Lời mở đầu
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình đã chỉ rõ: Sự gia tăng dân số quá nhanh là một trong những nguyên nhân quan trọng cản trở tốc độ phát triển kinh tế xã hội, gây khó khăn cho việc cải thiện đời sống, hạn chế điều kiện phát triển về mặt chí tuệ, văn hóa và thể lực của giống nòi. Nếu xu hướng này cứ tiếp tục diễn ra thì trong tương lai không xa đất nước ta sẽ đứng trước khó khăn lớn, thậm chí khó khăn lớn
70 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình sinh đẻ và những biện pháp chủ yếu nhằm ổn định mức sinh ở huyện Thạch Thành trong những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
về nhiều mặt.
Vì vậy làm tốt công tác Dân số - Kế hoạch hoá gia đình thực hiện tốt gia đình ít con giảm nhanh tỷ lệ tăng dân số, tiến tới ổn định quy mô dân số là vấn đề quan trọng và bức xúc của đất nước ta và cũng là mối lo chung của toàn cầu.
Là sinh viên năm thứ tư chuyên ngành Kinh tế lao động – Khoa Lao động và dân số - Trường Đại học Kinh tế quốc dân Hà nội, sau một thời gian thực tập tại phòng Lao động - Thương binh xã hội huyện Thạch Thành tỉnh Thanh hoá em đã chọn đề tài: ”Phân tích tình hình sinh đẻ và những biện pháp chủ yếu nhằm ổn định mức sinh ở huyện Thạch Thành trong những năm qua”. Với mong muốn tìm hiểu sâu về tình hình sinh đẻ của huyện Thạch Thành, một nhân tố quyết định sự gia tăng dân số của huyện Thạch Thành nói riêng và của Việt nam nói chung, từ đó có một vài ý kiến để thực hiện tốt chủ trương chính sách của Nhà nước, ổn định sự gia tăng dân số phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội, bằng cách ổn định mức sinh hợp lý.
Bài luận văn của em được kết cấu bởi ba phần sau:
Phần một: Lý luận chung
Phần hai: Phân tích tình hình sinh đẻ ở huyện Thạch Thành năm 1985- 1999.
Phần ba : Một số biện pháp nhằm ổn định mức sinh của huyện Thạch Thành.
Em rất mong được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Lao động và Dân số, đặc biệt là Thạc sỹ Nguyễn Anh Dũng để bài luận văn của em đạt kết quả tốt.
Em xin chân thành cảm ơn.
Phần thứ nhất
Lý luận chung về dân số
I.Dân số và sự biến động dân số.
1.Khái niệm.
Hiểu theo nghĩa hẹp: Bao gồm toàn bộ số người sinh sống trong một khoảng thời gian xác định trên một phạm vi lãnh thổ nhất định (một vùng, một nước, một nhóm nước hoặc cả thế giới).
Hiểu theo nghĩa rộng: Dân số bao gồm quy mô, cơ cấu, chất lượng và các yếu tố đó luôn biến động tác động qua lại lẫn nhau.
2.Biến động dân số.
Nghiên cứu động thái của dân số mà tập trung vào quá trình tái sản xuất dân số.
Tái sản xuất dân số thực chất là quá trình thay thế thế hệ này bằng thế hệ khác, là sự vận động tự nhiên của dân số, thông qua quá trình: kết hôn, sinh, chết.v.v. Dân số luôn luôn có sự biến động, sự biến động đó là do sự tồn tại của các quá trình dân số. Các quá trình dân số diễn ra khác nhau sẽ tạo ra sự biến động dân số khác nhau: Quá trình sinh đẻ và chết, tạo ra sự biến động tự nhiên dân số, còn quá trình di dân thì tạo ra sự biến động cơ học của dân số.
Tổng hợp sự biến động cơ học là tổng hợp số đi và số đến của một vùng. Còn tăng tự nhiên dân số nói chung là hiệu số giữa số sinh và số chết.
3.Quy mô và cơ cấu dân số.
- Quy mô dân số là số lượng dân số trong một khoảng không gian nhất định ( một nước, một vùng, một địa phương ) và được tính cho một thời điểm, một thời khoảng xác định.
- Cơ cấu dân số được tính theo tuổi và giới tính
+ Cơ cấu dân số theo giới tính được chia thành nam và nữ. Nó được quyết định bởi các yếu tố như: tỷ lệ giới tính, mức sinh, mức chết, di dân.v.v.
+ Cơ cấu dân số theo tuổi được chia theo từng độ tuổi, hoặc từng nhóm tuổi và nó cũng được quyết định bởi các yếu tố mức sinh, mức chết, di dân.v.v.
II.Sinh đẻ và những yếu tố ảnh hưởng.
1.Khái niệm.
Sinh sản biểu thị sự sinh đẻ của phụ nữ, và có liên quan đến số trẻ em sinh ra sống được mà người phụ nữ có, sinh sản khác với khả năng sinh sản vì: nói đến khả năng sinh sản là khả năng sinh lý của mỗi cặp vợ chồng, còn nói đến sinh sản là nói đến hiện tượng tự nhiên sinh vật.
Mức sinh sản không chỉ phụ thuộc vào khả năng sinh sản, mà còn chịu ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố khác như:
-Tuổi kết hôn
-Thời gian chung sống của các cặp vợ chồng.
-ý muốn của các cặp vợ chồng.
-Trình độ phát triển kinh tế, xã hội.
-Địa vị của người phụ nữ.
-Việc sử dụng cá biện pháp phòng tránh thai.
Khả năng sinh sản của người phụ nữ là có giới hạn, thông thường số con tối đa mà trung bình một phụ nữ có thể có về mặt lý thuyết là 15 người, nếu người đó có thể sinh đẻ ở tuổi bắt đầu có khả năng và cho đến khi hết khả năng sinh đẻ ( 15 đến 49).
Mức sinh đẻ còn phụ thuộc vào điều kiện của từng nước, từng thời kỳ, mặt khác nó còn phụ thuộc rất lớn vào bản thân phụ nữ: Có người sinh ít, có người sinh nhiều, phong tục tập quán, tâm lý xã hội.
2.Các chỉ tiêu đánh giá mức sinh.
Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá mức sinh sản, mỗi chỉ tiêu khác nhau nó phản ánh những đặc điểm khác nhau của hiện tượng sinh. Trong dân số học, khi đánh giá tình hình sinh đẻ, thông thường người ta sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu sau đây:
2.1Tỷ suất sinh thô (CBR)
CBR =
Trong đó:
B: số trẻ em sinh ra trong 1 năm của một nước, một địa phương.
P: dân số trung bình trong năm của 1 nước ( địa phương )
B và P phải được xác định trong cùng một khoảng thời gian nhất định nào đó.
Tỷ suất sinh thô biểu thị số trẻ em sinh ra trong 1 năm so với 1.000 người dân. Gọi là thô bởi vì mẫu số bao gồm mọi người dân ở mọi lứa tuổi của cả 2 giới. ở đây số sinh không so sánh với số phụ nữ có khả năng sinh đẻ. Chỉ tiêu này chịu ảnh hưởng của cơ cấu dân số, và nó rất khác nhau ở các vùng, các thời kỳ khác nhau.
2.2Tỷ suất sinh chung ( GFR)
B
GFR = . 1000
PW 15-49
Trong đó:
B: số trẻ em sinh ta trong 1 năm
PW 15-49: số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
Tỷ suất sinh chung ( GFR ) biểu thị số trẻ em sinh ta trong năm của 1000 phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ.
Để tính được GFR cần có số liệu chi tiết hơn, ngoài số sinh ra trong năm ra, còn phải biết số phụ nữ trong độ tuổi có khả năng sinh đẻ. Chỉ tiêu này phản ánh được mức độ sinh đẻ của phụ nữ, trong một chừng mực nhất định nó đã tính đến cấu trúc tuổi và giới. Tuy nhiên nó chưa đánh giá cụ thể, chi tiết khả năng sinh đẻ theo từng độ tuổi của phụ nữ.
2.3Tỷ suất sinh đặc trưng theo độ tuổi ( ASFRX )
Bfx
ASFRX = .1000
Pw,x
Trong đó:
ASFRx: tỷ suất sinh đặc trưng của độ tuổi x
Pw,x: số lượng phụ nữ trung bình trong năm của độ tuổi x.
Bf,x: số trẻ em sinh ra trong năm của những người phụ nữ ở độ tuổi x.
ASFRx phản ánh mức độ sinh đẻ của từng độ tuổi phụ nữ. Chỉ tiêu này phản ánh mối tương quan giữa số trẻ em sinh ra trong năm, của các bà mẹ ở các độ tuổi khác nhau, so với tổng số phụ nữ ở các độ tuổi đó.
ASFRx: tính được khi có số liệu chi tiết hơn. Thông thường người ta tính tỷ suất sinh đặc trưng cho từng nhóm tuổi phụ nữ. Toàn bộ số phụ nữ trong tuổi có khả năng sinh đẻ được chia thành 7 nhóm tuổi. Mức độ sinh đẻ ở từng nhóm tuổi khác nhau, thông thường ở tuổi 15 đến 19 mức sinh là thấp.
2.4Tổng tỷ suất sinh. ( TFR )
Đây là phương pháp đo mức sinh được các nhà dân số học áp dụng nhiều, và được tính đơn giản nếu chúng ta đã tính được ASFRx.
TFR là thước đo mức độ sinh và nó không phụ thuộc vào cấu trúc tuổi. Nếu xét bản chất, TFR là số trẻ em bình quân mà 1 phụ nữ có thể có, nếu như bà mẹ đó hoặc thế hệ phụ nữ đó sống được 50 tuổi, và suốt cuộc đời sinh sản của mình có ASFRx như đă xác định cho các độ tuổi khác nhau của những người phụ nữ trong 1 năm.
2.5Tỷ suất sinh chung của phụ nữ có chồng ( GMFR )
Trong đó:
B: số trẻ em sinh ra trong năm.
Pw,c( 15 - 49): số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có chồng.
2.6Tỷ suất sinh chung hợp pháp ( GIFR )
Trong đó:
B1: số trẻ em sinh ra trong năm của phụ nữ có chồng
Pw,c ( 15- 49): số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ.
2.7MASFRx
Ngoài ra để đánh giá được mức sinh và kiểm soát được hôn nhân. Khi xác định các tỷ suất sinh đặc trưng cho lứa tuổi, nhiều nơi người ta chỉ so sánh những trường hợp sinh hợp pháp và những phụ nữ có chồng. Đó gọi là tỷ suất sinh đặc trưng theo tuổi cho phụ nữ có chồng MASFRx.
2.8 TMFR
Nếu xác định TFR là tổng hợp các tỷ suất sinh theo tuổi thì chúng ta có thể tính được tổng tỷ suất sinh cho phụ nữ có chồng.
Chỉ tiêu này trong dân số học ít dùng vì trong độ tuổi 15 – 19 nó không phản ánh chính xác mức độ sinh của người phụ nữ.
2.9Tỷ số trẻ em so với phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ ( CWR )
Chỉ tiêu này phản ánh mối tương quan giữa số trẻ em từ 0 – 4 tuổi và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Nó được tính toán một cách đơn giản, dễ hiểu, không cần số liệu chi tiết cụ thể, không cần theo dõi số sinh thường xuyên hàng năm, không cần cấu trúc của dân số. Nếu mức sinh cao thì CWR càng lớn. Nhưng nó lại rất nhạy bén với báo cáo sai, đặc biệt sai vê tuổi, hơn nữa tỷ số này chịu ảnh hưởng vào mức tử vong của trẻ em.
3.Các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh.
Mức sinh bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố trực tiếp hoặc gián tiếp, bao gồm những biến số sinh học, mức chết trẻ sơ sinh và trẻ em, vai trò của phụ nữ, trình độ văn hoá, thu nhập và nhiều biến số khác. Giả thích mức sinh có thể giải thíchgiới hạn phạm vi một người phụ nữ, hoặc tổng thể dân cư chịu ảnh hưởng của những yếu tố xã hội và kinh tế.
Mức sinh là biến phụ thuộc, chịu ảnh hưởng của nhiều biến số độc lập khác.Có nhiều cách phân loại các biến số ảnh hưởng đén mức sinh : có biến số tác động trực tiếp, có biến số trung gian. Những biến số trung gian lại được giải thích bởi một số đo lường những khả năng quyết định trong gia đình. Và một hệ thống biến số môi trường ảnh hưởng đến đặc tính của gia đình.
3.1Những biến số trung gian (những nhân tố quyết định gần )
Những nhân tố sinh học thường ít được chú ý khi nghiên cứu về mức sinh, nhưng thực tế các nhân tố sinh học có vai trò quan trọng trong việc giải thích các nhân tố quyết định mức sinh. Để có một người sinh ra, tất nhiên phải có quan hệ tình dục giữa hai người đã dậy thì và vẫn còn khả năng sinh sản. Tinh trùng và trứng phải được gặp nhau trong môi trường phù hợp, môi trường tử cung phải tốt trong bào thai phát triển. Như vậy khi nghiên cứu về mức sinh phải quan tâm đến tuổi, sức khoẻ, vô sinh, xác suất sẩy thai tự nhiên.
Daví và Blake là hai nhà nghiên cứu đẫ tạo ra một hệ thống biến số có vai trò trung gian giữa các biến số hành vi và mức sinh . Trong hệ thống của họ có ba loại biến số cần thiết cho tái sinh sản.
chẳng hạn việc sử dụng biện pháp tránh thai, hoặc tình trạng vô sinh.
Những biến số xác định thụ thai sẽ dẫn đến số con sinh sống, chẳng hạn Những biến số xác định xác suất giao hợp, chẳng hạn tuổi kết hôn.
Những biến số xác định xác suất thụ thai nếu có quan hệ tình dục, sẩy thai hoặc nạo thai.
Sinh sản không thể diễn ra nếu không có quan hệ tình dục, thụ thai và thai nghén thành công. Do vậy nghiên cứu mức sinh nên nói đến cách xử lý những nhân tố này. Những nhân tố này quan trọng kể cả nghiên cứu ở phạm vi vi mô và vĩ mô.
Bongaart là nhà nghiên cứu dân số học đã trình bày một hệ thống các biến số trung gian, ảnh hưởng của chúng đối với tình trạng mức sinh cao và mức sinh thấp (nghiên cứu vi mô). Theo hệ thống của ông, có 4 loại biến số trung gian:
Tỷ lệ dân số trong quan hệ tình dục ( hôn nhân hoặc sống chung ).
Tỷ lệ người trong quan hệ sử dụng biện pháp tránh thai và hiệu quả của những biện pháp đó.
Độ phổ biến nạo phá thai trong dân số
Khoảng thời gian trung bình cho con bú của dân số.
Để phân biệt hệ thống này với hệ thống này với hệ thống của Davis và Blake, Bongaart đã gọi 4 biến số trên là các nhân tố quyết định gần.
3.2. Những biến số có liên quan đến đặc tình gia đình và hoàn cảnh gia đình.
Những nhân tố gia đình và hoàn cảnh gia đình là nhóm biến số thứ hai. Trong bậc này có nhiều loại biến số: tuổi, mức chết,ngân sách của gia đình, những chi phí và thuận lợi có con, địa vị phụ nữ , thu nhập và sở thích.
Tuổi là một trong những biến số quan trọng nhất giải thích mức sinh của cá nhân trong phạm vi vi mô. Cơ cấu tuổi là một trong những biến số quan trọng nhất khi giải thích mức sinh phạm vi vĩ mô. Tại cả hai phạm vi, tuổi liên quan chặt chẽ đến các biến số trung gian. Tuổi liên quan dến kết hôn, li hôn, goá, dậy thì, bắt đầu có khả năng sinh đẻ, tần suất giao hợp, xác suất thụ thai và mãn kinh.
Mức chết ảnh hưởng tới mức sinh thông qua một số cơ chế. Thứ nhất, ảnh hưởng đến số người sống trong tuổi sinh đẻ qua cơ cấu tuổi- giới tính. Tại phạm vi vi mô, số con một cặp vợ chồng đẻ ra có thể chịu ảnh hưởng bởi xác suất sống sót qua tuổi sinh đẻ, không có vợ hoặc chồng, chết sớm. Thứ hai, mức chết của trẻ sơ sinh và trẻ em có thể ảnh hưởng đến mức sinh qua cơ chế sinh học và hành vi. Trong xã hội có mức chết trẻ em cao, thưòng bố mẹ đẻ nhiều để đảm bảo mặc dù có con bị chết, vẫn còn con chăm sóc bố mẹ khi tuổi già.
Ngân sách, tài sản và thời gian của một gia đình cũng ảnh hưởng đến mức sinh. Ngân sách giới hạn những hàng hoá mua được. Quỹ thời gian là số giờ hoặc ngày có thể làm việc. Khi có con đòi hỏi có cả vật chất và sử dụng thời gian. Yêu cầu những chi phí và thuận lợi khi có con trong gia đình có thể ảnh hưởng đến mức sinh. Những chi phí do con gây ra rất khó đo lường vì thưòng không có giao dịch trong thị trườngvề lĩnh vực này. Một trong những chi phí quan trọng nhất khi tính chi phí cho con là chi phí cơ hội của người mẹ. Nếu người mẹ đi làm có thể kiếm tiền cho gia đình. Nếu người mẹ đi làm có thể kiếm tiền cho gia đình mình. Nếu ngưòi mẹ đó có con sẽ có nhiều ngày không thể đi làm vì phải chăm sóc con. Như vậy, tiền lương phải bỏ ra để có con là chi phí có con. Chi phí có con khác là những chi phí trả cho con ăn, học, khán chữa bệnh…Thuận lợi có thể đo được là những đóng góp về lao động của trẻ em . Tất nhiên, thuận lợi tinh thần không thể đo được.
Địa vị phụ nữ , theo nhiều nhà nghiên cứu là nhân tố quyết định chủ chốt ảnh hưởng đến mức sinh. địa vị phụ nữ có thể ảnh hưởng đến mức sinh thông qua tuổi kết hôn, những lựa chọn sinh con trong hôn nhân và mức sinh tự nhiên. Trình độ học vấn, sự tham gia vào lực lượng lao động, khả năng quyết định trong gia đình và tình trạng sức khoẻ là những nhân tố được nghiên cứu khi nói đến địa vị phụ nữ và mức sinh . Hai nhân tố quan trọng nhất là trình độ học vấn và công việc.
Sự khác biệt trong cả nước đang phát triển và nước phát triển cho thấy một quan hệ tỷ lệ nghịch giữa trình độ học vấn của người mẹ và mức sinh. Quan hệ này mạnh nhất ở lứa tuổi trẻ. Khi kiềm chế những nhân tố khác, chẳng hạn trình độ học vấn của chồng, công việc phụ nữ, nơi ở thì quan hệ này ít chặt chẽ hơn.
Mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn đến mức sinh cũng phụ thuộc vào bậc học và loại giáo dục. Quan hệ nghịch giữa trình độ học vấn và mức sinh rõ nhất ở những bậc cao. Trình độ học vấn ảnh hưởng nhiều nhất đến biến số trung gian tuổi kết hôn và việc sử dụng biện pháp tránh thai. Giáo dục có thể ảnh hưởng tích cực đến khả năng sinh sản và có thể tác động nghịch hoặc thuận với mong muốn có con.
Lý thuyết kinh tế về mức sinh quan tâm nhiều đến mâu thuẫn có thể tồn tại giữa vai trò làm mẹ và vai trò làm việc của một phụ nữ. trong tình trạng người phụ nữ có cơ hội làm việc, khi công việc đó không cho phép nuôi con đồng thời thì cặp vợ chồng thường chọn có ít con hơn. Mặc dù tại các nước phát triển có nhiều bằng chứng rằng có quan hệ nghịch giữa công việc phụ nữ và mức sinh, nhưng tại các nước đang phát triển thì bằng chứng chưa rõ. Có nhiều nghiên cứu cho thấy quan hệ nghịch, nhưng cũng có nhiều nghiên cứu thấy không có quan hệ hoặc có quan hệ thuận, người phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động có nhiều con hơn những phụ nữ không tham gia. Để giải thích tại sao quan hệ này không nghịch, một số nhà nghiên cứu giả thiết rằng chỉ trong trường hợp công việc phụ nữ không phù hợp làm mẹ, sẽ có quan hệ nghịch. Ví dụ, khi làm ruộng có thể nuôi con đòng thời, nhưng khi đi làm trong nhà máy 7 tiếng đồng hồ một ngày, sáu ngày một tuần thì công việc và trách nhiệm làm mẹ không phù hợp. Quan điểm khác giả thiết rằng trong các nước đang phát triển, đơn vị gia đình thường là gia đình mở rộng có cả ông bà ở cùng nhà. Khi mẹ đi làm đã có người ở nhà chăm sóc con thì mâu thuẫn không mạnh lắm. Có người khác nói rằng trong các nước đang phát triển người phụ nữ nghèo không có sự lựa chọn làm việc hoặc không làm việc thì họ nghèo quá, bắt buộc họ phải đi làm để sống sót được. những người nghèo nhất thường là những ngưòi có nhiều con nhất.
Thu nhập có thể là biến số được nghiên cứu trong quan hệ với mức sinh. Trong những nghiên cứu vĩ mô, thu nhập hoặc thu nhập bình quân một người được dùng làm chỉ tiêu đo mức độ hiện đại hoá. Trong nghiên cứu vi mô thu nhập bình quân một người trong hộ gia đình , hoặc tổng thu nhập của một gia đình là những đo lường về những hạn chế nguồn của gia đình . Khi nói đến mức sinh , vai trò của thu nhập rất phức tạp .Độ vĩ mô hoặc vi mô , thu nhập không ảnh hưởng trực tiếp việc sinh con . Vì sinh con không phải là hành vi trong thị trường , các gia đình có thể điều chỉnh lại khi có thêm con để chịu được khi có số con khác nhau trong một ngân sách cố định . Mặt khác, mặc dù các con là gánh nặng khi còn bé , khi .lớn lên có thể trở thành người đóng góp cho ngân sách gia đình .
Thu nhập có thể ảnh hưởng đến mức sinh bằng nhiều cách khác nhau.Thứ nhất, thui nhập được sử dụng để đo lường sự phát triển của xã hội và kinh tế . Khi đó thu nhập là biến số đại diện nhiều chỉ tiêu phát triển , ví dụ khả năng liên lạc trong nước , phân bố lao động ,trình độ cơ khí hoá và cách tổ chức sản xuất . Khi nghiên cứu vĩ mô, quan hệ dường như nghịch , những nước giàu nhất có mức sinh thấp ,những nước nghèo có thu nhập bình quân đầu người thấp lại có mức sinh cao . Nhưng ngắn hạn, có thể có quan hệ thuận : thu nhập tăng lên, mức sinh vẫn cao . Khi nghiên cứu tầm vĩ mô , thu nhập là chỉ tiêu giới hạn ngân quỹ gia đình phải chịu .Thu nhập hạn chế lượng vật chất có được . nếu coi như là của cải cho tiêu dùng thì thu nhập càng cao , số con mong muốn càng cao . Song có những vấn đề khác với giả thiết này. Thứ nhất , thu nhập càng cao ,bố mẹ càng muốn có con có chất lượng (trình độ học vấn , sức khoẻ ) càng cao , mỗi con có giá trị hơn và số con giảm đi. Thứ hai , con không phải chỉ là vật chất cho tiêu dùng mà còn là khả năng cho sản xuất , đóng góp cho ngân sách của gia đình . Thu nhập cao có thể do có nhiều con làm việc . Thứ ba , khi gộp thu nhập của vợ trong tổng nguồn tài sản của gia đình , sinh đẻ, nuôi dạy con ảnh hưởng đến công việc của vợ thì quan hệ mức sinh và thu nhập càng trở nên phức tạp .
Sở thích cũng ảnh hưởng đến mức sinh . Sở thích thường khác nhsu giữa cá nhân này với cá nhân khác . Có người thích sống ấm no với gia đình . Có người lại thích tự do giao du nhiều . Đo lường sở thích này rất khó . Khi nghiên cứu về sở thích các nhà nghiên cứu dùng biến cố tôn giáo hoặc dân tộc để phản ánh sở thích .
3.3 Môi trường
Nhóm biến số thứ ba là môi trường -hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến quyết định gia đình . Có hai loại biến số : Thứ nhất, các biến số tình trạng chính trị , xã hội, kinh tế của cộng đồng . Ví dụ những thể chế của xã hội , độ phát triển kinh tế và chế độ chính trị. Loại bién số thứ hai là những bién số liên quan đến những chính sách và chương trình ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến dân số hoặc một trong những thành phần của nó .
Các gia đình không sống tách ra khỏi xã hội . Họ được ảnh hưởng bởi loại cộng đồng xung quanh và bởi những chuẩn mực giá trị và mong đợi của hàng xóm . Điều kiện kinh tế của gia đình phụ thuộc vào sản xuất và việc làm trong cộng đồng chung. Hệ thống chính trị ảnh hưởng đến quan hệ giữa dân số và chính quyền địa phương . Mỗi chính quyền đại phương có thể ảnh hưởng đến việc thành lập những chương trình kế hoạch hoá gia đình .
Vai trò của chính sách và chương trình của Nhà nước cũng có thể ảnh hưởng quan trọng đến mức sinh . Có chương trình kế hoạch hoá gia đình khuyến khích sử dụng biệnh pháp tránh thai , có chính sách cấm phá thai , hoặc cho phép phá thai , có tuổi kết hôn quy định, đều là những ảnh hưởng trực tiếp của chính sách nhà nước đối với mức sinh . Ngoài ra có những chính sách khác có thể ảnh hưởng đến mức sinh . Liệu chính sách về cung cấp đất hoặc nhà ở cho các gia đình có ảnh hưởng đến tuổi kết hôn và số con đẻ ra không ? Giảm học phí cấp hai có ảnh hưởng đến số con tiếp tục học ở trình độ học vấn cao hơn ?Cung cấp nhiều cơ hội làm việc dẫn đến việc hoãn lại tuổi kết hôn và tuổi sinh con ? Cung cấp điện cho những địa phương xa có cho phép họ tìm hoạt động văn hoá phong phú hơn ? Hiểu biết về sức khoẻ , biện pháp tránh thai , hoặc cách sống của những người ở địa phương khác có ảnh hưởng đến số con mong muốn , số con chết sơ sinh , sử dụng biện pháp tránh thai không ?
Các nhân tố đa dạng ảnh hưởng đến mức sinh được chia thành ba nhóm : biến số trung gian , biến số gia đình và biến số hoàn cảnh xã hội . Trong mỗi nhóm có nhiều biến số khác nhau ảnh hưởng theo nhiều hướng . Nghiên cứa về vấn đề này không dễ dàng nhưng rất có ích trong việc xây dựng chính sách công cộng , kế hoạch hoá phát triển kinh tế -xã hội .
III.Sự cần thiết phải điều chỉnh mức sinh nói chung và mức sinh của Việt nam nói riêng.
1.ảnh hưởng của mức sinh đến sự phát triển kinh tế xã hội và sự phát triển dân số.
Trên phạm vi toàn thế giới, hàng năm dân số tăng lên chỉ là do kết quả sinh nhiều hơn chết. ( Nếu ở một quốc gia thì còn bị tác động bởi sự di chuyển đi và đến ).
Thước đo mức sinh thường được sử dụng là tỷ suất sinh thô ( CBR ), mức chết người ta cũng đánh giá qua tỷ suất chết thô ( CDR). Tỷ suất tăng tự nhiên dân số RNI là hiệu của CBR và CDR.
RNI = CBR – CDR (%0)
RNI phản ánh rằng: trong một năm cứ 1.000 người dân thì trung bình có bao nhiêu người tăng thêm.
Như vậy sự gia tăng dân số nhanh là do mức sinh cao, giữa tỷ suất tăng tự nhiên và tỷ suất sinh thô có quan hệ tỷ lệ thuận.
Quá trình bùng nổ dân số ở nước ta cũng như ở các nước đang phát triển khác bắt nguồn từ việc giảm nhanh, giảm đột ngột tỷ suất chết thô trong khi đó vẫn giữ nguyên ( hoặc giảm không đáng kể ) tỷ suất sinh thô. Mức chênh lệch giữa CBR và CDR càng lớn thì sự phát triển dân số càng nhanh, bùng nổ dân số càng mạnh. Đằng sau sự bùng nổ dân số là hàng loạt những hậu quả nặng nề về kinh tế, về xã hội mà loài người nói chung và người dân Việt nam nói riêng phải hứng chịu.
1.1Đất trở nên khan hiếm.
So sánh với diện tích đất lãnh thổ cho thấy: Mật độ dân số nước ta lên tới khoảng 250 người/km2, như vậy mật độ dân số nước ta đã cao gấp 5 đến 6 lần mật độ tiêu chuẩn ( 30 – 40 người/ km2). Là một nước nông nghiệp, hoạt động chủ yếu là trồng cây lương thực song diện tích đất trồng cây lương thực ở nước ta lại không phải là nhiều, mà lại còn luôn luôn bị giảm bởi sự gia tăng dân số.
Khi dân số tăng lên thì diện tích đất để xây dựng nhà ở, trường học, bệnh viện và các công trình công cộng khác cũng tăng lên không nhỏ.
Quy mô dân số lớn thì người chết hàng năm cũng nhiều do đó diện tích nghĩa trang cũng tăng lên.
Sự khan hiếm đất đã trở thành một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng tranh thủ chiếm đoạt, tranh chấp, tranh giành. Đồng thời nó cũng làm trầm trọng thêm tệ nạn phá rừng, nạn thất nghiêp, ô nhiễm môi trường.
1.2Rừng kêu cứu, môi trường suy thoái.
