lời nói đầu
Cùng với công cuộc đổi mới toàn diện do Đại hội VI Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, nền kinh tế nước ta đang dần chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau phải chuyển mình thay đổi hoàn toàn để thích nghi với môi trường và không ngừng đi lên. Để đạt được điều đó, doanh nghiệp phải đáp ứng được những đòi hỏi, những yêu cầu của thị trường, mà một trong những điều kiện
63 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1433 | Lượt tải: 1
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình lợi nhuận và các giải pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty điện máy - Xe đạp - xe máy Bộ Thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bức bách đó là hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải thu được lợi nhuận.
Trong cơ chế thị trường, lợi nhuận là đòn bẩy nền tảng cho sự mục tiêu và phát triển của doanh nghiệp. Lợi nhuận là đòn bẩy kinh tế, là mục tiêu hàng đầu, là đích cuối cùng mà tất cả các doanh nghiệp đều vươn tới.
Công ty Điện máy - xe đạp, xe máy( TODIMAX) là một doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại. Cũng như mọi doanh nghiệp Nhà nước khác khi chuyển mình sang nền kinh tế thị trường, công ty đã gặp phải rất nhiều khó khăn. Nhưng với sự cố gắng, quyết tâm của ban Giám đốc, cùng toàn thể cán bộ công nhân viên, công ty đã vượt qua những khó khăn, dần đi vào hoạt động ổn định, có hiệu quả, lợi nhuận hàng năm được nâng cao, đời sống cán bộ công nhân viên được cải thiện rõ rệt và đóng góp ngày càng nhiều cho ngân sách nhà nước. Để tiếp tục duy trì và nâng cao lợi nhuận, đòi hỏi công ty phải thiết lập kế hoạch, định hướng phát triển và đề ra các biện pháp cụ thể phù hợp với điều kiện công ty và thích ứng với thị trường. Trong các hoạt động của mình bao giờ doanh nghiệp cũng phải cân nhắc, tính toán các khả năng tốt hay xấu có thể xảy ra, và kết quả các hoạt động đó như thế nào,.. Nhưng công việc như vậy chính là phân tích kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp. Phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng trong phân tích hoạt động kinh doanh. Mục đích của việc phân tích nhằm giúp cho các nhà quản lý có một cái nhìn tổng quát về tình hinhf hoạt động của doanh nghiệp, thấy được những mặt được và còn tồn tại trong đó. Từ đó phân tích đánh giá các nguyên nhân khách quan cũng như chủ quản để đề ra những chính sách, biện pháp rút kinh nghiệm trong những lần tiếp sâu nhằm đem lại hiệu quả cao.
Nhận thức tầm quan trọng của việc phân tích lợi nhuận từ đó có những biện pháp nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp thương mại, trong thời gian thực tập tại Công ty điện máy - xe đạp - xe máy, được sự giúp đỡ của thầy giáo Tạ Quang Bình, gaỉng viên trường Đại học Thương mại, và sự hướng dẫn tận tình của các cô chú trong phòng kế toàn - tài chính, kết hợp với những kiến thức đã tiếp thu trong quá trình học tập tại trường em đã đi sâu nghiên cuứu đề tài: “Phân tích tình hình lợi nhuận và các giải pháp nâng cao lợi nhuận tại Công ty điện máy - xe đạp - xe máy Bộ Thương Mại”.
Bao gồm 3 phần
Chương 1. Lý luận chung về lợi nhuận và phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Chương 2. Phân tích tình hình lợi nhuận kinh doanh tại Công ty Điện máy - xe đạp - xe máy
Chương 3. Một số giải pháp góp phần nâng cao lợi nhuận tại Công ty Điện máy - xe đạp - xe máy.
chương i
lý luận chung về lợi nhuận và và phân tích lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
1.1. Lợi nhuận, phân loại lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
1.1.1. Khái niệm lợi nhuận.
Bất cứ nền sản xuất xã hội nào cũng phải tính toán hao phí lao động xã hội bỏ ra và kết quả sản xuất thu được. Do yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội cho nên nhất thiết không thể cứ sản xuất với bất cứ giá nào, không cần biết lỗ hay lãi. Một nền sản xuất chỉ tồn tại và phát triển khi có tích luỹ. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay thì nội dung và mục đích của tích luỹ là sử dụng có kế hoạch một bộ phận thu nhập quốc dân để phát triển và mở rộng lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực không sản xuất của nền kinh tế xã hội cũng như để hình thành nguồn dự trữ vật tư, tài chính. Xét về bản chất, tích luỹ là sử dụng một phần của cải xã hội tạo ra để tái đầu tư vào các yếu tố sản xuất nhằm tăng quy mô và năng lực của nền kinh tế. Chính vì vậy, không thể sản xuất với bất cứ giá nào không cần biết sản xuất lãi hay lỗ mà sản xuất là phải có tích luỹ phải có lợi nhuận.
Lợi nhuận là chỉ tiêu tổng quát đánh giá hiệu quả họat động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kì nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, có nhiều đối tượng quan tâm tới kết quả kinh doanh - lợi nhuận của doanh nghiệp, do đó tồn tịa nhiều quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Xét trên các góc độ khác nhau ta có các khái niệm khác nhau về lợi nhuận như sau:
Các nhà kinh tế cổ điển trước Mark cho rằng; cái phần trôi lên nằm trong giá bán so với chi phí sản xuất gọi là lợi nhuận.
Mark khi lí luận về giá trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản, cho rằng; "giá trị thặng dư hay phần trội lên nằm trong toàn bộ giá trị của hàng hoá, trong đó lao động thặng dư hay lao động không được trả công của công nhân đã được vật hoá thì tôi gọi là lợi nhuận "
Các nhà kinh tế học hiện đại, mà đại diện là David - Beggs, Samuelson lại cho rằng: lợi nhuận là khoản thu thập dôi ra, bằng tổng số thu về trừ đi tổng số chi ra hay cụ thể hơn lợi nhuận được định nghĩa một cách đơn giản là: sự chênh lệch giữa tổng thu nhập và tổng chi phí của một doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Các khái niệm trên tuy được phát triển káhc nhau song chúng đều có một điểm chung là họ đều cho rằng lợi nhuận là số thu dôi ra so với chi phí đã bỏ ra. Đó chính là bản chất của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. Do đó chúng ta có thể hiểu lợi nhuận chính là mức chênh lệch giữa doanh thu tiêu thụ hàng hoá so với chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Việc nắm bắt được bản chất của lợi nhuận có ý nghĩa quan trọng, giúp nhà quản trị đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình và từ đó có các biện pháp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.1.2. Phân loại lợi nhuận.
Trong nền kinh tế thị trường với cơ chế hoạch toán kinh doanh, phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, đồng thời để có thể tối đa hoá được lợi nhuận doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã đầu tư vào nhiều hoạt động thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy lợi nhuận thu được cũng đa dạng theo phương thức đầu tư của doanh nghiệp. Kết cấu lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại bao gồm:
- Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh chính: Theo phân công lao động xã hội, chức năng chủ yếu của doanh nghiệp thương mại là mua bán, trao đổi hàng hoá, cung cấp các dịch vụ nhằm đưa hàng hoá từ sản xuất đến tiêu dùng. Vì vậy hoạt động kinh doanh cơ bản của doanh nghiệp thương mại là tổ chức lưu chuyển hàng hoá, lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh chính được hình thành từ việc thực hiện chức năng và nhiệm vụ chủ yêú của doanh nghiệp. Những nhiệm vụ này được nêu trong quyết định thành lập doanh nghiệp. Bộ phận lợi nhuận này chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh phụ: Những hoạt động doanh nghiệp được tiến hành ngoài chức năng, nhiệm vụ chủ yếu được giao nhầm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, sức lao động và các yếu tố vật tư kỹ thuật… Các hoạt động này nhằm hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh chính như: sản xuất, gia công, chế biến… và làm tăng thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Ngoài lĩnh vực sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp còn có thể tham gia vào hoạt động tài chính. Hoạt động tài chính là những hoạt động liên quan đến việc đầu tư vốn ra bên ngoài doanh nghiệp như: góp vốn liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, hoạt động mua bán tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu, cho thuê tài sản, lãi tiền gửi, lãi cho vay khác nguồn vốn kinh doanh và quỹ… các khoản lợi nhuận thu được từ hoạt động này cũng góp phần lớn vào việc làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Lợi nhuận bất thường: Đó là khoản lãi thu được từ các hoạt động (nghiệp vụ) riêng biệt khác ngoài những hoạt động nêu trên. Những khoản lãi này phát sinh không thường xuyên, doanh nghiệp không thể dự kiến trước được. Lợi nhuận từ hoạt động này bao gồm: lợi nhuận các khoản phải trả không có chủ nợ, thu hồi các khoản nợ khó đòi được duyệt bỏ: các khoản thu từ bán vật tư, tài sản thừa sau khi đã bù trừ hao hụt, mất mát lãi thu từ nhượng bán, thanh lí tài sản, tiền được phạt, được bồi thường.
