Phân tích tình hình doanh thu & chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003-2007

Tài liệu Phân tích tình hình doanh thu & chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003-2007: Lời Mở Đầu Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ và là xu thế tất yếu của các quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Vì vậy thị trường bảo hiểm Việt Nam cần phải có những bước chuyển mình nhằm đáp ứng những nhu cầu của thách thức và hội nhập nếu không muốn gạt ra khỏi lề của sự phát triển. Đặc biệt Việt Nam hiện nay đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, do đó lĩnh vực dịch vụ tài chính, trong đó bảo hiểm là một trong những lĩnh vực nhạy c... Ebook Phân tích tình hình doanh thu & chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003-2007

doc106 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1130 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình doanh thu & chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Công ty Cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảm được quan tâm nhiều. Những biến động trên thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian gần đây, nhất là sau khi gia nhập WTO đã chứng minh tính sôi động của nó với hàng loạt các công ty, tập đoàn bảo hiểm nước ngoài ở Châu Âu, Châu Mỹ và cả trong khu vực cũng như những nước láng giềng đã đang và sẽ ra nhập vào thị trường Việt Nam. Trước bối cảnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng đã và đang nỗ lực không ngừng để giữ vững và nâng cao vị thế cạnh tranh của mình trước những đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường. Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex được thành lập từ năm 1995, là một trong những công ty cổ phần đầu tiên được thành lập trong lĩnh vực bảo hiểm. Chỉ với hơn 10 năm sau khi ra nhập thị trường công ty đã thổi một luồng gió mới vào thị trường bảo hiểm Việt Nam với những thành tựu kinh doanh đáng kể, chiếm được cảm tình và niềm tin của đông đảo khách hàng trong đó có rất nhiều khách hàng lớn. Có thể nói vị thế của PJICO ngày càng được khẳng định và nâng cao trên thị trường, là một địa chỉ đáng tin cậy cho nhiều tổ chức cá nhân tìm đến để đảm bảo an toàn, bình yên cho việc kinh doanh và cuộc sống của họ. Tuy nhiên trong một môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, đặc biệt là năm 2008 này theo cam kết gia nhập WTO thì không còn rào cản phân biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam và doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Để có thể giữ vững và nâng cao hơn nữa vị thế của mình đòi hỏi công ty phải có sự chuẩn bị về mọi mặt để chủ động cạnh tranh trên thị trường. Vì thế mà phân tích hoạt động kinh doanh giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền kinh tế thị trường, nó có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố, phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng của thị trường, khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Xuất phát từ đòi hỏi thiết thực khách quan đó em đã chọn đề tài: “Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007” để nghiên cứu tìm hiểu. Bài viết của em được chia thành ba chương, ngoài mở đầu và kết luận nội dung có: Chương I: Lý thuyết cơ bản về phân tích doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm Chương II: Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007. Chương III: Một số giải pháp góp phần tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty PJICO Trong quá trình hoàn thành chuyên đề này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo Th.S Tôn Thị Thanh Huyền đồng thời em cũng nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các