Trong điều kiện bùng nổ dân số và mức tiêu dùng của mỗi người dân về ăn, ở, đi lại, học hành, phòng chữa bệnh.v.v. cao hơn trước nhiều lần đã buộc cộng đồng người Việt nam khai thác đến mức thô bạo mọi khả năng tự nhiên. Điều này đang làm cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, suy thoái và ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhất là rừng đã và đang bị tàn phá, bị thu hẹp dần diện tích.
Việc suy giảm nhanh chống diện tích rừng đã dẫn đến làm biến đổi khí hậu ở Việt nam. Nhiệt độ trung bình các tháng mùa hè tăng lên nhiều, mùa đông rét đậm hơn, lũ lụt ngày càng nặng nề. Mất rừng, nhiều loài động vật mất dần và có nguy cơ tuyệt chủng.
Môi trường đang bị nhiễm đôc, đặc biệt là ở các đô thị và khu công nghiệp, do chúng ta thiếu kỹ thuật, thiếu kinh phí để thực hiện công nghệ sạch trong quá trình sản xuất. Sự gia tăng dân số cao làm mau chóng gia tăng mức tiêu dùng dẫn tới việc gia tăng dần quy mô sản xuất, khai thác cũng là một trong những nguyên nhân làm bẩn môi trường.
1.3Thiếu việc làm nghiêm trọng.
Lao động là một bộ phận quan trọng nhất của dân số và tăng theo chiều tăng của dân số. Đặc biệt lao động hoạt động nông nghiệp ngày càng tăng cả về lượng tuyệt đối và tương đối.
Trong nông nghiệp đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, không thể thay thế. Song bình quân ruộng đất của mỗi lao động nông nghiệp lại thấp, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao, sự mất cân đối nghiêm trọng giữa lao động và đất đai tất yếu dẫn đến tình trạng thiếu việc làm nghiêm trọng ở nông thôn.
-Về kinh tế: Do nhiều người không có việc làm nên tổng sản phẩm quốc dân thực tế đạt được thấp hơn nhiều so với tiềm năng của nó, tình trạng dư thừa lao động đã không khuyến khích việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm cho năng suất lao động hiện nay còn thấp.
-Về xã hội: Những người thát nghiệp, trong đó phần lớn là thanh niên đang ở trong những độ tuổi có sức lao động và hiếu động, là một trong những nguyên nhân cơ bản của nhiều tệ nạn xã hội: trộm cướp, mại dâm, nghiện hút.v.v.
1.4Tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người thấp, bình quân lương thực giảm.
Một trong những chỉ tiêu đo lường kết quả của hoạt động nền kinh tế môic nước là tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người, chỉ tiêu này ở nước ta hiện nay thuộc loại thấp nhất thế giới 220 USD. Mục tiêu chiến lược của nước ta đến năm 2000 đưa GDP lên 400 USD. Để đạt được mục tiêu trong điều kiện dân số tăng như hiện nay, đòi hỏi tổng sản phẩm quốc dân thời kỳ 1999 - 2000 tăng 25 lần, tức mỗi năm tăng 8,3%, đây là một việc làm không ít khó khăn.
Năm 1990 so với 1940 sản lượng lương thực tăng 3,58 lần song do dân số tăng 3,28 lần, nên mức lương thực bình quân đầu người chỉ tăng 10%. ở nước ta có những giai đoạn lịch sử lâu dài chỉ tiêu này bị giảm, chẳng hạn năm 1980 so với năm 1940 sản lượng lương thực tăng 2,4 lần trong khi đó dân số tăng 2,7 lần. Do đó sau 40 năm phấn đấu lương thực bình quân đầu người lại giảm từ 295 kg xuống 268 kg. ở đây rõ ràng việc nâng cao chỉ tiêu lương thực bình quân đầu người đã gặp phải một cản rất lớn là sự phát triển nhanh về dân số.
1.5Giáo dục và sức khoẻ giảm sút.
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nhanh trong khi điều kiện giáo dục không phát triển kịp. Vì vậy mà vẫn còn nhiều hiện tượng mù chữ và tái mù chữ.
Trong 1 gia đình đông con, một xã hội đông người, kinh tế nghèo nàn chắc chắn tình trạng sức khoẻ không tốt được. ở nông thôn nước ta 55% bà mẹ mang thai thiếu máu, do đó trẻ em đã bị suy dinh dưỡng ngay từ trong bụng mẹ, trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng 34%. Tỷ lệ mắc bệnh của thanh thiếu niên còn cao.
2.Sự cần thiết phải điều khiển mức sinh.
Từ biệt thế kỷ 20, chào đón thế kỷ 21, nhân loại vừa chứa chan hy vọng, vừa hồi hộp lo lắng… Hy vọng về sự phát triển khoa học công nghệ; hy vọng về xu hướng "toàn cầu hoá" kinh tế - dẫn đến sự giàu có phồn vinh hơn thế kỷ 20. Còn lo lắng cũng có nhiều; sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và suy thoái về môi trường; sự bùng nổ về dân số; những hậu quả về xã hội khó lường khi kinh tế chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp…. Một trong những lo lắng nhất là lo lắng về sự bùng nổ dân số.
-Dân số tăng quá nhanh:
Tiến trình phát triển dân số thế giới, trong 2 thiên niên kỷ qua cứ nhích dần và nhảy vọt vào cuối thế kỷ 20. Nếu từ năm đầu công nguyên đến năm 1000 (thiên niên kỷ thứ nhất) dân số thế giới bình quân tăng 0,2%/năm, thì từ năm 1001 đến 1299 chỉ tăng 0,1% năm, từ năm 1300 đến 1399 tăng theo chiều âm (tức 4 thế kỷ đầu thiên niên kỷ thứ 2, dân số thế giới không tăng mà lại giảm….); từ 1400 đến 1499 tăng 0,2%/năm; từ 1500 đến 1599 tăng 0,06%; từ 1600 đến 1850 tăng 0,4% năm; trong những năm 30,40 của thế kỷ 20 tỷ lệ tăng dân số của thế giới một lần nữa âm (do chiến tranh thế giới lần thứ hai ) nhưng sau đó tỷ lệ tăng dân số ở mức cao chưa từng thấy: những năm 60 đạt mức kỷ lục 2%/năm như những năm 60 của thế kỷ này thì cứ sau 35 năm dân số thế giới tăng gấp đôi.
tỷ năm 2040 là 13,4 tỷ và năm 2075 sẽ là 26,5 tỷ…Nếu vậy thì quá nguy hiểm.
-áp lực nặng nề của dân số
Càng gần đây, nhân loại càng nhận thức được sức ép của dân số, sự nguy hiểm khi dân số thế giới tăng nhanh đối với phát triển kinh tế, xã hội, với sức khoẻ, với môi trường và cuối cùng là với sự tồn vong của chính loài người… Dưới đây xin tóm tắt một số nguy cơ:
+Dân số tăng nhanh với nghèo đói lạc hậu: Người ta tính rằng, Nếu dân số tăng 1%/ thì GDP phải tăng 4% mới đảm bảo mức sống bình thường.ở thời điểm 1986 các nước kém phát triển như: Lào, Việt nam, Zaia…có GDP đầu ngưòi/năm dưới 100 USD (cả thế giới lúc đó còn 26 quốc gia như thế ) đều là những nước có tốc độ tăng dân số cao.
+Dân số tăng nhanh với thất nghiệp, thiếu việc làm: Đầu những năm 80, và cả những năm 90 của thế kỷ 20, dân số nông thôn ở các nước đang phát triển " quá thừa"- thời gian không có việc làm chiếm tới 35-45% ( ở châu á);30-50%(ở châu Phi) và 33% ở Mỹ La Tinh.
+Dân số tăng nhanh với thất học: Số người mù chữ của toàn thế giới năm 1950 là 700 triệu, tới năm 1994, tăng 960 triệu ( trong đó ở châu á và châu Phi chiếm 92%).
+Dân số tăng nhanh với tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt: Đó là nạn phá rừng, thiếu nước ngọt, thiếu năng lượng, thiếu đất canh tác.Tài nguyên dầu lửa, nếu khai thác theo tốc độ năm 1982 thì đến năm 2016 sẽ khô kiệt toàn bộ, than trên thế giới chỉ đủ dùng 1.600 năm nữa… và nếu năm 1950 bình quân ruộng đất tính theo đầu người trên thế giới là 8,5 mẫu, năm 1960 còn 7,1 mẫu và năm 1990 còn 3,9 mẫu.
+Dân số tăng nhanh với môi trường suy thoái: Khí quyển ô nhiễm, đất ô nhiễm, biển ô nhiễm, có thể nói ô nhiễm môi trường đã đi vào mọi ngõ ngách trên trái đất…
-Từ bùng nổ dân số, đến dân số dừng lại.
Rất may đến những năm 70 của thế kỷ 20 tốc độ tăng dân số thế giới có xu hướng giảm dần. Những năm 1985-1995 đã giảm xuống còn1,7%/ năm. Con người vui mừng đã phát hiện ra là có thể thoát được hiểm hoạ của bùng nổ dân số, để đi đến một thế kỷ mới - thế kỷ dân số dừng lại: Trung Quốc có dân số chiếm 1/5 toàn cầu, nhưng cũng là nước điển hình về giảm nhanh tốc độ tăng dân số: nếu năm 1970 tỷ lệ tăng dân số của Trung Quốc còn 2,6%/ năm thì năm 1975 còn 1,6%; năm 1984 còn 1,1%…
Khi mà tỷ lệ sinh của dân số bằng tỷ lệ tử vong thì dân số thế giới dừng. Cơ quan Dân số của Liên hiệp quốc năm 1980 đã dự đoán thế kỷ 21 sẽ là thời đại then chốt để dân số thế giới dừng lại. Tính từ năm 1980, thì dân số thế giới còn 120 năm phát triển để dừng lại ở con số 10,529 tỷ người.
Tóm lại: Sinh sản là yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình biến động dân số. Nó không chỉ ảnh hưởng đến quy mô cơ cấu, tốc độ tăng dân số mà còn ảnh hư._.ởng lớn đến quý trình phát triển kinh tế -xã hội. Vì vậy để điều tiết quy mô, copư cấu tốc độ tăng dân số, để thích ứng giữa phát triển dân số với phát triển kinh tế, xã hội trước hết phải điều tiết mức sinh.
Bùng nổ dân số thế giới trong những năm qua làm mất cân đối với việc gia tăng của cải vật chất, làm cho một bộ phận dân cư đa số ở các nước đang phát triển lâm vào cảnh không có công ăn việc làm, đói nghèo, mỗi năm hàng trục triệu trẻ em chết vì suy dinh dưỡng, hoặc bị tàn tật, trên 5.000 bị chết trong quá trình thai sản vì không được chăm sóc đầy đủ của y tế.
Từ sự phân tích ảnh hưởng của mức sinh đến sự phát triển dân số và sự phát triển kinh tế, xã hội. Chúng ta thấy rằng: bức xúc hiện nay cần phải giảm dần mức gia tăng dân số, đi đến dân số ổn định trong vài thập kỷ tới, làm kinh tế văn hoá - xã hội phát triển. Trên cơ sở đó nâng cao dần chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Muốn đạt được mục tiêu ý nghĩa đó, biện pháp tốt nhất, hợp lí nhất là giảm nhanh tỷ suất sinh thô, hay mỗi cặp vợ chồng tự nguyện chấp nhận thực hiện quy mô gia đình nhỏ có một hoặc hai con.
IV.Hệ thống các biện pháp điều chỉnh mức sinh.
Mục tiêu về mức sinh có thể tăng hoặc giảm tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của từng nước, từng thời kỳ. Nhưng đối với Việt nam hiện nay giảm tỷ lệ phát triển tự nhiên dân số là mục tiêu quan trọng nhất của chính sách dân số. Con đường duy nhất để đạt được mục tiêu này là giảm mức sinh, giảm số con trung bình của phụ nữ, bằng cách thực hiện hệ thống các biện pháp sau đây:
1.Nhóm các biện pháp kinh tế, xã hội.
Sự phát triển dân số là một hậu quả nặng nề. Để giải quyết những hậu quả nặng nề đó, Nhà nước với chức năng quản lý của mình phải có những chính sách hoặc không can thiệp hoặc can thiệp mạnh mẽ vào quá trình phát triển dân số. Mà sự phát triển dân số liên quan chặt chẽ với quá trình phát triển kinh tế, xã hội. Dân số phụ thuộc vào phát triển kinh tế, xã hội vì vậy phát triển kinh tế, xã hội là viên thuốc tránh thai tốt nhất.
-Nếu Nhà nước can thiệp mạnh mẽ, thô bạo đến hành vi sinh đẻ thì sẽ vi phạm đến nhân quyền của con người. Vì vậy Nhà nước cần phải cân nhắc giữa vấn đề nhân quyền và lợi ích xã hội – cộng đồng – gia đình và cá nhân sao cho phù hợp. Sau khi Nhà nước thấy được lợi ích xã hội thì phải tạo ra một khung cảnh kinh tế, xã hội sao cho mỗi cặp vợ chồng khi thực hiện chính sách cuả Nhà nước có lợi ích cho họ.
-Cần ưu tiên đầu tư cho chính sách dân số như bất kỳ lĩnh vực then chốt trọng yếu nào trong nền Kinh tế quốc dân. Đầu tư sản xuất và nhập khẩu nhanh nhất những kỹ thuật tránh thai tiên tiến của thế giới. Các dụng cụ tránh thai cần bán chứ không cho ( có thể bán với giá rẻ ). Nhưng cần thưởng cho những người thực hiện tốt chính sách sinh đẻ có kế hoạch một số tiền lớn hơn so với số tiền đã mua dụng cụ tránh thai.
-Các biện pháp khuyến khích và không khuyến khích đó là biện pháp thưởng phạt. Tuy nhiên là biện pháp kinh tế nhưng thưởng phạt chỉ có thể và cũng chỉ nên dừng lại ở mức độ ý nghiã giáo dục nhắc nhở chứ không nên nặng nề kinh tế. Vì vậy cùng một mức thưởng phạt trong năm, không nên thưởng một lần cho hết mà nên chia mức đó cho từng quý, từng tháng tác dụng giáo dục sẽ lớn hơn.
Sự phát triển dân số nước ta phụ thuộc vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nhưng trước mắt, tác động của chính sách kinh tế đến các quá trình dân số là vô cùng to lớn.
Xoá bỏ bao cấp về kinh tế, trong lĩnh vực dân số là trả lại cặp vợ chồng trách nhiệm chịu mọi chi phí nuôi dạy, chữa bệnh, đào tạo nghề, tìm việc làm cho con cái họ. Sự phát triển dân số ở nông thôn đang quyết định quá trình tăng dân số của cả nước. ở đây ruộng đất là tư liệu sản xuất chính và không thể thay thế được của nông dân. Vì vậy nó hoàn toàn có thể sử dụng như một phương tiện mạnh mẽ, hữu hiệu trong việc điều khiển hành vi sinh đẻ. Do đó phân phối quyền sử dụng ruộng đất trên cơ sở chỉ tính mỗi cặp vợ chồng chỉ có 2 con chứ không phải trên cơ sở tính đất bình quân đầu người của địa phương. Tương tự như vậy, trong việc phân phối nhà ở một cách tổng quát: phân phối lợi ích thì tính theo số hộ, còn phân phối nghĩa vụ theo đầu người.
