Mục lục
Ký hiệu và viết tắt 7
Lời nói đầu 8
Chương 1: Tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp 10
I. Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp 10
1. Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp 10
2. Tầm quan trọng của phân tích tài chính 10
3. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp: 11
3.1. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp 11
3.2. Đối với các nhà đầu tư 12
3.3. Đối với các đối tượng cho vay 12
3.4. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước 12
3.5. Đối v
100 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật & Vật phẩm văn hoá Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới các đối tượng khác 13
4. Mục tiêu của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp 14
5. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 15
5.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp 15
5.1.1. Bảng cân đối kế toán 15
5.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh 18
5.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ 19
5.1.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính 21
5.2. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp 21
II. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 22
1. Phương pháp so sánh 23
2. Phương pháp phân tích tỷ lệ 23
3. Phương pháp phân tích Dupont 24
III. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 26
1. Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp 26
1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn 26
1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh 26
1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn 28
1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian 28
2. Phân tích tình hình tài chính theo các nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu 28
2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán 28
2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn 30
2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động 31
2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời 33
Chương 2: Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 35
I. Giới thiệu chung về Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 35
1. Quá trình thành lập 35
2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty 36
3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công ty 39
3.1. Chức năng 39
3.2. Nhiệm vụ 39
3.3. Quyền hạn 40
4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty 40
4.1. Tình hình cạnh tranh 40
4.2. Khách hàng của Công ty 41
4.3. Thị trường 41
4.4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong 5 năm (1997-2001) 41
II. Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 45
1. Phân tích khái quát tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 46
1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn 46
1.2. Phân tích tình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh 50
1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn kinh doanh 53
1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian 55
2. Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội theo các chỉ tiêu và tỷ lệ tài chính đặc trưng 57
2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán 57
2.1.1. Khả năng thanh toán chung 57
2.1.2. Khả năng thanh toán hiện hành 58
2.1.3. Khả năng thanh toán nhanh 59
2.1.4. Khả năng thanh toán tức thời 59
2.1.5. Tỷ lệ dự trữ trên vốn lưu động ròng 61
2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn 62
2.2.1. Hệ số nợ 62
2.2.2. Khả năng thanh toán lãi vay 63
2.2.3. Khả năng tự tài trợ 64
2.2.4. Khả năng độc lập về tài chính 64
2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động 65
2.3.1. Vòng quay tiền 66
2.3.2. Vòng quay dự trữ 68
2.3.3. Kỳ thu tiền bình quân 68
2.3.4. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định 69
2.3.5. Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động 70
2.3.6. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản 70
2.3.7. Vòng quay khoản phải thu 71
2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời 72
2.4.1. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 73
2.4.2. Doanh lợi vốn chủ sở hữu 74
2.4.3. Doanh lợi vốn 74
3. Phương pháp phân tích Dupont 76
III. Đánh giá tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 77
1. Điểm mạnh 77
2. Điểm yếu 78
3. Nguyên nhân 79
3.1. Nguyên nhân chủ quan 79
3.2. Nguyên nhân khách quan 80
Chương 3: Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 83
I. Những cơ hội và thách thức của ngành văn hoá và của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội trong tiến trình phát triển 83
II. Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 85
1. Giữ vững thị trường hiện tại, tìm kiếm thị trường tiềm năng và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 85
2. Khai thác huy động vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh 87
3. Quản lý tài sản lưu động 89
3.1. Đối với các khoản phải thu 90
3.2. Đối với dự trữ 91
4. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định 91
III. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội 92
1. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên 93
2. Kiến nghị đối với Nhà nước 93
Kết luận 96
Tài liệu tham khảo 97
Ký hiệu và viết tắt
CCDC
Công cụ dụng cụ
CNV
Công nhân viên
Chi phí chờ k/c
Chi phí chờ kết chuyển
DT
Doanh thu
EBIT
Lợi nhuận trước thuế và lãi
EBT
Lợi nhuận trước thuế
KD
Kinh doanh
KH
Khách hàng
LNST
Lợi nhuận sau thuế
NVL
Nguyên vật liệu
NWC
Vốn lưu động thường xuyên
ROA
Doanh lợi vốn chủ sở hữu
ROE
Doanh lợi vốn
TS
Tài sản
TSLĐ
Tài sản lưu động
TSCĐ
Tài sản cố định
TT
Tỷ trọng
Stt
Số thứ tự
SXKDDD
Sản xuất kinh doanh dở dang
VCSH
Vốn chủ sở hữu
VLĐ
Vốn lưu động
XDCBDD
Xây dựng cơ bản dở dang
Lời nói đầu
Sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như môi trường kinh doanh, trình độ quản lý của các doanh nghiệp đặc biệt là trình độ quản lý tài chính. Vì vậy, có thể nói quản lý tài chính là chức năng có tầm quan trọng số một trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nó quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp trong cuộc đời kinh doanh. Đặc biệt, trong điều kiện cạnh tranh đang diễn ra khốc liệt trên phạm vi toàn thế giới, điều chỉnh kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, tăng trưởng kinh tế còn chậm thì quản lý tài chính là một vấn đề quan trọng hơn bao giờ hết. Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động tốt mang lại sự giàu có cho chủ sở hữu khi nó được quản lý tốt về mặt tài chính.
Chính vì tầm quan trọng của công tác quản lý tài chính như vậy nên chức năng quản lý tài chính thường thuộc về các nhà lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp như Phó tổng Giám đốc hoặc Giám đốc tài chính. Trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chức năng này thuộc về Phó giám đốc phụ trách tài chính hoặc kế toán trưởng. Nhà quản lý tài chính chịu trách nhiệm điều hành hoạt động tài chính và thường đưa ra các quyết định tài chính trên cơ sở các nghiệp vụ tài chính thường ngày do các nhân viên cấp thấp hơn phụ trách. Các quyết định và hoạt động của nhà hoạt động của nhà quản lý tài chính đều nhằm vào các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp: đó là sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, tránh được căng thẳng về tài chính và phá sản, có khả năng cạnh tranh và chiếm được thị phần tối đa trên thương trường, tối thiểu hoá chi phí, tối đa hoá lợi nhuận và tăng trưởng thu nhập một cách vững chắc.
Trong thực tế, hiện nay, ở Việt Nam, các doanh nghiệp vẫn còn xem nhẹ việc phân tích tài chính. Do đó, các nhà quản lý doanh nghiệp vẫn còn gặp khó khăn trong việc đưa ra quyết định phù hợp với sự biến động của thị trường, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, đồng thời việc khai thác các nguồn vốn vẫn còn chậm trễ, chưa đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh. Để đứng vững được trong môi trường cạnh tranh hiện nay, các doanh nghiệp phải nghiên cứu và áp dụng những phương pháp, chỉ tiêu phân tích tài chính phù hợp, mang lại những thông tin tài chính chính xác, bổ ích.
Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích tài chính doanh nghiệp, qua một thời gian học tập, nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế Quốc dân và thực tập tại Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội, em nhận thấy: “phân tích tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa to lớn không chỉ trong lý luận mà cả trong thực tiễn quản lý doanh nghiệp”. Vì những lý do trên, em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội” cho luận văn của mình.
Em rất mong được sự chỉ bảo của thầy giáo Thạc sỹ Nguyễn Quang Ninh cùng sự giúp đỡ của các cô chú phòng kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội để em có thể hoàn thành tốt chuyên đề này. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2002.
Chương 1
tổng quan về phân tích tài chính doanh nghiệp
I. Khái quát về phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính là nội dung quan trọng trong hoạt động quản trị tài chính của doanh nghiệp, là cơ sở khoa học để đưa ra các quyết định phục vụ cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Thông tin của việc phân tích có ý nghĩa khác nhau đối với các đối tượng sử dụng và mục đích của việc phân tích.
1. Khái niệm về phân tích tài chính doanh nghiệp:
Phân tích tài chính là một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp , đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp đó.Nó là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu, so sánh số liệu tài chính hiện hành với quá khứ, hiện tại với tương lai (số liệu kế hoạch).
2.Tầm quan trọng của phân tích tài chính:
Sự phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thế giới, cùng với sự phát triển của các doanh nghiệp , các ngân hàng, đặc biệt là sự ra đời và phát triển của thị trường chứng khoán làm cho hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp ngày càng trở nên quan trọng và rất cần thiết đối với mỗi doanh nghiệp nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
Thứ nhất, thông qua việc tính toán các mối quan hệ chiến lược, phân tích tài
chính cho ta biết những điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp . Xuất phát từ tình hình đó, nhà quản lý tài chính có thể đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính doanh nghiệp trong tương lai bằng cách dự báo và lập ngân sách. Những thông tin này có tầm quan trọng đặc biệt đối với các nhà đầu tư, cơ quan thuế, dân chúng và những ai quan tâm đến hoạt động tài chính doanh nghiệp.
Thứ hai, quá trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong mọi đơn vị quản lý kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Điều đó chứng tỏ phân tích tài chính thực sự là có ích và vô cùng cần thiết.
Thứ ba, phân tích tài chính là cơ sở để dự đoán tài chính – một trong các hướng dự đoán doanh nghiệp. Hay nói cách khác, phân tích tái chính là đánh giá rủi ro phá sản tác động tới các doanh nghiệp mà biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, đánh giá khả năng cân đối vốn, năng lực hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh nghiệp trong tương lai.
3. Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp:
Trong cơ chế thị trường, mỗi doanh nghiệp đều có thể trở thành đối tượng quan tâm của rất nhiều người. Vì thế việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp trở nên vô cùng cần thiết không chỉ đối với bản thân nội bộ doanh nghiệp mà còn đối với tất cả những ai quan tâm đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
3.1. Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp:
Thông tin của việc phân tích là cơ sở cho việc định hướng các quyết định
kinh doanh của ban giám đốc, hội đồng quản trị về việc đầu tư, tài trợ nguồn tài chính, phân chia lợi nhuận cho các mục đích.
Để xem xét, đánh giá tính hiệu quả của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong quá khứ, để đưa ra các dự đoán tốt đẹp cho tương lai.
Là cơ sở cho việc lập kế hoạch tài chính trong kỳ tới; kế hoạch huy động, sử dụng vốn; kế hoạch thu, chi tiền mặt; kế hoạch đâù tư; kế hoạch phân chia thu nhập…
Phân tích tài chính còn là công cụ kiểm soát các hoạt động tài chính nội bộ từ đó tăng cường hiệu quả của hoạt động quản lý.
3.2. Đối với các nhà đầu tư:
Trong cơ chế thị trường, các nhà đầu tư có thể là doanh nghiệp hoặc cá thể, nhóm người…các nhà đầu tư là những người bỏ vốn vào để kinh doanh, do vậy họ mong muốn kiếm được nhiều lợi nhuận và khả năng rủi ro thấp nhất. Do vậy thông tin tài chính giúp cho họ đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp, tỷ suất lợi nhuận của công ty nào cao. Các cổ đông thường dựa vào các thông tin tài chính do các chuyên gia phân tích để đưa ra các quyết định đầu tư hay thu hồi vốn trong thời gian tới.
3.3. Đối với các đối tượng cho vay:
Trong cơ chế thị trường, các đối tượng cho vay có thể là ngân hàng, công ty tài chính, kho bạc, doanh nghiệp, cá nhân…các thông tin tài chính giúp ích cho họ biết được khả năng thanh toán và hoàn trả nợ của các đối tượng vay. Đối với các khoản nợ ngắn hạn họ thường quan tâm đến khả năng thanh toán ngay. Đối với các khoản nợ dài hạn họ thường quan tâm đến khả năng hoàn trả và hiệu quả của hoạt động kinh doanh, bởi vì việc hoàn trả phụ thuộc vào số lãi thu về sau một kỳ kinh doanh. Thông tin tài chính phục vụ cho các đối tượng cho vay để đưa ra các quyết định: Cho vay ngắn hạn hay dài hạn? Vay bao nhiêu? Đầu tư vào lĩnh vực gì?
3.4. Đối với các cơ quan chức năng của Nhà nước:
Trong cơ chế thị trường việc phụ thuộc vào các cơ quan chức năng tuỳ thuộc vào quan hệ tài chính và loại hình doanh nghiệp. Thông thường các loại hình doanh nghiệp phụ thuộc vào cơ quan chủ quản, cơ quan thuế, cơ quan thống kê.
Thông tin tài chính giúp cho cơ quan chủ quản đánh giá được tổng thể hoạt động tài chính của doanh nghiệp, tình hình chấp hành chế độ tài chính, tình hình thực hiện các khoản thu nộp…đảm bảo các quan hệ tài chính cho nội bộ doanh nghiệp và các đối tác khác. Từ đó cấp trên đánh giá được việc hoàn thành hay không hoàn thành nhiệm vụ.