Vậy nói chung tổng lợi nhuận của doanh nghiệp thương mại được tạo thành từ bốn bộ phận trên. Tuy nhiên tỉ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong tông lợi nhuận có sự khác nhau trong các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác và các môi trường kinh tế khác nhau. Nhưng nhìn chung lợi nhuận hoạt động kinh doanh kinh doanh (lợi nhuận hoạt động kinh doanh chính và phụ) luôn chiếm tỉ trọng cao và có ý nghĩa quyết định trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp.
Việc xem xét kết cấu lợi nhuận doanh nghiệp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, cho ta thấy được những khoản mục nào tạo nên lợi nhuận và tỉ trọng của từng khoản mục trong tổng lợi nhuận, từ đó có thể xem xét đánh giá kết quả từng hoạt động để tìm ra và phát huy các mặt tích cực cũng như khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực góp phần giúp doanh nghiệp đề ra quyết định thích hợp nhằm nâng cao hơn nữa lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.1.3. Vai trò của lợi nhuận và ý nghĩa của việc nâng cao lợi nhuận.
Hiện nay và hơn bao giờ lợi nhuận đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, lợi nhuận không chỉ có vai trò đối với người lao động, với doanh nghiệp mà còn với cả với toàn xã hội. Để thấy được điều này ta hãy xem xét vai trò của nó đối với từng đối tượng.
Với người lao động
Lợi nhuận là nguồn cơ bản để doanh nghiệp thể hiện sự quan tâm của mình với người lao động. Lợi nhuận là nguồn vốn để trích lập các quỹ phục lợi, quỹ khen thưởng, giải quyết các nhu cầu xã hội của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Nguồn vốn để trích lập các quỹ này càng lớn thì doanh nghiệp càng có điều kiện nâng cao đời sống tinh thần cũng như vật chất cho cán bộ công nhân viên và từ đó khích lệ họ hăng say trong công tác, nâng cao tính chủ động sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính vì thế, việc sản xuất có lãi ngày càng cao chẳng những là yêu cầu, là cơ sở của tái sản xuất mở rộng mà còn là quyết lợi thiết thực của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp.
Thực tiễn đã chứng minh việc áp dụng tiền thưởng bằng lợi nhuận đã khuyếch khích công nhân hăng say lao động, giảm bớt ngày nghỉ việc, có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm, đặc biệt thúc đẩy việc tăng năng suất lao động, cải tiến kỹ thuật, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu để hạ giá thành.
Với doanh nghiệp.
Mục tiêu của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là lợi nhuận và tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận là cỉh tiêu chất lượng tổng hợp nói lên kết quả cuối cùng của toàn bộ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp với tư cách là một nhà đầu tư, một nhà kinh doanh bỏ vốn ra nhằm thu được lợi nhuận tối ưu nhất. Lợi nhuận đã trở thành động cơ, mục đích của nhà đầu tư. Vì thế lợi nhuận có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vai trò đó được thể hiện như sau:
+ Lợi nhuận là nguồn tích luỹ quan trọng để doanh nghiệp bổ sung vốn kinh doanh tạo điều kiện để doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Bởi vì có lợi nhuận thì mới có thể trích lập các quỹ trong doanh nghiệp như khuyến khích phát triển sản xuất, quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi… Từ các quỹ này, doanh nghiệp có thể bổ sung vốn lưu động, vốn cố định khi điều kiện sản xuất kinh doanh đòi hỏi. Và cũng chính từ các quỹ này, doanh nghiệp có điều kiện không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên về mọi mặt, góp phần kích thích người lao động gắn bó với doanh nghiệp để thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.
+ Lợi nhuận đạt được cao hay thấp sẽ tác động trực tiếp đến khả năng thanh toán, có lợi nhuận doanh nghiệp mới có điều kiện thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước thông qua thuế và các khoản nộp. Lợi nhuận là khoản tài chính để doanh nghiệp trang trải các khoản thua lỗ trước kia hay những khoản bị phạt do vi phạm hợp đồng kinh tế.
Một doanh nghiệp làm ăn thua lỗ không đủ sức tái sản xuất giản đơn (bù đắp những hao phí trong quá trình sản xuất), thì tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ xấu đi và hạn chế dần khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngược lại, doanh nghiệp làm ăn có lãi thu được lợi nhuận cao thì không những có khả năng thanh toán vững chắc mà còn có điều kiện không ngừng nâng cao uy tín của doanh nghiệp, không ngừng đổi mới máy móc thiết bị, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào hoạt động sản xuất kinh doanh giúp cho doanh nghiệp làm ăn ngày càng có hiệu quả và đứng vững trong cạnh tranh.
Đối với nền sản xuất xã hội:
Lợi nhuận là tiền đề của tái sản xuất mở rộng của xã hội vì lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong tích luỹ xã hội. Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp kinh doanh phải có lãi, đem lại lợi nhuận ngày càng cao phục vụ tái sản xuất mở rộng với quy mô lớn và tốc độ nhanh.
Lợi nhuận là nguồn thu quan trọng của ngân sách Nhà nước nhằm thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế quốc dân, là nguồn vốn để củng cố và tăng cường tiềm lực quốc phòng, duy trì bộ máy hành chính, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân.
Lợi nhuận còn có vai trò to lớn đối với sự tăng trưởng của doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung. Chúng ta đã biết rằng nền kinh tế tăng nhanh hay chậm phụ thuộc vào tích luỹ, quy mô tích luỹ quyết định quy mô tăng trưởng. Vì vậy doanh nghiệp muốn tăng trưởng nhanh thì phải làm ăn có hiệu quả nghĩa là tạo được nhiều lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp làm ăn có lợi nhuận thì kinh tế mới tăng trưởng.
Vai trò của lợi nhuận đối với sự phát triển của một doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung là rất quan trọng và cần thiết. Đặc biệt là trong điều kiện của nền kinh tế Việt Nam hiện nay khi mà nền kinh tế thị trường ảnh hưởng sâu sắc đến mọi thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp, mọi nhà đầu tư, mọi tầng lớp người lao động, khi mà khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển thì lợi nhuận là điều kiện tồn tại và phát triển, là sự sống còn của doanh nghiệp, cho nên doanh nghiệp đều mong muốn có lợi nhuận và phấn đấu tăng được nhiều lợi nhuận hơn nữa.
Trong thời kỳ bao cấp, sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp quốc doanh dựa vào sự bao cấp mọi mặt của nhà nước. Vốn đầu tư là do Nhà nước cấp phát toàn bộ, doanh nghiệp không phải lo lắng tìm nguồn vốn nào, sử dụng ra sao để có hiệu quả, lỗ đã có Nhà nước bù. Vì thế trong thời kỳ này doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém năng động, không quan tâm đến hiệu quả, động lực kích thích bị thui chột, tình trạng thua lỗ kéo dài. Tình trạng lãi giả lỗ thật là hình ảnh của doanh nghiệp trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Thực tiễn lợi nhuận chưa trở thành vấn đề sống còn quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế nước ta có những chuyển biến mạnh mẽ bởi việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, định hướng nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của Nhà nước thì hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng có sự thay đổi. Để đưa nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói riêng dần dần đi vào kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính sách kinh tế nhằm cải thiện, đổi mới môi trường kinh doanh, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng trước pháp luật. Vì vậy, lợi nhuận đã trở thành nhiệm vụ quan trọng, là sự sống còn của doanh nghiệp. Trong điều kiện hiện nay, việc phấn đấu tăng lợi nhuận ở các doanh nghiệp ngày càng trở nên cấp bách vì những lý do sau:
Thứ nhất: Khác với trước đây doanh nghiệp kinh doanh trong cơ chế hành chính bao cấp, mọi nhu cầu về vốn kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước đều được Nhà nước tài trợ. Vì vậy, lợi nhuận chưa trở thành lợi ích thiết thân của các doanh nghiệp. Chuyển sang cơ chế mới, Nhà nước không còn bao cấp đối với các doanh nghiệp, các doanh nghiệp phải tự cấp phát tài chính cho mọi nhu cầu kinh doanh của mình. Vì vậy, lợi nhuận không những trở thành mục đích trợ thân của các doanh nghiệp mà còn là động lực trực tiếp đối với các doanh nghiệp.