Xã hội ta là xã hội có nhiều hệ thống tổ chức chặt chẽ, hầu như ai cũng đứng trong một tổ chức xã hội nào đó. Điều này thuận lợi cho việc triển khai các chính sách dân số. Dân số là vấn đề cấp bách chung của cả nước, cần tuyên truyền cho mọi thành viên trong xã hội, ngay từ niên thiếu để có ý thức về vấn đề lớn lao này.
Nâng cao trình độ văn hoá của toàn dân tộc, đặc biệt là của phụ nữ, đưa phụ nữ tham gia vào quá trình sản xuất xã hội và các hoạt động xã hội khác là yếu tố quan trọng làm giảm tỷ lệ sinh. Tổ chức tốt quỹ bảo trợ góp phần làm yên lòng cho mọi người, những người không có con, ít con hoặc chỉ có con gái sẽ góp phần xoá bỏ tâm lý thích đông con và nhất thiết phải có con trai. Đặc biệt nông thôn hình thành hội bảo thọ, tổ chức bảo hiểm tuổi già, tổ chức hội KHHGĐ. Cần có hình thức động viên nâng cao danh dự người mẹ có 1 đến 2 con, nâng cao địa vị của người phụ nữ.
2.Các biện pháp tuyên truyền giáo dục.
Các quá trình dân số sinh, tử, kết hôn liên quan đến mọi người, mọi gia đình và do từng người quyết định hành vi dân số của mình. Việc sinh sản là quá trình mang tính chất bản năng và đúng cho mọi loại sinh vật, nhưng hạn chế sinh đẻ chỉ có loài người mới có thể thực hiện được, ở đây quyết định là ý thức của con người cho nên cần phải tuyên truyền, giáo dục.
Trong xã hội bao giờ cũng có lớp người đang trong thời kỳ sinh sản, lớp người sắp bước vào thời kỳ sinh sản, do vậy việc tuyên truyền giáo dục về dân số phải mang tích chất phổ thông, liên tục. Để hình thành ý thức mới về dân số, phải làm cho mọi người dân hiểu tình hình dân số nước ta hiện nay, phải soi sáng mối quan hệ dân số và kinh tế, dân số và môi trường, dân số với vấn đề sức khoẻ, nòi giống, dân số với các vấn đề xã hội khác.
Tuyên truyền để mọi người hiểu được mục tiêu, các biện pháp của chính sách dân số, hiểu được gia đình quy mô nhỏ là ích nước lợi nhà.
Muốn tuyên truyền giáo dục dân số có hiệu quả cao, đương nhiên cần phải có tri thức dân số. Điều này đòi hỏi phải xây dựng và phát triển khoa học dân số, phải thường xuyên tiến hành những cuộc nghiên cứu thực nghiệm nhằm phát hiện kịp thời những vấn đề thực tiễn nảy sinh, giải đáp những băn khoăn của quần chúng.
Có nội dung khoa học những biện pháp, hình thức tuyên truyền phải phong phú đơn giản và dễ hiểu, phải đảm bảo cho mọi người tiếp nhận được. Cần coi trọng hình thức văn nghệ của tuyên truyền, phát huy lợi thế của nhiều kênh. Giáo dục dân số nhất thiết phải được tiến hành trong những năm cuối ở trường phổ thông, trong quân đội các trường trung học đặc biệt với thanh niên trong nông thôn. Hàng năm chúng ta nên tổ chức ngày dân số Việt nam để mọi người có dịp suy nghĩ sau sắc hơn về hành vi dân số của mình và tình hình dân số của đất nước.
Công tác Kế hoạch hoá gia đình xưa nay được hiểu như là sự chủ động từ phía Nhà nước, có tính áp đặt, bắt buộc. Để có sức lôi quấn hấp dẫn quần chúng nên bổ sung thêm nội dung: “ Bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em” vào Kế hoạch hoá gia đình. Cuối cùng sự quan tâm của các vị lãnh đạo cấp cao, nhất là của Đảng và Nhà nước đến vấn đề dân số thể hiện qua các bài nói, bài viết chắc chắn sẽ có tác dụng lớn trong việc tuyên truyền giáo dục ý thức dân số cho công dân trong lĩnh vực dân số, nâng cao trách nhiệm của các cấp lãnh đạo.
3.Nhóm các biện pháp hành chính pháp luật.
Luật hôn nhân và gia đình ảnh hưởng lớn đến các quá trình dân số, trước hết đó là việc quy định tuổi kết hôn. Nâng cao tuổi kết hôn là yếu tố quan trọng để giảm tỷ lệ sinh. Tuy luật nước ta quy định nam 20 tuổi, nữ 18 tuổi có thể kết hôn nhưng nên khuyến khích nam 25 tuổi, nữ 22 tuổi hãy xây dựng gia đình; khi làm hợp đồng tuyển chọn lao động cũng ưu tiên những người thực hiện tốt mục tiêu dân số và nên đưa vào hợp đồng điều khoản chỉ đẻ tối đa 2 con, vi phạm hợp đồng sẽ bị sa thải.
Luật pháp nước ta ủng hộ Kế hoạch hoá gia đình, cho phép sản xuất, mua bán sử dụng các phương tiện tránh thai, cho phép nạo thai và triệt sản. Cần cho phép tư nhân và các hội quần chúng nhân dân tham gia hoạt động trong lĩnh vực này.
4.Nhóm các biện pháp tổ chức kỹ thuật.
Khai thác nhanh nhất, triệt để nhất thành tựu y học trong nước và thế giới trong việc hạn chế sinh, phải coi đây là một trong những lĩnh vực kỹ thuật hàng đầu.
Các biện pháp kinh tế, xã hội, hành chính pháp luật, tuyên truyền giáo dục mới có tác dụng đến ý thức dân số của công dân. Các biện pháp kỹ thuật mới có tác dụng cuối cùng đến hành vi dân số của họ. Vì vậy đây là biện pháp quan trọng trong tiến hành quản lý sự phát triển dân số.
Thị trường hoá phương tiện tránh thai, tổ chức tốt hệ thống bán lẻ phương tiện này, sử dụng Marketing xã hội trong Kế hoạch hoá gia đình.v.v đang là các biện pháp tổ chức hữu hiệu thực hiện chính sách dân số vì nó liên quan đến hàng chục triệu con người ở khắp mọi nơi. Nếu chỉ sử dụng hệ thống y tế của Nhà nước thì rất hạn chế. Ngoài ra còn phải hoàn thiện các tổ chức, uỷ ban dân số từ trung ương đến địa phương.
Phần thứ hai
Phân tích tình hình sinh đẻ ở huyện Thạch Thành
năm 1985 – 1999
I.Đặc điểm điều kiện tự nhiên về kinh tế, xã hội huyện Thạch Thành tỉnh Thanh hoá ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội và phát triển dân số.
1.Đặc điểm điều kiện tự nhiên
-Thạch thành là một huyện miền núi nằm về phía Bắc của tỉnh Thanh hoá.
Phía Bắc, Tây giáp tỉnh Hoà bình.
Phía Đông giáp huyện Hà trung.
Phía Tây, Tây bắc giáp huyện Cẩm thuỷ, Bá thước.
Phía Nam giáp huyện Vĩnh lộc.
-Thạch thành có diện tích tự nhiên 593,86 km2 bằng 5% tổng diện tích tự nhiên của cả tỉnh Thanh hoá ( diện tích tự nhiên của Thanh hoá là 11.168 km2), có 3/4 là vùng núi và đồi.
Theo điều tra ngày 1/4/1999 dân số của huyện là: 135.592 người.
Trong đó:
+Dân tộc kinh 71.401 người chiếm : 55%
+Dân tộc Mường 64.136 người chiếm : 44,3%
+Dân tộc khác 55 người chiếm : 0,7%
+Nam có 66.396 người chiếm 48,89%
+Nữ có 69.296 người chiếm 51,11%
+Dân số thành thị 9.898 người chiếm 7,29%
+Dân số vùng cao 27.065 người chiếm 19,96%
+Dân số vùng thấp 98.626 người chiếm 72,75%
-Thạch thành có 25 xã, 3 thị trấn, trong đó có 6 xã vùng cao, một xã vùng chiến khu.
-Khí hậu: Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa khô, nhiệt độ trung bình hàng năm là 230C, lượng mưa hàng năm 1.780 mm, có tháng lượng mưa cao nhất là 1930 mm. Bão lụt thường xảy ra vào tháng 7 đến tháng 10. Khí hậu ở đây rất khắc nghiệt, độ ẩm cao, lượng mưa lớn, đồi núi nhiều, sông ngòi thoát mưa chậm vì vậy lũ lụt xảy ra làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống nhân dân trong huyện.
-Về đất đai: Đất thổ cư 19.281,39 ha, đất nông nghiệp hàng năm 17.109,2ha, đất đồi núi 14.867,5 ha, đất ao hồ 182,86 ha. Diện tích lúa cả năm 8.737,4 ha, đất trồng cây lâu năm 144,54 ha, diện tích đất lâm nghiệp 6.706,61 ha.
2.Đặc điểm về kinh tế, xã hội.
Năm 1999 là năm cuối cùng thực hiện nghị quyết Hội đồng nhân dân huyện khoá 16 nhiệm kỳ 1994 – 1999, cũng là năm có nhiều thuận lợi cơ bản, nhưng cũng không ít khó khăn, thử thách lớn. Nhưng dưới sự lãnh đạo sáng suốt của các cấp uỷ Đảng, sự quản lý điều hành Nhà nước có kết quả của Uỷ ban nhân dân các cấp, sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức chính trị, của các đoàn thể, các ngành, các cấp, đặc biệt là sự nỗ lực phấn đấu của nhân dân các dân tộc huyện nhà. Vì vậy huyện Thạch Thành đã đạt được các mục tiêu:
-Về kinh tế: Thạch thành là huyện có cơ cấu công – nông-lâm – nghiệp – dịch vụ, trong đó chủ yếu là nông lâm nghiệp chiếm 90,2 % nguồn lao động của huyện. Sản xuất còn mang nặng tính độc canh, tự cung, tự cấp chưa mang tính chất sản xuất hàng hoá. Bình quân lương thực đầu người mới khoảng 234 kg, thấp hơn rất nhiều so với toàn tỉnh. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế còn nhỏ bé và lạc hậu, đó là nhân tố kìm hãm sự phát triển của huyện.
Bảng 1: Chỉ tiêu kinh tế, xã hội .
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
1998
1999
Tổng sản lượng quy thóc
Tấn
28.541
31.789
Thu nhập bình quân đầu người
Đồng
940.000
980.000
Bình quân lương thực đầu người
Kg
201
243
Tỷ lệ học sinh/1.000 dân
Học sinh
198
201
Tỷ lệ bác sỹ/1.000 dân
Người
0.8
1
Nguồn: Số liệu thống kê kinh tế, xã hội huyện Thạch Thành – Phòng thống kê huyện Thạch Thành.
-Về xã hội: Thạch Thành với dân số 135.592 người là một huyện miền núi đông dân nhất trong 11 huyện miền núi của tỉnh Thanh hoá. Dân cư chủ yếu sống trong các thôn bản, mật độ dân số chung là 228 người/km2 (thấp hơn so với toàn tỉnh), với nhiều dân tộc khác nhau như dân tộc Kinh, dân tộc Mường, dân tộc Thái, dân tộc Thổ, dân tộc Hơmông, dân tộc Khơmú.v.v. song chủ yếu vẫn là dân tộc Kinh và dân tộc Mường sinh sống.
-Về văn hoá, giáo dục, y tế: Nhìn chung phát triển còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao dân trí và đời sống tinh thần của nhân dân, cũng như yêu cầu phát triển kinh tế của huyện Thạch Thành. Những năm gần đây mặc dù chất lượng đưộc nâng lên, nhất là bậc tiểu học. Song đến nay mới có 3 thị trấn được công nhận là phổ cập bậc tiểu học đó là:thị trấn Kim tân,Thị trấn Nông trường vân du, Thị trấn Thạch thành, còn 3415 người thuộc lực lượng lao động nhưng chưa được xoá mù chũ.
Ngành y tế đã cố gắng khắc phục khó khăn, đảm bảo việc phòng bệnh, khám bệnh và điều trị cho bệnh nhân. Đặc biệt là mạng lưới y tế cơ sở được nâng lên về chất lượng phục vụ. Đến nay trên 60%số xã có bác sỹ phục vụ và tất cả chòm bản đều có cán bộ y tế làm cơ sở. Nhưng để khắc phục những khó khăn hiện nay của ngành y tế, đề nghị các cấp chính quyền cần phối hợp với cơ sở y tế có biện pháp tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho mạng lưới y tế từ xã đến huyện, đặc biệt chú trọng đến công tác nâng cao trách nhiệm, chất lượng phục vụ và ổn định công tác tổ chức Trung tâm y tế Huyện.
Cũng từ chỗ do trình độ dân trí thấp, lai sống chủ yếu bằng nghề nông nghiệp, giao thông đi lại gặp nhiều khó khăn, giao lưu văn hoá chưa phát triển nên trong cuộc sống của người dân còn tồn tại nhiều phong tục tập quán cổ hủ lạc hậu.
3.Đặc điểm về dân số và lao động
3.1.Biến động dân số
Quy mô dân số thể hiện ở số lượng tuyệt đối của dân số. Còn sự phát triển dân số biểu hiện qua sự tăng giảm dân số qua các năm.
Thanh Hoá là một tỉnh có quy mô dân số cao, đứng hàng thứ 2 sau Thành phố Hồ Chí Minh, trong khi đó Thạch thành lại là một huyện miền núi có dân số cao nhất trong 11 huyện miền núi của tỉnh Thanh hoá.
Bảng 2: Biến động dân số qua các năm
Chỉ tiêu
Đ.vị
1985
1989
1995
1999
Dân số trung bình
Người
95.281
114.090
132.536
135.592
Số sinh
Người
3.097
3.737
3.698
1.722
Số chết
Người
410
814
664
599
Tỷ suất sinh
%0
32,5
32,75
27,9
12,69
Tỷ suất chết
%0
4,3
7,13
5,01
4,42
Tỷ suất tăng tự nhiên
%0
28,2
25,62
22,89
8,27
Nguồn: Phòng Dân số kế hoạch hoá gia đình huyện Thạch Thành
Dân số huyện Thạch Thành phát triển trong điều kiện tương đối ổn định và đang được biểu thị qui luật phát triển. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 1985là 28,2%0 và đã giảm mạnh mẽ còn 8,27%0 vào năm 1999. Tốc độ tăng dân số có xu hướng giảm mạnh mẽ từ năm 1998 -1999 mức tăng dân số giảm 1,35%0 (năm1998 là 14,04%0, năm 1999 chỉ còn12,69%0). So với mục tiêu đề ra hàng năm giảm 0,7%0 thì tỷ suất sinh năm 1999 đạt và vượt chỉ tiêu 0,65%0.
