng bán, đối với những mặt hàng xuất khẩu bị trả về công ty giảm giá 30%/ giá bán niêm yết và giảm từ 50% đến 60% /giá bán niêm yết đối với những mặt hàng sản xuất nhưng không bán được trong nước do kém chất lượng, màu và mẫu mã đã lỗi mốt. Để đẩy mạnh việc bán các hàng hoá tồn kho này Công ty nên đưa về các đại lý lớn nằm gần ở những nơi mua bán lớn, treo băng rôn giảm giá và niêm yết giá rõ ràng để tránh tình trạnh các chủ đại lý tự ý nâng giá. Giả sử rằng khi thực hiện giảm giá công ty tiêu thụ được 50% giá trị hàng dệt kim tồn kho. Giá trị hàng tồn kho dự tính tiêu thụ được là 30.552 triệu x 50% = 15.276 triệu đồng. Trong đó giá trị mặt hàng xuất khẩu bị trả lại là 916 triệu đồng và giá trị hàng tồn kho trong nước là 14.360 triệu. Tổng số tiền dự kiến thu được là (916 x 30%) + (14.360 x 55%) =8.172,8 triệu đồng. Chi phí thực hiện: Khi bán hàng Công ty chiết khấu 5% trong tổng số doanh thu hàng bán tiêu thụ được. Hoa hồng mà công ty sẽ chi cho các đại lý khi bán được sản phẩm dự tính là 8172,8 triệu x 5% = 408,64 triệu đồng. Kết quả đem lại. Công ty sẽ thu được tiền hàng hoá từ việc bán giảm giá hàng tồn kho sẽ là 8.172,8 – 408,64 =7.764,16 triệu đồng. * Đánh giá hiệu quả sử dụng biện pháp: Nhờ thực hiện biện pháp chiết khấu hàng bán và tiêu thụ được hàng hoá tồn kho mà Công ty đã thu hồi được nợ và tiền hàng một cách nhanh chóng, số tiền thu được sẽ làm tăng vòng quay của vốn lưu động nhanh hơn mang đến hiệu quả sử dụng vốn cao hơn. Công ty sẽ dùng tiền này để đầu tư tài chính ngắn hạn. 3. Một số hướng giải pháp khác nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty. Về sản phẩm ta có một số giải pháp sau: Cơ sở giải pháp: + Do mẫu mã sản phẩm và màu sắc của các mặt hàng dệt kim là chưa đa dạng và không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. + Công ty có rất nhiều đại lý nhưng các đại lý này thường là rất nhỏ vì thế hoạt động kinh doanh cuả các đại lý này không mấy hiệu quả. Các đại lý này mở chủ yếu ở Hà nội và các tỉnh phía Bắc nhưng ở thị trường miền Trung và miền Nam thì rất ít. + Quảng cáo là công cụ rất cần thiết cho việc tiêu thụ sản phẩm, hiện nay công ty chưa có chính sách tích cực để quảng cáo sản phẩm của mình. + Người bán hàng là một khâu quan trọng mà Công ty cần phải quan tâm khi tuyển chọn vì họ sẽ thể hiện chính hình ảnh của Công ty, những đánh giá của khách hàng ảnh hưởng đến chính Công ty. Dịch vụ bán hàng của Công ty hiện nay chưa linh hoạt. Vì thế Công ty cần phải có một số giải pháp cụ thể để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm: + Công ty nên đầu tư thiết kế mẫu mã, sản phẩm phải đa dạng để đáp ứng nhu cầu của các đối tượng tiêu dùng đăc biệt là thanh niên, học sinh, sinh viên. + Những đại lý nhỏ kinh doanh không hiệu quả, Công ty nên bỏ bớt và mở vài cửa hàng lớn. Yêu cầu đặt ra là phải vị trí đặt cửa hàng: dễ dàng thu hút sự chú ý của khách hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong lúc mua hàng như có chổ để xe.. và giá thuê cửa hàng phù hợp. + Công ty nên tiến hành quảng cáo theo chu kỳ trên các phương tiện thông tin đại chúng: như Đài phát thanh, truyền hình và báo chí. Đặc biệt, công ty tập trung quảng cáo trên các báo tạp chí kinh tế như Thời báo kinh tế Việt Nam, Giá cả và thị trường, tạp chí Công nghiệp vì đây là những phương tiện mà các doanh nghiệp thường quan tâm. Nhiệm vụ của công tác quảng cáo là làm sao nhãn hiệu của Công ty trở nên quen thuộc với khách hàng. Vì thế quảng cáo cần xoáy mạnh vào ưu thế chất lượng sản phẩm như chất lượng sản phẩm được đảm bảo qua tất cả các khâu từ chế biến sợi đến dệt và may và cần làm nỗi bật ý nghĩa biểu tượng của Công ty: hình tượng một con chim Hạc. Ngoài ra, Công ty nên tổ chức hội nghị khách hàng qua đó công ty và khách hàng hiểu biết nhau hơn. Thông qua hội nghị, Công ty sẽ được khách hàng góp ý kiến về sản phẩm của mình và thông qua hội nghị sẽ tạo được bầu không khí thân thiện giữa khách hàng và Công ty. Do đó khách hàng có thể hiểu biết phần nào về tình hình còn khó khăn của Công ty, trên tinh thần bày tỏ tình cảm đối với Công ty thì khách hàng sẽ có thể tiêu thụ tăng lên. + Người bán hàng phải có kinh nghiệm bán hàng, có thái độ niềm nở đối với khách hàng, hướng dẫn khách hàng tận tình. Vì vậy Công ty cần đào tạo lại đội ngũ bán hàng. Người bán hàng trực tiếp xúc với khách hàng do vậy trong lúc bán cố gắng tìm hiểu tập tính mua của khách, nguyện vọng của khách để từ đó phản ánh lại công ty. Trong lúc tiếp xúc với với khách hàng, người bán hàng cần phải đề cao sự khác biệt về chất lượng sản phẩm và dịch vụ của Công ty so với hàng nhập ngoại và của các đối thủ cạnh tranh trong nước. Về tài sản cố định ta có giải pháp sau: + Do tình hình sử dụng tài sản không hiệu quả nên công ty cần phải thanh lý gấp những tài sản cố định không được sử dụng. + Công ty cần phải đánh giá đúng giá trị của máy móc thiết bị khi mua lại dây chuyền sản xuất của nước ngoài. 4. Hiệu quả mang lại sau khi sử dụng các biện pháp để cải thiện tình hình tài chính của Công ty. Dự kiến các khách hàng sẽ chấp nhận chiết khấu trường hợp 2 + Tổng số tiền nợ thu được từ khách hàng là 17.420,46 triệu đồng. + Tổng số tiền thu được từ giải phóng hàng tồn kho là 7.764,16 triệu đồng. Tổng số tiền thu được là: 17.420,46+ 7.764,16 = 25.174,62 triệu đồng. Nếu đem số tiền thu được của khách hàng tiếp tục kinh doanh Các khoản phải thu giảm, Công ty thu được tiền do đó cơ hội thu được chiết khấu trên hàng mua của Công ty tăng. Công ty không phải đi vay để chịu một khoản chi phí lãi vay khi cần vốn kinh doanh. Nếu không thu hồi được dần dần Công ty sẽ mất khả năng thanh toán, khả năng thu hồi nợ, Công ty phải đi vay hoặc chiếm dụng của người khác, nợ nần cứ dây dưa và kéo dài. Thu được nợ làm tăng giá trị thực thu, thu được lãi thực nhiều hơn, tăng vòng quay vốn kinh doanh làm tăng hiệu quả kinh doanh. Tăng hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, làm tăng tỷ suất thu