anh chị trong công ty PJICO đặc biệt là phòng bảo hiểm khu vực VII đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Do thời gian và trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi thiếu sót, rất mong được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Lý thuyết cơ bản về phân tích doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm Khái quát chung về doanh nghiệp bảo hiểm Khái niệm và phân loại doanh nghiệp bảo hiểm a. Khái niệm doanh nghiệp bảo hiểm Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế độc lập cơ bản của nền kinh tế, có tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất kinh doanh trên thị trường vì mục đích tối đa hóa lợi nhuận và sự phát triển của xã hội. “Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của luật kinh doanh bảo hiểm và các quy định khác của pháp luật có liên quan đến kinh doanh bảo hiểm”. Doanh nghiệp bảo hiểm là một loại doanh nghiệp dịch vụ, hoạt động của nó cũng nhằm mục đích sinh lời. Điểm khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp bảo hiểm với các doanh nghiệp khác là ở chỗ: Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm; nó có trách nhiệm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm nếu người mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho doanh nghiệp. Như vậy, muốn phân biệt phải dựa vào đặc điểm hoạt động kinh doanh của DNBH. b. Phân loại doanh nghiệp bảo hiểm Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế đa dạng, phong phú các hoạt động kinh tế - xã hội. Trong nền kinh tế đó có nhiều thành phần kinh tế tham gia. Vì vậy, các tổ chức kinh tế cũng phù hợp với thành phần kinh tế đó. Cụ thể trong thị trường bảo hiểm thường bao gồm các hình thức tổ chức như sau: b.1. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước là doanh nghiệp do Nhà Nước thành lập, đầu tư vốn và quản lý với tư cách là người chủ sở hữu. Doanh nghiệp bảo hiểm Nhà Nước là một pháp nhân kinh tế hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật. b.2. Công ty cổ phần bảo hiểm Công ty cổ phần bảo hiểm là loại doanh nghiệp do các cổ đông tham gia đóng góp vốn thông qua hình thức phát hành cổ phiếu trái phiếu và có trách nhiệm hữu hạn. Đây là doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với số vốn góp. b.3. Công ty bảo hiểm tư nhân Công ty bảo hiểm tư nhân là công ty bảo hiểm do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của công ty trước pháp luật. Công ty được thành lập theo luật công ty. b.4. Tổ chức bảo hiểm tương hỗ Tổ chức bảo hiểm tương hỗ là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập để kinh doanh bảo hiểm nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các thành viên. Thành viên tổ chức tương hỗ vừa là bên mua bảo hiểm. Về mặt pháp lý, họ vừa là hội viên, vừa là những người được bảo hiểm. b.5. Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh Doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh được thành lập trên cơ sở góp vốn của các doanh nghiệp (trong nước và nước ngoài). Vị trí các bên trong doanh nghiệp phụ thuộc vào mức vốn góp. Các thành viên trong doanh nghiệp hưởng lợi nhuận cũng như chịu thua lỗ tương ứng mức vốn góp. b.6. Doanh nghiệp bảo hiểm 100% vốn nước ngoài Đây là doanh nghiệp do nước ngoài đầu tư vốn, hoạt động tại nước sở tại, theo pháp luật của nước sở tại, đồng thời chịu sự chỉ đạo của công ty mẹ ở chính quốc. b.7. Tổ chức Lloyd’s Lúc đầu Lloyd’s là một tổ chức bảo hiểm tương hỗ của các nhà bảo hiểm hàng hải London, được thành lập năm 1720. Theo thời gian, Lloyd’s càng phát triển và trở nên nổi tiếng nhờ bảo hiểm những rủi ro đặc biệt. Trong thị trường bảo hiểm còn có