Tại các vùng khác nhau thì mức sinh và sự gia tăng dân số cũng rất khác nhau.
Bảng 3: Tỷ suất tăng dân số tự nhiên ở các vùng
Tên đơn vị
Tỷ suất sinh %0
Tỷ suất tăng tự nhiên %0
Vùng thị trấn
4,12
3,9
Vùng cao
23,55
15,55
Vùng núi thấp
12,13
8,19
Nguồn: Phòng Dân số kế hoạch hoá gia đình huyện Thạch Thành
Do mức sinh và mức tăng dân số cao, không đồng đều giữa các xã, các bản làng, không phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của từng vùng, đã ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế, xã hội nhất là ảnh hưởng đến đời sống nhân dân
Theo số liệu thống kê của phòng lao động thương binh xã hội huyện Thạch Thành cho thấy tỷ suất sinh càng cao thì tỷ lệ nghèo đói càng lớn.
Bảng 4: Tỷ lệ đói nghèo của các vùng trong huyện Thạch Thành.
Tên đơn vị
Số hộ
Số hộ đói nghèo
Tỷ lệ%
Vùng thị trấn
2.396
207
8,6
Vùng cao
4.421
1.815
41,1
Vùng đồng bằng
19.496
5.793
29,7
Nguồn: Phòng LĐ - TBXH huyện Thạch Thành.
Theo điều tra xã hội về tình trạng nghèo đói của các tầng lớp dân cư huyện Thạch Thành năm 1999 cho kết quả như sau:
Mức trung bình chiếm: 50%
Mức trên trung bình chiếm: 20,2%
Mức dưới trung bình chiếm: 29,8%
Mức thu nhập bình quân đầu người năm 1999 là 980.000 đồng.
Mức thu nhập bình quân đầu người tháng 1999
+Dưới 60.000đồng chiếm 51,58%
+Từ 60.000đồng đến dưới 150.000đồng chiếm 34,5%
+Từ 150.000 đồng đến dưới 300.000đồng chiếm 7,63%
+Từ 300.000 đồng đến dưới 600.000 đồng chiếm 2,01%
+Trên 600.000đến dưới 600.000 chiếm :1,28%
Đáng chú ý là mức dưới 20.000đồng còn 3% đó là một mức quá thấp.
Nguồn: Phòng LĐ - TBXH huyện Thạch Thành
Như vậy với giá cả đắt đỏ hiện naymà thu nhập bình quân của người dân lại thấp, ở mức dưới 60.000đồng thì không đủ đảm bảo những yêu cầu tối thiểu của con người, mà số lượng này lại chiếm tỷ lệ cao.
3.2Cơ cấu dân số chia theo giới tính và nhóm tuổi.
Cơ cấu dân số theo tuổi và giới được biểu hiện ở bảng 5 và tháp dân số năm 1999.
-Bên trái của tháp biểu diễn quy mô và sự phân chia theo nhóm tuổi nam.
-Bên phải của tháp biểu diễn quy mô và sự phân chia theo nhóm nữ
- ở giữa là nhóm tuổi .
-Tổng diện tích của tháp tuổi biểu thị quy mô dân số của huyện Thạch Thành năm 1999
Bảng 5: Cơ cấu Tuổi- Giới huyện Thạch Thành năm 1999
Tuổi
Tổng số
Nam
Nữ
Cơ câu tuổi
Nữ /Tổng
135.592
66.396
69.196
100
51
0-4
18.904
9.506
9.398
13,94
49,6
5-9
16.841
8.431
8.410
12,42
49
10-14
15.007
7.589
7.418
11,06
49
15-19
16.434
8.130
8.304
12,12
50,5
20-24
11.730
5.580
5.917
8,65
50,6
25-29
9.958
4.920
5.038
7,34
50,59
30-34
9.541
4.715
4.826
7,03
50,58
35-39
8.695
4.235
4.460
6,42
51,2
40-44
6.480
3.172
3.308
4,77
51,04
45-49
4.363
2.007
2.356
3,21
53,9
50-54
3.569
1.680
1.889
2,63
52,9
55-59
3.084
1.397
1.687
2,27
54,7
60-64
3.279
1.489
1.790
2,41
54,7
65-69
3.074
1.428
1.646
2,26
54,7
70-74
2.800
1.302
1.498
2,06
54,8
75-79
1.033
418
615
0,76
60
80+
773
289
484
0,57
62,6
Về cơ cấu giới tính: Trong dân số học người ta dùng chỉ số giới tính để đánh giá cơ cấu dân số theo giới.
Trong đó: Ix là chỉ số giới tính.
Pxm số lượng dân số nam tuổi x.
Pxf số lượng dân số nữ tuổi x
Nhìn chung trong dân số cả huyện Thạch Thành thì tỷ trọng dân số nam ít hơn nữ, đây là sự mất cân đối về giới ảnh hưởng đến mức sinh, bởi vì phụ nữ là chủ thể của quá trình sinh đẻ ( sI<1)
Riêng ở nhóm tuổi 0-14 thì dân số nam của huyện Thạch Thành lại chiếm tỷ trọng lớn hơn phụ nữ, bởi lẽ lúc mới sinh thường trẻ em nam được sinh ra nhiều hơn trẻ em nữ, chỉ số giới tính lớn hơn 1 (sIo > 1), mặc dù tỷ lệ chết của trẻ em nam vẫn lớn hơn trẻ em nữ.
ở độ tuổi 15 trở lên tỷ lệ chết của nam lớn hơn của nữ đã làm thay đổi cơ cấu giới tính, số lượng dân số nữ lớn hơn số lượng dân số nam ( sIx < 1 ) đặc biệt dân số nữ trong độ tuổi sinh đẻ ( 15 -49) lớn hơn dân số nam làm cho mất cân đối về giới tính, số lượng trẻ em sinh ra sẽ nhiều hơn làm cho dân số huyện Thạch Thành tăng nhanh lên. Độ tuổi càng cao thì tỷ lệ nữ trong dân số cũng càng cao, điều này chứng tỏ tuổi thọ trung bình của phụ nữ huyện Thạch Thành cao hơn của nam giới.
85+
80 - 84
75 - 79
70 - 74
65 - 69
60 - 64
55 - 59
50 - 54
45 - 49
40 - 44
35 - 39
30 - 34
25 - 29
20 - 24
15 - 19
10 - 14
5 - 9
0 - 4
Nam 66.396 Nữ 69.196
Về cơ cấu tuổi:
Dân số huyện Thạch Thành thuộc loại dân số trẻ, vì số lưọng trẻ em ở độ tuổi 0-14 lớn, chiếm tỷ lệ 37,42%dân số.Do đó nhìn về hình dáng tháp tuổi ta thấy thấy đáy của tháp dân số rộng.
Độ tuổi tăng dần thì số lượng người ở các nhóm tuổi lại giảm dần, làm cho tháp dân số huyện Thạch Thành có hình tam giác và do quy mô dân số nữ lớn hơn nam làm cho diện tích bên phải cuả tháp lớn hơn bên trái.
Dân số nữ trong độ tuổi sinh đẻ 15-49 chiếm một tỷ lệ cao trong dân số nữ (49,3% )là một trong những nguyên nhân làm cho số trẻ em sinh ra trong năm lớn, đáy của tháp dân số càng rộng ra.
Số lượng trẻ em nữ chuẩn bị bước vào độ tuổi sinh đẻ 10-14 lớn 7589 em chiếm 10,97% dân số nữ , trong khi đó số phụ nữ chuẩn bị bước ra khỏi độ tuổi sinh đẻ 45-49 chỉ có 2356 người chiếm 3,41 dân số nữ .
Như vậy chênh lệch lớn của phụ nữ hai nhóm tuổi này làm cho phụ nữ tong độ tuổi sinh đẻ ngày càng được bổ sung thêm rất nhiều.
3.3. Đặc điểm về lao động và việc làm.
3.3.1. Số lượng lao động.
Đến ngày 1-4-1999 toàn huyện Thạch Thành có 71150 lao động chiếm 48% tổng dân số.
Trong đó:
-Trong độ tuổi lao động chiếm 42 % tổng dân số trong đó nữ chiếm 52% lao động
-Ngoài độ tuổi lao động chiếm 6% tổng dân số trong đó nữ chiếm 62%.
Như vậy nguồn lao động chiếm 48% tổng dân số- một lực lượng nòng cốt tạo ra của cải vật chất- phải cáng đáng cho chính bản thân mình và còn tải thêm 52% dân số không tham gia vào quá trình lao động. Đó là sự mất cân đối giữa sức sản xuất và sức tiêu dùng.
Về số lượng tuyệt đối thì nguồn lao động của huyện Thạch Thành không phải là nhỏ, nhưng về số tương đối thì có sự mất cân đối, số người ăn theo qua lớn mà chủ yếu là trẻ em chưa đến tuổi lao động (trẻ em chưa đến tuổi lao động huyện Thạch Thành năm 1999 chiếm 37,42%).
Trong lực lượng lao động thì lực lượng lao động nữ lại lớn hơn của nam, trong khi đó năng suất lao động của nữ bao giờ cũng thấp hơn của nam. Ngoài độ tuổi lao động số lượng nữ tham gia vào quá trình lao động cũng nhiều hơn nam giới, do vậy năng suất lao động thường rất thấp.
3.3.2.Chất lượng lao động.
*Trình độ học vấn.
Năm 1999 tỷ lệ chưa biết chữ của lực lượng lao động huyện Thạch Thành chiếm 4,8%, chưa tốt nghiệp cấp I chiếm 22,3%. Tốt nghiệp cấp I là 26,6%. Tốt nghiệp cấp II và III chiếm 42,9%. Trình độ học vấn của huyện Thạch Thành đã được nâng cao hơn rất nhiều so với những năm 1986. Tuy nhiên nếu đem so sánh trình độ văn hoá này với toàn bộ tỉnh Thanh Hoá thì huyện Thạch Thành vẫn là huyên có trình độ văn hoá thấp hơn so với trung bình tỉnh.
Bảng 6. Trình độ học vấn lực lượng lao động
huyện Thạch Thành năm 1999
Toàn huyện
%
Nữ
%
Tổng
66.150
33.736
Chưa biết chữ
3.175
4,8
2.968
8,8
Chưa tốt nghiệp cấp 1
14.751
22,3
13.427
39,8
Đã tốt nghiệp cấp 1
18.985
28,7
9.277
27,5
Đã tốt nghiệp cấp 2
18.919
28,6
6.140
18,2
Đã tốt nghiệp cấp 3
10.320
10,1
1.924
5,7
Nguồn: Phòng thống kê huyện Thạch Thành – Thanh Hoá
Điều đặc biệt quan tâm là trình độ học vấn của lực lượng lao động nữ trên địa bàn huyện Thạch Thành thấp hơn rất nhiều so với trình độ lực lượng lao động nam. Tỷ lệ nữ chưa biết chữ và tốt nghiệp cấp 1 chiếm 24,7% so với tổng lao động và 48,5% so với tổng lực lượng lao động nữ. Trong khi đó tỷ lệ tốt nghiệp cấp 3 chỉ chiếm 2,9% so với tổng lao động toàn huyện và 5,7% so với tổng lao động nữ.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng lực lượng lao động của huyện Thạch Thành nói chung và lực lượng lao động nữ nói riêng thấp là do:
- Chủ yếu huyện Thạch Thành vẫn tồn tại tư tưởng trọng nam khinh nữ đặc biệt ở các xã vùng cao, vùng công giáo và những xã có dân tộc ít người sinh sống như xã Thạch lâm, Thạch tượng, Thạch quảng.v.v. Do vậy số nữ ít có điều kiện đến trường và học càng cao thì số học sinh nữ càng giảm sút rõ rệt.
-Do các cấp lãnh đạo chưa có chính sách giáo dục phù hợp nhất đối với mức sống của người dân huyện Thạch Thành. Thu nhập thấp lại đông con nên các hộ nông dân chỉ đủ chi phí cho con mình học trong những năm đầu còn sau đó thì tình nguyện cho con mình nghỉ học. Vì vậy hiện tượng mù chữ và tái mù chữ còn khá phổ biến trong những năm gần đây
- Do tư tưỏng của người dân huyện Thạch Thành quan niệm rằng học chẳng để làm gì vì trước sau họ cũng quay về với nghề nông thuần tuý. Vì thế họ chỉ cần học để đủ biết đọc,biết viết và làm tính đơn giản. Còn học lên cấp 2, cấp 3 là điều không cần thiết và hoang phí tiền bạc.
Chính những nguyên nhân trên đã dẫn tới trình độ học vấn của lực lượng lao động huyện Thạch Thành còn rất thấp.
*Trình độ chuyên môn kỹ thuật.
Theo số liệu thống kê Phòng lao động –Thương binh xã hội huyện Thạch Thành năm 1999 cho thấy:Số lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật rất cao chiếm 90%; có chuyên môn kỹ thuật chiếm 10%.
Trong đó:
-Công nhân kỹ thuật chiếm: 4,309%.
-Cao đẳng và đại học chiếm: 2,64%
-Trên đại học chiếm: 0,0098%
Do số lượng của cải vật chất được sản xuất ra còn rất thấp trong khi lực lượng lao động không có trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật lại chiếm tỷ lệ cao đã dẫn tới tình trạng lao động chưa có việc làm khá lớn.
-Số người thất nghiệp lớn, năm 1999 có khoảng 1985 người chiếm 3% lực lượng lao động.
Điều đáng chú ý là huyện Thạch Thành có số lượng người thiếu việc làm quá lớn, chủ yếu là thiếu việc làm theo thời vụ. Số người thiếu việc làm là 48.123 người chiếm 75% số người có việc làm. Thời gian lao động của những ngưòi này chiếm 50-60% quỹ thời gian.
Nguyên nhân của hiện tượng thiếu việc làm, quỹ thời gian sử dụng thấp là:
- Do sự gia tăng dân số cũng như sự gia tăng lao động hàng năm còn cao, lao động chủ yếu trong sản xuất nông nghiệp mà diện tích đất canh tác không những bị tăng mà ngày càng bị giảm xuống.
- Do ngành nghề phụ không được mở rộng, cơ sở hạ tầng chưa đáp ứng.
Như vậy, điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội, dân số- lao động đều có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển triển kinh tế của huyện Thạch Thành. Nhưng dân số - nguồn lực con người vẫn là nhân tố trung tâm của toàn quốc gia nói chung và của huyện huyện Thạch Thành nói riêng. Để có sự phát triển kinh tế bền vững nhất thì đảng uỷ và nhân dân huyện Thạch Thành phải có những giải pháp tác động vào con người , tác động vào dân số để chất lượng con người, chất lượng dân số nâng cao khi đó kinh tế huyện Thạch Thành phát triển bền vững nhất.