Cơ quan thuế thông qua thông tin tài chính biết được tình hình thực hiện các khoản thuế đối với ngân sách nhà nước về số phải, đã, chưa nộp. Từ đó biết được doanh nghiệp chấp hành về chế độ tài chính, luật kinh doanh.
Cơ quan kiểm toán nhà nước thông qua các báo cáo tài chính cung cấp thông tin tư vấn cho các lãnh đạo để đưa ra các quyết định phê duyệt các quyết toán, dự toán kinh phí.
Cơ quan thống kê thông qua các báo cáo tài chính để tổng hợp các chỉ tiêu kinh tế của toàn ngành, toàn bộ nền kinh tế để phân tích ở tầm vĩ mô đưa ra các chiến lược phát triển kinh tế dài hạn của một quốc gia.
3.5. Đối với các đối tượng khác:
Cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp họ căn cứ vào các thông tin tài chính do các chuyên gia cung cấp để biết được sức mạnh thực sự của doanh nghiệp mình, tình hình phân chia lợi nhuận, tình hình sử dụng các quỹ, các kế hoạch kinh doanh trong tương lai để xây dựng niềm tin đối với doanh nghiệp mình.
Các nhà cung cấp biết được hoạt động tài chính để có kế hoạch cung ứng đảm bảo các yếu tố đầu vào cho doanh nghiệp.
Kiểm toán độc lập thông qua báo cáo tài chính để xác minh và bày tỏ ý kiến của mình đối với khách thể nhằm cung cấp cho các đối tượng quan tâm.
Tóm lại, trong cơ chế thị trường thông tin tài chính của doanh nghiệp hữu ích cho mọi đối tượng, các đối tượng khác nhau sử dụng các thông tin để đưa ra các quyết định phục vụ cho lợi ích của mình. Từ đó nguồn tài liệu và kỹ thuật phân tích cũng phụ thuộc vào mục đích của thông tin.
4. Mục tiêu của phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp:
Mục tiêu của phân tích tài chính là nghiên cứu tình hình tài chính của doanh nghiệp để đưa ra các những chuẩn đoán. Các chỉ số là công cụ của phân tích tài chính. Vì vậy, nhà ngân hàng, trước khi chấp nhận cho vay thường nghiên cứu khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhà đầu tư hiện nay và sau này quan tâm đến khả năng sinh lợi. Mọi khía cạnh phân tích tài chính đều liên quan đến nhà quản lý doanh nghiệp. Do đó, mục tiêu của phân tích tài chính bao gồm:
1. Cung cấp kịp thời, đầy đủ và trung thực các thông tin kinh tế, tài chính cần thiết cho chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư, nhà cho vay, các đối tượng quan tâm khác để giúp họ có những quyết định đúng đắn khi quyết định một vấn đề nào đó trong kinh doanh, trong quan hệ kinh tế.
2. Cung cấp thông tin về tình hình sử dụng vốn, khả năng huy động nguồn vốn, các tỷ suất về đầu tư, tỷ suất tự tài trợ, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả năng sinh lời và hiệu quả sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp thấy rõ những mặt mạnh, mặt tồn tại, nguyên nhân tồn tại và đề ra giải pháp hữu hiệu khắc phục hoặc phát huy những thành tích đã đạt được.
3. Cung cấp thông tin về tình hình công nợ, khả năng thu hồi các khoản phải thu, khả năng thanh toán các khoản phải trả…cũng như những ảnh hưởng của những nhân tố làm thay đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp dự đoán chính xác quá trình phát triển; giúp các cơ quan quản lý vĩ mô nắm chắc tình hình và kiểm tra doanh nghiệp được hiệu quả.
5. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp:
Trong phân tích tài chính, mọi thông tin đều có thể được sử dụng để làm rõ mục tiêu đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp và dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, từ thông tin số lượng đến thông tin giá trị đều giúp cho nhà phân tích có thể đưa ra được nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
5.1. Thông tin nội bộ doanh nghiệp:
Thông tin kế toán là một nguồn thông tin đặc biệt cần thiết. Với những đặc trưng hệ thống, đồng nhất và phong phú, kế toán hoạt động như một nhà cung cấp quan trọng những thông tin đáng giá cho phân tích tài chính. Mặt khác, các doanh nghiệp cũng có nghĩa vụ cung cấp những thông tin kế toán cho các đối tác bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán.
5.1.1. Bảng cân đối kế toán:
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo kế toán chủ yếu, phản ánh tổng quát tình hình tài sản và nguồn vốn của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định dưới hình thái tiền tệ theo các chỉ tiêu kinh tế tài chính tổng hợp.
Bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp được xây dựng trên cơ sở quan hệ cân đối kế toán (Tài sản cố định + Tài sản lưu động = Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu). Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm hai phần: Tài sản và Nguồn vốn, được mô tả theo sơ đồ sau:
Bảng cân đối kế toán
STT
Chỉ tiêu
STT
Chỉ tiêu
I.
Tài sản lưu động
I.
Nợ phải trả
1.
Tiền
1.
Nợ ngắn hạn
- Tiền mặt tại quỹ
- Vay ngắn hạn
- Tiền gửi ngân hàng
- Nợ dài hạn đến hạn trả
2.
Các khoản phải thu
- Thuế và các khoản nộp NS
- Phải thu của khách hàng
- Phải trả CNV
- Trả trước cho người bán
- Phải trả khác
3.
Tồn kho
2.
Nợ dài hạn
- NVL tồn kho
- Vay dài hạn
- Hàng hoá tồn kho
- Nợ dài hạn
4.
Tài sản lưu động khác
II.
Tài sản cố định
II.
Vốn chủ sở hữu
- Tài sản cố định hữu hình
- Nguồn vốn kinh doanh
- Tài sản cố định vô hình
- Quỹ đầu tư phát triển
- Chi phí XDCBDD
- Lợi nhuận chưa phân phối
- Quỹ khen thưởng
Tổng tài sản
Tổng nguồn vốn
Tài sản lưu động là tài sản có thời gian sử dụng, thu hồi và luân chuyển về hình thái tiền tệ nhanh (trong vòng 1 năm hoặc 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh bình thường của doanh nghiệp). Tài sản lưu động bao gồm:
Tài sản lưu động dưới dạng vốn bằng tiền: tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, tiền đang chuyển…
Tài sản lưu động dự trữ cho sản xuất kinh doanh: nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, hàng mua đang đi đường…
Tài sản lưu động trong sản xuất: chi phí sản xuất kinh doanh dở dang là chi phí chi ra nhưng chưa hoàn thành như tiền lương công nhân, khấu hao tài sản cố định…
Tài sản lưu động dự trữ cho lưu thông: thành phẩm, hàng hoá, hàng đi gửi
bán…
Tài sản lưu động trong thanh toán: số tiền khách hàng còn nợ, số tiền ứng trước cho người bán…
Tài sản lưu động dưới dạng đầu tư tài chính ngắn hạn: cho vay ngắn hạn, góp vốn liên doanh ngắn hạn…
Tài sản cố định là những tài sản thường có giá trị lớn và thời gian thu hồi luân chuyển lâu dài trên 1 năm hoặc trên 1 chu kỳ sản xuất kinh doanh. Qua mỗi chu kỳ sản xuất kinh doanh, về hình thái vật chất Tài sản cố định không thay đổi nhưng giá trị đã bị hao mòn. Bao gồm:
Tài sản cố định hữu hình là tài sản có hình thái vật chất cụ thể như: nhà cửa, máy móc thiết bị…
Tài sản cố định vô hình là tài sản không có hình thái vật chất cụ thể nhưng nó thể hiện bằng một lượng giá trị đã được đầu tư chi trả và mang lại lợi ích kinh tế lâu dài như: quyền sử dụng đất, chi phí thành lập doanh nghiệp, chi phí mua bằng sáng chế…
Nợ phải trả là các khoản phát sinh trong quá trình hoạt động của đơn vị mà phải cam kết thanh toán cho các đơn vị khác. Nợ ngắn hạn là các khoản phải thanh toán trong vòng 1 năm. Nợ dài hạn là các khoản nợ có thời hạn thanh toán trên 1 năm như: vay dài hạn, nợ dài hạn về thuê Tài sản cố định.
Nguồn vốn chủ sở hữu là số vốn do chủ doanh nghiệp đầu tư và doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình hoạt động mà không phải cam kết thanh toán cho các tổ chức khác. Bao gồm:
Nguồn vốn kinh doanh là số vốn của chủ sở hữu có phạm vi sử dụng thường xuyên vào hoạt động kinh doanh của đơn vị. Nó được hình thành tuỳ theo phương thức sở hữu của doanh nghiệp.
Lợi nhuận chưa phân phối là khoản tạo ra từ kết quả sản xuất kinh doanh có lãi, đơn vị tạm thời sử dụng vào hoạt động kinh doanh khi chưa quyết định phân phối chính thức.
Các quỹ chuyên dùng: dùng để chi trả cho những mục đích chuyên dùng khác ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên.
Các nguồn vốn khác của chủ sở hữu hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh của đơn vị.
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng đối với việc đánh giá khái quát tình hình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, trình độ sử dụng vốn và những triển vọng kinh tế, tài chính của doanh nghiệp.
5.1.2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh:
Báo cáo kết quả kinh doanh giúp nhà phân tích so sánh doanh thu và số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hoá dịch vụ với tổng chi phí phát sinh và số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp.
Báo cáo kết quả kinh doanh
STT
Chỉ tiêu
- Doanh thu thuần
- Chi phí bán hàng
Chi phí quản lý doanh nghiệp
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT)
Lãi tiền vay
Lợi nhuận trước thuế (EBT)
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Lợi nhuận sau thuế
Báo cáo kết quả kinh doanh bao gồm:
- Doanh thu là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hàng hoá mà doanh nghiệp
đã tiêu thụ được, có thể đã thu được tiền rồi hoặc chưa thu tiền.
Chi phí bán hàng là các khoản chi phí có liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trong một thời gian nhất định.
Chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí phát sinh liên quan đến hoạt động chung của toàn doanh nghiệp mà không thể tách riêng cho bất cứ một hoạt động nào.
Lãi tiền vay là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải trả cho việc sử dụng nợ.
5.1.3. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một trong các báo cáo tài chính không thể thiếu đối với các doanh nghiệp trong những nước có nền kinh tế thị trường.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh việc hình thành và sử dụng lượng tiền phát sinh theo các hoạt động khác nhau trong kỳ báo cáo của doanh nghiệp. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phản ánh lượng tiền thu, chi và tiền luân chuyển thuần trong kỳ kinh doanh.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho những người sử dụng trong việc đánh giá khả năng tạo ra tiền; khả năng thanh toán của doanh nghiệp và dự đoán được nhu cầu tài chính bằng tiền trong các kỳ kinh doanh tiếp theo.
Kết cấu của báo cáo này dựa trên quan hệ cân đối của tiền luân chuyển trong kỳ:
Tiền hiện + Tiền thu = Tiền chi + Tiền hiện có
có đầu kỳ trong kỳ trong kỳ cuối kỳ
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về lượng tiền thu vào và lượng tiền chi ra trong kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp thông tin về các hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Bản báo cáo này còn cung cấp chi tiết các thông tin về quá trình nguồn tiền hình thành và quá trình chi tiêu sử dụng trong kỳ. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ phân loại các luồng tiền vào, ra theo ba hoạt động chính: hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
Lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm:
Các dòng thu tiền mặt từ tiền thu bán hàng, từ doanh thu phục vụ dịch vụ, các khoản thu bất thường bằng tiền mặt khác.
Các dòng chi tiền mặt trả cho người bán hàng hoặc người cung cấp dịch vụ, tiền thanh toán cho công nhân về tiền lương và BHXH.... các chi phí khác bằng tiền như chi văn phòng phẩm, công tác phí....
Lưu chuyển tiền từ hoạt động đầu tư: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho bản thân doanh nghiệp như hoạt động xây dựng cơ bản, mua sắm tài sản cố định.
Đầu tư vào các đơn vị khác dưới hình thức góp vốn liên doanh, đầu tư chứng khoán, cho vay, không phân biệt đầu tư ngắn hạn hay dài hạn.
Dòng tiền thu vào bao gồm thu từ bán tài sản cố định, máy móc thiết bị, bán chứng khoán đầu tư của công ty khác, thu tiền lãi cổ phần đầu tư.
Dòng tiền mặt chi như tiền mua tài sản, máy móc thiết bị, mua chứng khoán đầu tư của công ty khác, cho công ty khác vay nợ.