hồi tài sản (ROA), dẫn đến tăng hệ số lãi trên vốn chủ sở hữu. Nếu Công ty không đem số tiền thu được của khách hàng tiếp tục kinh doanh thì công ty có thể dùng số tiền đó để trả bớt nợ ngắn hạn làm cho chi phí hoạt động tài chính giảm xuống hoặc đem số tiền đó để đầu tư tài chính ngắn hạn làm cho thu nhập hoạt động tài chính tăng lên. Đều dẫn đến lợi nhuận sau thuế tăng lên, tỷ suất thu hồi tổng tài sản tăng, làm tăng hệ số lãi trên vốn riêng. Kết luận Cùng với các Công ty trong ngành dệt may thuộc Tổng Công ty dệt may Vinatex, Công ty Dệt may Hà Nội đã hoàn thành được một số nhiệm vụ mà nhà nước giao cho. Công ty được nhà nước giao vốn cho toàn quyền sử dụng, tự quản lý điều hành nhằm phát huy hiệu quả đồng vốn để phát triển sản xuất kinh doanh. Qua quá trình tìm hiểu, phân tích tình hình tài chính của Công ty Dệt may Hà Nội vấn đề nổi bậc mà Công ty phải giải quyết trước mắt và lâu dài đó là vấn đề nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính. Muốn tăng doanh thu, lợi nhuận, thực hiện tốt các nhiệm vụ mà nhà nước giao cho, Công ty phải khắc phục những hạn chế tồn tại, từ khâu tổ chức quản lý tới quá trình sản xuất kinh doanh, từ nghiên cứu thị trường cho tới tiêu thụ sản phẩm, thì cần phải cải thiện tình hình tài chính của Công ty, giảm các khoản phải thu, giảm lượng hàng tồn kho… Do thời gian có hạn và những tìm hiểu thực tế về Công ty còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc phân tích tình hình tài chính của Công ty dệt may Hà Nội và đưa ra một số giải pháp, em hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Góp phần hoàn thiện công tác tài chính của Công ty, giúp Công ty ngày càng phát triển với quy mô lớn. Được sự giúp đỡ tận tình của cô giáo Lê thị Phương Hiệp và các cô chú, anh chị trong Công ty dệt may Hà Nội đã giúp em hoàn thành đồ án này. Em xin chân thành cám ơn cô Lê thị Phương Hiệp, các thầy cô trong khoa Kinh tế và quản lý cùng toàn thể các cô chú, anh chị làm việc trong Công ty dệt may Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em. tài liệu tham khảo Quản trị tài chính doanh nghiệp Nguyễn Hải Sản-NXB Thống Kê. Quản trị tài chính doanh nghiệp PGS.PTS Nguyễn Đình Kiêm- Nhà xuất bản Tài Chính. Phân tích hoạt động kinh doanh Tập thể các cán bộ giảng dạy của Khoa Kế toán- Kiểm toán trường ĐHKTQD -Nhà xuất bản Thống kê-5/2001. Kinh tế và Quản lý PTS. Ngô Trần ánh- Nhà xuất bản Thống Kê. Giáo trình tài chính doanh nghiệp TS. Lưu thị Hương- Nhà xuất bản giáo dục. Giáo trình kế toán quản trị PGS.TS Nguyễn Minh Phương- Trường Đại học kinh tế quốc dân Cơ sở của Quản lý TC doanh nghiệp Thầy Nghiêm Sĩ Thương- ĐHBKHN Bài giảng PTHĐSXKD Th.s Lê thị Phương Hiệp - ĐHBKHN Tạp chí ngành Công ty dệt may Hà Nội Bảng cân đối kế toán Ngày 31/1/2000 và 2001 Tài sản Năm 2000 Năm 2001 A TS lu động và Đt NH 275.658.577.184.00 332.713.361.697.00 I. Vốn bằng tiền 19.699.017.744.00 19.435.632.558.00 1.Tiền mặt(111) 446.074.850.00 1.633.117.348.00 2. Tiền