các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm bao gồm nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế như: Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm Nhà Nước Công ty cổ phần môi giới bảo hiểm Công ty trách nhiệm hữu hạn môi giới bảo hiểm Công ty hợp doanh môi giới bảo hiểm Doanh nghiệp tư nhân môi giới bảo hiểm Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm liên doanh Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn đầu tư nước ngoài Các tổ chức như đại lý bảo hiểm, văn phòng đại diện của doanh nghiệp bảo hiểm là các tổ chức phụ thuộc, không đủ tư cách để gọi là doanh nghiệp bảo hiểm. Nội dung và đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm Nội dung hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm Kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH nhằm mục đích sinh lời. Ở đây DNBH chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm trên cơ sở người mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm cho người bảo hiểm (DNBH), DNBH bồi thường (hoặc trả tiền bảo hiểm) cho những tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm cho người thụ hưởng. Cũng giống như bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào, ngoài việc đáp ứng cho các nhu cầu an toàn của con người thì lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Bởi vậy, có một số nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Nguyên tắc 1: “Số đông bù số ít”. Đây là nguyên tắc xuyên suốt, không thể thiếu được trong bất kỳ nghiệp vụ bảo hiểm thương mại nào. Theo đó hậu quả của rủi ro xảy ra đối với một hoặc một số ít người sẽ được bù đắp bằng số tiền huy động được từ rất nhiều người có khả năng cùng gặp phải rủi ro như vậy. Nguyên tắc 2: “Rủi ro có thể được bảo hiểm”. Mặc dù công ty BH cung cấp các dịch vụ bảo hiểm cho những cá nhân và tổ chức có nhu cầu nhưng không phải trong mọi trường hợp công ty BH đều chấp nhận các yêu cầu bảo hiểm. Theo nguyên tắc này, rủi ro có thể được bảo hiểm phải là những rủi ro bất ngờ, không lường trước được, nhằm tránh cho công ty BH phải bồi thường cho những tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn tới phá sản. Đồng thời nó cũng giúp các công ty BH có thể tính được các mức phí chính xác, lập nên được một quỹ BH đầy đủ để đảm bảo cho công tác bồi thường. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các công ty BH mà ngay chính những người tham gia bảo hiểm cũng thấy công bằng hơn khi nguyên tắc này được áp dụng. Nguyên tắc 3: “ Phân tán rủi ro”. Mặc dù quỹ BH là một quỹ tài chính lớn, được lập ra bởi sự đóng góp của nhiều người theo nguyên tắc số đông và như vậy với tư cách là người huy động và quản lý quỹ, các công ty BH có khả năng thực hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế, không phải lúc nào công ty BH cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy rất rõ với những quỹ BH huy động được còn chưa nhiều trong khi đó giá trị bảo hiểm lại rất lớn hoặc với những trường hợp có rủi ro liên tiếp xảy ra gây tổn thất lớn. Một kinh nghiệm trong hoạt động của các DNBH là không nhận những rủi ro quá lớn, vượt quá khả năng tài chính của công ty. Tuy nhiên để tránh được điều tối kỵ là phải từ chối bảo hiểm đông thời vẫn đảm bảo được hoạt động kinh doanh, các DNBH áp dụng nguyên tắc phân tán rủi ro. Có hai phương thức phân tán rủi ro được sử dụng: Đồng bảo hiểm và Tái bảo hiểm. Đồng bảo hiểm là nhiều nhà bảo hiểm cùng nhận bảo đảm cho một rủi ro lớn. Còn kinh doanh tái bảo hiểm là hoạt động của DNBH chuyển một phần (hoặc toàn bộ) rủi ro đã chấp nhận cho DNBH khác, ngược lại, nhận bảo hiểm một phần hoặc toàn bộ rủi ro mà doanh nghiệp khác đã chấp nhận. Thông qua hoạt động