Thứ hai: Hoạt động trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần các doanh nghiệp vừa hợp tác, vừa cạnh tranh lẫn nhau. Những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ có điều kiện tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh. Ngược lại các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ sẽ không có điều kiện đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm… dẫn đến sản xuất trì trệ. Nếu tình trạng này kéo dài có thể doanh nghiệp sẽ đi đến phá sản. Vì thế lợi nhuận đã trở thành điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp.
Thứ ba: Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong điều kiện phải đối mặt với thị trường, sản phẩm của doanh nghiệp chỉ được thị trường chấp nhận nếu chất lượng cao và giá bán hạ. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật hiện nay, chất lượng sản phẩm chỉ được quyết định ở trình độ kỹ thuật và công nghệ sử dụng, điều này đòi hỏi một quy mô đầu tư khá lớn… lợi nhuận trở thành nguồn tài chính quan trọng để đáp ứng nhu cầu đầu tư vốn cho đổi mới kĩ thuật và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm.
Trong những năm gần đây, do định hướng đúng, nhìn chung các doanh nghiệp đã nhìn nhận kịp thời thực trạng cũ nát, lạc hậu của máy móc thiết bị, áp dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Chính vì vậy mà trong những năm qua, các doanh nghiệp nói chung ở nước ta đã và đang đi vào làm ăn có hiệu quả. Thực tế đó cho thấy dù gặp muôn vàn khó khăn trong quá trình tiếp nhận và hoà nhập vào cơ chế kinh tế mới, một số doanh nghiệp không những đứng vững mà đã phát triển với vị trí vững chắc trong nền kinh tế thị trường, đóng góp cho công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều doanh nghiệp làm ăn không có lãi, thậm chí thua lỗ dẫn đến phá sản và giải thể.
Như vậy qua xem xét tình hình thực hiện lợi nhuận của các doanh nghiệp nước ta trong thời gian qua, một lần nữa ta khẳng định lợi nhuận và việc nâng cao lợi nhuận là điều kiện cần thiết trong các doanh nghiệp.
1.2. Các phương pháp cơ bản xác định lợi nhuận và phân tích lợi nhuận
1.2.1. Phương pháp xác định lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Trong nền kinh tế thị trường, để tăng cường khả năng cạnh tranh thu nhiều lợi nhuận, các doanh nghiệp thường có xu hướng tiến hành đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, lợi nhuận doanh nghiệp có thể thu được từ các hoạt động khác nhau như: hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường, tổng lợi nhuận sẽ là tổng hợp lợi nhuận từ các hoạt động đó.
= + +
ã Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh: Là khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đã tiêu thụ trong năm tài chính của doanh nghiệp.
= -
Trong đó:
Doanh thu thuần là số chênh lệch giữa tổng doanh thu với các khoản giảm trừ.
- Tổng doanh thu (thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh) có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nó đảm bảo trang trải các khoản chi phí, thực hiện tái sản xuất và thực hiện các nghĩa vụ với Nhà nước. Doanh thu bán hàng là nguồn thu quan trọng chủ yếu trong tổng nguồn thu từ hoạt động kinh doanh. Đó là toàn bộ tiền thu về tiêu thụ sản phẩm và cung ứng dịch vụ cho khách hàng, sản phẩm được xác định là tiêu thụ khi được đơn vị mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền.
- Các khoản giảm trừ:
+ Giảm giá hàng bán: là số tiền giảm trừ cho khách hàng ngoài hoá đơn hay hợp đồng cung cấp dịch vụ do các nguyên nhân đặc biệt như kém phẩm chất, không đúng quy cách, giao hàng không đúng thời gian, địa điểm ghi trong hợp đồng… (do chủ quan của doanh nghiệp). Ngoài ra, tính vào các khoản giảm giá còn bao gồm các khoản thưởng cho khách hàng do trong một thời gian nhất định đã tiến hành mua một lượng lớn hàng hoá (hồi khấu) và khoản giảm trừ trên giá bán thông thường vì mua khối lượng lớn hàng hoá trong một đợt.
+ Hàng bán bị trả lại: Là số hàng được coi là tiêu thụ (đã chuyển quyền sở hữu, đã thu tiền hay được người mua chấp nhận trả tiền) nhưng bị người mua từ chối trả lại do người bán không thực hiện đúng hợp đồng đã kí kết.
+ Thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu: Là các loại thuế theo luật định, áp dụng cho các loại hàng hoá thuộc phạm vi chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá.
Giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm giá thành sản xuất và các khoản chi phí gián tiếp như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Giá thành sản xuất sản phẩm (giá vốn hàng bán): Là biểu hiện bằng tiền toàn bộ chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm.
- Chi phí bán hàng: bao gồm các chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng, chi phí đóng gói, bảo quản… khấu hao TSCĐ, chi phí vật liệu bao bì, chi phí bảo hành quảng cáo…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm các chi phí quản lý kinh doanh, quản lý hành chính và các chi phí chung khác có liên quan tới toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc và nhân viên quản lý ở các phòng ban, chi phí vật liệu dùng cho văn phòng, khấu hao TSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp…
Như vậy lợi nhuận doanh nghiệp từ hoạt động kinh doanh được xác định như sau:
Lợi nhuận = - -
ã Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Là số chênh lệch giữa thu nhập hoạt động tài chính và chi phí hoạt động tài chính.
= -
Trong đó:
- Thu nhập hoạt động tài chính: Là khoản thu do hoạt động đầu tư tài chính hoặc kinh doanh về vốn đưa lại gồm: Thu về hoạt động góp vốn tham gia liên doanh, thu nhập hoạt động đầu tư mua bán chứng khoán dài hạn và ngắn hạn, thu nhập về cho thuê tài sản, thu nhập từ hoạt động khác như bất động sản, lãi tiền gửi, lãi cho vay vốn, hoàn nhập dự phòng giảm giá đầu tư chứng khoán dài và ngắn hạn.
- Chi phí hoạt động tài chính: là các khoản chi phí cho các hoạt động đầu tư tài chính và các chi phí liên quan về vốn gồm: Chi phí liên doanh không tính vào giá trị vốn góp, lỗ liên doanh, lỗ do bán chứng khoán chi phí đầu tư tài chính, chi phí vay vốn, chi phí liên quan đến mua bán ngoại tệ…
ã Lợi nhuận từ hoạt động bất thường: Là những khoản lợi nhuận không dự tính trước hoặc có dự kiến nhưng ít có khả năng thực hiện hoặc những khoản thu mang tính chất không thường xuyên. Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan hoặc khách quan đem lại.
= -
Trong đó:
- Thu nhập hoạt động bất thường: là những khoản thu mà doanh nghiệp không dự tính trước hoặc những khoản thu bất thường không xảy ra một cách đều đặn và thường xuyên, gồm: thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ, thu tiền phạt do vi phạm hợp đồng, thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý xoá sổ, thu các khoản nợ không xác định được chủ, các khoản thu nhập kinh doanh của năm trước bị bỏ sót năm nay mới phát hiện ra…
- Chi phí bất thường: là những khoản lỗ do các nghiệp vụ riêng biệt với những hoạt động thông thường của doanh nghiệp như: tiền phạt do vi phạm hợp đồng, các khoản chi phí kế toán ghi nhầm hay sai sót khi vào sổ chênh lệch phải thu khó đòi hoặc dự phòng phải thu khó đòi…
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá lợi nhuận và hiệu quả kinh doanh
1.2.2.1. ý nghĩa của các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận
Khi tính toán hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không chỉ dùng chỉ tiêu này để so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp khác nhau. Trước hết lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, đồng thời các nhân tố này lại tác động lẫn nhau. Như do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển hàng hoá, điều kiện thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp khác nhau.
Hơn nữa quy mô của các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản xuất hàng hoá và dịch vụ khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn có thể công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn lớn hơn những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại rất tốt.
Do vậy để đánh giá một cách đầy đủ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận chính là các chỉ tiêu sinh lời kinh doanh biểu hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí sản xuất thực tế hoặc với nguồn lực tài chính để tạo ra lợi nhuận. Đồng thời cũng thể hiện trình độ năng lực kinh doanh của nhà kinh doanh trong việc sử dụng các yếu tố đó. Như vậy ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng các chỉ tiêu tương đối và tỷ suất lợi nhuận.