II.Phân tích tình hình biến động mức sinh của huyện
Thạch Thành giai đoạn 1985-1999
1.Phân tích tình hình biến động mức sinh thô của dân số.
Dân số thường xuyên vận động và phát triển.nếu xét trên phạm vi toàn thế giới hoặc từng nước, sự vận động đó chủ yếu do biến động tự nhiên (sinh và chết ) tạo nên. Trong giai đoạn hiện nay, nhìn chung mức chết biến động không nhiều, tăng giảm dân số chủ yếu do sự vận động ,mức sinh quyết định. Quá trình vận động dân số nói chung và mức sinh nói riêng không chỉ chịu tác động của các yếu tố tự nhiên sinh vật, mà còn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế xã hội. Vì vậy trong các thời kỳ khác nhau, ở các nước khác nhau, biến động mức sinh khác nhau.
Bảng 7: Biến động mức sinh thô trên thế giới.
Các vùng
1950-1955
1960-1965
1975-1980
1985-1990
Toàn thế giới
35,6
33,7
31,3
27
Trong đó
-
-
-
-
Các nước kinh tế phát triển
22,9
20,5
17,4
15
Các nước kinh tế chưa phát triển
42,1
39,5
36,4
31
Việt Nam thuộc các nước chưa phát triển, vì vậy sự biến động mức sinh cũng có đặc trưng của các nước chưa phát triển. Mức sinh trong những năm gần đây tuy có giảm, nhưng tốc độ giảm vẫn còn chậm và còn ở mức cao.những năm 60 mức sinh rất cao (46%0 ), đến những năm 70 đã giảm nhưng còn chậm, năm 1976: 39,5%0 ;Năm 1980:31,7%0; Năm 1992là 29,7%0.
Thạch Thành là một huyện miền núi song nó cũng tuân theo quy luật tự nhiên của nó. Mức sinh thô của huyện cao nhưng sau đó giảm dần.Có rất nhiều chỉ tiêu đánh giá mức sinh. Trong thực tế chỉ tiêu mà người ta thường sử dụng đó là tỷ suất sinh thô CBR.
Bảng 8: Biến động mức sinh thô CBR qua các năm.
Chỉ tiêu
Đ.vị tính
1985
1989
1995
1999
D. số trung bình
Người
95.281
114.090
132.536
135.592
Số trẻ em mới sinh
Người
3.097
3.737
3.698
1.722
CBR
%
32,5
32,75
27,9
12,69
Nguồn: Phòng Dân số- Kế hoạch hoá gia đình huyện Thạch Thành
Mức CBR đã giảm đáng kể, qua 15 năm từ 1985 đến 1999. Trung bình mỗi năm giảm 1,32%0, đạt và vượt chỉ tiêu trung ương và tỉnh giao ( 0,6 - 0,7%0). Tính từ thời điểm 0 giờ ngày 1/4/1999 dân số huyện Thạch Thành sau 10 năm tăng 21.498 người tương đương với dân số của 3 xã lớn hiện nay như Thạch bình. Bình quân mỗi năm tăng 2.149 người, như vậy mỗi 1 năm dân số huyện Thạch Thành tăng lên tương đương với 1 xã Thạch lâm hiện nay.
Nhưng một nghịch lý xảy ra ở huyện Thạch Thành là ở các xã vùng cao, vùng dân tộc thiểu số sinh sống thì CBR tăng nhanh và còn rất cao. Theo kết quả điều tra năm 1999 dân tộc Hmông có tỷ suất sinh cao nhất là 39,4%0, tiếp đến là dân tộc Dao 35,7%0 dân tộc Gia Rai có tỷ suất sinh thô là 28,5%0 và dân tộc Mường là 27,5%0. Theo kết quả điều tra ngày 1/4/1999, sự khác nhau về tỷ suất sinh tổng cộng cũng tương tự như sự khác nhau về tỷ suất sinh thô trong các nhóm dân tộc này. Dân tộc Hmông có tỷ suất inh tổng cộng cao nhất 6,3 con, dân tộc Dao 4,9 con, dân tộc Gia Rai 4,5 con và dân tộc Mường 3,5 con.
Bảng 9: Tỷ suất sinh thô và tỷ suất sinh tổng cộng của các nhóm
dân tộc năm 1999.
Nhóm dân tộc
CBR
TFR
Mường
27,5
3,4
Hmông
39,4
6,3
Dao
35,7
4,9
Gia Rai
28,5
4,1
Nguồn: Phòng Dân số Kế hoạch hoá gia đình huyện Thạch Thành
Mức CBR giảm mạnh, nhưng tại sao số trẻ em sinh ra hàng năm vẫn còn lớn?
-Thứ nhất là dù CBR giảm nhưng quy mô dân số lớn, đặc biệt là dân số nữ quá cao nên khó có thể giảm được số trẻ em sinh ra trong năm.
-Số phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ chiếm 21,16% tổng dân số. Đặc biệt số phụ nữ 15 - 49 tuổi có chồng là 25.681 người chiếm 20% tổng dân số hay 72,8% dân số nữ từ 15 - 49 tuổi.
- ở huyện Thạch Thành còn nhiều nguyên nhân khiến cho số trẻ em sinh ra lớn: Cấu trúc dân số trẻ, dân trí phát triển thấp, ảnh hưởng của tập tục, phong tục tập quán, tâm lý xã hội cũ, công tác thông tin giáo dục truyền thông chưa đạt yêu cầu, đội ngũ làm công tác dân số kế hoạch hoá gia đình chưa đáp ứng yêu cầu, chưa phải tất cả mọi người đều nhận thức đúng về dân số.
Như ở phần trước chúng ta thấy huyện Thạch Thành có 3 khu vực có điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội khác nhau. Do đó mức sinh thô ở mỗi khu vực cũng khác nhau.
Tóm lại, ở các nhóm tuổi khác nhau, ở các xã khác nhau có mức sinh khác nhau.
Bảng 10: Tình hình TFR của 6 xã vùng cao năm 1999
Tên đơn vị
TFR
Thạch lâm
3,4
T._. suất sinh là 2,9 con.
+Xã vùng núi thấp giảm mức sinh hàng năm 0,17 - 0,2%0 để TFR là 1,6 con.
-Giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên hàng năm 3% để năm 2004 còn dưới 18%.
-Nâng cao tỷ lệ cặp vợ chồng thực hiện biện pháp tránh thai hàng năm 3% để đến năm 2004 đạt 60% số phụ nữ tuổi từ 15 - 49 thực hiện biện pháp tránh thai.
2.Nhiệm vụ chủ yếu của công tac Dân số kế hoạch hoá gia đình trong những năm tới.
-Tiếp tục phấn đấu giảm tỷ lệ sinh, giảm thấp, giảm nhanh số người sinh con thứ 3 trở lên, giảm mạnh tỷ lệ mắc bệnh phụ khoa, đẩy mạnh chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em, giảm nhanh tiến tới thanh toán suy dinh dưỡng trẻ em.
-Mở rộng mạng lưới dịch vụ phòng tránh thai, nâng cao chất lượng, hiệu quả, áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại.
-Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức thông qua triển khai kế hoạch truyền thông, giáo dục tuyên truyền chủ yếu bằng kênh trực tiếp nghe nhìn, nâng cao hiệu của truyền thông đại chúng, từ đó tạo ra nhận thức mới về Dân số kế hoạch hoá gia đình, giảm số người kết hôn sớm, đẻ sớm, chấm dứt nạn tảo hôn, nâng cao tính xã hội hoá cộng đồng để mọi người tự giác chấp hành quy mô gia đình nhỏ, ít con trở thành chuẩn mực của xã hội.
-Tập trung sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác Dân số kế hoạch hoá gia đình, đầu tư kinh phí thoả đáng, củng cố làm công tác dân số, phân công trách nhiệm cho các cấp, các ngành rõ ràng, phải thực hiện đồng bộ các kinh phí.
-Cụ thể đề ra cá chỉ tiêu Kế hoạch hoá gia đình.
+Tổng số người chấp nhận các biện pháp tránh thai mới bình quân mỗi năm là 5.600 người.
Trong đó:
Đình sản nam: 40 người.
Đình sản nữ: 200 người.
Dụng cụ tránh thai: 3.500 người.
Thuốc tránh thai: 690 người.
Bao cao su: 1.170 người.
+Chỉ tiêu chăm sóc sức khoẻ sinh sản bình quân 1 năm 9.940 người.
Trong đó:
Khám phụ khoa: 8.000 lượt người
Điều trịphụ khoa:1.500 lượt người
Nạo thai: 180
Hút điều hoà kinh nguyệt: 260
+Dự án dân số - sức khoẻ gia đình: Hoàn thành thi công xây dựng 22 công trình, nâng cấp xây dựng trạm y tế xã.
II.Một số ý kiến nhằm ổn định mức sinh ở huyện Thạch Thành.
Từ tình hình sinh đẻ thực tế ở huyện Thạch Thành được phân tích ở trên. Để thực hiện tốt chủ trương, chính sách của Nhà nước huyện Thạch Thành trong những năm tới cần ổn định sự gia tăng dân số phù hợp với mọi điều kiện kinh tế, xã hội băng cách ổn định mức sinh một cách hợp lý. Để đạt được mục tiêu đó, cần triển khai thực hiện một số biện pháp sau đây:
1.Thực hiện các biện pháp kinh tế, xã hội.
-Trong việc thực hiện cá biện pháp kinh tế, xã hội ở huyện Thạch Thành thực hiện chế độ thưởng phạt, đã làm cho người áp dụng các biện pháp tránh thai tăng lên, nhưng nó chỉ có tác dụng đối với đình sản, còn các biện pháp khác hầu như không có tác dụng. Nó còn mang nhiều ý nghĩa kinh tế, nên người dân huyện Thạch Thành, nhất là các xã vùng cao thường xuyên chấp nhận phạt rồi sinh con, chứ chưa có tác dụng nhắc nhở. Chế độ thưởng phạt nên cùng một mức thưởng nhưng chia thành nhièu lần trong năm để giáo dục, nhắc nhở.
-Trong việc cấp đất canh tác cũng như đất làm nhà cần ưu tiên thích hợp cho những gia đình thực hiện đúng chính sách của Nhà nước, vừa có chính sách khuyến khích vừa khắc phục được tình trạng vội cưới để mua bán chiếm đoạt. Kiên quyết không cấp đất làm nhà và đất canh tác cho các cặp vợ chồng hoặc gia đình có con xây dựng gia đình trước tuổi thành niên.
-Các xã Thành minh, Thạch tượng giành quỹ đất còn quá ít cho cá tổ chức đoàn thể ( thanh niên, phụ nữ …) nhận thầu để lấy quỹ hoạt động và tập hợp hội viên, cũng chưa giành đất thưởng cho các trường hợp thực hiện tốt công tác. Dân số kế hoạch hoá gia đình, chấp nhận và thực hiện quy mô gia đình nhỏ hoặc kết hôn.
-Kêu gọi, khuyến khích các tổ chức tư nhân nước ngoài đầu tư vào huyện Thạch Thành, nếu nhận được đầu tư của nước ngoài - Thạch thành sẽ có thêm nguồn thunhập đáng kể, lại tạo được việc làm cho lao động, thay đổi nếp nghĩ cũ về hạnh phúc gia đình, thanh niên có dịp nhìn ra nước ngoài bằng việc họ đối với mình.
-Chống tảo hôn, nâng cao tuổi kết hôn là biện pháp rút ngắn thời gian tham gia vào quá trình sinh đẻ. Đặc biệt chú trọng đến vấn đề này cho cá xã vùng cao, vùng dân tộc ít người như Thành mỹ, Thành yên…. bởi vì những vùng này có tỷ suất sinh rất cao và quyết định sự phát triển dân số huyện Thạch Thành, cần đầu tư nhiều hơn kinh phí cũng như các biện pháp tránh thai cho các vùng này.
-Nâng cao dân trí, đặc biệt là phụ nữ, đưa phụ nữ tham gia vào quá trình sản xuất, công tác xã hội để có những ước maong thành đạt trong cuộc sống, điều đó phải đạt được khi mà bị ràng buộc ít về con cái. Cần đưa giáo dục dân số tính vào tất cả các trường học từ cấp 1 PTCS, PTTH, các trường bổ túc văn hoá và các trường dạy nghề trên địa bàn huyện bởi vì:
+ ở các xã vùng cao học sinh chủ yếu ở PTCS vì vậy tại đây học tập về Kế hoạch hoá gia đình đã chiếm khối lượng lớn.
+ ở trường PTTH phần lớn lứa tuổi này là những người bước vào cuộc sống gia đình. Cần phát hành giáo trình dân số trong đó có thông tin về hôn nhân, tảo hôn luật hôn nhân và gia đình để các em thấy được tình hình trên địa bàn huyện và xã, từ đó có những hoạt động cho đúng.
-Đối với các xã vùng cao, tư tưởng phong kiến còn nặng nề phải sinh được con trai. Thực tế cho thấy những gia đình không có con hoặc không có con trai rất lo lắng cho tuổi già không nơi nương tựa. Cho nên cần cho triển khai đến tận xã, làng bản, các tổ chức quỹ bảo trợ, bảo hiểm tuổi già…. Cho người dân huyện Thạch Thành yên lòng khi không có con hoặc không có con trai, xoá bỏ tâm lý nhiều con phải có con trai.
2.Thực hiện các biện pháp tuyên truyền giáo dục.
Công tác truyền thông phải làm cho mọi người nhận thức được tầm quan trọng, tính cấp bách và chiến lược của công tác Dân số kế hoạch hoá gia đình, đó là một công việc của nhiều thập kỷ, phải kiên trì, phải thấy được tốc độ gia tăng dân số liên quan đến tốc độ phát triển kinh tế, xã hội, đối với sức khoẻ, môi trường, đến chất lượng cuộc sống ở mọi gia đình, việc sinh đẻ của từng người sẽ ảnh hưởng đến cả cộng đồng, đến toàn xã hội.
Truyền thông là một quá trình liên tục, trao đổi thông tin, tình cảm, thái độ nhằm tạo hạnh phúc đến thay đổi hành vi. Truyền thông dân số phải mang tính xã hội hoá cao, người nói, người nghe cũng phải làm và còn phải nói cho người khác làm. Tuy nhiên nòng cốt trong vấn đề này phải là tổ chức Đảng, đoàn thể quần chúng, cơ quan thông tin đại chúng nhà trường và ngành chủ chốt y tế dân số. Phải phát huy lợi thế của từng kênh truyền thông và các loại hình truyền thông.