chuyển tái và nhận tái, DNBH vừa ổn định kinh doanh vừa thu lợi nhuận, vừa phát triển mối quan hệ kinh tế với các nước. Nguyên tắc 4: “Trung thực tuyệt đối”. Theo nguyên tắc này đòi hỏi DNBH phải có trách nhiệm cân nhắc các điều kiện, điều khoản để soạn thảo hợp đồng để đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên, từ đó góp phần tăng thêm tính hữu hình của sản phẩm bảo hiểm – một sản phẩm dịch vụ. Chất lượng sản phẩm bảo hiểm có đảm bảo hay không, giá cả có hợp lý hay không, quyền lợi của người được bảo hiểm có đảm bảo đầy đủ công bằng hay không… đều chủ yếu dựa vào sự trung thực của phía DNBH. Ngược lại, nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu đối với người tham gia bảo hiểm, là phải trung thực trong việc khai báo rủi ro khi tham gia bảo hiểm, để giúp DNBH xác định mức phí phù hợp với rủi ro mà họ đảm nhận. Thêm vào đó các hành vi gian lận nhằm trục lợi bảo hiểm khi thông báo, khai báo các thiệt hại để đòi bồi thường sẽ được sử lý theo pháp luật Nguyên tắc 5: “Quyền lợi có thể được bảo hiểm”. Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia BH phải có lợi ích tài chính bị tổn thất nếu đối tượng được bảo hiểm gặp rủi ro. Nói cách khác, người tham gia BH phải có một số quan hệ với đối tượng được BH và được pháp luật công nhận. Mối quan hệ có thể biểu hiện qua quyền sở hữu, quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng đối với đối tượng được bảo hiểm. Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng BH cho tài sản của người khác hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm. Ngoài các nguyên tắc cơ bản trên, trong mỗi một loại hình bảo hiểm sẽ có thêm các nguyên tắc khác phù hợp với đặc điểm của từng loại: nguyên tắc bồi thường, nguyên tắc khoán... Đề phòng, hạn chế rủi ro, tổn thất DNBH không chỉ có trách nhiệm bồi thường tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm do rủi ro tai nạn bất ngờ gây ra nhằm giúp người được BH ổn định kinh tế, khôi phục sản suất và đời sống, mà còn tiến hành các biện pháp đề phòng rủi ro và tổn thất trước khi tai nạn xảy ra. Thông qua phân tích nguyên nhân của những rủi ro tai nạn bất ngờ, DNBH rút ra được những biện pháp cần thiết để cùng khách hàng thực hiện nhằm đề phòng tổn thất xảy ra. Giám định tổn thất Giám định tổn thất là nhiệm vụ, là một khâu quan trọng trong chu trình hoạt động kinh doanh BH. Sau khi nhận được thông báo của người được bảo hiểm về tai nạn rủi ro xảy ra, giấy yêu cầu giám định và các giấy tờ khác liên quan, DNBH phải cử giám định viên đến hiện trường cùng các thành viên liên quan để xác định tính chất, nguyên nhân mức độ thiệt hại… Điều quan trọng của công tác giám định là xác định nguyên nhân rủi ro có thuộc phạm vi bảo hiểm hay không? Tổn thất thực tế là bao nhiêu để làm căn cứ bồi thường. Đại lý giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn… DNBH không chỉ phải giám định tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm của mình mà còn có thể làm đại lý giám định tổn thất cho doanh nghiệp khác. Căn cứ biên bản giám định, đối chiếu với hợp đồng BH, doanh nghiệp xem xét giải quyết bồi thường theo các nguyên tắc quy định. Giải quyết bồi thường phải nhanh chóng, kịp thời, đúng thủ tục nhằm giúp người bị hại nhanh chóng khắc phục được hậu quả của rủi ro tai nạn bất ngờ. Nếu có sự tranh chấp giữa người bảo hiểm và người được bảo hiểm về số tiền bảo hiểm, việc giải quyết sẽ được chuyển cho các cơ quan có thẩm quyền theo luật định. Quản lý quỹ và đầu tư vốn Mục đích kinh doanh bảo hiểm hay tái bảo hiểm là lợi nhuận. Do đó quản lý quỹ bảo hiểm và đầu tư vốn (tức nguồn quỹ bảo hiểm thu được do người tham gia đóng phí) là hết sức quan trọng. Quản