1.2.2.2. Tỷ suất lợi nhuận chung (P')
Tỷ suất lợi nhuận chung là chỉ tiêu tuyệt đối phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa tổng mức lợi nhuận với tổng doanh thu bán hàng trong năm.
Công thức xác định:
P' = x 100
Trong đó: P: Tổng mức lợi nhuận
M: Doanh thu bán hàng trong năm
ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ bán được 100đ doanh thu sẽ được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nếu chỉ tiêu này thấp hơn chỉ tiêu chung của toàn ngành chứng tỏ bán hàng với giá thấp hoăc giá thành của doanh nghiệp cao hơn so với doanh nghiệp khác.
2.2.2. Tỷ suất lợi nhuận vốn (PV')
Tỷ suất lợi nhuận vốn là chỉ tiêu tương đối phản ánh mối quan hệ tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận và tổng vốn kinh doanh sử dụng bình quân trong năm.
Công thức xác định:
PV' =
: Tổng vốn kinh doanh sử dụng bình quân trong năm
ý nghĩa:
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của vốn kinh doanh, cho phép đánh giá được hiệu quả của công tác quản lý sử dụng vốn của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra những khả năng tiềm tàng và những biện pháp thích hợp làm cho công tác quản lý và sử dụng vốn cao hơn.
2.2.3. Tỷ suất lợi nhuận chi phí (Pcf')
Tỷ suất lợi nhuận chi phí là chỉ tiêu tương đối phản ánh quan hệ tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận với tổng chi phí kinh doanh trong năm.
Công thức xác định:
Pcf' = x 100
ý nghĩa: Chỉ tiêu này phản ánh cứ 100đ chi phí bỏ ra thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp
Lợi nhuận là chỉ tiêu tuyệt đối đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, ảnh hưởng tới lợi nhuận của doanh nghiệp có rất nhiều nhân tố, khách quan cũng như chủ quan.
Trước khi tiến hành đầu tư, mở một nhà máy mới hoặc mở một chi nhánh mới, một doanh nghiệp mới, chủ đầu tư phải tiến hành phân tích thẩm định khá kỹ lưỡng khả năng thu lợi nhuận. Trong khâu này, tác động của các nhân tố khách quan nơi chính sách kinh tế xã hội của nơi đầu tư, các luật kinh tế, cung cầp nguyên vật liệu nhân công, sản phẩm hàng hoá v.v.. được chú ý đặc biệt.
Trong phần này, chúng ta xem xét ảnh hưởng của 3 nhân tố:
- Nhân tố doanh thu thuần
- Nhân tố giá vốn hàng bán
- Nhân tố chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Nhân tố doanh thu thuần
Doanh thu thuần là nhana tố ảnh hưởng cùng chiều đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, doanh thu tăng làm doanh nghiệp tăng 1 lượng đúng bằng mức tăng của doanh thu. Nhân tố doanh thu thuần của bản thân nó lại chịu tác động của các yếu tố thị trường, giá cả, cung cầu hàng hoá làm thay đổi giá bán đơn vị hàng hoá cũng như thay đổi lượng hàng hoá bán ra. Bên cạnh nhan tố doanh thu thuần còn chịu ảnh hưởng của nhân tố như chiết khẩu, giảm giá, hàng bán bị trả lại và thuế doanh thu.
Nhân tố giá vốn hàng bán
Giá vốn hàng bán ở doanh nghiệp sản xuất là giá thành công xưởng. Còn giá vốn ở doanh nghiệp thương mại là giá mua lượng hàng hoá, chi phí trực tiếp thu mua, bảo quản, sơ chế, vận chuyển… Cũng giả định trong các điều kiện không đổi, lợi nhuận tăng giảm tỷ lệ nghịch với giá vốn hàng bán ra. Giá vốn hàng bán tăng, lợi nhuận giảm và ngược lại.
Để nâng cao lợi nhuận, doanh nghiệp phải tìm cách hạ thấp vốn giá hàng bán ra tức là phải biết chọn những người cung ứng cung cấp nguyên vật liệu hàng hoá với giá phù hợp, hạ thấp chi phí vận chuyển tới mức tối thiểu.
Khi phân tích nhân tố này để xem nó tác động như thế nào đến lợi nhuận, chúng ta cần xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến giá thành, và đặt nó trong mối quan hệ với các nhân tố khách quan làm ảnh hưởng đến lợi nhuận. Chẳng hạn thay đổi nguyên vật liệu nhằm thay đổi chất lượng sản phẩm, như vậy tăng giá vốn và làm giảm lợi nhuận. Nhưng khi đặt nó trong mối quan hệ với giá bán và khối lượng hàng bán ra, chính nhân tố này đã giúp cho giá bán tăng và khối lượng hàng bán ra tăng làm tăng lợi nhuận.
Nhân tố chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp
Các khoản chi phí này tăng sẽ làm cho lợi nhuận giảm và ngược lại
Như vậy ta đã cố định nhân tố khối lượng tiêu thụ và thay đổi giá chi phí đơn vị, giá chi phí có thể tính bình quân trên một đơn vị sản phẩm tiêu thụ, hoặc trên 1000đ doanh thu.
Nhân tố này giúp cho doanh nghiệp đánh giá việc thực hiện định mức chi phí, đánh giá chất lượng công tác quản lý chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, ảnh hưởng của nó tới hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó doanh nghiệp mới có những biện pháp để giảm chi phí xuống thấp nhất có thể nhằm nâng cao lợi nhuận.
Trên đây là ba nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận
Ngoài ra còn nhiều nhân tố khác như nhân tố vị trí địa lý cũng ảnh hưởng đến doanh nghiệp, nếu doanh nghiệp nằm trong vùng đông dân cư, gần trung tâm thì chắc chắn những mặt hàng tiêu thụ của doanh nghiệp nhiều hơn, nhưng với điều kiện là sản phẩm đó phải đáp ứng được yêu cầu người tiêu dùng. Với những nhân tố ảnh hưởng này, còn nhiều nhân tố không ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp ảnh hưởng đến lợi nhuận với mục tiêu nâng cao lợi nhuận mà doanh nghiệp cần quan tâm và xem xét để có những biện pháp thích đáng, hiệu quả nhất áp dụng vào quá trình hoạt động của mình để giúp tăng lợi nhuận.
1.3. Phân tích lợi nhuận trong DNTM
1.3.1. Khái niệm và mục đích phân tích lợi nhuận
1.3.1.1. Khái niệm:
Mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ, liên quan mật thiết tác động qua lại lẫn nhau và tồn tại trong một thể thống nhất đòi hỏi khi tiến hành hoạt động phân tích ta cần phải có cách nhìn tổng thể, toàn diện và có quan điểm hệ thống. Từ đó, ta có thể tiến hành phâ._.n tích chúng một cách chính xác vì các bộ phận của doanh nghiệp luôn vận động tuân theo một tính trật tự lôgic, tác động liên quan đến cả các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Cũng như vậy, mọi sự vật hiện tượng đều vận động và phát triển không ngừng, đòi hỏi khi nghiên cứu hiện tượng, quá trình kinh tế phải có một cách nhìn "động", phân tích chúng theo đúng quy luật vốn có của nó. Do đó, khi nghiên cứu các hiện tượng và sự tồn tại khách quan nhằm mục đích nhận thức bản chất của các hiện tượng và sự vật, qua đó cải tạo và sử dụng chúng phục vụ cho lợi ích của chúng ta.
Như chúng ta đã biết kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh hay lợi nhuận giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường, doanh nghiệp có tồn tại và phát triển được hay không là phải nhờ vào lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bảy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được thể hiện trên ba phạm vi chính: Mức nộp ngân sách với nhà nước, đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên và mở rộng khả năng sản xuất.
+ Để quản lý tốt hoạt động kinh doanh hướng đến các mục tiêu trong kinh doanh. Đòi hỏi doanh nghiệp không những phải tổ chức tốt công tác hạch toán kinh doanh, mà còn phải thường xuyên phân tích tình hình hoạt động kinh doanh mục tiêu thực hiện lợi nhuận. Phân tích kinh doanh có liên quan đến hạch toán kinh doanh và là một yếu tố của hạch toán bởi vì phân tích sử dụng nhiều tài liệu hạch toán.
Vậy, phân tích được hiểu như thế nào?