Lưu chuyển từ hoạt động tài chính: Phản ánh toàn bộ dòng tiền thu vào và chi ra liên quan trực tiếp đến hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Dòng thu tiền gồm: chủ doanh nghiệp góp vốn, vay vốn (không phân biệt vay dài hạn hay ngắn hạn), nhận vốn góp liên doanh, phát hành cổ phiếu, trái phiếu ....
Dòng tiền chi ra gồm: tiền chi trả cho các bên góp vốn, lãi cổ phiếu, trái phiếu bằng tiền.
Việc báo cáo lượng tiền lưu chuyển theo 3 mặt hoạt động có tác dụng giúp doanh nghiệp nắm được từng mặt hoạt động đã tạo ra các luồng tiền vào doanh nghiệp bằng cách nào và việc chi dùng tiền trong từng hoạt động, từ đó có thể biết được hoạt động nào là hoạt động mang lại nhiều tiền nhất, hoạt
động nào sử dụng nhiều tiền nhất và sự hợp lý của việc sử dụng các khoản tiền đó.
5.1.4. Bản thuyết minh báo cáo tài chính :
Thuyết minh báo cáo tài chính là một bộ phận hợp thành hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp; được lập nhằm giải thích một số vấn đề về hoạt động sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo để cụ thể hoá một số chỉ tiêu kinh tế tài chính tổng hợp trong bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh, qua đó phân tích tình hình biến động một số chỉ tiêu kinh tế tài trong kỳ cũng như thuyết minh việc thực hiện chế độ kế toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp, và đề xuất những quyết định kinh tế và phương hướng hoạt động của những kỳ kinh doanh sau .
Thuyết minh báo cáo tài chính trình bày khái quát đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp. Nôi dung một số vấn đề kế toán được doanh nghiệp lưa chọn để áp dụng, tình hình và lý do biến động của một số đối tượng tài sản và nguồn vốn quan trọng, phân tích một số chỉ tiêu tài chính và các kiến nghị của doanh nghiệp. Đặc điểm hoạt động và tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
5.2. Thông tin bên ngoài doanh nghiệp:
Bên cạnh khả năng về nội lực tài chính, sự phát triển của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, chịu sự tác động mạnh mẽ của môi trường bên ngoài. Vì vậy, để đánh giá chính xác sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng phát triển của doanh nghiệp, để nhà quản trị tài chính đưa ra được các quyết định đúng, có giá trị thì việc xem xét các thông tin liên quan đến môi trường xung quanh của doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đó là các quan hệ tài chính trong kinh doanh giữa doanh nghiệp với nhà nước thông qua hệ thống các chính sách quản lý tài chính, giữa doanh nghiệp với thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính, giữa doanh nghiệp với các đối tác kinh doanh. Đồng thời, các thông tin về tình hình tổ chức của doanh nghiệp, môi trường hoạt động, lĩnh vực kinh doanh, các chính sách kinh tế, các biến động kinh tế vĩ mô…đều ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Chẳng hạn như những thông tin có liên quan tới cơ hội kinh doanh, nghĩa là tình hình kinh tế tại một thời điểm cho trước, sự suy thoái, ổn định hay tăng trưởng của nền kinh tế đều tác động mạnh tới kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Khi cơ hội thuận lợi thì các hoạt động của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận cũng như các giá trị của các cổ phiếu (nếu là công ty cổ phần) của doanh nghiệp sẽ tăng lên. Do vậy, khi phân tích tài chính doanh nghiệp thì điều quan trọng là phải nhận thấy sự xuất hiện của cơ hội mang tính chu kỳ (theo quy luật kinh tế): qua thời kỳ suy thoái là thời kỳ tăng trưởng và ngược lại.
Đồng thời cần đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các
hoạt động chung của ngành kinh doanh. Đặc điểm của ngành kinh doanh liên quan đến tính chất của các sản phẩm, quy trình kỹ thuật được áp dụng, cơ cấu sản xuất, nhịp độ phát triển của chu kỳ kinh tế. Những nghiên cứu theo ngành chỉ rõ: tầm quan trọng của việc nghiên cứu đó trong nền kinh tế, quy trình công nghệ, các khoản đầu tư, cơ cấu ngành, độ lớn thị trường và triển vọng phát triển.
Như vậy, tổng hợp các thông tin bên trong và bên ngoài doanh nghiệp sẽ cung cấp đầy đủ các dữ liệu cần thiết giúp nhà phân tích có thể đưa ra được những nhận xét, kết luận tinh tế và thích đáng.
II. Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp:
Sau khi xác định mục tiêu phân tích tài chính và thu thập các thông tin cần thiết, nhà phân tích phải lựa chọn phương pháp phân tích cho phù hợp với mục đích nghiên cứu và nguồn thông tin đã có cũng như khả năng thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Việc lựa chọn đúng phương pháp có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến hiệu quả phân tích. Trong thực tế, người ta thường dùng 2 phương pháp thông dụng duy nhất là phương pháp phân tích tỷ lệ và phương pháp phân tích Dupont kết hợp với phương pháp so sánh.
1. Phương pháp so sánh:
Phương pháp so sánh là một công cụ rất hữu ích trong phân tích tài chính. Việc so sánh số liệu của nhiều năm chỉ ra xu hướng và tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Phương pháp so sánh có thể áp dụng theo hướng so sánh về lượng hoặc so sánh bằng tỷ lệ phần trăm tăng trưởng; nhưng dù bằng cách nào thì phân tích tài chính cũng cần chỉ ra được tác động của sự thay đổi đó đến tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Nhà phân tích có thể so sánh các kết quả của kỳ này với kết quả của kỳ trước để thấy được sự tăng trưởng của doanh nghiệp, so sánh kết quả thực hiện với các chỉ tiêu kế hoạch để thấy mức độ hoàn thành kế hoạch của doanh nghiệp. Nhà phân tích cũng có thể so sánh theo chiều dọc để xác định tỷ trọng của từng chỉ tiêu trong tổng thể hay so sánh theo chiều._. ngang để thấy được xu hướng thay đổi của một chỉ tiêu qua nhiều kỳ.
Phương pháp so sánh thường được lồng ghép trong phân tích tỷ lệ thông qua việc so sánh và phân tích sự biến động của các tỷ lệ tài chính qua các năm hoặc so sánh các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp với các định mức. Tuy nhiên, việc so sánh chỉ có ý nghĩa nếu các chỉ tiêu đem so sánh có cùng nội dung, tính chất và cùng đơn vị tính toán.
2. Phương pháp phân tích tỷ lệ:
Đây là phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính. Nó là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất, nguồn thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ lệ của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; thứ hai, việc áp dụng công nghệ tin học cho phép tích luỹ dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình tính toán hàng loạt các tỷ lệ; thứ ba, phương pháp phân tích này giúp nhà phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách có hệ thống hàng loạt tỷ lệ theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn. Các tỷ số tài chính thường được chia làm 4 loại:
Các tỷ số về khả năng thanh toán: Phản ánh khả năng trả nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn: Phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng hoạt động: Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
Các tỷ số về khả năng sinh lãi: Phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục tiêu phân tích mà nhà phân tích sẽ chú trọng nhiều hơn đến từng nhóm chỉ tiêu cụ thể. Ngân hàng, người cho vay quan tâm nhiều hơn đến khả năng thanh toán còn nhà đầu tư lại quan tâm đến tất cả các tỷ lệ.
Về nguyên tắc, khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ lệ cần phải xác định được các tỷ lệ định mức để đánh giá, so sánh tình hình tài chính của doanh nghiệp với các định mức đó. Có thể so sánh các tỷ lệ tài chính của kỳ này với kỳ trước để thấy xu hướng phát triển của doanh nghiệp nhằm đưa ra các quyết định phù hợp hoặc có thể so sánh các tỷ lệ tài chính của một kỳ với mức trung bình của ngành hay các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Tự thân các tỷ lệ tài chính không trực tiếp đưa ra các câu trả lời về tình hình tài chính của doanh nghiệp nhưng với sự đánh giá của nhà phân tích lại giúp đặt ra những câu hỏi cần thiết về các điểm mạnh, điểm yếu của doanh nghiệp.
3. Phương pháp phân tích Dupont: (phương pháp phân tích tách đoạn)
Ngoài phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp phân tích Dupont cũng là một phương pháp được sử dụng trong phân tích tài chính. Thực chất phương pháp này cũng phải dựa trên cơ sở các tỷ lệ được tính toán theo phương pháp phân tích tỷ lệ tức đi từ một chỉ tiêu tổng hợp, tách một chỉ tiêu tổng hợp thành từng tỷ lệ có quan hệ với nhau để xem xét tác động của các tỷ lệ đó tới chỉ tiêu tổng hợp.
Phương pháp này là một kỹ thuật giúp nhà phân tích đánh giá tác động tương hỗ giữa các tỷ lệ tài chính. Đó là quan hệ hàm số giữa doanh lợi vốn, vòng quay toàn bộ vốn và doanh lợi tiêu thụ. Mối quan hệ này được thể hiện trong phương trình Dupont:
Nếu các tài sản của doanh nghiệp được tài trợ chỉ bằng vốn chủ sở hữu thì doanh lợi vốn và doanh lợi vốn chủ sở hữu bằng nhau vì khi đó tổng tài sảnbằng vốn chủ sở hữu và ta có:
Nếu doanh nghiệp có sử dụng Nợ để tài trợ cho các tài sản của mình thì ta có mối liên hệ giữa ROA và ROE:
Kết hợp (1) và (3) ta có:
Phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng. Tiếp tục biến đổi ta có:
Nếu hệ số nợ tăng thì ROE tăng vì vậy doanh nghiệp có thể dùng Nợ để
khuếch đại vốn chủ sở hữu.
Phương pháp phân tích Dupont có ưu điểm lớn nhất là giúp nhà phân tích phát hiện và tập trung vào các yếu điểm của doanh nghiệp để tìm ra nguyên nhân. Ngoài việc có thể được sử dụng để so sánh với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành, các chỉ tiêu trong phương pháp Dupont còn có thể được sử dụng để xác định xu hướng hoạt động của doanh nghiệp trong một thời kỳ từ đó phát hiện ra những khó khăn có thể doanh nghiệp sẽ gặp phải.
Khi phân tích tài chính nếu kết hợp phương pháp phân tích tỷ lệ với phương pháp phân tích Dupont thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động phân tích.
III. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp:
1. Phân tích khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp:
1.1. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn:
Phân tích nguồn vốn và sử dụng vốn là xem xét sự thay đổi của nguồn vốn và cách thức sử dụng vốn của một doanh nghiệp trong một thời kỳ theo số liệu giữa hai thời điểm lập bảng tổng kết tài sản. Để phân tích, trước hết phải lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn. Trong đó, bên sử dụng vốn: tăng tài sản hoặc giảm nguồn; bên nguồn vốn: giảm tài sản hoặc tăng nguồn.
Việc thiết lập bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn là nhằm chỉ ra những trọng điểm đầu tư vốn và những nguồn vốn chủ yếu được hình thành để tài trợ cho những đầu tư đó.
1.2. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh:
Theo nội dung này ta phải tính vốn lưu động thường xuyên (hay còn gọi là vốn lưu động ròng – NWC) theo công thức sau:
NWC = TSLĐ - Nợ ngắn hạn = Nguồn vốn dài hạn – TSCĐ.
Kết quả tính toán xảy ra một trong ba trường hợp sau:
Nếu NWC >0, có nghĩa là nguồn vốn dài hạn dư thừa khi đầu tư vào TSCĐ, đồng thời TSCĐ > Nợ ngắn hạn, do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp tốt.
Nếu NWC = 0 tức là nguồn vốn dài hạn đủ tài trợ cho TSCĐ và TSLĐ đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính như vậy là lành mạnh.
Nếu NWC < 0, nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho TSCĐ.
Doanh nghiệp phải đầu tư vào TSCĐ một phần nguồn vốn ngắn hạn; TSLĐ không đủ đáp ứng nhu cầu thanh toán Nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán Nợ ngắn hạn đến hạn trả.
Như vậy, vốn lưu động ròng là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết 2 điều cốt yếu: Một là, doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn không? Hai là, TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không?
Ngoài khái niệm vốn lưu động ròng được đề cập trên, trong phân tích tài chính người ta còn nghiên cứu chỉ tiêu nhu cầu vốn lưu động ròng và vốn bằng tiền.
Nhu cầu vốn lưu động ròng là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho một phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là tiền).