lý quỹ tức quản lý thu chi đúng chế độ. Thu phải thu đúng, thu đủ, triệt để khai thác các nguồn thu, chi đúng chế độ kịp thời, tiết kiệm nhất là chi bồi thường, chi quản lý… Nguồn quỹ thu được chưa chi đến phải đem đầu tư sinh lời. Là hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp bảo hiểm tìm thị trường đầu tư vừa sinh lời cao, vừa đảm bảo không mất vốn. Trên đây là năm nội dung hoạt động quan trọng, chủ yếu của DNBH. Ngoài ra doanh nghiệp có thể tham gia vào các hoạt động khác mà pháp luật cho phép. Thông thường, các DNBH hoặc kinh doanh bảo hiểm nhân thọ, hoặc kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ chứ không cùng một lúc kinh doanh cả hai loại hình bảo hiểm. Bởi vì, hai loại hình bảo hiểm đó có đặc trưng khác nhau, cần tập trung trí tuệ chuyên sâu để đạt hiệu quả cao. Luật kinh doanh bảo hiểm Việt Nam cũng không cho phép một doanh nghiệp kinh doanh cả hai loại hình bảo hiểm. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của DNBH vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy mọi hoạt động đều mang đặc trưng kinh doanh, lấy lợi nhuận làm mục tiêu phấn đấu. Chiến lược kinh doanh của DNBH đều đặt mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu. Để đạt mục tiêu đó hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải tính đến những đặc điểm sau: Đối tượng kinh doanh đa dạng Bảo hiểm thương mại có đối tượng bảo hiểm là tài sản, trách nhiệm dân sự và con người. Mỗi đối tượng BH bao gồm rất nhiều nghiệp vụ cụ thể. Mỗi nghiệp vụ là một hoạt động kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp bán sản phẩm bảo hiểm ra thị trường và thu về phí bảo hiểm (giá bảo hiểm). Phí đó được tính toán trên cơ sở khoa học đảm bảo thu bù chi, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước và có lãi cho doanh nghiệp. Với đối tượng bảo hiểm đa dạng như vậy, quy luật số lớn trong kinh doanh bảo hiểm càng phát huy tác dụng; do đó mục đích lợi nhuận sẽ đạt được. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm có vốn pháp định lớn Ngoài nguồn vốn của DNBH bao gồm vốn điều lệ, phí bảo hiểm thu được, lãi đầu tư,… Trong đó, vốn điều lệ phải đảm bảo như mức vốn pháp định do pháp luật quy định. Vốn pháp định lớn là do đặc thù của kinh doanh bảo hiểm – kinh doanh rủi ro. Để nhằm bảo vệ quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm khi DNBH làm ăn không hiệu quả, không có đủ tiền để trả cho khách hàng, Nhà Nước sẽ lấy từ vốn điều lệ của doanh nghiệp để giải quyết cho họ. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn phải có dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Do kinh doanh bảo hiểm có sự tích lũy rủi ro nên tất cả các khoản tiền được trích ra từ phí bảo hiểm phục vụ cho mục đích bồi thường hay chi trả bảo hiểm thực hiện các cam kết trong hợp đồng bảo hiểm chính là các quỹ dự phòng nghiệp vụ. Dự phòng nghiệp vụ là khoản dự trữ liên quan đến từng nghiệp vụ bảo hiểm, được trích lập và hạch toán vào chi phí kinh doanh nhằm mục đích thanh toán các trách nhiệm đã được xác định trước và phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm đã được ký kết. Việc thành lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ không chỉ là yêu cầu có tính chất kỹ thuật bảo hiểm, mà còn là sự bắt buộc mang tính pháp lý đối với DNBH. Sự bắt buộc này góp phần bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, nâng cao ý thức trách nhiệm của DNBH, đồng thời tạo điều kiện để tập trung nguồn vốn để đầu tư. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm luôn luôn gắn kết với hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư có vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, nó góp phần phát triển quỹ tài chính, tạo điều kiện mở rộng quy mô doanh nghiệp, tăng quỹ phúc lợi đồng thời tăng thu nhập cho người lao động và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư phát triển gồm có: vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sử dụng, vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh phải tuân thủ quy định của luật kinh doanh bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật có liên quan và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm Doanh thu của doanh nghiệp bảo hiểm 2.1.1. Khái niệm DNBH trong khuôn khổ những quy định pháp lý được phép thực hiện nhiều hoạt động khác nhau: kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh tái bảo hiểm, đại lý giám định xét giải quyết bồi thường, đầu tư vốn… Như vậy, phạm vi hoạt động kinh doanh của DNBH không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ của hoạt động kinh doanh bảo hiểm mà nó có thể được xếp thành ba loại: Hoạt động kinh doanh bảo hiểm Hoạt động đầu tư tài chính Hoạt động khác Theo đó, doanh thu bảo hiểm của DNBH là: doanh thu từ hoạt động bán sản phẩm bảo hiểm và cung cấp dịch vụ, tiền lãi từ hoạt động đầu tư và các khoản thu nhập khác ngoài các hoạt động bán sản phẩm bảo hiểm và đầu tư. 2.1.2. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm Đây là nguồn thu cơ bản và đóng vai trò quyết định đối với hoạt động của DNBH. Doanh thu hoạt động kinh doanh bảo hiểm được tính bằng số tiền phải thu sau khi đã trừ đi các khoản chi để giảm thu phát sinh trong kỳ từ các hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Doanh thu kinh doanh bảo hiểm bao gồm các khoản thu sau đây: Tiền thu phí bảo hiểm gốc: là toàn bộ phí BH thu từ các hoạt động BH đã ký kết trong kỳ. Tiền thu nhận tái bảo hiểm: là toàn bộ tiền phí nhận tái bảo hiểm thu từ các hợp đồng tái bảo hiểm trong kỳ. Tiền thu nhượng tái bảo hiểm: là toàn bộ các khoản tiền thu về hoa hồng nhượng tái bảo hiểm và khoản thu khác từ hoạt động tái bảo hiểm trong kỳ. Ngoài ra, khi doanh nghiệp đứng ra làm đại lý cho các DNBH khác trong việc giám định tổn thất, xét giải quyết bồi thường, yêu cầu người thứ ba bồi hoàn, xử lý hàng bồi thường 100%, số tiền phải thu từ các hoạt động này cũng được tính vào doanh thu phát sinh trong kỳ của DNBH. Cũng như các loại hình kinh doanh khác, DNBH có thể gặp phải trường hợp hàng bán bị trả lại, hoặc DNBH áp dụng chính sách giảm giá hàng bán. Đây được coi là các khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ, là các khoản thu phát sinh trong kỳ nhưng phải trả lại, bao gồm: Hoàn phí bảo hiểm: khi hoạt động bảo hiểm bị giải ước, khách hàng có thể được hoàn lại một phần phí bảo hiểm đã đóng với mức hoàn lại đã được quy định trước trong hợp đồng. Giảm phí bảo hiểm đối với những khách hàng lớn, hoặc khách hàng ít bị tổn thất nhằm cạnh tranh lôi kéo và giữ khách hàng. Tương tự như vậy, đối với hoạt động kinh doanh tái bảo hiểm cũng có hoàn phí và giảm phí nhận tái bảo hiểm, hoàn và giảm hoa hồng nhượng tái bảo hiểm. Kinh doanh bảo hiểm phải dựa trên nguyên tắc số lớn và phân tán rủi ro. Vì vậy để bảo vệ chính mình, các DNBH thực hiện tái bảo hiểm. Khi đó, DNBH phải chuyển một phần phí bảo hiểm đã thu từ hoạt động bảo hiểm gốc cho công ty nhận tái bảo hiểm gọi là phí nhượng tái bảo hiểm. Phí nhượng tái bảo hiểm cũng được coi là một khoản chi làm giảm thu phát sinh trong kỳ (không phải là chi phí). 