Trong lĩnh vực tự nhiên thì phân tích được hiểu theo nghĩa chung nhất đó là sự chia nhỏ sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận cấu thành của sự vật hiện tượng đó. Việc phân tích này được tiến hành với những vật thể bằng các phương tiện cụ thể ví dụ như phân tích hoá học bằng những phản ứng, phân tích các vi sinh vật bằng kính hiển vi… Việc phân tích các sự vật hiện tượng bằng cách chia nhỏ, tách riêng từng bộ phận giúp cho ta quan sát chúng một cách chính xác, ta có thể nghiên cứu từ đó rút ra được một số quy luật cấu thành và cách hoạt động của chúng.
Trái lại, trong lĩnh vực kinh tế thì việc phân tích dường như rất khó khăn vì ta không thể quan sát chúng bằng một cách đơn giản, mà muốn phân tích chúng ta phải áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu trong đó phương pháp duy vật biện chứng là phương pháp cơ bản nhất, làm cơ sở cho những phương pháp khác. Do vậy, khi phân tích kinh tế cần phải xem xét đầy đủ các yếu tố tác động phù hợp với những điều kiện thực tế khách quan. Chính vì lẽ đó phân tích kinh tế chỉ tồn tại bằng những khái niệm trừu tượng, nên khi phân tích ta phải thực hiện bằng những phương pháp trừu tượng. Vì vậy, trong phân tích kinh tế việc tìm ra những mâu thuẫn tồn tại, những nguyên nhân làm ảnh hưởng là một yêu cầu rất quan trọng để từ đó đề ra những chính sách cũng như biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Như vậy, phân tích kinh doanh là việc phân chia các hiện tượng, các quá trình và các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành. Trên cơ sở đó bằng những phương pháp nghiên cứu liên hệ so sánh, đối chiếu và tổng hợp lại nhằm rút ra tính quy luật và xu hướng phát triển của các hiện tượng nghiên cứu. Phân tích kinh doanh gắn liền với hoạt động sản xuất kinh doanh của con người.
Qua một số cách hiểu phân tích như trên ta rút ra được khái niệm về phân tích như sau: phân tích được hiểu là sự bóc tách, phân chia các hiện tượng và sự vật thành các kết quả kinh doanh thành nhiều bộ phận cấu thành của chúng. Từ đó nhận thức được về hình dáng, kích thước, tính chất của chúng trong đối tượng nghiên cứu và thấy được mối quan hệ qua lại giữa chúng.
Với khái niệm trên thì phân tích là một phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Nhưng có một điểm chung nhất là phân tích chính là sự phân chia, chia nhỏ các sự vật hiện tượng trong quá trình cấu thành chúng nhưng phương pháp được sử dụng trong phân tích thì khác nhau. Phân tích lợi nhuận là một bộ phận phân tích trong quá trình phân tích kết quả kinh doanh.
Vậy, phân tích lợi nhuận là việc phân chia các hiện tượng sự vật trong quá trình sản xuất kinh doanh thành các bộ phận cấu thành như lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh, lợi nhuận từ hoạt động tài chính và lợi nhuận bất thường. Từ đó phân tích tình hình chung và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận, những nhân tố này chịu tác động bởi các yếu tố nào tức là trong quá trình sử dụng các công cụ phương pháp so sánh, đối chiếu, tỷ lệ… nhằm thấy được những ảnh hưởng của các yếu tố sản xuất đến kết quả kinh doanh như thế nào.
1.3.1.2. Mục đích phân tích lợi nhuận
Mọi hoạt động kinh tế đều nằm trong thể liên hoàn và có mối liên hệ hỗ trợ lẫn nhau. Do vậy, phân tích tình hình lợi nhuận là một trong những nội dung phân tích quan trọng trong phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp với điều kiện là trong trạng thái "động" của chúng. Vì trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận góp phần phân bổ các nguồn lực một cách có hiệu quả. Bởi vậy, phân tích tình hình lợi nhuận chính là quá trình phân tích các số liệu và phân tích kết quả hoạt động kinh doanh trong một thời kỳ hay trong nhiều giai đoạn kinh tế khác nhau. Chỉ có phân tích lợi nhuận một cách chính xác và trung thực mới có thể đánh giá đầy đủ các mặt yếu kém cũng như mặt mạnh để từ đó tìm ra các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. Vậy, mục đích của việc phân tích lợi nhuận như sau:
- Nhằm nhận thức đánh giá đúng đắn, toàn diện khách quan tình hình lãi lỗ. Từ đó thấy được những thành tích đạt được và những mặt còn tồn tại. Phân tích những nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan và đề ra những chính sách, biện pháp quản lý thích hợp.
- Phân tích lợi nhuận một cách chính xác từ ta nắm vững được diễn biến tình hình hoạt động kinh doanh của toàn công ty, từ đó có những biện pháp khai thác những tiềm năng, hạn chế các nhân tố tiêu cực để góp phần nâng cao lợi nhuận. Đây cũng là thông tin quan trọng vì qua phân tích lợi nhuận giúp cho các chủ đầu tư và bạn hàng có cái nhìn và hướng làm ăn đến với doanh nghiệp.
- Giúp cho các nhà quản lý biết được quy mô hiệu quả kinh doanh lỗ lãi thu được và số tiền lời tạo ra trong năm. Nó giúp co doanh nghiệp có kế hoạch tổ chức kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm và đề ra những giải pháp hữu hiệu để thực hiện thành công các mục tiêu.
1.3.2. ý nghĩa và nhiệm vụ của phân tích lợi nhuận
1.3.2.1. ý nghĩa của việc phân tích lợi nhuận
Các hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động bất thường có mối quan hệ trực tiếp với nhau và đều gây ảnh hưởng trực tiếp đến tổng mức lợi nhuận mà doanh nghiệp đạt được. Ngoài ra, nó còn do các nhan tố khách quan đem lại. Do lợi nhuận là một tiêu chí quan trọng không thể thiếu của mỗi doanh nghiệp và còn là mục tiêu vươn tới nhằm thu được lợi nhuận một cách nhanh nhất và cao nhất. Với vai trò của mình, lợi nhuận là một yếu tố rất quan trọng. Chính vì vậy, phân tích tình hình lợi nhuận có ý nghĩa rất quan trọng đối với chủ doanh nghiệp cũng như các đối tượng bên ngoài khác. Chỉ qua phân tích lợi nhuận mới đề ra các biện pháp nhằm không ngừng nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp. Phân tích tình hình lợi nhuận có ý nghĩa sau:
- Đối với các nhà quản trị doanh nghiệp thì phân tích tìnhhình lợi nhuận giúp cho nhà quản trị có một cái nhìn bao quát về những thông tin, sự nhìn nhận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp mình. Từ đó có những chính sách chiến lược kinh doanh mới. Khi phân tích lợi nhuận giúp cho nhà quản trị thấy được khoản lỗ, lãi cũng như tình hình công nợ của doanh nghiệp, qua đó có những biện pháp như tạo công ăn việc làm tiếp theo cho người lao động, hạ thấp chi phí, bảo vệ môi trường… Qua đó định hướng các quyết định đầu tư, tài trợ ra bên ngoài doanh nghiệp, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Đối với nhà đầu tư thì mối quan tâm chủ yếu của họ là khả năng hoàn vốn, lãi mà họ thu được cũng như khả năng rủi ro có thể xảy ra. Vì vậy, qua phân tích lợi nhuận giúp cho nhà đầu tư biết được tình hình công việc làm ăn lỗ lãi của công ty để từ đó có hướng đầu tư mới cho doanh nghiệp và đây chính là điều kiện để việc đầu tư có sự an toàn và đem đến hiệu quả nhất cho các nhà đầu tư.
- Ngoài ra, phân tích lợi nhuận còn giúp cho người cho vay đặc biệt chú ý về khả năng sinh lời của vốn kinh doanh. Vì mối quan tâm chủ yếu của họ là hướng tới khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Còn đối với cơ quan nhà nước và người lao động thì qua việc phân tích tình hình lợi nhuận sẽ đánh giá được tình hình biến động về doanh thu, lợi nhuận cũng như khả năng về nộp thuế thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp. Từ đó đánh giá được năng lực lãnh đạo của bộ máy quản lý của toàn công ty.
Nói tóm lại, từ những nội dung trên việc phân tích tình hình lợi nhuậncó ý nghĩa rất quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp nói riêng mà còn có ý nghĩa đối với các đối tượng khác nói chung.
1.3.2.2. Nhiệm vụ của phân tích tình hình lợi nhuận
- Đánh giá tình hình lợi nhuận của từng bộ phận và toàn doanh nghiệp.