gửi NH(112) 18.499.088.398.00 17.802.515.210.00 3. Tiền đang chuyển(113) 753.854.496.00 II Đầu t NH 1. Đầu t chứng khoán NH 2. Đầu t NH khác(128) 3. Dự phòng ggiá Đt NH III Các khoản phải thu 95.573.947.565.00 137.777.202.289.00 1. Phải thu của khách hàng (131) 53.793.179.323.00 97.267.751.626.00 2. Trả trớc cho ngời bán (331) 30.976.258.243.00 29.267.093.913.00 3. Thuế GTGT đợc khấu trừ 6.523.582.364.00 7.695.936.229.00 4. Phải thu nội bộ (136) 54.124.322.00 76.629.532.00 * Phải thu nội bộ (1361) 54.124.322.00 76.629.532.00 * Phải thu nội bộ khác (1368) 5. Phải thu khác 3.205.263.996.00 4.182.150.841.00 6. DPhg các khoản phải thu khó đòi (1.021.539.317.00) (712.359.852.00) IV. Hàng tồn kho 155.753.016.361.00 170.914.690.225.00 1. Hàng mua đang đi trên đờng (151) 2. Nguyên liệu, vật liệu tồn kho (152) 74.407.080.146.00 60.591.507.877.00 3. Công cụ, dụng cụ trong kho (153) 1.404.973.842.00 2.417.561.067.00 4. Chi phí SXKD dở dang (154) 21.476.233.223.00 32.312.546.139.00 5. Thành phẩm tồn kho (155) 58.464.729.150.00 75.593.075.142.00 6. Hàng hoá tồn kho (156) 7. Hàng gửi đi bán (157) 8. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho (159) V. Tài sản lu động khác 4.632.595.514.00 4.585.836.625.00 1. Tạm ứng (141) 1.882.226.671.00 1.049.810.610.00 2. Chi phí trả trớc (142) 462.853.713.00 3. Chi phí chờ kết chuyển (1422) 4. Tài sản thiếu chờ xử lý (1381) 113.405.869.00 5. Các khoản ký cợc, ký quỹ NH (144) 2.636.962.974.00 3.073.172.302.00 VI. Chi sự nghiệp (161) 1. Chi sự nghiệp năm trớc (1611) 2. Chi sự nghiệp năm nay (1612) B. Tài sản cố định, đầu t dài hạn 220.438.527.569.00 275.502.462.613.00 I, Tài sản cố định 216.406.535.280.00 272.589.492.101.00 1. TSCĐ hữu hình (211) 213.008.801.004.00 272.589.492.101.00 * Nguyên giá (211) 533.972.875.061.00 612.650.143.980.00 * Giá trị hao mòn luỹ kế (214) (320.964.074.057.00) (340.060.651.879.00) 2. TSCĐ thuê tài chính (212) 3.397.734.276.00 * Nguyên giá (212) 5.441.592.000.00 * Giá trị hao mòn luỹ kế (2142) (2.043.857.724.00) 3. TSCĐ vô hình (213) * Nguyên giá (213) * Giá trị hao mòn luỹ kế (2143) II. Các khoản ĐT tài chính dài hạn 1. Đầu t chứng khoán dài hạn (221) 2. Góp vốn liên doanh (222) 3. Đầu t dài hạn khác (228) 4. Dự phòng giảm giá đầu t dài hạn (229) III Chi phí xây dựng cơ bản dở dang (241) 3.759.912.689.00 2.912.970.512.00 IV Các khoản ký quỹ, ký cợc DHạn (244) 272.079.600.00 Tổng cộng tài sản 496.097.104.753.00 608.215.824.310.00 A Nợ phải trả 334.976.650.683.00 452.877.905.705.00 I. Nợ ngắn hạn 177.929.282.297.00 272.599.466.827.00 1. Vay ngắn hạn (311) 120.081.728.063.00 222.762.342.044.00 2. Nợ dài hạn đến hạn trả(315) 3. Phải trả cho ngời bán(331) 39.512.214.886.00 35.225.970.208.00 4. Ngời mua trả tiền trớc(131) 1.851.135.648.00 1.475.911.424.00 5. Thuế và các khoản phải nộp NN (333) 2.997.295.882.00 1.947.410.225.00 6. Phải trả công nhân viên(334) 11.986.070.909.00 9.110.694.181.00 7. Phải trả nội bộ(336) 8. Phải