Nhu cầu NWC = TSLĐ - Nợ ngắn hạn
Nhu cầu NWC > 0 tức là tồn kho và các khoản phải thu lớn hơn Nợ ngắn hạn. Tại đây các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn các nguồn vốn ngắn hạn mà doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch.
Nhu cầu NWC < 0 có nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh.
Vốn bằng tiền = NWC – Nhu cầu NWC
Nếu vốn bằng tiền < 0 thì xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít).
1.3. Phân tích kết cấu tài sản và nguồn vốn:
Với nội dung này ta phải lập bảng tính và so sánh tỷ trọng của tài sản và nguồn vốn qua các năm để thấy được tình hình tạo nguồn và sử dụng nguồn của doanh nghiệp như thế nào.
1.4. Phân tích khái quát các chỉ tiêu tài chính trung gian:
Phân tích các chỉ tiêu này ta dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để tính và so sánh tốc độ tăng giảm qua các năm.
2. Phân tích tình hình tài chính theo các nhóm chỉ tiêu tài chính chủ yếu:
2.1. Các tỷ lệ về khả năng thanh toán:
Nhóm chỉ tiêu này được rất nhiều người quan tâm, như các nhà đầu tư, người cho vay, người cung cấp…Họ quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên góc độ: doanh nghiệp có đủ khả năng trả các món nợ hay không (nợ ngắn hạn và nợ dài hạn). Các món nợ ngắn hạn là những khoản phải chi trả trong kỳ. Để thoả mãn yêu cầu này, doanh nghiệp phải dùng toàn bộ phần tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để thanh toán nợ tới hạn. Tuy nhiên không thể dùng tài sản cố định (tài sản dài hạn) để thanh toán vì nó có thời gian thu hồi vốn lớn hơn thời gian đáo nợ. Phần tài sản dùng để trả nợ chỉ có thể là tài sản lưu động, vì nó là những tài sản có thể chuyển thành tiền trong vòng thời gian nhất định, thông thường là dưới một năm.
Chỉ tiêu này cho biết 1đ Nợ thì có bao nhiêu đồng Tài sản để trả.
Nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó.
Cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn bằng tiền và các tài sản quay vòng nhanh trong thời hạn ngắn. Dự trữ là tài sản kém thanh khoản nhất trong các loại tài sản lưu động bởi việc biến chúng thành tiền có thể mất khá nhiều thời gian, do đó nó bị loại ra khi tính toán khả năng thanh toán nhanh.
Khoản phải thu đã bị loại ra để tính toán bởi việc hoán chuyển các khoản phải thu thành tiền đòi hỏi phải có một khoảng thời gian nhất định. Tỷ lệ này cho biết mức độ doanh nghiệp có thể thanh toán ngay lập tức các khoản Nợ ngắn hạn bằng lượng tiền hiện có của mình.
Ngoài ra, để đánh giá khả năng thanh toán các khoản Nợ ngắn hạn khi đến hạn, các nhà phân tích còn quan tâm đến chỉ tiêu:
Chỉ tiêu này cho biết phần thua lỗ mà doanh nghiệp có thể phải gánh chịu do
giá trị hàng tồn kho cũng như cơ cấu vốn, cơ cấu tài sản lưu động giảm.
Khi sử dụng các tỷ lệ này cũng có một số hạn chế như: Cả tử số và mẫu số đều có thể thay đổi rất nhanh, do vậy các tỷ lệ về khả năng thanh toán chỉ có giá trị nhất định khi đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Mặt khác, phân tích tài chính lại diễn ra ở một thời điểm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên tính chính xác của những phân tích khó đảm bảo, ví dụ như sau kỳ thu nợ doanh nghiệp có nhiều tiền mặt hơn và số nợ cũng giảm đi so với trước đó, làm cho kết quả phân tích ở hai thời điểm này khác nhau.
2.2. Các tỷ lệ về khả năng cân đối vốn:
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, các chủ doanh nghiệp đều mong muốn gia tăng lợi nhuận, nhưng họ không thích rủi ro, nghiên cứu tính cân đối vốn sẽ góp phần giải quyết vấn đề này. Cân đối vốn là chỉ tiêu đo lường phần vốn góp của chủ doanh nghiệp so với số nợ vay. Nếu chủ doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trên tổng vốn thì phần rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do chủ nợ gánh chịu. Mặt khác, khi tỷ số nợ cao thì chủ doanh nghiệp càng có lợi rõ rệt, vì khi đó họ tăng vốn kinh doanh bằng cách vay nợ, hay nói cách khác họ chỉ cần bỏ ra một lượng vốn nhỏ, nhưng lại được sử dụng một lượng tài sản lớn và khi doanh lợi trên vốn lớn hơn lãi suất tiền vay thì phần lợi nhuận của chủ doanh nghiệp sẽ gia tăng rất nhanh.
Cho biết bao nhiêu tài sản của doanh nghiệp được tài trợ bởi Nợ. Thông thường các chủ nợ thích hệ số nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì khoản nợ càng được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu lại ưa thích tỷ lệ nợ cao vì họ muốn lợi nhuận gia tăng nhanh và muốn toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Sự cạnh tranh về lợi ích giữa việc sử dụng nợ hay vốn chủ sở hữu và chi phí từng loại sẽ quyết định cơ cấu
vốn của doanh nghiệp.
Nó cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả năng trả lãi hàng năm. Đây cũng là một chỉ tiêu được ngân hàng, người cho vay quan tâm vì nó phản ánh sử dụng vốn vay có tốt không, lợi nhuận tạo ra có đủ chi trả lãi vay không. Và việc không trả được các khoản nợ này sẽ có thể làm cho doanh nghiệp bị phá sản.
Khả năng tự tài trợ thể hiện năng lực tài trợ của doanh nghiệp cho sự tăng trưởng của mình. Tỷ lệ này cho biết VCSH được sử dụng để tài trợ cho bao nhiêu TS, tỷ lệ này càng lớn thì tính tự chủ về tài chính của doanh nghiệp càng cao.
Người ta thường quan niệm nhóm tỷ lệ này là sự thể hiện cơ cấu vốn của doanh nghiệp. Mẫu số là vốn của doanh nghiệp không bao gồm nguồn vốn ngắn hạn vì nguồn vốn ngắn hạn luân chuyển hàng năm, biến động liên tục trong khi vốn trung và dài hạn lại thường xuyên có ở doanh nghiệp.
2.3. Các tỷ lệ về khả năng hoạt động:
Các tỷ số này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn cố định, vốn lưu động và tổng vốn nói chung bởi vì kinh tế thị trường đòi hỏi phải so sánh doanh thu tiêu thụ với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới các loại tài sản khác nhau như: Tài sản cố định, tài sản dự trữ (tồn kho), các khoản phải thu, vì giữa các yếu tố đó đòi hỏi phải có một sự cân bằng nhất định. Chỉ tiêu doanh thu tiêu thụ sẽ được dùng chủ yếu trong các tỷ số này để đo lường khả năng hoạt động của doanh nghiệp.
Tỷ lệ này cho biết số vòng quay của tiền trong năm.
Số vòng quay càng cao thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt. Nhưng cũng có trường hợp tỷ lệ này cao khi doanh nghiệp đang gặp khó khăn, dự trữ và doanh thu đều thấp.
Chỉ tiêu này dùng để đo lường khả năng thu hồi vốn trong thanh toán thông qua các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Nếu kỳ thu tiền thấp thì vốn của doanh nghiệp ít bị đọng trong khâu thanh toán. Còn ngược lại thì vốn của doanh nghiệp bị đọng khá lớn trong thanh toán. Tuy nhiên các khoản phải thu trong nhiều trường hợp cao hay thấp chưa thể có một kết luận chắc chắn mà còn phải xem xét các mục tiêu của các chính sách của doanh nghiệp, ví dụ như: chính sách tín dụng của doanh nghiệp với mục tiêu nhằm mở rộng thị trường…
Chỉ tiêu này đôi khi còn được gọi là số vòng quay vốn cố định, nhằm đo lường việc sử dụng vốn cố định đạt được hiệu quả như thế nào, cụ thể là một đồng vốn cố định được đầu tư tạo ra được mấy đồng doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ quay vòng của TSLĐ nhanh hay chậm. Nếu TSLĐ có tốc độ quay vòng nhanh chứng tỏ doanh nghiệp đã sử dụng TSLĐ có hiệu quả.
Chỉ tiêu này cũng phản ánh hiệu quả sử dụng toàn bộ vốn của doanh nghiệp nghĩa là trong một năm vốn của doanh nghiệp quay được bao nhiêu lần hoặc
là một đồng vốn đầu tư có thể đem lại được bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Chỉ tiêu này càng lớn cho biết tốc độ thu hồi các khoản phải thu càng nhanh, doanh nghiệp không bị đọng vốn nhiều ở các khoản phải thu.
2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời:
Lợi nhuận là chỉ tiêu tài chính tổng hợp để đánh giá kết quả, đồng thời nó
cũng là mục đích cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận càng cao, doanh nghiệp càng tự khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình trong nền kinh tế thị trường. Nhưng để đánh giá một cách đúng đắn chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, chúng ta không chỉ dựa trên tổng số lợi nhuận mà doanh nghiệp làm ra bằng số tuyệt đối. Bởi vì số lợi nhuận này có thể không tương xứng với lượng chi phí đã bỏ ra, với khối lượng tài sản mà doanh nghiệp đã sử dụng, mà phải dựa trên chỉ tiêu lợi nhuận tương đối thông qua các chỉ tiêu sau:
Phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Tử số là lợi nhuận sau thuế để đánh giá tình hình tài chính thực sự của doanh nghiệp vì dưới giác độ là nhà quản lý tài chính thì chỉ quan tâm đến phần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp.
Tỷ lệ này đặc biệt quan trọng khi đánh giá khả năng sinh lợi của doanh nghiệp và được chủ sở hữu rất quan tâm. Đây cũng là một chỉ tiêu để các nhà đầu tư xem xét khi họ quyết định có nên đầu tư vào doanh nghiệp hay không.
Đây là một chỉ tiêu quan trọng được dùng để đánh giá khả năng sinh lợi của vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Tử số là lợi nhuận trước thuế và lãi để thuận lợi cho việc so sánh giữa các doanh nghiệp phải nộp thuế với mức thuế suất khác nhau và sử dụng nợ khác nhau. Mặt khác, tỷ lệ này còn cho biết trong tình trạng hiện tại doanh nghiệp có nên huy động vốn hay không?
Tóm lại, khi sử dụng phương pháp phân tích tỷ lệ, nhà phân tích cần chú ý đến việc sử dụng các tỷ lệ sao cho phù hợp với mục đích nghiên cứu chứ không phải là chỉ quan tâm đến cách xác định tỷ lệ đó.
Chương 2
Phân tích tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội
I. Giới thiệu chung về Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội:
1. Quá trình thành lập:
Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội là một doanh nghiệp Nhà nước với tên giao dich quốc tế: “HANOI ART CULTURE PRODUCTS COMPANY” thuộc Sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội .
Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội ra đời và phát triển là kết quả hợp nhất của năm công ty với sự đa dạng về ngành nghề lĩnh vực kinh doanh. Cụ thể, năm 1987, đáp ứng nhu cầu phát triển ngày càng cao của ngành văn hoá thông tin Hà Nội đồng thời thực hiện chủ trương cải tiến bộ máy, thu gọn đầu mối quản lý xí nghiệp, Công ty đã được thành lập theo QĐ số 490 / QĐTCCB ngày 11\ 02\ 1987 của Sở văn hoá Thông tin Hà Nội trên cơ sở sáp nhập ba đơn vị :
1.Công ty vật tư văn hoá thông tin
2.Công ty băng nhạc đĩa hát
3.Xí nghiệp sản xuất thiết bị nhạc cụ
Đến cuối năm 1989 và đầu năm 1990, Công ty lại có QĐ sát nhập thêm Xí nghiệp sản xuất dịch vụ văn hoá của UBND thành phố Hà Nội và Sở văn hoá thông tin Hà Nội .
Tiếp đến tháng 10/1998, Công ty Mỹ thuật quảng cáo đang trong thời kỳ hết sức khó khăn lại được hợp nhất với Công ty và đổi tên thành Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội như hiện nay .
Việc hợp nhất năm Công ty bên cạnh việc giúp cho Công ty sử dụng được nội lực tổng hợp, mở rộng được thị trường và hỗ trợ nhau trong các lĩnh vực kinh doanh còn gây cho Công ty không ít khó khăn trong công tác quản lý và tổ chức nhân sự, khắc phục khó khăn của những đơn vị hợp nhất . Song nhờ có sự lãnh đạo đầy trí tuệ và sáng tạo của Ban giám đốc cùng tập thể CBCNV mà Công ty không ngừng củng cố và phát triển về hiệu quả, qui mô sản xuất kinh doanh và lợi ích xã hội .
Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội có trụ sở chính tại 43 Tràng Tiền – Trung tâm văn hoá, kinh tế, chính trị của cả nước. Ngoài ra Công ty còn có hệ thống các cửa hàng giới thiệu và bán sản phẩm sau:
Cửa hàng Vật phẩm văn hoá băng nhạc băng hình 43 Tràng Tiền Hà Nội
Cửa hàng băng nhạc đĩa hát Hồ Gươm Audio – Video 33 Hàng Bài Hà Nội .
Cửa hàng Vật phẩm văn hoá 40 Hàng Bông Hà Nội
Kiốt Vật phẩm văn hoá sau đền Bà Kiệu Hà Nội
Cửa hàng Vật phẩm văn hoá băng nhạc băng hình 437 Bạch Mai Hà Nội
Cửa hàng Vật phẩm văn hoá băng nhạc băng hình 75 Hàng Bồ Hà Nội
Ngoài ra, Công ty còn có chi nhánh tại Thành Phố Hồ Chí Minh, các đại lý tại Huế, Thái Nguyên, Hải Phòng.
2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty:
Công ty tổ chức bộ máy quản lý theo một cấp, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều chịu sự chỉ đạo của giám đốc – người lãnh đạo cao nhất và chịu trách nhiệm chung trong công tác quản lý và phân công trách nhiệm cụ thể cho từng phòng ban.
Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của Công ty
Tổ lắp ráp
Tổ SX
Các phân xưởng SX
Kho NVL
Phòng biên
tập
Phòng kế
hoạch tài vụ
Ban điều
hành
BGĐ Xí nghiệp
băng đĩa nhạc
băng hình
Các cửa hàng
chi nhánh
Các kho
hàng hoá
Phòng KD
XNK
Trung Tâm
trang trí
khánh tiết
Trung Tâm
Dịch Vụ
Thuật
Trung Tâm
giới thiệu
nghệ thuật
BGĐ XN SX
Dịch vụ Văn Hoá
Phòng tổ
chức hành chính
PGĐ
phụ trách
Sản xuất
PGĐ
phụ trách
Kinh doanh
PGĐ
phụ trách
Mỹ thuật quảng cáo
Giám đốc
Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận :
Ban giám đốc :
Một giám đốc phụ trách chung
Một phó giám đốc phụ trách mỹ thuật quảng cáo
Một phó giám đốc phụ trách kinh doanh
Một phó giám đốc phụ trách sản xuất
Phòng tổ chức hành chính :
Tổ chức, bố trí, sắp xếp lao động trong Công ty về số lượng trình độ tay nghề, không những chăm lo tới mọi mặt của đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của cán bộ công nhân viên mà còn đảm bảo an toàn lao động trong Công ty .
Tổ chức, giám sát theo dõi hồ sơ cán bộ công nhân viên .
Thiết kế, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của Công ty .
Phòng kế hoạch tài vụ:
Thực hiện mọi vấn đề liên quan đến tài chính kế toán, hạch toán các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Báo cáo cho ban giám đốc về hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty.
Đảm bảo cung cấp các số liệu nhanh chóng, chính xác, kịp thời khi có yêu cầu của cấp trên.
Tổ chức huy động các nguồn vốn kinh doanh.
Thực hiện đúng mọi yêu cầu của Nhà nước về thuế cũng như các qui định khác về tài chính.
Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu:
Xây dựng các định mức kinh tế kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng, quy cách từng mặt hàng trước khi bắt tay vào sản xuất đồng thời giám sát quá trình chế tạo sản phẩm .
Mua bán vật tư, nguyên liệu phục vụ cho sản xuất kịp thời.
Kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, giao nộp sản phẩm, tình hình bảo quản sản phẩm, thành phẩm và theo dõi tình hình nhập xuất tồn kho thành phẩm.
Nhập những linh kiện hiện đại, công nghệ mới của các nước trên thế giới.
Phòng biên tập chương trình:
Xây dựng các chương trình theo sự chỉ đạo của Giám đốc và đơn đặt hàng của phòng kinh doanh.
Biên tập các chương trình, dàn dựng quay phim, làm băng gốc cung cấp cho xưởng sản xuất.
Ban kỹ thuật KCS:
Có nhiệm vụ cải tiến thiết bị máy móc, duy trì sự hoạt động của các thiết bị máy móc luôn tốt, đảm bảo sản xuất liên tục an toàn.
Kiểm tra chất lượng sản phẩm trước khi xuất xưởng, cùng các phòng khác đề ra tiêu chuẩn chất lượng.
Nhìn chung cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý được hình thành rất phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Sự phối hợp phân công từng đơn vị trong Công ty được quy định chặt chẽ bằng văn bản đã đảm bảo cho sự hoạt động thống nhất nhịp nhàng và thông suốt giữa các bộ phận. Sự lãnh đạo theo một cấp càng giúp cho Công ty tránh được sự chồng chéo giữa các bộ phận phòng ban.
3. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Công ty:
3.1. Chức năng:
Cung cấp các sản phẩm hàng hoá thuộc loại hình văn hoá phẩm nhằm đáp ứng nhu cầu về văn hoá tinh thần cho nhân dân, thông qua đó còn góp phần :
Thúc đẩy quá trình phân phối và lưu thông hàng hoá.
Tạo công ăn việc làm và đảm bảo thu nhập cho CBCNV.
3.2. Nhiệm vụ:
Sản xuất băng đĩa nhạc, băng đĩa hình các loại.
Mở cửa hàng kinh doanh các loại sản phẩm do Công ty sản xuất, các sản phẩm liên doanh liên kết và các sản phẩm của các hãng đối tác.
Kinh doanh văn phòng phẩm, các sản phẩm quà tặng.
Làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cho các đơn vị cá nhân có nhu cầu về điện máy, điện tử, thiết bị âm thanh chiếu sáng sân khấu, nhạc cụ, mỹ phẩm và linh kiện lắp ráp chuyên ngành văn hoá.
Tổ chức triển lãm mỹ thuật cho các hoạ sĩ, làm market quảng cáo, thực hiện trang trí khánh tiết ...
Ngoài ra Công ty còn có nhiệm vụ thực hiện tốt các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đã đề ra.
3.3. Quyền hạn:
Công ty thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh, hạch toán kế toán và quản lý tài chính độc lập. Công ty được ký kết các hợp đồng kinh tế với các thành phần kinh tế khác nhau trên nguyên tắc tự nguyện cùng có lợi.
4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty:
4.1. Tình hình cạnh tranh:
Mặt hàng của Công ty là loại hàng hoá đặc biệt, phục vụ đời sống văn hoá tinh thần lành mạnh của nhân dân Thủ đô và các tỉnh phía Bắc, được Nhà nước và lãnh đạo Thành phố rất quan tâm, nhưng nó lại là mặt hàng dễ bị ăn cắp bản quyền làm nhại hàng giả, nạn buôn lậu tràn lan như tình trạng đánh cắp bản quyền và buôn lậu đĩa CD qua biên giới phía Bắc.Vì vậy, vấn đề cạnh tranh về giá cả và chất lượng trở nên rất gay gắt. Các doanh nghiệp tư nhân thì cạnh tranh với Công ty ở chỗ sản phẩm của họ không bị kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ về chất lượng và yêu cầu, họ có thể tiêu thụ văn hoá phẩm không lành mạnh, phục vụ một số ít quần chúng có thị hiếu không lành mạnh. Mặt hàng của tư nhân chất lượng không bằng nhưng giá rẻ hơn, còn sản phẩm của Công ty có sự đầu tư ban đầu lớn có chất lượng nên không thể bán rẻ như tư nhân được. Đây là khó khăn lớn cho Công ty về mặt cạnh tranh trên thị trường. Cách khắc phục tốt nhất cho Công ty là đầu tư dây chuyền sản xuất hiện đại, nâng cao chất lượng băng nhạc cùng với việc nâng cao chất lượng chương trình trong đó để sản phẩm của Công ty hơn hẳn sản phẩm của tư nhân.
4.2. Khách hàng của Công ty:
Khách hàng của Công ty chủ yếu là các tổ chức thương mại, các nhà bán buôn bán lẻ và đông đảo nhân dân trong cả nước, kiều bào nước ngoài, khách du lịch quốc tế. Để đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, thuận tiện cho khách hàng, đối với các đại lý mua hàng thường xuyên, Công ty tạo điều kiện cho các đại lý về vốn bằng cách bán hàng trả chậm, cho nợ từ 15 đến 20 triệu đồng tiền hàng. Đối với khách hàng mua khối lượng lớn, Công ty có chế độ khuyến mại giảm giá từ 1% đến 2% giá bán, ngoài ra, Công ty còn bảo đảm giao hàng tại địa chỉ của người mua.
4.3. Thị trường:
Tại Thủ đô Hà Nội những năm gần đây, các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ cập và trở thành nhu cầu rất lớn trong đời sống nhân dân. Trên thị trường, sự phát triển phong phú về số lượng chủng loại và nội dung chương trình băng nhạc băng hình đồng thời với nhiều băng có nội dung không lành mạnh gây không ít khó khăn cho công tác quản lý Văn hóa của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến đời sống tâm lý, tình cảm đạo đức xã hội. Trước tình hình đó, Công ty luôn thực hiện tốt biện pháp “Xây” để “Chống” văn hoá phẩm đồi trụy.
4.4. Khái quát tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong 5 năm (1997-2001):
Nhìn vào hai bảng và biểu đồ ta thấy: Trong hai năm 1997 và 1998, tổng tài sản và doanh thu cũng như lợi nhuận của Công ty đạt mức tăng trưởng rất cao. Năm 1997, hai máy ép phun nhựa đầu tư năm 1996 đã bắt đầu cạnh tranh, được thị trường chấp nhận, công nhân có việc làm đều đặn. Tuy nhiên
Bảng I.1 - Bảng cân đối kế toán Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà nội
Đơn vị: triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
A.
Tài sản
7.455,65
9.424,62
7.106,78
6.519,84
5.347,37
I.
Tài sản lưu động
5.220,36
5.882,91
4.039,30
3.678,49
2.918,27
1.
Tiền
394,75
440,67
210,28
174,05
466,75
Tiền mặt tại quỹ
121,25
8,83
65,72
60,62
33,70
Tiền gửi ngân hàng
273,50
431,84
144,56
113,43
433,05
2.
Các khoản phải thu
449.70
705.45
866.42
1.105.39
687.78
Phải thu của KH
(66,17)
377,49
547,61
678,60
341,14
Phải thu nội bộ
469,44
308,61
241,68
143,80
327,78
Phải thu khác
46,43
19,35
52,72
177,29
(84,11)
Dự phòng thu khó
0
0
24,14
105,70
102,97
3.
Hàng tồn kho
3.796,79
3.731,11
2.013,01
1.626,18
1.348,77
NVL tồn kho
1.145,68
1.100,23
485,86
472,12
469,68
CCDC trong kho
196,41
176,78
224,81
113,24
18,6
Chi phí SXKDDD
295,36
211,97
236,48
126,87
218,03
Thành phẩm tồn
228,65
53,12
272,06
808,59
542,13
Hàng hoá tồn kho
1.922,91
2.141,76
751,20
0
0
Hàng gửi đi bán
38,11
47,25
46,90
105,36
98,66
Dự phòng giảm giá
(30,33)
0
(4,30)
0
1,67
4.
TSLĐ khác
579,12
1.055,68
949,59
772,87
414,97
Tạm ứng
97,78
102,57
64,29
81,96
16,45
Chi phí trả trước
414,20
774,16
713,72
480,61
213,44
Chi phí chờ k/c
65,20
127,01
169,64
210,30
185,08
TS thiếu chờ xử lý
1,94
1,94
1,94
0
0
II.
Tài sản cố định
2.235,29
3.541,71
3.067,48
2.841,35
2.429.1
1.
TSCĐ hữu hình
2.170,26
3.476,68
3.002,45
2.837,28
2.425,03
2.
Chi phí XDCBDD
65,03
65,03
65,03
4,07
4,07
B.
Nguồn vốn
7.455,65
9.424,62
7.106,78
6.519,84
5.347,37
I.
Nợ phải trả
5.231,53
7.094,36
4.736,19
4.113,85
2.927,95
1.