- Phân tích những nguyên nhân, xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình biến động lợi nhuận.
- Đề ra các biện pháp khai thác khả năng tiềm tàng của doanh nghiệp nhằm không ngừng nâng cao lợi nhuận.
1.4. Nội dung, phương pháp và nguồn tài liệu phân tích lợi nhuận
1.4.1. Nội dung phân tích lợi nhuận
Phân tích hoạt động kinh tế là một công việc không thể thiếu đối với các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Do lợi nhuận là một chỉ tiêu quan trọng, nên việc phân tích lợi nhuận doanh nghiệp là rất cần thiết cho nhà quản trị để đề ra phương hướng, đường đi đúng đắn cho các hoạt động trong kì kinh doanh tới. Việc phân tích lợi nhuận phải đi từ bao quát đến cụ thể, từ cái chung đến cái riêng, bóc tách, mổ xẻ từng vấn đề để thấy bản chất vấn đề thì lúc đó công tác phân tích mới có tác dụng, có hiệu quả. Khi tiến hành phân tích lợi nhuận doanh nghiệp thông thường người ta thường phân tích những nội dung cơ bản sau:
1.4.1.1. Phân tích chung tình hình lợi nhuận
Phân tích chung tình hình lợi nhuận của doanh nghiệp là việc đánh giá kết quả kinh doanh theo nguồn hình thành. Căn cứ vào báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp ta có lợi nhuận theo nguồn hình thành bao gồm:
- Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh
- Lợi nhuận từ hoạt động tài chinh
- Lợi nhuận từ hoạt động bất thường
Phân tích chung tình hình lợi nhuận là tiến hành đánh giá sự biến động mức lợi nhuận của toàn doanh nghiệp, của từng bộ phận lợi nhuận giữa kì các kinh doanh để thấy được mức đọ tăng giảm cả về số tuyệt đối và cả về tỉ lệ, tỉ trọng trong từng bộ phận lợi nhuận. Qua đó đánh giá chung các nguyên nhân ban đầu ảnh hưởng đến lợi nhuận, trên cơ sở đó đưa ra phương hướng chung để giải quyết.
1.4.1.2. Phân tích lợi nhuận hoạt động kinh doanh
Trong doanh nghiệp, kinh doanh là hoạt động chính, là hoạt động đòi hỏi doanh nghiệp phải duy trì và phát triển, là hoạt động đem lại bộ phận lợi nhuận chiếm tỉ trọng lớn nhất trong tổng lợi nhuận doanh nghiệp. Vì vậy việc phân tích lợi nhuận của hoạt động này là rất cần thiết, rất quan trọng và còn quan trọng hơn nữa vì chỉ tiêu này liên quan đến rất nhiều mặt khác trong doanh nghiệp.
Phân tích lợi nhuận hoạt động kinh doanh để thấy được sự biến động của lợi nhuận qua các kì kinh doanh, tiến hành so sánh kết quả của các kì cả về số tuyệt đối và tỉ lệ. Đồng thời cũng xác định được các nguyên nhân trực tiếp làm biến động mức lợi nhuận của doanh nghiệp.
Không chỉ xem xét sự biến động của lợi nhuận mà còn phân tích các ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh, đó là sự phân tích các nhân tố doanh thu thuần, tổng chi phí bỏ ra để có được lợi nhuận đó. Tiến hành phân tích các nhân tố này biến động như thế nào và ảnh hưởng đến lợi nhuận kinh doanh với mức độ ra sao. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận có nhân tố ảnh hưởng tích cực, có nhân tố ảnh hưởng tiêu cực, việc phân tích các nhân tố này cũng rất quan trọng để từ đây đưa ra các biện pháp giải quyết, khắc phục những bất hợp lý, tồn đọng nhằm không ngừng nâng cao lợi nhuận kinh doanh và tổng lợi nhuận của doanh nghiệp.
1.4.1.3. Phân tích lợi nhuận hoạt động tài chính
Hoạt động tài chính ở mỗi doanh nghiệp có thể có hoặc không, nhưng trong nền kinh tế thị trường nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận nên ít nhiều có thu nhập từ hoạt động này. Dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, lập bảng phân tích kết quả hoạt động tài chính để thấy được sự biến động tăng giảm của chỉ tiêu này qua các năm. Dựa vào kết quả phân tích để nhận xét hiệu quả đầu tư tài chính tốt hay xấu.
Phân tích kết quả hoạt động tài chính còn phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động, đó là các nhân tố: vốn đầu tư tài chính, thu nhập hoạt động tài chính và chi phí đầu tư. Các nhân tố này ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả hoạt động cho nên cần phân tích sự biến động của chúng để đánh giá thực chất hiệu quả đầu tư từ đó đi đến quyết định có nên tiếp tục đầu tư nữa hay không.
1.4.1.4. Phân tích lợi nhuận hoạt động bất thường
Lợi nhuận bất thường là giữa thu và chi được hình thành từ những hoạt động bất thường ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh và hoạt động tài chính. Vì tính chất bất thường của nó nên thu nhập cũng như các khoản chi phí không nằm trong dư tính của doanh nghiệp, chỉ tổng kết vào cuối kì kinh doanh khi các nghiệp vụ đã phát sinh.
Phân tích lợi nhuận hoạt động này để thấy được sự tăng giảm kết quả cả về số tuyệt đối và tỉ lệ qua các kì kinh doanh, thu nhập có được chủ yếu từ lĩnh vực nào và chi phí bất thường tập trung nhiều nhất ở đâu. Đồng thời qua phân tích thấy được ảnh hưởng của kết quả hoạt động bất thường đến lợi nhuận chung thế naò. Nói chung hoạt động này khó biết trước được nhưng doanh nghiệp cũng nên có biện pháp hạn chế kết quả xấu để nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
1.4.1.5. Phân tích lợi nhuận các đơn vị trực thuộc
Muốn phân tích nội dung này thì doanh nghiệp phải có quy mô lớn gồm nhiều đơn vị trực thuộc và các đơn vị trực thuộc có đủ điều kiện hạch toán riêng doanh thu và chi phí.
Kết quả hoạt động của các đơn vị trực thuộc hình thành nên kết quả của công ty. Vì vậy phân tích tình hình lợi nhuận cần phân tích cả kết quả hoạt động của các đơn vị trực thuộc. Phân tích lợi nhuận các đơn vị trực thuộc nhằm mục đích đánh giá tình hình cũng như kết quả chung toàn doanh nghiệp. Ngoài ra còn phân tích các yếu tố như doanh thu, giá vốn, chi phí liênquan đến kết quả đó và nhận xét hiệu quả của đơn vị thông qua chỉ tiêu tỉ suất lợi nhuận. Việc phân tích lợi nhuận đơn vị trực thuộc giúp doanh nghiệp thấy được thực trạng các đơn vị để từ đó có các biện pháp xử lý thích hợp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh tăng lợi nhuận các đơn vị nói riêng công ty nói chung.
1.4.1.6. Phân tích tình hình phân phối lợi nhuận
Toàn bộ lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh được phân phối theo chế độ, chính sách tài chính của nhà nước và kế hoạch phân phối của doanh nghiệp. Nội dung phân phối bao gồm:
- Nộp thuế thu nhập theo luật thuế
- Nộp thu sử dụng vốn của Nhà nước
- Phân phối cho cán bộ công nhân viên, nếu doanh nghiệp áp dụng cơ chế khoán thu nhập
- Chia lãi cho các bên liên doanh hoặc chia lãi cổ tức cho cổ đông
- Trích lập các quỹ doanh nghiệp, bao gồm: quỹ đầu tư phát triển, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng phúc lợi theo mức trích lập quy định.
Phân tích phân phối lợi nhuận nhằm mục đích đánh giá sự biến động về số tiền, tỉ lệ tăng giảm, tỉ trọng của từng khoản mục qua các thời kì thông qua so sánh giữa số liệu thực hiện với số được phép. Không chỉ đánh giá mức biến động mà phân tích còn để xem xét doanh nghiệp đã chấp hành đúng chế độ phân phối lợi nhuận hay chưa, thựchiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước chưa.
1.4.1.7. Phân tích tình hình phân phối lợi nhuận
Lợi nhuận của doanh nghiệp được phân phối vào các chế độ, chính sách tài chính của nhà nước và kế hoạch phân phối của doanh nghiệp. Ngoài ra lợi nhuận doanh nghiệp được phân phối tuỳ theo loại hình sở hữu và đặc điểm trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Nội dung phân phối lợi nhuận doanh nghiệp có thể bao gồm:
- Nộp thuế thu nhập theo luật thuế
- Chia các bên liên doanh nếu là công ty liên doanh chia cổ tức nếu là công ty cổ phần.