-Kênh trực tiếp là chủ yếu: Nhưng huyện Thạch Thành mới chỉ ưu tiên các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ, cần chý ý đến đối tượng chuẩn bị bước vào độ tuổi sinh đẻ, các đối tượng gây sức ép buộc phải sinh con trai như bố mẹ chồng, họ hàng nhà chồng…. Chú ý phân loại cho phù hợp với từng đối tượng: nam, nữ, người già, trẻ, cán bộ, nông dân, bộ đội.v.v. phù hợp với từng địa bàn, xã và vùng dân tộc ít người, vùng thiên chúa giáo ( đó là những vùng sinh đẻ còn quá nhiều ).
-Kênh truyền thông đại chúng: Báo nói, báo viết đã có chuyên mục thường xuyên, nhưng nội dung chưa phong phú, chưa hấp dẫn người xem, người nghe, còn nghèo nàn cần phải được bổ sung thêm cả về số lượng và chất lượng. Số lượng người dân trong huyện Thạch Thành thích xem chương trình dân số và phát triển đài truyền hình còn ít 15% và chỉ có 10% thích nghe chương trình qua đài phát thanh ( điều tra chọn mẫu). Con số này qúa ít, cần đưa tin, bài, phóng sự người thật, việc thật cho nhân dân trong huyện tin tưởng.
-Kênh dân gian và các loại hình văn hóa văn nghệ phải được chú ý, tuy đã có những số lượng đang còn ít, cần phải đầu tư cho kênh này cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt trong các kênh trên thì chú ý nhất phát triển loại hình: "dân nói trực tiếp với nhân" rất có hiệu quả.
Dù là kênh hay loại hình nào thì cũng cần chú trọng đến những xã có mức sinh cao như: Thành minh, Thành mỹ, Thành long, Thạch tượng, Thạch quảng….bởi vì đây hầu hết là các xã vùng cao, vùng dân tộc ít người sống và vùng thiên chúa giáo nên mức sinh còn rất cao, cao hơn gấp 3 lần mức sinh của toàn huyện. Những phương tiện thông tin còn nhiều hạn chế và nhận thức người dân ở vùng này còn quá thấp. Vì thế cần phải làm ngay và đồng bộ những văn hoá phẩm, băng hình video đến những xã này, tạo điều kiện cho người nông dân tiếp xúc với truyền thông dân số với những nội dung, hình thức đa dạng phong phú. Để hấp dẫn lôi cuốn lẫn đưa cả nội dung bảo vệ sức khoẻ bà mẹ trẻ em vào truyền thông Dân số kế hoạch hoá gia đình sẽ có sức thuyết phục lớn hơn.
Muốn tuyên truyền giáo dục dân số có hiệu quả cao, đương nhiên cần phải có tri thức dân số. Phải thường xuyên cung cấp thông tin cho các cán bộ lãnh đạo, thường xuyên đào tạo huấn luyện, tuyển chọn bổ sung và duy trì hoạt động của đội ngũ tuyên truyền về Dân số kế hoạch hoá gia đình ở cơ sở, về tận các bản, làng, thôn, xóm cả về số lượng và chất lượng. Đội ngũ này phải được bồi dưỡng đào tạo cả về khả năng nghiệp vụ cũng như lòng nhiệt tình.
-Các cấp uỷ Đảng thực sự là công tác giáo dục Đảng viên cán bộ để vừa gương mẫu thực hiện, vừa làm một tuyên truyền viên tích cực, tạo ra những chuyển biến mạnh mẽ trong quần chúng.
-Hội phụ nữ chuyên trách giới nữ 15 - 49 tuổi có chồng, vận động có hiệu quả phong trào giảm sinh con thứ 3, số người chưa sử dụng các biện pháp tránh thai.
-Đoàn thanh niên tập trung vào nhóm tuổi sắp lấy chồng, lấy vợ và mới kết hôn, chống tảo hôn và vận động có hiệu quả việc sinh con đầu lòng sau 22 tuổi.
-Hội nông dân phụ trách nam nông dân cần đưa vào hoạt động và phát triển.
-Các cơ quan truyền thông đại chúng cần duy trì được chuyên mục Dân số kế hoạch hoá gia đình, kịp thời đưa lên công luận việc hay người tốt và ngay cả việc chưa tốt, cần nêu những điển hình của đơn vị và gia đình, những lợi ích do Kế hoạch hoá gia đình mang lại, phê phán việc làm chưa tốt ảnh hưởng đến gia đình và cộng đồng.
3.Thực hiện các biện pháp tổ chức kỹ thuật chuyên môn.
Tạo điều kiện để áp dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật của y học trong nước và quốc tế vào việc hạn chế sinh đẻ. Hiện nay ở huyện Thạch Thành tỷ lệ sử dụng biện pháp đặt vòng là nhiều nhất 60% trong khi đó triệt sản là một biện pháp ít gây tai biến nhất trong tất cả các tai biến khác thì đạt hiệu quả lại ít nhất chỉ có 0,2%. Chúng ta muốn giảm vòng tránh thai vì số phụ nữ mắc bệnh phụ khoa còn nhiều. Chúng ta cũng hay nói về thuốc, bao cao su nhưng số liệu thực tế cho thấy tỷ lệ sử dụng biện pháp này còn rất thấp đặc biệt là lượng thuốc cấy. Thực hiện đa dạng hoá các phương tiện tránh thai, ngoài hệ thống y tế của Nhà nước, phải vận dụng hệ thống chuyên trách dân số ở cơ sở, hệ thống tuyên truyền viên ở các ngành, các đoàn thể, vào việc cung cấp các phương tiện tránh thai cần phải nâng cao tỷ lệ người sử dụng biện pháp tránh thai vĩnh viễn nhiều hơn.
-Phát triển sâu rộng hơn nữa hệ thống cung cấp các biện pháp tránh thai đến tận thôn, xóm, bản làng, đến từng hộ gia đình, cải thiện khả năng dễ kiếm các phương tiện tránh thai, giảm khoảng cách tới cơ sở y tế, cần thiết lập một độ cao các điểm cung cấp, giảm thời gian đi lại tới các điểm Kế hoạch hoá gia đình cho phép nhân viên y tế phân phối phương tiện tránh thai. Tổ chức việc cung ứng kịp thời và đầy đủ các phương tiện tránh thai, không được để xảy ra hiện tượng thiếu vòng, bao cao su, đồng thời cung ứng và phát triển một số kỹ thuật mới như cấy thuốc, đình sản nam, không dùng giao mổ, thành lập các đội phẫu thuật đình sản lưu động.
-Nâng cao chất lượng dịch vụ, chất lượng chăm sóc ngày càng xem là yếu tố quyết định quan trọng trong việc chấp nhận sử dụng liên tục các biện pháp tránh thai. Lưa chọn biện pháp thích hợp, đưa những thông tin cho khách hàng như: biện pháp sẵn có, hướng dẫn sử dụng, các tác dụng phụ có thể, tổ chức thực hiện dịch vụ.
- Nâng cao năng lực của người cung cấp khi thực hiện các dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình, khuyến khích duy trì sử dụng liên tục, bằng những cuộc gặp gỡ, thăm viếng duy trì tại nhà, khuyến khích sử dụng các biện pháp tránh thai hữu hiệu khi đã có hai con trở lên. Bởi vì với những biện pháp tránh thai có tính hữu hiệu trên 95% thì khả năng thất bại rất ít, rủi ro mang thai dẫn tới nạo hút thai hoặc sinh con ngoài ý muốn giảm đi, tổ chức nạo hút thai an toàn nhằm tránh sinh con ngoài ý muốn.
-Kiện toàn trung tâm bảo vệ và chăm sóc trẻ em Kế hoạch hoá gia đình huyện Thạch Thành. Củng cố hệ thống khoa sản, phòng sản thị trấn và các đội sinh đẻ ở các thôn, xóm, bản làng. Nâng cấp tất cả các trạm y các xã để làm tốt chức năng như một trung tâm Kế hoạch hoá gia đình cáp xã, đào tạo huấn luyện bồi dưỡng chuyên khoa phụ sản sinh đẻ kế hoạch cho các cán bộ chuyên khoa.
- Gắn dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình với truyền thông giáo dục, thực sự đưa nam giới vàocuộc, không những chỉ bằng sự ủng hộ vợ con mà bản thân phải sử dụng phương tiện tráng thai nam giới. Làm tốt việc tuyên truyền phòng chống và khám chữa bệnh phụ khoa cho phụ nữ, tiêm chủng mở rộng, phòng bệnh cho trẻ em
Lãnh đạo của Đảng và chính quyền các cấp là nhân tố quyết định sự thành bại, nơi nào, việc gì lãnh đạo quan tâm đúng mức thì nơi đó, việc đó đạt hiệu quả cao.Trong khi đó vai trò lãnh đạo chỉ đạo của Đảng và chính quyền các cấp chưa nhận thức đúng về dân số và phát triển nên chưa đầu tư thoả đáng công sức, trí tuệ, tiền của cho công tác này, nhất là ở xã vùng cao, vùng thiên chúa giáo…
-Nhiều xã còn chung chung, dừng lại ở chủ trương hoặc nêu ra những chỉ tiêu, tỷ lệ: thiếu khoa học, thiếu biện pháp để hoàn thành, vai trò Đảng viên cán bộ nhiều nơi thiếu gương mẫu. Vì vậy cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chính quyền các cấp, xây dưng và kiện toàn hệ thống làm công tác dân số Kế hoạch hoá gia đình các cấp các ngành, các đoàn thể, tập trung mạng lưới cơ sở để đủ năng lực tham gia quản lý điều hành điều phối và tổ chứcthực hiện chương trình. Lãnh đạo chủ chốt ở các cấp trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác dân số Kế hoạch hoá gia đình để tạo ra phong trào, huy động ngày càng mạnh mẽ các lực lượng trong toàn xã hội tham gia coi trương trình dân số Kế hoạch hoá gia đình như các chương trình kinh tế khác.
-Xây dựng củng cố phát triển mạng lưới làm công tác dân số -Kế hoạch hoá gia đình ở cơ sở để tuyên truyền vận động làm dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình và quản lý đối tượng sinh đẻ một cách chặt chẽ ở các bản làng, thôn xóm.
-Thường xuyên trang bị kiến thức nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống Dân số kế hoạch hoá gia đình, cán bộ chuyên trách dân số, cán bộ truyền thông và cán bộ dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình đủ năng lực, trình độ đủ số lượng để đảm đương những công việc trước mắt và lâu dài.
-Việc đào tạo phải được tiến hành nguyện vọng theo nguyên tắc từ dễ đến khó, đơn giản đến phức tạp, lý thuyết đi đôi với thực hành, có liên hệ áp dụng vào thực tiễn, kết hợp với nhiều hình thức như tập trung tại chức ngắn hạn, dài hạn, khuyến khích đào tạo người địa phương. Song song với tập trung đào tạo cán bộ cơ sở hàng năm phải tổ chức huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ chuyên trách cũng như kiêm nghiệm của các huyện, các ngành, các đoàn thể. Tuỳ theo yêu cầu của các ngành, đoàn thể mà phân công, việc phân công việc quản lý đào tạo theo chức năng của ngành. Nội dung tập huấn đào tạo phải đảm bảo tính khoa học và thực tiễn, tuỳ theo trình độ mà có nội dung phù hợp, sát với nhu cầu và chức năng, nhiệm vụ được giao. Định kỳ phải kiểm tra đánh giá kết quả đào tạo, tập huấn. Từ đó trở thành một ngành đủ mạnh cả về số lượng và chất lượng.
4.Thực hiện các biện pháp hành chính pháp luật.
Nam nữ kết hôn phải thực hiện theo đúng luật hôn nhân và gia đình. Nhưng cần tuyên truyền vận động nam 25 tuổi, nữ 22 tuổi hãy xây dựng gia đình và sinh con sau 22 tuổi. Đồng thời phải tự nguyện đăng ký cam kết thực hiện Kế hoạch hoá gia đình. Các cặp vợ chồng chưa có con hoặc 1 con đăng ký sử dụng các biện pháp tránh thai, cặp vợ chồng có con cam kết không sinh con thứ 3 hoặc vận động thực hiện thôi đi đẻ lâu dài.
Những người chấp nhận và thực hiện quy mô gia đình 1 hoặc 2 con hải được ưu tiên xét miễn giảm học phí, viện phí và được ưu tiên các chế độ khác nếu có. Cán bộ Đảng viên, cán bộ công chức, viên chức và các lực lượng vũ trang vi phạm sinh đẻ kế hoạch không được công nhận danh hiệu thi đua, không được bổ nhiệm đề bạt, không được tăng lương đúng kỳ hạn, không để ở cương vị lãnh đạo, nếu là cán bộ công nhân viên chức biên chế có thể chuyển sang làm hợp đồng ngắn hạn hoặc thôi việc. Đối với xã viên hợp tác xã vi phạm sinh đẻ kế hoạch thì có thể cắt ruộng khoán. Phải xử lý nghiêm minh và quy trách nhiệm cho đơn vị cá nhân vi phạm tảo hôn, thực hiện nghiêm túc việc đăng ký sinh, tử, kết hôn với chính quyền cơ sở.
Lấy Dân số kế hoạch hoá gia đình là một trong những nội dung bình xét thi đua của cá nhân cũng như đơn vị hàng kỳ, hàng năm. Tiêu chuẩn khen thưởng với ngành, đoàn thể, cơ quan, công nhân viên chức lấy 3 tiêu chuẩn chính: không đẻ con thứ 3, không đẻ dày, nữ không đẻ trước 22 tuổi.
Phải huy động tất cả các nguồn kinh phí viện trợ, trung ương, địa phương quản lý kinh phí theo kế hoạch thống nhất theo chương trình mục tiêu, phát huy cao nhất sự hợp tác giữa các cấp, các ngành, cơ quan đoàn thể. Quá trình tổ chức chỉ đạo thực hiện kế hoạch phải áp dụng hình thức quản lý theo chương trình có mục tiêu, có hợp đồng trách nhiệm, có sản phẩm, có thời hạn nhiệm thu và quyết toán.
Kiến nghị
Số liệu thống kê trên huyện Thạch Thành cho thấy dân số các dân tộc thiểu số tăng nhanh trong giai đoan qua. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này nhưng nguyên nhân trước hết là do tỷ lệ sinh cao. Nguyên nhân khác là việc thực thi chính sách Kế hoạch hoá gia đình ở các xã vùng cao chưa triệt để so với các xã khác. Chương trình Kế hoạch hoá gia đình đã đạt được kết quả khả quan ở các thị trấn và các xã vùng thấp nhưng mới chỉ có những tác động ban đầu tới các xã vùng núi cao. Chương trình Kế hoạch hoá gia đình tại xã vùng cao mới thực sự chỉ bất đầu được trú trọng và đẩy mạnh từ những năm giữa của thập kỷ 90, một số dân tộc vẫn còn duy trì chuẩn mực sinh cao và chưa hoàn toàn chấp nhận chương trình Kế hoạch hoá gia đình. Tuy nhiều dân tộc thiểu số đã ý thức được sự có mặt của chương trình Kế hoạch hoá gia đình và lợi ích của việc sinh ít con và chấp nhận chương trình Kế hoạch hoá gia đình một cách nhanh chóng hơn, có thái độ tích tới một chuẩn mực sinh thấp hơn. Có thể nói các dân tộc thiểu số đã có sự khác biệt đáng kể trong việc thay đổi hành vi sinh đẻ, cụ thể là việc chấp nhận chương trình Kế hoạch hoá gia đình và thái độ khác nhau tới việc hạ thấp chuẩn mực sinh cuả dân tộc mình.