Nợ ngắn hạn
4.623,42
6.125,57
4.272,28
4.021,40
2.927,95
Vay ngắn hạn
482,60
2.490,46
178,22
777,00
529,33
Nợ dài hạn đến hạn trả
1.069,88
1.958,88
2.299,68
2.474,44
1.830,58
Người mua trả tiền trước
429,64
867,06
395,90
247,83
180,98
Thuế và các khoản phải nộp ngân sách
427,04
644,40
1.211,56
348,99
203,75
Phải trả CNV
0
45,60
45,60
45,60
0
Phải trả cho các đơn vị nội bộ
(31,97)
117,15
138,06
129,28
198,97
Phải trả khác
0
2,02
3,26
(1,74)
(15,66)
2.
Nợ dài hạn
608,11
968,79
463,91
92,45
0
II.
Nguồn vốn CSH
2.224,12
2.330,26
2.370,59
2.405,99
2.419,42
Nguồn vốn KD
2.028,10
2.273,37
2.273,37
2.472,54
2.334,30
Quỹ đầu tư
23,10
150,47
150,47
101,29
101,29
Lãi chưa phân phối
0,48
(94,38)
78,22
0
0
Quỹ khen thưởng
172,44
0,80
(131,47)
(167,84)
(16,17)
Nguồn: Phòng kế hoạch tài vụ Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội.
đây là năm thứ hai của đầu tư nên khấu hao để trả nợ ngân hàng rất cao, vốn lưu động lại thiếu (do hàng tồn kho chiếm tỷ trọng lớn 73.9%) vì vậy mà lợi nhuận chưa cao. Mặc dù vậy, đây là năm mà lợi nhuận đạt cao nhất trong 5 năm trở lại đây.
Năm 1998, phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hoá âm nhạc của nhân dân ngày
Bảng I.2 – Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng
Stt
Chỉ tiêu
Năm 1997
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
Năm 2001
1.
Doanh thu thuần
21,814.35
28,099.91
19,941.31
20,671.05
16,802.47
2.
Giá vốn
18,942.85
23,895.70
17,086.65
16,945.55
12,982.74
3.
Lợi nhuận gộp
2,871.50
4,204.21
2,854.66
3,725.50
3,819.73
4.
Chi phí bán hàng
1,575.22
2,283.62
2,319.10
3,410.15
3,556.36
5.
Chi phí quản lý
789.38
1,672.87
457.27
212.56
142.59
6.
Lợi nhuận hđkd
506.90
247.72
78.29
102.79
120.78
7.
LN bất thường
-
(29.59)
-
-
-
8.
Tổng TNTT
506.90
218.13
78.29
102.79
120.78
9.
Thuế TNDN
228.11
98.16
25.05
32.89
38.13
10
LNST
278.79
119.97
53.24
69.90
82.13
Nguồn: Phòng kế hoạch tài vụ Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội.
càng tăng, Công ty đã liên tục khai trương cửa hàng băng đĩa nhạc, băng đĩa hình tại thành phố Hải Phòng (liên doanh với Công ty Hoa phượng đỏ) và mở
đại lý tại Thái Nguyên, tham gia hội chợ ở khắp Bắc, Trung, Nam, mở rộng được mạng lưới tiêu thụ, giới thiệu sản phẩm với công chúng cả nước. Công ty đã bổ sung đầu tư vay vốn Đài Loan đợt II: 1.9 tỷ đôla. Đặc biệt là năm 1998 khủng hoảng tiền tệ khu vực ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của Công ty, thực tế Công ty đã phải bù chênh lệch tỷ giá đồng đôla là 440 triệu đồng trong 9 tháng đầu năm.
Tuy nhiên, 3 năm còn lại tăng trưởng kinh tế của Công ty giảm rõ rệt. Mặc dù tổng s._.g, đĩa nhạc; băng, đĩa hình và hoạt động mỹ thuật ngày càng bất cập như tệ nạn buôn lậu băng, đĩa từ Trung Quốc chuyển về Việt Nam bằng mọi con đường, nạn in sao băng, đĩa lậu trong nước, nạn sao chép tranh của các hoạ sỹ tên tuổi trong và ngoài nước mà giới báo chí cho rằng đây là “nỗi đau rớm máu của các nhà sản xuất bởi sự thiệt hại to lớn về kinh tế, còn đối với xã hội thì bị nghèo nàn đi các sản phẩm văn hoá”. Với nhiều điểm kinh doanh, gallery mới ra đời, chủ yếu kinh doanh hàng băng đĩa lậu, băng đĩa ăn cắp bản quyền, các loại tranh sao chép nên làm giá cả thị trường không ổn định. Tất cả những điều trên đã gây nên khó khăn rất lớn cho Công ty trong việc tiêu thụ hàng hoá, làm cho khó khăn rất lớn cho Công ty trong vấn đề tiêu thụ hàng hoá, cho doanh lợi tiêu thụ sản phẩm luôn giảm, dẫn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng từ đó giảm theo.
Một nguyên nhân khác xuất phát từ chính khách hàng đó là họ cứ thấy rẻ là mua, không quan tâm đến bản quyền, chất lượng của sản phẩm. Đây là nguyên nhân hàng hoá nhập lậu Trung Quốc giá rẻ tràn lan, nạn ăn cắp bản quyền, tệ in sao băng không thể kiểm soát nổi.
Sản phẩm của Công ty sản xuất ra phụ thuộc nhiều vào sự ổn định của tiền tệ như trong thời gian vừa qua, tỷ giá hối đoái trên thị trường biến đổi mạnh song giá bán sản phẩm của Công ty không tăng kịp mức tăng của ngoại tệ khiến cho chi phí đầu vào cao làm cho hiệu quả kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn.
Từ năm 1999, chính sách thuế Giá trị gia tăng (VAT) với mức 5% đối với
sản phẩm Video, 10% đối với sản phẩm Audio và các sản phẩm văn hoá khác là cao so với lãi kinh doanh ngành văn hoá, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của Công ty. Thậm chí tác phẩm mỹ thuật: tranh, tượng cũng là 10%. Ví dụ tại cửa hàng 40 Hàng Bông 6 tháng đầu năm 1998 thuế doanh thu là 8.7 trđ, 6 tháng đầu năm 1999, thực hiện luật thuế Giá trị gia tăng, Công ty đã thực hiện 931 trđ bằng 132.8% kế hoạch cả năm. Do vậy, lợi nhuận sau thuế còn lại chẳng là bao, thậm chí không khéo là lỗ. Thu nhập của cán bộ công nhân viên giảm, tích luỹ tái sản xuất gặp khó khăn làm cho vốn kinh doanh không được mở rộng (đó còn chưa nói đến thuế nhập khẩu tại cảng trước khi lấy hàng).
Sự kiện hợp nhất Công ty Mỹ thuật – quảng cáo Hà Nội và Công ty Vật phẩm văn hoá là chủ trương đúng đắn sáng suốt của lãnh đạo thành phố trong đó có Ban giám đốc Sở văn hoá Thông tin Hà Nội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị của ngành. Tuy nhiên, gọi là hợp nhất nhưng thực chất là Công ty Vật phẩm văn hoá phải gánh vác vai trò cứu Công ty Mỹ thuật – Quảng cáo thoát khỏi tình trạng bê bối, bế tắc nan giải. Cùng một lúc Công ty phải giải quyết nhiều vấn đề tồn tại: công ăn việc làm cho gần 30 cán bộ công nhân viên đang chờ việc và phải rút 85 trđ từ vốn lưu động của Công ty Vật phẩm văn hoá để trả nợ bảo hiểm xã hội đảm bảo sổ hưu cho 10 người.
Tỷ trọng vốn ngân sách trên tổng vốn kinh doanh ngày càng giảm, Công ty phải thuê toàn bộ nhà xưởng sản xuất, trả lãi tiền vay dẫn đến chi phí cao giá thành sản phẩm cao nên sản phẩm của Công ty khó cạnh tranh.
Năm 1998, 1999 do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính khu vực, sức mua của
dân giảm, cùng với thiên tai lũ lụt làm giảm cầu dẫn đến giảm cung đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm với cung cầu như mặt hàng của Công ty. Đặc biệt là sau sự kiện 11/ 9/ 2001, sức mua của toàn xã hội giảm sút, khách du lịch vào Việt Nam giảm đáng kể cũng ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty. Những năm gần đây, Công ty trang bị thêm máy móc, thiết bị. Trừ thời gian
lắp đặt chạy thử không khấu hao nên giá trị còn lại là rất lớn nhưng không được khấu trừ đầu vào so với TSCĐ mua sắm năm 1999 (mỗi năm mức khấu hao bình quân khoảng 500 triệu đồng, tính vào giá thành).
Về lao động, tuy đã liên tục sắp xếp lại cho ổn định và không có lao động dôi dư song chưa thật tinh giảm vì còn vướng không nhỏ đến vấn đề nhân đạo tình cảm.
Thị trường băng đĩa nhạc trong Nam rất rộng lớn. Các hãng băng nhạc trong đó liên tục hạ giá thành sản phẩm khiến cho Công ty gặp rất nhiều khó khăn do giữ nguyên giá thì không cạnh tranh được mà hạ giá thì ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh vốn đã đầy rẫy khó khăn. Các hãng tư nhân cũng hạ giá vô tội vạ trong khi Công ty chưa kịp điều chỉnh, hạ giá thành sản phẩm để đủ sức cạnh tranh với thị trường.
Chương 3
Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội
I. Những cơ hội và thách thức của ngành văn hoá và của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội trong tiến trình phát triển:
Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội là một doanh nghiệp của ngành văn hoá Thủ đô có chức năng chính là sản xuất băng đĩa nhạc; băng đĩa hình, tổ chức triển lãm, trưng bày và bán các tác phẩm mỹ thuật của các hoạ sỹ cùng với các mặt hàng vật phẩm văn hoá khác. Đây là những mặt hàng không chỉ có tác dụng giải trí mà nó còn thể hiện tư tưởng văn hoá của Đảng và Nhà nước, truyền bá lối sống có văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp từ bao đời nay của nước Việt Nam. Vì vậy, Công ty rất được sự quan tâm, động viên và giúp đỡ nhiều mặt của các cấp lãnh đạo Nhà nước, đặc biệt là Sở văn hóa Thông tin Hà Nội. Những sản phẩm do Công ty sản xuất và kinh doanh vẫn là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.
Mức sống của người dân đặc biệt là nhân dân Thủ đô ngày càng cao, hoạt động của các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ cập và trở thành nhu cầu rất lớn trong đời sống nhân dân, nhu cầu thưởng thức âm nhạc cũng tăng theo đòi hỏi Công ty phải biên tập những chương trình với nội dung ngày càng phong phú đa dạng và có chất lượng nghệ thuật cao. Mặt khác những sản phẩm văn hoá độc hại đang thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ người dân đặc biệt là thanh thiếu niên. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của ngành văn hoá nói chung và Công ty nói riêng là “xây” để chống lại những tư tưởng văn hoá độc hại.
Trên thị trường, sự phát triển phong phú về số lượng, chủng loại, nội dung
các chương trình băng hình, băng nhạc vừa mang lại những thông tin thẩm mỹ mới mẻ cho quần chúng vừa gây không ít những khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước và ảnh hưởng xấu đến tâm lý tình cảm đạo đức xã hội. Trong tình hình đó, Sở văn hoá Thông tin Hà Nội đã đề ra một số biện pháp đó là “Ngành sẽ tăng cường đầu tư chiều sâu, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị lành mạnh như các loại băng nhạc, băng hình ca ngợi quê hương, tình yêu đất nước, đưa tình cảm người dân về với cội nguồn dân tộc, phù hợp tâm lý và hoàn cảnh xã hội Việt Nam, góp phần thay thế các văn hoá phẩm xấu đang lưu hành trên địa bàn thành phố”.
Bên cạnh những cơ hội thuận lợi trên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty cũng phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, đặc biệt là tình hình cạnh tranh trên thị trường băng đĩa nhạc. Chưa kể đến các hãng sản xuất băng đĩa nhạc; băng đĩa hình có tiếng trong Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ riêng các tỉnh phía Bắc, đặc biệt tại Thủ đô Hà Nội đã có rất nhiều doanh nghiệp cả của nhà nước cả của tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này như: Công ty Vật phẩm văn hoá VINEMATIM của Bộ Văn hoá Thông tin, Trung tâm Hoa Sữa, các Công ty TNHH tư nhân khác…Đó còn chưa kể đến hàng nghìn điểm in sao lậu băng đĩa nhạc, hàng hoá Trung Quốc buôn lậu tràn lan trên thị trường với giá rất rẻ gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Mặt khác, nguyên vật liệu cho sản xuất băng Co, vỏ đĩa, Công ty phải nhập các linh kiện (chủ yếu là nhựa GPPS) của Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc mà tỷ giá USD trong những năm qua cũng diễn biến thất thường, thuế nhập cũng cao…ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của Công ty.