- Phân phối cho cán bộ công nhân viên nếu doanh nghiệp áp dụng cơ chế khoán.
1.4.2. Phương pháp sử dụng trong phân tích
Phân tích hoạt động kinh tế là một công cụ cần thiết trong quản lý kinh tế, là môn khoa học xác hội nghiên cứu các hiện tượng và quá trình kinh tế phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, việc phân tích kinh tế phải dựa vào những cơ sở lí luận khoa học của các môn khoa học kinh tế liên quan, đồng thời phải dựa vào các đường lối chủ trương chính sách và pháp luật của Nhà nước về kinh tế. Việc phân tích phải đi từ cái chung đến cái riêng, phải đo lường được ảnh hưởng và phân loại ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế. Phânt ích hoạt động kinh tế lấy phương pháp duy vật biện chứng làm cho sở cho những phương pháp khác, đặt sự vật hiện tượng trong trạng thái vận động và phát triển, trong tổng thể các mối quan hệ để thấy được bản chất vấn đề.
Có nhiều con đường để đi đến đích, việc phân tích hoạt động kinh tế cũng vậy. Sử dụng nhiều phương pháp phân tích khác nhau để bóc tách, phân chia (hay là phân tích) một sự vật hiện tượng. Sau đây ta xem xét một số phương pháp phân tích mà nhà phân tích hoạt động kinh tế doanh nghiệp thường dùng.
1.4.2.1. Phương pháp so sánh
So sánh là phương pháp nghiên cứu để nhận thức được các hiện tượng, sự vật thông qua quan hệ đối chiếu tương hỗ giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Là phương pháp lâu đời và được sử dụng rộng rãi, qua so sánh người ta thấy được sự giống nhau, khác nhau của các sự vật hiện tượng, thấy được xu hướng của sự vật, hiện tượng.
Sử dụng phương pháp so sánh trong phân tích kinh tế để so sánh số thực hiện với số kế hoạch của kì báo cáo nhằm thấy được mức độ hoàn thành kế hoạch của các chỉ tiêu bằng tỉ lệ phần trăm (%) hay số chênh lệch tuyệt đối.
Phân tích kinh tế còn so sánh giữa số liệu thực hiện kì báo cáo với số liệu thực hiện cùng kì năm trước. Qua đó thấy sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế qua các thời kì khác nhau và xu hướng phát triển của chúng trong tương lai.
Ngoài ra sử dụng phương pháp này để tiến hành so sánh kết quả kinh doanh giữa các đơn vị. Lấy một đơn vị (tiên tiến) làm gốc tiến hành so sánh để thấy được sự khác nhau và mức độ, khả năng phấn đấu của từng đơn vị.
Trong phân tích hoạt động kinh tế người ta còn so sánh hai chỉ tiêu khác nhau có mối quan hệ với nhau để tạo nên một chỉ tiêu mới phục vụ cho việc phân tích. Ví dụ để phân tích kết quả kinh doanh ta phải so sánh doanh thu với chi phí, doanh thu với lợi nhuận; để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, tài sản ta phải so sánh doanh thu, lợi nhuận với vốn kinh doanh, giá trị tài sản,…
Khi so sánh các chỉ tiêu với nhau ta có thể so sánh bằng số tuyệt đối, số tương đối, số bình quân,… So sánh bằng số tuyệt đối là kết quả của phép trừ giữa trị số của kì phân tích với kì gốc của chỉ tiêu kinh tế, kết quả này cho ta thấy số lượng, quy mô biến đổi của hiện tượng kinh tế. So sánh bằng số tương đối là kết quả của phép chia giữa trị số của chỉ tiêu kinh tế kì phân tích với kì so sánh, kết quả này biểu hiện kết cấu mối quan hệ tốc độ phát triển của chỉ tiêu. Còn so sánh bằng số bình quân là dạng đặc biệt của số tuyệt đối, biểu hiện tính đặc trưng chung về số lượng cho một đơn vị, một bộ phận hay một tổng thể có cùng tính chất.
Qua nội dung xem xét trên ta thấy ngoài ưu điểm là dễ thực hiện, đơn giản thì hạn chế của phương pháp là khi phân tích theo phương pháp này chỉ mới biết sự tăng giảm chung của chỉ tiêu mà chưa biết được sự ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố đến từng chỉ tiêu, vì thế biện pháp đề xuất chưa cụ thể.
Trong phân tích lợi nhuận, phương pháp so sánh được dùng để so sánh số lợi nhuận thực hiện với số kế hoạch của kì báo cáo, số thực hiện kì này với số thực hiện cùng kì năm trước,… để thấy tình hình biến động của chỉ tiêu lợi nhuận qua các năm kinh doanh thông qua số tuyệt đối và tốc độ (hay tỉ lệ). Đồng thời cũng sử dụng phương pháp so sánh để phân tích các chỉ tiêu liên quan trực tiếp đến lợi nhuận, đó là doanh thu, chi phí, giá vốn hàng bán, so sánh các chỉ tiêu được lợi nhuận phân phối…
1.4.2.2. Phương pháp thay thế liên hoàn (loại trừ)
Như ta đã biết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng của rất nhiều nhân tố, các chỉ tiêu kinh tế chịu tác động của nhiều yếu tố. Nếu như chỉ phân tích bằng phương pháp so sánh thì ta không thể thấy được các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Để khắc phục hạn chế của phương pháp so sánh trong phân tích kinh tế người ta đã sử dụng phương pháp thay thế liên hoàn hay còn gọi là phương pháp loại trừ. Thay thế liên hoàn là phương pháp xác định mức độ và tính chất ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh bằng cách loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố.
Phương pháp thay thế liên hoàn được sử dụng để nghiên cứu các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp chịu ảnh hưởng bởi rất nhiều nhân tố nhưng giữa các nhân tố có mối liên hệ với nhau được phản ánh qua các công thức toán học mang tính chất hàm số. Ví dụ doanh thu bán hàng chịu ảnh hưởng của khối lượng tiêu thụ, giá cả hàng bán mà 2 nhân tố này liên hệ với nhau bởi phép nhân, năng suất lao động chịu tác động của doanh thu và số lao động và hai nhân tố này liên hệ với nhau bằng phép chia,… Các nhân tố ảnh hưởng có thể là ảnh hưởng càng nhiều thì số điều chỉnh càng lớn, tính toán càng nhiều lần việc phân tích càng cụ thể càng chính xác hơn.
Phương pháp thay thế liên hoàn là thay thế lần lượt số liệu gốc bằng số liệu muốn so sánh của các nhân tố ảnh hưởng tới một chỉ tiêu kinh tế được phân tích theo một lôgic nhất định. Khi thay thế một nhân tố phải giả định các nhân tố khác cố định.
Phương pháp này ra đời nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp so sánh. Tuy nhiên phương pháp cũng không tránh được những hạn chế của nó, đó là phạm vi áp dụng hẹp, điều kiện áp dụng nghiêm ngặt, trình tự tính toán phức tạp. Vì thế để hạn chế những khuyết điểm của phương pháp thì trong phân tích nên kết hợp với các phương pháp khác.
Lợi nhuận là chỉ tiêu có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng bằng phương pháp so sánh ta mới chỉ thấy được tình hình chung mà chưa thấy được sự ảnh hưởng của các nhân tố đến lợi nhuận như thế nào. Phương pháp thay thế liên hoàn sẽ giúp chúng ta phân tích được sự ảnh hưởng của các nhân tố đến lợi nhuận cả về mức độ và sự chi phối của chúng.
1.4.2.3. Phương pháp số chênh lệch
Phương pháp số chênh lệch thực chất là dạng rút gọn của phương pháp thay thế liên hoàn. Phương pháp chênh lệch sử dụng ngay số chênh lệch của các nhân tố ảnh hưởng để thay thế vào các biểu thức tính toán mức độ ảnh hưởng của nhân tố đó đến chỉ tiêu kinh tế phân tích. So với phương pháp thay thế liên hoàn phương pháp số chênh lệch đơn giản trong tính toán, cho ngay kết quả cuối cùng.
Phương pháp số chênh lệch xác định được ảnh hưởng cụ thể của từng nhân tố vì vậy việc đề xuất biện pháp phát huy các điểm mạnh và khắc phục các điểm yếu là rất cụ thể. Là phương pháp rút gọn của phương pháp liên hoàn nên phương pháp này mang những ưu, nhược điểm của phương pháp liên hoàn.