Xét một cách tổng thể thì mức sinh của huyện Thạch Thành tỉnh Thanh hoá không phải là cao so với mức sinh của cả nước song trong điều kiện thực tế của huyện thì giảm mức sinh vẫn là điều cần thiết và thực sự cần thiết đối với các xã vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Nhưng để đạt được kết quả khả quan hơn nữa thì huyện Thạch Thành cần trú trọng hơn nữa tới công tác Dân số kế hoạch hoá gia đình, đặc biệt là các xã vùng cao. Cụ thể:
1.Cần hiểu rằng bà con dân tộc nhìn nhận mọi thứ căn cứ nhiều vào trực giác và họ rất tin tưởng ở các chương trình của Chính phủ. Giữ được niềm tin đó là điều tối thiểu và cần thiết vì vậy chương trình dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình nên triển khai một cách từ từ, chắc chắn đảm bảo đem lại kết quả ở những nơi đã triển khai. Điều này phụ thuộc vào nhiều thứ nhưng trước hết là tuỳ thuộc vào số cán bộ, cộng tác viên có thể có được tại mỗi khu vực. Việc phát động các chiến dịch nên được cân nhắc kỹ lưỡng về hiệu quả cũng như việc đảm bảo đầy đủ, ổn định các dịch vụ tiếp theo sau chiến dịch.
2.Việc phát triển các hoạt động chăm sóc sức khoả sinh sản là rất cần thiết cho các bà con dân tộc nhưng hiện đang chưa được quan tâm đúng mức. Các hoạt động Kế hoạch hoá gia đình cần triển khai đồng thời với các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ dân tộc và điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả chương trình.
3.Hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và Kế hoạch hoá gia đình nên được xây dựng lại với sự trú trọng vào cấp bản và thôn. Điều này cho phép giải quyết những yêu cầu y tế ban đầu kết hợp với dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình. Khó khăn lớn chính là việc tuyển mộ và huấn luyện đội ngũ cán bộ và cộng tác viên tại chỗ người dân tộc vào công việc này nên được coi là nhiệm vụ trọng tâm của chương trình trong 3 năm đầu.
Hệ thống y tế tư nhân rất tích cực vì vậy hoạt động này cần dược khuyến khích chứ không nên bị cấm đoán đồng thời quy chế kiểm tra và kiểm soát các dịch vụ y tế nên được xây dựng. Sự cạnh tranh của y tế tư nhân với y tế công sẽ có lợi trong việc nâng cao tinh thần phục vụ của các cán bộ y tế công cũng như cho phép các định hướng nhằm vào cá nhóm dân số bị thiệt thòi được quan tâm hơn. Trước mắt, cần bảo đảm mức thu nhập tối thiểu để có thể chấp nhận được cho cán bộ y tế Kế hoạch hoá gia đình và nâng cao kỹ thuật ngành với một quyết tâm cao.
4.Nhà nước nên xây dựng các chương trình phát triển kinh tế, xã hội tính tới quyền lợi của các nhóm dân tộc thiểu số. Nâng cao thu nhập của người dân tộc nên được coi là vấn đề ưu tiên hàng đầu cho việc phát triển.
5.Xét về từng dân tộc, các nhóm dân tộc còn bị thiệt thòi rất nhiều tuy mức đọ khác nhau so với từng dân tộc, có dân tộc bị thiệt thòi hơn, có dân tộc nhiều tệ nạn hơn. Dầu sao những dân tộc này thực sự là dân tộc thiểu số. Những dân tộc này có những nét văn hoá riêng biệt khác hẳn với những nét văn hoá chung của cả nước. Những dân tộc này với tiếng nói, ngôn ngữ riêng là dân tộc sống nghèo khổ đa số có trình độ văn hoá thấp. Họ thường bị tụt lại sau tiến trình phát triển do đó những cố gắng để đem lại dịch vụ y tế và Kế hoạch hoá gia đình cho họ và thúc đẩy mọi phương thức chăm sóc sức khoẻ có kết quả hơn còn đang gặp phải rất nhiều khó khăn.
6.Truyền thông đại chúng cho những nhóm dân tộc thiểu số hiện đang gặp phải một số trở ngại nên chưa thể phát huy hiệu quả tiềm năng to lớn từ nó, những khó khăn này là:
-Mức độ rất hạn chế về tiếng phổ thông và trình độ văn hoá rất thấp đặc biệt là phụ nữ.
-Thiếu hụt rất lớn những tài liệu, ấn phẩm truyền thông.
-Thiếu hụt sách, báo, tài chính tại các khu vực khảo sát.
-Thiếu hụt đài, Tivi một số xã không có phủ sóng Tivi hoặc chất lượng phủ sóng rất kém.
-Mức độ sử dụng truyền thông đại chúng còn rất hạn chế, chưa có sự thay đổi do còn có nhiều sức ì cản trở nên cần có nhiều nỗ lực để thay đổi.
-Chỉ có những thông điệp truyền thông trong giai đoạn đầu sẽ có tác động yếu kém nếu như thiếu sự củng cố từ những hoạt động truyền thông theo hình thức giao tiếp cá nhân và các dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình.
Do đó sẽ là hữu hiệu nếu có những hình thức tuyên truyền có chọn lựa đối với đa số người Kinh sống trong khu vực và những nhóm dân tộc thiểu số thành thạo tiếng phổ thông biết đọc, viết hoặc là có thể tiếp cận dễ dàng tới kênh truyền thông đại chúng phổ biến là đài và Tivi. Tuy vậy đối với dân tộc có hạn chế về tiếng phổ thông và trình độ văn hóa thấp, hơn nữa lại không thể tiếp cận một cách thường xuyên tới đài và tivi thì lại phải có một cách tiếp cận hoàn toằn khác để có thể tạo ra thay đổi thực sự trong nhận thức và hành vi của họ.
Hoạt động truyền thông đóng một vai trò chủ chốt trong việc định hướng thái độ của người dân do đó chương trình truyền thông cần phải có những cải thiện về cả nội dung, đối tượng lẫn phương thức truyền thông cho các nhóm dân tộc thiểu số nhằm tác động mạnh hơn nữa để có thể thay đổi triệt để thái độ văn hoá về chuẩn mực sinh phù hợp với chính sách dân số của Nhà nước. Đối với những dân tộc có hạn chế về tiếng phổ thông và trình độ văn hoá thấp, hơn nữa lại không thể tiếp cận một cách thường xuyên tới đài và tivi cần thiết mộtcách tiếp cận hoàn toàn khác để có thể tạo ra một sự thay đổi thực sự trong nhận thức và hành vi của họ. Sự khó khăn nhất là khả năng giao tiếp bằng tiếng phổ thông và chữ viết phổ thông rất khó khăn do vậy hoạt động truyền thông đại chúng phải rất đơn giản dễ hiểu và chủ yếu dựa vào hình ảnh cho các dân tộc tương đối kém phát triển hơn cũng như nên có các chương trình truyền thanh băng tiếng dân tộc với những thông tin phong phú để áp dẫn người nghe.
7.Nếu như đối với dân tộc thiểu số vùng cao truyền thông đại chúng chưa thể đem lại hiệu quả mong muốn thì hình thức tiếp cận trực tiếp lại càng đóng một vai trò thiết thực hơn.
ở cấp độ thôn bản điều này có ý nghĩa là cần thiết phải hỗ trợ cho mạng lưới cộng tác viên sinh sống tại các thôn bản như để họ được hưởng một khoản trợ cấp của Uỷ ban quốc gia Dân số kế hoạch hoá gia đình hàng tháng để làm công việc không thường xuyên hàng ngày là vận động Kế hoạch hoá gia đình và cung cấp bao cao su. Do hiện nay khoản trợ cấp quá ít ỏi và huấn luyện không đầy đủ nên đội ngũ này không ổn định và nhiều xã còn thiếu cộng tác viên để có thể phủ khắp trên một địa bàn các thôn bản. Tuy nhiên nếu không có được một sự củng cố thực sự thì hiệu quả của mạng lưới cộng tác viên sẽ rất hạn chế. Sự củng cố này có thể bao gồm: tăng cường số cộng tác viên ở các xã có địa bàn rộng và số lượng thôn bản nhiều như Thạch lâm, tăng trợ cấp cho cộng tác viên hoặc có những hình thức khuyến khích vật chất để tăng lòng nhiệt tình của các cộng tác viên và có chương trình đào tạo, giám sát thường xuyên. Tại các địa bàn thiếu những kênh truyền thông đại chúng như xã Thạch tượng thì cộng tác viên dân số là người thực hiện giao tiếp trực tiếp với người dân (bao gồm cả trong các cuộc họp thôn bản) và họ là những tác nhân kích thích liên tục khuyến khích việc chấp nhận Kế hoạch hoá gia đình của người dân.
8.Việc cải thiện trạm y tế xã cần bao gồm việc nâng cấp cơ sở hạ tầng trang thiết bị và cả chất lượng lẫn số lượng nhân viên y tế, tóm lại là các trạm y tế vùng núi, vùng cao cần có một sự cải tạo căn bản để có thể có một dịch vụ có chất lượng hơn. Tuy nhiên cũng cần phải đề cập thêm ở đây là khoảng cách giữa các thôn bản tới trạm y tế xã và những khó khăn về đường xá và phương tiện giao thông sẽ vẫn là vấn đề lớn cản trở việc tiếp cận cuả người dân tới các dịch vụ y tế và Kế hoạch hoá gia đình.
9.Các đội dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình của huyện vẫn đóng một vai trò chủ chốt trong việc cung cấp các dịch vụ Kế hoạch hoá gia đình và chăm sóc sức khoẻ tại các vùng cao, tuy nhiên hệ thống này vẫn cần được nâng cấp đầu tư về một số mặt như tăng cường về chuyên môn và đội ngũ cán bộ dịch vụ để có lịch trình tới từng xã để thường xuyên hơn, mở rộng loại hình và đối tượng dịch vụ, tăng cường các hoạt động dịch vụ tức thời. Những phụ nữ được hỏi đã đề cập đến vai trò rõ ràng của các đội dịch vụ di động, nhưng cũng đề cập đến việc chậm trễ khi phải chờ đợi thời điểm dịch vụ đến địa bàn.
10.Về các biện pháp tránh thai, vấn đề đa dạng hoá các hình thức tránh thai cần được mở rộng và tăng cường. Rất nhiều phụ nữ được phỏng vấn tăng cường về tác dụng phụ của vòng tránh thai và có kiến thức sai lệch về một số biện pháp tránh thai khác. Phụ nữ của các nhóm dân tộc thiểu số này không nhận được nhiều kiến thức về các biện pháp tránh thai và không có tư vấn hoặc làm yên lòng người sử dụng hoặc tạo lòng tin cho người đang có nhu cầu sử dụng. Dư luận xung quanh tác dụng phụ của các biện pháp tránh thai hiện đại đã ngăn cản và làm nản lòng một số cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy việc đa dạng hoá các biện pháp tránh thai hiện đại tạo nhiều thuận lơị cho các cặp vợ chồng lựa chọn được một biện pháp tránh thai thích hợp.
Làm cách nào để có thể đa dạng hoá được các biện pháp tránh thai?. ở đây cần phải có sự cải thiện đồng bộ hệ thống cung cấp: mạng lưới cộng tác viên sẽ có thể là nguồn cung cấp thường xuyên các biện pháp phi lâm sàng (bao cao su và cả thuốc nếu có được tập huấn cơ bản). Trạm y tế xã nếu được nâng cấp về chất lượng sẽ có thể thực hiện được các biện pháp tránh thai lâm sàng như đặt vòng và dịch vụ nạo hút thai. Các đội dịch vụ và Kế hoạch hoá gia đình có thể cung cấp dịch vụ tại mỗi xã thường xuyên hơn. Hơn nữa việc cung cấp các biện pháp tránh thai phi lâm sàng cần được thường xuyên và bảo đảm hơn - thí dụ việc giảm số lượng cung cấp bao cao su cho đối tượng sử dụng đưa lại ấn tượng tại một địa phương là nguồn cung cấp bao cao su thiếu hụt việc này dường như mang ẩn ý là người sử dụng cần sử dụng kết hợp bao cao su với biện pháp tránh thai truyền thống.
11.Từng bước nâng cao địa vị của người phụ nữ, để thực hiện sự cải thiện địa vị phụ nữ các dân tộc thiểu số cần phải chú ý tới việc thay đổi về chất trong việc giảm nhẹ gánh nặng công việc nâng cao khả năng giao tiếp trình độ họcvấn và các điều kiện hưởng thụ văn hoá cho phụ nữ và cho cả cộng đồng dân cư miền núi.
Kết luận.
Từ biệt thế kỷ 20, chào đón thế kỷ 21, nhân loại vừa chàn chề hy vọng, vừa hồi hộp lo lắng…Hy vọng về sự phát triển khoa học công nghệ, hy vọng về xu hướng toàn cầu hoá kinh tế dẫn đến sự giàu có phồn vinh hơn thế kỷ 20. Còn lo lắng cũng có nhiều như sự cạn kiệt về tài nguyên thiên nhiênvà suy thoái về môi trường, sự bùng nổ về dân số,những hậu quả về dân số khó lường khi kinh tế chuyển sang thời kỳ hậu công nghiệp…
Qua thời gian 3 tháng thực tập tại huyện Thạch Thành tỉnh Thanh hoá,với mục đích đi vào nghiên cứu mức sinh của huyện Thạch Thành nói chung và của các xã vùng cao của huyện Thạch Thành nói riêng em đã đi sinh sâu vào "Phân tích tình hình sinh đẻ và những biện pháp chủ yếu nhằm ổn định mức sinh của huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá". Luận văn đã hoàn thành với sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo, các cán bộ của Phòng lao động - Thương binh xã hội huyện Thạch Thành tỉnh Thanh hoá và sự nỗ lực của bản thân.
Luận văn đi sâu vào phân tích tình hình sinh đẻ của huyện huyện Thạch Thành, một yếu tố quan trọng làm gia tăng dân số trong những năm qua. Và đề ra một số biện pháp chủ yếu nhằm ổn định mức sinh, giảm sự gia tăng dân số ở huyện Thạch Thành tỉnh Thanh Hoá.
Với kiến thức hiểu biết có hạn của sinh viên, bài viết nhất định còn rất nhiều thiếu sót. Em rất mong được sự quan tâm giúp đỡ và chỉ bảo của các thầy, cô giáo trong khoa Lao động và dân số trường Đại học Kinh tế quốc dân . Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29804.doc