trả, phải nộp khác 1.500.836.909.00 2.077.138.745.00 II. Nợ dài hạn 156.906.513.883.00 180.278.438.878.00 1. Vay dài hạn (341) 152.409.010.595.00 180.278.438.878.00 2. Nợ dài hạn (342) 4.497.503.288.00 III. Nợ khác 140.854.503.00 1. Chi phí trả trớc (335) 2. Tài sản thừa chờ xử lý (3381) 140.854.503.00 3. Nhận ký quỹ, ký cợc dài hạn (334) B. Nguồn vốn chủ sỡ hữu 161.120.454.070.00 155.337.918.605.00 I. Nguồn vốn, quỹ 161.120.454.070.00 155.337.918.605.00 1. Nguồn vốn kinh doanh (411) 161.004.334.701.00 160.464.334.701.00 2. Chênh lệch đánh giá lại TS (412) 3. Chênh lệch tỷ giá (413) (6.823.544.123.00) 4. Quỹ đầu t phát triển (414) 32.711.956.00 32.711.956.00 5. Quỹ dự phòng tài chính (415) 6. Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc (416) 7. Lãi cha phân phối (421) 1.544.347.649.00 8. Quỹ khen thởng, phúc lợi (431) 62.307.413.00 98.968.422.00 9. Nguồn vốn đt XDCB (441) 21.100.000.00 21.100.000.00 II. Nguồn kinh phí 1. Quỹ quản lý của cấp trên (451) 2. Nguồn kinh phí sự nghiếp (461) * Nguồn kinh phí sự nghiệp năm trớc (4611) * Nguồn kinh phí sự nghiếp năm nay (4612) Tổng cộng nguồn vốn 496.097.104.753.00 608.215.824.310.00 Các chỉ tiêu ngoài bảng CĐKT 1. Tài sản thuê ngoài 2. Vật t hàng hoá giữ hộ, gia công 3. Hàng hoá nhận bán hộ, ký gửi 4. Nợ khó đòi đã xử lý 5. Ngoại tệ các loại Các chỉ tiêu ngoài bảng CĐKT 7. Nguồn vốn khấu hao cơ bản hiện có 9.616.707.256.00 Báo cáo kết quả hoạt động sản Xuất kinh doanh Từ ngày 1/10/2000 đến ngày 31/12/2000 Chỉ tiêu Mã số Năm 2000 Năm 2001 Tổng doanh thu 01 473.923.626.619.00 557.015.096.468.00 Trong đó: DT hàng XK 02 187.745.658.813.00 232.415.824.817.00 Các khoản giảm trừ (03=05+06+07) 03 1.546.045.290.00 1.141.992.573.00 * Giảm giá 05 697.806.582.00 494.880.197.00 * Hàng bán bị trả lại 06 848.238.708.00 647.112.376.00 * Thuế tiêu thụ ĐB, thuế XK phải nộp 07 - 1. Doanh thu thuần (10=01-03) 10 472.377.581.329.00 555.873.103.895.00 2. Giá vốn hàng bán 11 414.797.836.921.00 488.520.035.483.00 3. Lợi nhuận gộp (20=10-11) 20 57.579.744.408.00 67.353.068.412.00 4. Chi phí bán hàng 21 20.099.482.729.00 23.516.112.967.00 5. Chi phí quản lý doanh nghiệp 22 22.282.134.059.00 20.240.386.288.00 6. Lợi nhuận thuần từ HĐKD 30 15.198.127.620.00 23.596.569.537.00 7. Thu nhập hoạt động tài chính 31 589.465.857.00 303.822.371.00 8. Chi phí hoạt động tài chính 32 14.683.476.628.00 23.114.332.378.00 9. Lợi nhuận thuần từ hoạt động TC (31-32) 40 (14.094.010.771.00) (22.810.510.007.00) 10. Các khoản thu nhập bất thường 41 1.873.322.361.00 1.709.578.675.00 11. Chi phí bất thường 42 864.659.357.00 224.538.720.00 12. Lợi nhuận bất thường (50=41-42) 50 1.008.663.004.00 1.485.039.955.00 13. Tổng lợi nhuận trước thuế (60=30+40+50) 60 2.112.779.853.00 2.271.099.485.00 14 Thuế thu nhập DN phải nộp 70 676.089.553.00 726.751.835.20 15. Lợi nhuận sau thuế 80 1.436.690.300.00 1.544.347.649.80 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH350.doc
Tài liệu liên quan