Cũng như phương pháp loại trừ, phương pháp số chênh lệch được sử dụng trong phân tích lợi nhuận để xác định sự ảnh hưởng của các nhân tố đến lợi nhuận cả về số tuyệt đối và tỉ lệ.
1.4.2.4. Phương pháp cân đối
Phương pháp cân đối được dùng trong phân tích dựa trên cơ sở sự cân bằng về lượng giữa hai mặt của các yếu tố và quá trình kinh doanh. Ví dụ sự cân bằng tổng tài sản và tổng nguồn vốn; sự cân bằng giữa nguồn thu, huy động và tình hình sử dụng các quỹ, các loại vốn; với hàng hoá trong kho là sự cân đối giữa tồn đầu kì, nhập kho trong kì và xuất kho trong kì, tồn kho cuối kì;… Từ những liên hệ mang tính cân đối một chỉ tiêu thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi của một hay nhiều chỉ tiêu khác, khi phân tích theo phương pháp cân đối ta lập công thức cân đối, thu nhập số liệu,… để tiến hành phân tích.
Phương pháp cân đối được sử dụng rộng rãi trong công tác phân tích hoạt động kinh tế nhằm đánh giá toàn diện các quan hệ cân đối để từ đó phát hiện sự mất cân đối, những hiện tượng vi phạm chế độ chính sách,… nhằm có biện pháp giải quyết.
Trong phân tích lợi nhuận phương pháp cân đối sử dụng để xác định các chỉ tiêu liên quan đến lợi nhuận cũng như để xác định lợi nhuận trên cơ sở sự cân đối. Qua đó ta thấy được một sự thay đổi của bất kì yếu tố nào trong công thức ảnh hưởng đến chỉ tiêu lợi nhuận như thế nào.
2.5. Các phương pháp khác
Ngoài các phương pháp đã nói trên trong phân tích hoạt động kinh tế đôi khi còn kết hợp thêm các phương pháp khác như: phương pháp chỉ số, phương pháp dùng biểu đồ, sơ đồ phân tích, phương pháp tương quan,… Trong đó:
- Phương pháp chỉ số: được dùng để nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố dựa trên công thức chỉ số giá và chỉ số lượng hàng bán để từ đó xác định doanh thu kì báo cáo tính theo giá kì gốc làm cơ sở tính ảnh hưởng của lượng hàng bán và đơn giá bán tác động đến sự tăng giảm doanh thu.
- Phương pháp dùng biểu, sơ đồ phân tích: phương pháp này dùng để phản ánh một cách trực quan qua các số liệu phân tích sự biến động tăng giảm của các chỉ tiêu kinh tế trong những khoảng thời gian khác nhau hoặc những mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau mang tính chất hàm số giữa các chỉ tiêu.
- Phương pháp tương quan: là phương pháp sử dụng các phương trình quy hoạch tuyến tính hoặc phi tuyến tính để phân tích các chỉ tiêu kinh tế có mối liên hệ với các chỉ tiêu khác bằng các phương trình đó.
Trong phân tích lợi nhuận người ta cũng sử dụng các phương pháp này để bổ trợ cho các phương pháp khác, nhằm mục đích đánh giá, tìm hiểu, nghiên cứu, lập kế hoạch,… cho các kì kinh doanh.
Tóm lại trong phân tích hoạt động kinh tế người ta có rất nhiều phương pháp để tiến hành phân tích các hoạt động. Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm khác nhau vì thế khi áp dụng để phân tích một sự vật hiện tượng nào đó nên kết hợp các phương pháp với nhau nhằm mục đích phân tích một cách chính xác, cụ thể, đúng đắn từ đó nhận thức vấn đề thấu đáo đúng đắn nhất đồng thời đưa ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế.
Cơ sở và nguồn tài liệu phân tích lợi nhuận
Như các phần trước ta đã đề cập đến các phương pháp phân tích, nội dung phân tích và các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. Vậy cơ sở và nguồn tài liệu để phân tích lợi nhuận gồm có:
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: là báo cáo tổng hợp phản ánh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ hoạt động của doanh nghiệp, chi tiết cho hoạt động kinh doanh chính và các hoạt động khác. Trong các doanh nghiệp việc cung cấp thông tin về sự lãi lỗ của doanh nghiệp trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh có tác dụng quan trọng trong việc phântích hoạt động kết quả hoạt động kinh doanh.
- Đó là các chỉ tiêu kế hoạch, số liệu hạch toán kế toán phản ánh kết quả và phân tích kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh chia làm 2 phần:
Phần 1: Báo cáo lãi, lỗ
Phản ánh tình hình kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động.
Phần II: Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước về thuế và các khoản phải nộp khác trên nguyên tắc theo dõi chi tiết từng chỉ tiêu được thanh toán với ngân sách nhà nước.
Mỗi chỉ tiêu được tính theo công thức sau:
= + -
Phần 2 gồm 2 mục:
- Mục 1: Thuế, các khoản phải nộp
- Mục 2: Các khoản phải nộp khác
Tóm lại những số liệu báo cáo kết quả kinh doanh phục vụ đắc lực cho việc phân tích lợi nhuận. Ngoài ra để việc phân tích lợi nhuận được chính xác, sát với tình hình thực tế chung của nền kinh tế còn phải kết hợp sử dụng các thông tin khác nữa.
Chương 2
Phân tích tình hình lợi nhuận kinh doanh
tại Công ty Điện máy - xe đạp - xe máy
2.1. Quá trình hình thành và phát triển công ty
2.1.1. Quá trình hình thành
Công ty Điện máy - Xe đạp - Xe máy có tên giao dịch quốc tế là TODIMAX, là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ thương mại, có trụ sở giao dịch tại 229 phố Vọng - Hà Nội có tư cách pháp nhân và hạch toán kinh tế độc lập.
Tiền thân của công ty là cục xăng dầu Trung ương thành lập theo QĐ711-NT ngày 28/9/1966. Đến tháng 1/1971 do đòi hỏi của nền kinh tế, Chính phủ ra quyết định thành lập Tổng công ty điện máy để thực hiện chức năng chủ đạo kinh doanh toàn quốc về mặt hàng điện máy.
Sang tháng 6/1981 Tổng công ty điện máy bị giải thể đồng thời thành lập hai Công ty Trung ương lớn trực thuộc Bộ Thương mại, đó là:
- Công ty điện máy Trung ương đóng tại 163 Đại La - quận Hai Bà Trưng- Hà Nội.
- Công ty xe đạp, xe máy Trung ương đóng tại 21 ái Mộ - Gia Lâm - Hà Nội.
Cả hai công ty cùng chịu sự chỉ đạo của Bộ thương mại cho đến tháng 12/1995, hai Công ty sát nhập thành Tổng công ty điện máy - xe đạp - xe máy. Lúc này thị trường tiêu thụ của Công ty đã được mở rộng ra nước ngoài với nhiều mặt hàng kinh doanh khá đa dạng.
Ngày 22/12/1995 căn cứ vào thông báo số 11/TB ngày 02/2/1995 của Chính phủ về việc thành lập tại Tổng công ty điện máy - xe đạp - xe máy trên cơ sở giải thể Tổng công ty.
Đến nay mạng lưới kinh doanh của Công ty đã phát triển rộng lớn, bao gồm 11 đơn vị trực thuộc trong đó có 3 trung tâm, 5 cửa hàng và hai chi nhánh trải dài từ miền Bắc đến miền Nam.
1. Chi nhánh điện máy xe đạp xe máy Hà Nam Ninh, trụ sở 11- Quang Trung, Nam Định.
2. Chi nhánh điện máy xe đạp xe máy thành phố Hồ Chí Minh, số 6 Phạm Ngũ Lão - quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh.
3. Xí nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng điện máy, trụ sở số 521 ái Mộ- Gia Lâm - Hà Nội
4. Cửa hàng kinh doanh điện máy kim khí 163 Đại La - Hà Nội
5. Cửa hàng kinh doanh điện máy kim khí số 1, trụ sở 229 phố Vọng - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
6. Cửa hàng kinh doanh điện máy kim khí số 5, chợ Mơ - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
7. Cửa hàng kinh doanh sơn, 33 Lê Văn Hưu - Hà Nội.
8. Cửa hàng điện tử điện lạnh trụ sở 92 Hai Bà Trưng - Hoàn Kiếm - Hà._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- X0121.DOC