Như vậy, chỉ với những khái quát trên thôi đã đủ cho thấy Công ty đang đứng trước những khó khăn lớn đến thế nào. Muốn tồn tại và phát triển được, Công ty không còn cách nào khác là phải tìm cho mình được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, không ngừng nâng cao uy tín với khách hàng. Để làm được điều này, trong thời gian tới Công ty cần có những giải pháp phù hợp nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu về tài chính.
II. Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội:
1. Giữ vững thị trường hiện tại, tìm kiếm thị trường tiềm năng và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm:
Quá trình tiêu thụ sản phẩm là yếu tố cuối cùng có tính chất quyết định đến doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, việc củng cố và giữ uy tín đối với thị trường hiện tại và mở rộng khai thác thị trường tiềm năng là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội nói riêng. Qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty ở trên ta thấy tình hình tiêu thụ của Công ty là tương đối chậm, lượng hàng hoá tồn kho (chủ yếu là thành phẩm tồn kho) còn nhiều. Mặt khác, sản phẩm của Công ty lại bị cạnh tranh bởi hàng nhập lậu giá rẻ, do đó việc tiêu thụ sản phẩm mới và thành phẩm tồn kho đòi hỏi những nỗ lực rất lớn, góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như củng cố mạng lưới khách hàng hiện tại và tìm kiếm khách hàng tương lai. Do đó để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, Công ty cần:
Thứ nhất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay, sản phẩm của Công ty mới chỉ được tiêu thụ ở các tỉnh thành phố phía Bắc, mà chủ yếu tại Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thanh Hóa. Thị trường rộng lớn phía Nam chưa xâm nhập được do địa lý cách trở, chi phí vận chuyển lớn, hơn nữa Miền Nam có những Công ty lớn (như Công ty Vật phẩm văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh chuyên dàn dựng , sản xuất băng đĩa nhạc; băng đĩa hình) đã áp dụng dây chuyền công nghệ hiện đại từ lâu, chất lượng cao, giá cả phải chăng, nội dung phong phú đa dạng. Vì vậy, để có thể tiếp cận được với thị trường này Công ty cần mở rộng một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các tỉnh và thành phố khác. Có thể trước mắt sane phẩm này chỉ bán hoà vốn để dễ cạnh tranh, khi mọi người đã quen và biết đến chất lượng sản phẩm của mình thì Công ty có thể nâng giá lên. Đối với thị trường phía Bắc, Công ty cần giữ mối quan hệ với các khách hàng truyền thống như các cửa hàng đại lý, các cơ sở bán buôn ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời cử người đi các tỉnh để nắm bắt nhu cầu thị trường để có kế hoạch định hướng cho sản xuất, đồng thời ký hợp đồng trực tiếp bán buôn với các công ty tư nhân tránh tình trạng họ phải mua qua các trung gian với giá cao hơn. Xa hơn nữa, trong tương lai Công ty cần phải vươn tới thị trường nước ngoài, đặc biệt ở những nơi mà kiều bào ta đang sinh sống. Điều này hết sức quan trọng trong xu thế hội nhập và hướng ra xuất khẩu như hiện nay.
Thứ hai, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản phẩm của Công ty mang tính chất đặc thù của ngành văn hóa. Ngoài yếu tố vật chất trong quy trình sản xuất như: ép nhựa hoá chất làm vỏ băng, cắt băng, in băng…phải đảm bảo thông số kỹ thuật, chất lượng về độ bền, kiểu dáng…chất lượng sản phẩm của Công ty chủ yếu nằm ở giá trị tinh thần, đó chính là nội dung chương trình của băng đĩa. Cần phải biết rằng trào lưu âm nhạc mới đang rất sôi động và thay đổi từng ngày, từng giờ, sản phẩm của Công ty có thể được ưa chuộng, là “cơn sột” của ngày hôm nay nhưng rất có thể sẽ bị lãng quên, chối bỏ trong ngày mai. Vì vậy trong công tác xây dựng, biên tập chương trình cần có sự nghiên cứu sâu sắc tỉ mỉ để không ngừng nâng cao chất lượng, nội dung, xây dựng những chương trình có nét độc đáo, hấp dẫn người mua. Nội dung chương trình phải phong phú, mới mẻ, hợp thị hiếu thưởng thức cho mọi người, mang tính văn hoá cao nhằm mục đích tạo vẻ đẹp tâm hồn và giáo dục lối sống âm nhạc lành mạnh. Ngoài ra, Công ty nên chú trọng đến việc trình bày bìa, vỏ hộp gây ấn tượng và kích thích người mua. Tất cả những điều trên đều nhằm bảo vệ nhãn hiệu uy tín của sản phẩm trong điều kiện ngày càng có nhiều sản phẩm giống nhau, thật giả lẫn lộn. Để thực hiện tốt vấn đề này, Công ty nên có những hội thảo làm chương trình mới, họp hội nghị khách hàng.
Thứ ba, ổn định và phát triển thị trường đầu vào. Nguyên vật liệu chính để sản xuất là hạt nhựa hoá chất, bành chủ yếu được nhập ngoại cho nên Công ty phải hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà cung cấp và thị trường nước ngoài, đặc biệt về mặt giá cả (ví dụ, năm 1998 hạt nhựa giá 5 triệu đồng/ tấn thì đến năm 1999 Công ty có lúc phải nhập 17 triệu đồng/ tấn). Đây là điều hết sức khó khăn trong việc định giá thành sản phẩm của Công ty. Vì vậy, để nâng cao chất lượng khâu cung ứng cà hạ giá thành sản phẩm, Công ty cần chú trọng tới một số vấn đề:
Mở rộng quan hệ bạn hàng, lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng nguyên vật liệu.
Tìm kiếm thị trường nguyên vật liệu rẻ, ổn định.
Thứ tư, đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. Quảng cáo là công cụ đắc lực giúp doanh nghiệp giới thiệu và bán sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, với nguồn vốn hạn hẹp Công ty không nhất thiết phải thực hiện những chương trình quảng cáo lớn trên tivi hay liên tục xuất hiện trên các trang báo lớn. Công ty có thể sử dụng những phương pháp quảng cáo phù hợp với khả năng chi phí của mình như quảng cáo bằng tờ rơi, cử nhân viên đi tiếp thị, chào hàng hay tổ chức các buổi chiếu ca nhạc miễn phí ở nơi công cộng với các chương trình có nội dung đặc sắc trong chương trình băng đĩa nhạc của mình. Công ty cũng cần quan tâm đến trình độ bán hàng của các mậu dịch viên, họ không chỉ làm nhiệm vụ bán hàng mà họ chính là những người quảng cáo, giới thiệu sản phẩm một cách có hiệu quả với chi phí rẻ nhất cho sản phẩm của Công ty khi trực tiếp giao tiếp với khách hàng. Thái độ, phong cách bán hàng của mậu dịch viên thường gây ấn tượng rất mạnh đối với khách hàng. Ngoài ra, cách bày trí, tính thẩm mỹ của cửa hàng giới thiệu sản phẩm cũng rất quan trọng. Công ty cần sắp xếp các quầy bán từng loại sản phẩm một cách khoa học để khách hàng dễ dàng lựa chọn và xem xét chúng.
2. Khai thác huy động vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh:
Hiện tượng thiếu vốn đầu tư là khó khăn chung hiện nay của các doanh nghiệp trong nước để mở rộng năng lực sản xuất. Điều đó càng khó khăn hơn đối với Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội do đặc thù của Công ty là sản xuất các sản phẩm văn hóa phục vụ mục đích chính trị tư tưởng là chính. Qua phân tích tình hình tài chính ở trên ta thấy rằng nguồn vốn của Công ty để tài trợ cho các mục đích sử dụng khác nhau còn rất hạn chế, rất nhiều tài sản của Công ty cần được đầu tư thêm, thay thế để nâng cao hiệu quả hoạt động còn chưa có đủ vốn tài trợ cần thiết.
Là một doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn của Công ty chủ yếu là do Nhà nước cấp, nhưng hàng năm, nguồn vốn ngân sách cấp bổ sung cho Công ty là rất ít, hầu như không có. Vốn tự bổ sung lại quá ít do lợi nhuận để lại của Công ty không nhiều. Đây là tình trạng phổ biến đối với các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, Công ty đã tiến hành vay nợ của Đài Loan, vay ngân hàng và có một số nguồn vốn chiếm dụng được từ một số đối tượng như nhà cung cấp, cán bộ công nhân viên, Nhà nước (thông qua các khoản nộp thuế và nghĩa vụ đối với Nhà nước). Tuy nhiên, tỷ lệ sinh lời của Công ty thấp, đồng vốn vay sử dụng hiệu quả không cao nên chỉ bù đắp được lãi vay, lợi nhuận còn lại không đáng kể. Trong khi đó, khả năng thanh toán thực tế của Công ty lại không khả quan lắm do tỷ lệ dự trữ cao. Mặc dù chính phủ đã có những giải pháp hỗ trợ như doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh thì không phải thế chấp tài sản, không bị giới hạn tỷ lệ vốn điều lệ, chỉ cần căn cứ vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, song tình hình kinh doanh không mấy khả quan của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua thực sự là mối lo ngại của các ngân hàng, bởi nếu cho vay thì rủi ro rất cao. Vì thế ngân hàng thường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có phương án, có hợp đồng đầu ra, có lãi chắc chắn, có tiền ứng trước của phía đối tác. Do đó, mặc dù trong điều kiện hiện nay, về lý thuyết Công ty vẫn có thể vay thêm vốn ngân hàng song trong thực tế như trên thì khả năng vay vốn bổ sung từ vốn vay ngân hàng là khó thực hiện được. Như vậy, để giải quyết khó khăn trên Công ty cần phải có những giải pháp sau:
Giải quyết những tài sản không cần thiết hoặc thừa đang được sử dụng không
hiệu quả như hàng tồn kho, các khoản phải thu để tránh bị ứ đọng vốn trong
lưu thông dẫn đến phải tăng cường vay nợ để bù đắp thiếu hụt về vốn.
Nâng cao khả năng thanh toán lãi vay, khả năng thanh toán tức thời thông qua tăng lợi nhuận và xác định cơ cấu nợ hợp lý cũng như mức dư tiền tối ưu. Từ đó Công ty có thể dễ dàng hơn trong việc huy động vốn từ ngân hàng.
Trong năm 1996, 1998 Công ty đã có được nguồn vốn dài hạn đáng kể để đầu tư cho máy móc dây chuyền sản xuất nhờ vay ưu đãi của Đài Loan. Tuy nhiên để có thể vay được Công ty phải có kế hoạch đầu tư chiều sâu khả thi. Vì vậy trong những năm tới để có thể tranh thủ huy động nhiều hơn từ nguồn vốn này, Công ty nên có chính sách đẩy mạnh việc nghiên cứu tham khảo dây chuyền công nghệ hiện đại nước ngoài, xây dựng dự án đầu tư có hiệu quả.
Bổ sung từ các nguồn vốn tự có của Công ty, các nguồn lợi nhuận để lại, các khoản khấu hao.
Tranh thủ huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên của Công ty. Nguồn vốn này tuy không lớn nhưng nó đáp ứng được nhu cầu thiếu hụt vốn đột xuất của Công ty, ngoài ra nó còn có ưu điểm là lãi suất thấp hơn lãi suất vay ngân hàng và có thể hoãn nợ khi đến hạn mà chưa có khả năng thanh toán.
Đẩy mạnh liên doanh, liên kết. Công ty nên thực hiện liên doanh liên kết với các Công ty khác để tạo nên một mạng lưới sản xuất ổn định, chủ động và có điều kiện để hỗ trợ lẫn nhau.
Công ty có thể thuê mua TSCĐ và công nghệ mới. Đây là một hình thức mà Công ty không phải bỏ vốn ra để mua sắm mà chỉ cần trả một khoản tiền nhất định hàng tháng cho tài sản thuê mua.
3. Quản lý tài sản lưu động:
Tài sản lưu động của Công ty nằm trong các khoản phải thu và dự trữ. Do
vậy Công ty cần có những giải pháp thích hợp để giải quyết vấn để này.