2.1.3. Doanh thu hoạt động tài chính DNBH không chỉ có nhiệm vụ quản lý thu chi quỹ tài chính bảo hiểm, mà còn phải phát triển quỹ tài chính này. Do các DNBH luôn có trong tay một lượng tiền nhàn rỗi tương đối lớn phải đem đầu tư cho nên nguồn thu từ hoạt động tài chính là rất đáng kể. Đối với nhiều DNBH thì gần như toàn bộ chi phí hoạt động và lợi nhuận là từ nguồn thu này. Các khoản thu từ hoạt động tài chính bao gồm: Thu từ lãi đầu tư chứng khoán, cho vay thế chấp, đầu tư bất động sản, góp vốn liên doanh hoặc gửi tiết kiệm tại các tổ chức tín dụng. Thu lãi trên số tiền ký quỹ. Để đảm bảo quyền lợi người tham gia bảo hiểm trong trường hợp công ty bảo hiểm bị phá sản Nhà Nước yêu cầu các doanh nghiệp phải sử dụng một phần vốn điều lệ của mình để ký quỹ tại một ngân hàng và DNBH được hưởng lãi trên số tiền ký quỹ đó. Hoàn nhập số dư dự phòng giảm giá chứng khoán. Do DNBH thường đầu tư tiền nhàn rỗi vào chứng khoán với giá trị đầu tư lớn, để tránh sự mất giá của chứng khoán dẫn đến giảm giá trị khoản đầu tư, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán bảo hiểm, các DNBH phải lập dự phòng giảm giá chứng khoán. Và trong trường hợp không cần sử dụng đến hoặc sử dụng không hết thì sẽ được hoàn nhập vào doanh thu. Cổ tức được chia, lãi được chia từ vốn góp liên doanh liên kết. Đây là khoản thu nhập không chịu thuế thu nhập doanh nghiệp, nên khi nhận được các khoản thu này DNBH không phải tính vào doanh thu hoạt động tài chính để tính thuế thu nhập trong kỳ. Thu nhập khác là các khoản thu về cho thuê bất động sản, thuê văn phòng, tiền gửi ngân hàng không kỳ hạn, chênh lệch ngoại tệ và các khoản thu nhập khác. 2.1.4. Thu từ các hoạt động khác Thu nhập khác trong DNBH là các khoản thu từ những hoạt động xảy ra không thường xuyên ngoài các hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động tài chính, bao gồm: Thu về thanh lý tài sản cố định, nhượng bán tài sản cố định; Thu về tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng; Tiền bảo hiểm được bồi thường; Thu được các khoản nợ phải thu đã xóa sổ tính vào chi phí của kỳ trước; Khoản nợ phải trả nay mất chủ được tính tăng thu nhập; Thu về các khoản thuế được ghi giảm, được hoàn lại. Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm 2.2.1. Khái niệm Với đặc thù của kinh doanh bảo hiểm một ngành dịch vụ kinh doanh rủi ro thì chi phí của DNBH được định nghĩa là toàn bộ số tiền doanh nghiệp phải chi, phải trích trong kỳ (thường là một năm) bao gồm: chí phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm, chi phí hoạt động tài chính và chi phí cho các hoạt động khác. 2.2.2. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm Chi phí kinh doanh bảo hiểm là toàn bộ các khoản chi tiền, khoản trích nảy sinh trong quy trình hoạt động kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm và tái bảo hiểm của DNBH trong kỳ. Chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là khoản chi cơ bản của doanh nghiệp bảo hiểm, bao gồm: a. Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm Chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm là các khoản chi bằng tiền và các khoản trích để trực tiếp thực hiện sản xuất dịch vụ bảo hiểm, tái bảo hiểm trong kỳ kinh doanh của DNBH. Theo mục đích và công dụng của chi phí, chi phí trực tiếp kinh doanh bảo hiểm bao gồm: Chi bồi thường: là khoản tiền mà DNBH trả trực tiếp theo cam kết trên hợp đồng bảo hiểm cho khách hàng khi xảy ra rủi ro thuộc phạm vi trách nhiệm của các hợp đồng bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm. Đây là khoản chi phí luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất trong tổng chi. Chi bồi thường bao gồm: Chi bồi thường bảo hiểm gốc: là những khoản tiền mà DNBH chi trả trực tiếp cho người được bảo hiểm, người thụ hưởng bảo hiểm khi xảy ra những sự kiện bảo hiểm thuộc phạm vi trách nhiệm của các hợp đồng bảo hiểm gốc. Chi bồi thường nhận tái bảo hiểm: là khoản chi mà DNBH phải trả cho công ty nhượng tái