3.1. Đối với các khoản phải thu:
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì tín dụng thương mại là hình thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt, giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, giảm chi phí tồn kho, tận dụng công suất máy móc thiết bị. Tuy nhiên nếu tỷ trọng này lớn thì nó làm tăng đáng kể chi phí của doanh nghiệp trong việc tìm nguồn tài trợ để bù đắp thiếu hụt vốn. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty nên duy trì các khoản phải thu này một cách thích hợp. Cụ thể là:
Công ty cần theo dõi chặt chẽ về thời hạn các khoản nợ đặc biệt là các khoản nợ cũ mà khách hàng còn chiếm dụng, đẩy nhanh tốc độ thu hồi nợ. Công tác thu hồi nợ cần được tiến hành theo phương pháp cuốn chiếu: thu hồi và tiến tới dứt điểm đối với những khoản nợ cũ, đồng thời đốc thúc thu hồi những khoản nợ mới phát sinh.
Công ty cần khuyến khích các đơn vị thực hiện việc thanh toán ngay khi đã tiêu thụ được hàng tránh để lâu sẽ tạo điều kiện cho đơn vị đó chiếm dụng vốn của Công ty, nghiên cứu cách thức bán hàng chiết khấu giảm giá để thu tiền ngay. Muốn vậy, Công ty cần tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn, nhịp nhàng, không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của Công ty bị chiếm dụng quá lâu, gây thiếu vốn cho nhu cầu kinh doanh, trong khi đó thì lượng tiền mặt tồn quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa giả mạo.
Khi quyết định cho khách hàng nợ, Công ty phải tính đến rủi ro vỡ nợ, rủi ro giảm giá trị do ảnh hưởng của lạm phát và các khoản phí tổn trong quá trình thu nợ. Công ty nên sắp xếp thời gian bán chịu cho khách hàng lệch nhau sao cho tiền của Công ty thu được đều đặn, tránh tình trạng căng thẳng về ngân quỹ.
3.2. Đối với dự trữ:
Một phần lớn tài sản lưu động của Công ty cũng nằm trong hàng tồn kho. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là sản phẩm sản xuất ra những năm trước nhưng không tiêu thụ được, hàng hoá chất lượng kém bị trả lại…Lượng hàng hoá tồn đọng trong kho gây tình trạng ứ đọng vốn lớn trong khi Công ty lại đang thiếu vốn lưu động trong kinh doanh. Đứng trước thực trạng này, Công ty cần phải tiến hành những biện pháp giải toả hàng tồn kho tương đối lớn hiện nay:
Giảm giá những mặt hàng đã tồn đọng lâu ngày. Tăng cường mạng lưới tiêu thụ, phạm vi và địa điểm tiêu thụ.
Công tác quản lý hàng tồn kho cũng nên tổ chức theo hướng phân cấp hợp lý. Đối với các loại hàng hoá nào chuyên tiêu thụ ở từng bộ phận nên giao cho kho của đơn vị quản lý và cấp phát sẽ đảm bảo quá trình cung cấp nhanh kịp thời, còn nếu hàng hoá nào chung thì giao cho kho của Công ty quản lý và cấp phát…góp phần phân cấp chuyên môn hoá trong quản lý.
Công tác thanh quyết toán hàng tồn kho cũng nên thực hiện theo từng đơn đặt hàng để có biện pháp xử lý khắc phục kịp thời, đồng thời phải quyết toán cho từng đơn vị để xác định rõ trách nhiệm và nguyên nhân.
Trong khâu dự trữ cần xác định đúng đắn nhu cầu dự trữ cần thiết, tối thiểu để bảo đảm công tác kinh doanh diễn ra liên tục. Tránh dự trữ dư thừa, gây ứ đọng vốn hoặc dự trữ quá thấp gây ảnh hưởng đến khâu bán ra. Bên cạnh đó Công ty phải thường xuyên xác định mức dự trữ hợp lý theo từng tháng, từng quý tuỳ theo nhu cầu thị trường. Ngoài ra, để tối đa hoá doanh lợi dự kiến, Công ty nên điều chỉnh việc giữ tiền mặt một cách hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán tức thời.
4. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định:
Trong điều kiện khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển như hiện nay, yêu cầu đầu tư đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng là vấn đề được các nhà doanh nghiệp rất quan tâm. Đối với Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội cũng vậy. Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc đầu tư cho TSCĐ nhưng hiệu quả sử dụng vẫn không cao thể hiện ở hiệu suất sử dụng TSCĐ thấp. Để khắc phục tình trạng trên Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau:
Do nguồn vốn hạn chế và do yêu cầu hạ giá thành sản phẩm Công ty không thể thay thế ngay toàn bộ máy móc cũ, lạc hậu. Tuy nhiên Công ty cần phân loại tài sản cố định để xác định những tài sản đã khấu hao hết hoặc sắp hết thời gian khấu hao từ đó xây dựng kế hoạch về vốn, tìm nguồn tài trợ để đầu tư đổi mới, đồng thời thanh lý các tài sản không sử dụng được hoặc những tài sản đem lại hiệu quả hoạt động thấp.
Cần cân nhắc kỹ giữa chi phí sửa chữa lớn bỏ ra với giá trị còn lại của máy móc thiết bị cần phải thu hồi. Đây được coi là căn cứ để đưa ra quyết định tiếp tục kéo dài tuổi thọ của máy hay thanh lý nhượng bán để đổi mới tài sản cố định.
Phân cấp quản lý TSCĐ cho các phân xưởng, bộ phận trong nội bộ Công ty để nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng giúp kéo dài tuổi thọ của máy đồng thời khai thác hết công suất của máy.
Công ty có thể thực hiện thuê mua máy móc thiết bị và công nghệ mới. Hình thức này giúp Công ty có điều kiện sử dụng công nghệ mới nhất, tiên tiến
nhất, hạn chế rủi ro tụt hậu về khoa học kỹ thuật, thực hiện đầu tư kịp thời mà không phải đảo lộn về cơ cấu tài chính.
III. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội:
1. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên:
Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội thuộc Sở văn hoá Thông tin Hà Nội. Trong những năm gần đây, với diễn biến phức tạp trên thị trường băng đĩa nhạc nên Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, Sở văn hóa Thông tin Hà Nội nên tạo điều kiện cho Công ty thoát khỏi khó khăn trước mắt ổn định phát triển trong tương lai. Cụ thể là: Sở văn hoá Thông tin Hà Nội cần nhanh chóng xem xét tạo điều kiện cho Công ty có vốn để xây dựng xưởng sản xuất tại bãi Mai Động góp phần ổn định sản xuất và có hướng đầu tư lâu dài, tạo ra nhiều sản phẩm góp phần lấy “xây” để “chống” sản phẩm độc hại.
Các cơ quan quản lý cấp trên nên tạo điều kiện cho Công ty có được khu đất để xây dựng địa điểm, tránh tình trạng chi phí cao do phải đi thuê quá nhiều địa điểm như hiện nay.
Sở văn hóa Thông tin nên có chính sách hỗ trợ vốn làm những chương trình phục vụ chính trị vì với khả năng tài chính hiện nay thì Công ty không thể làm nhiều chương trình được.
2. Kiến nghị đối với Nhà nước:
Đối với doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước như Công ty hiện nay thì Nhà nước cần có quy hoạch, xem xét cấp đủ vốn và cơ sở vật chất để doanh nghiệp phát triển. Nhà nước nên bổ sung nguồn vốn cho phù hợp với đặc điểm và tiềm lực mà Công ty đang sản xuất kinh doanh hoặc cho Công ty vay vốn với lãi suất ưu đãi. Nhà nước có chủ trương chỉ bổ sung vốn lưu động cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước…là một tín hiệu tốt đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên cách bổ sung vốn lưu động cần được kết hợp với miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định hoặc giữ lại khoản nộp ngân sách hàng năm để Công ty tái đầu tư. Làm như vậy sẽ đề cao tinh thần trách nhiệm của Công ty, tạo ra sự công bằng giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên khuyến khích Công ty tăng vốn bằng cách tạo môi trường pháp lý cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn mà không phải thế chấp.
Bộ tài chính cần xem lại mức thuế, bởi với mức thuế 10% đối với ngành văn hoá là quá cao. Đối với tranh, tượng Bác Hồ nên ghi rõ thuế suất bổ sung vào bảng thuế như: sách chính trị biểu thuế là 0% nhưng tượng Bác không ghi nên thuế lại là 10%.
Các ngân hàng cần điều chỉnh mức lãi suất cho vay hợp lý, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với thủ tục nhanh, gọn và đa dạng hoá các hình thức cho vay. Một điều quan trọng nữa là Nhà nước phải tìm cách ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát để bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp và những người đầu tư.
Bộ tài chính cần có sự ổn định tương đối trong việc đưa ra các chế độ chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc hạch toán, lập báo cáo tài chính nhất là báo cáo lưu chuyển tiền tệ – một báo cáo tài chính rất quan trọng nhưng hầu hết các doanh nghiệp không phải lập hoặc có lập nhưng rất sơ sài.
Phân tích tài chính vẫn còn xa lạ với các doanh nghiệp, do đó Chính phủ, Bộ tài chính cần sớm có các quy định mang tính bắt buộc đối với việc thực hiện phân tích tài chính hàng năm của các doanh nghiệp, đồng thời Chính phủ và Bộ tài chính cũng cần có hướng dẫn cụ thể và các biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mình. Bộ tài chính cũng cần sớm thành lập một cơ quan chuyên tập hợp số liệu để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình cho từng ngành để các doanh nghiệp có cơ sở chính xác trong việc đánh giá vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp giải quyết thích hợp.
Chính phủ cũng nên xây dựng một thị trường tài chính, thị trường vốn ổn
định, hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam để các doanh nghiệp có thể huy động vốn trong và ngoài nước. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính, các quỹ đầu tư…hoà nhập thị trường vốn trong nước với khu vực, giúp cho các doanh nghiệp có thể đa dạng hoá cách thức huy động vốn của mình như phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp vốn liên doanh…
Để giúp cho Công ty có thể đứng vững và phát triển, Chính phủ nên có những biện pháp kiên quyết ngăn chặn, xử lý hàng nhập lậu, hàng trốn thuế, hàng không đảm bảo chất lượng đang tràn lan trên thị trường.
Bộ tài chính cũng nên có quy định cụ thể về vấn đề các doanh nghiệp phải thực hiện công khai báo cáo tài chính làm cơ sở cho việc quản lý doanh nghiệp và phân tích tài chính được dễ dàng hơn. Hiện nay chỉ có doanh nghiệp là có đủ cơ sở tài liệu để phân tích tài chính còn những người ngoài doanh nghiệp chưa thể tìm hiểu về doanh nghiệp mà mình quan tâm.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường, tình hình tài chính là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Cho nên doanh nghiệp nào cũng mong đạt được tình hình tài chính ổn định và tăng trưởng.
Phân tích tài chính đóng vai trò quan trọng đối với tất cả mọi người, nó giúp nhà quản lý tài chính đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty ở hiện tại và trong quá khứ, từ đó lập kế hoạch cho tương lai nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty. Do vậy vấn đề phân tích tài chính cần được quan tâm ở tất cả các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước để làm sao cho khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội VI của Đảng đã đề ra.
Trên cơ sở những kiến thức đã học và những tìm hiểu về hoạt động tài chính của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội, em đã phân tích được tình hình tài chính của Công ty trong 5 năm gần đây nhằm nêu ra những kết quả và hạn chế trong hoạt động tài chính của Công ty, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty và một số kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan cấp trên nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp trên. Do hiểu biết về vấn đề còn chưa sâu, thời gian tìm hiểu về Công ty có hạn và chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên cách phân tích và giải pháp, kiến nghị đưa ra vẫn chưa hoàn toàn hợp lý, chỉ mới là những ý kiến góp phần thúc đẩy hoạt động phân tích tài chính tại Công ty và vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm.
Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Quang Ninh và các cô chú, anh chị ở Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Tài liệu tham khảo
1- Giáo trình tài chính doanh nghiệp - TS. Lưu Thị Hương - Nhà xuất bản giáo dục - 1998.
2- Quản trị tài chính doanh nghiệp - TS. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - ThS. Nguyễn Quang Ninh - Nhà xuất bản Thống kê - 1998.
3- Quản trị tài chính doanh nghiệp- PGS- TS. Nguyễn Đình Kiệm – TS. Nguyễn Đăng Nam – NXB Tài chính – 1999.
4- Phân tích tài chính doanh nghiệp – Josette Peyrard – NXB Thống kê - 1997.
5- Hệ thống chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp – Bộ tài chính – 1999.
6- Tạp chí tài chính.
7- Tạp chí kế toán.
8- Tạp chí kiểm toán
9- Tạp chí nghiên cứu kinh tế
10- Tạp chí ngân hàng
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- M0252.doc