bảo hiểm theo hợp đồng tái bảo hiểm khi xảy ra tổn thất rơi vào trách nhiệm nhận tái bảo hiểm. Chi hoa hồng: là khoản chi mà DNBH trả cho các trung gian bảo hiểm hoặc công ty nhượng tái bảo hiểm khi nhận được các dịch vụ bảo hiểm, tái bảo hiểm. Chi hoa hồng bao gồm: Chi hoa hồng bảo hiểm gốc: là khoản tiền DNBH trả cho các đại lý, môi giới hoặc cộng tác viên khi các trung gian này mang lại các hợp đồng bảo hiểm cho DNBH. Hoa hồng bảo hiểm gốc phụ thuộc vào tổng phí bảo hiểm và tỷ lệ hoa hồng được ấn định bởi các quy định pháp luật hoặc của DNBH. Hoa hồng nhận tái bảo hiểm: là khoản tiền DNBH trả cho công ty nhượng tái bảo hiểm khi công ty này chuyển nhượng dịch vụ cho doanh nghiệp. Hoa hồng nhận tái bảo hiểm được xác định trên cơ sở phí nhận tái và tỷ lệ hoa hồng được thỏa thuận giữa DNBH và công ty nhượng tái bảo hiểm. Do hoạt động kinh doanh bảo hiểm có “sự đảo ngược chu kỳ kinh doanh” nên trong cơ cấu chi phí của DNBH có một khoản chi đặc thù đó là chi trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm. Chi trích lập dự phòng nghiệp vụ: là khoản chi theo quy định của chế độ pháp lý tài chính, DNBH phải trích vào cuối niên độ nhằm để đảm bảo thanh toán cho người được bảo hiểm về những rủi ro và tổn thất trong tương lai. Mặc dù tiền này vẫn nằm trong tay DNBH nhưng không thuộc về doanh nghiệp, đây là khoản nợ DNBH sẽ phải trả trong tương lai. Trong kinh doanh các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ, các khoản chi dự phòng nghiệp vụ chủ yếu gồm: Dự phòng phí bảo hiểm, Dự phòng bồi thường, Dự phòng dao động lớn. Còn trong các nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ các khoản dự phòng kỹ thuật chủ yếu mà doanh nghiệp phải trích là: Dự phòng toán học, Dự phòng phí bảo hiểm chưa được hưởng, Dự phòng đảm bảo cân đối, Dự phòng cam kết chia lãi. Chi giám định tổn thất: là khoản tiền DNBH phải chi ra để thực hiện việc giám định các tổn thất thuộc trách nhiệm bảo hiểm. Chi đánh giá rủi ro của đối tượng bảo hiểm bảo hiểm: là các khoản chi cho công việc thu thập thông tin, điều tra, và thẩm định về đồi tượng bảo hiểm trước khi doanh nghiệp ký kết hợp đồng bảo hiểm hoặc trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm với khách hàng. Chi đề phòng hạn chế tổn thất: là khoản chi cho việc tổ chức các biện pháp phòng ngừa rủi ro và hạn chế tổn thất đối với những đối tượng bảo hiểm được DNBH bảo đảm theo các hợp đồng. Chi đòi người thứ ba: là khoản tiền DNBH bỏ ra để khiếu nại những người gây ra thiệt hại cho người được bảo hiểm mà theo luật, DNBH được thế quyền người được bảo hiểm để đòi bồi thường. Chi xử lý bồi thường 100%: là khoản chi DNBH bỏ ra để bán thanh lý những đối tượng bảo hiểm bị tổn thất toàn bộ (chủ yếu là tổn thất toàn bộ ước tính) đã được bồi thường và DNBH được quyền thu hồi. Chi quản lý đại lý: là khoản chi cho công việc tìm kiếm, tuyển dụng lựa chọn, đào tạo, huấn luyện và giám sát quá trình hành nghề của đại lý bảo hiểm. Chi phí bán hàng trong bảo hiểm. Chi phí bán hàng là khoản chi ra trong quá trình bán các sản phẩm bảo hiểm. Trong thực tế, các DNBH thường gộp khoản chi phí này vào khoản chi phí quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên về bản chất đây là khoản chi chỉ nảy sinh trong khâu bán hàng trực tiếp của DNBH, do vậy đối với những doanh nghiệp bảo hiểm mà thực hiện trực tiếp việc phân phối các sản phẩm bảo hiểm với quy mô lớn thì đây là khoản chi quan trọng và cần thiết phải có sự quản lý theo dõi riêng. Chi phí bán hàng trong bảo hiểm bao gồm: Chi phí nhân viên: là khoản chi phí tiền lương và các khoản trích theo lương, tiền thưởng và các khoản phụ cấp khác cho các nhân viên trực tiếp bán sản phẩm bảo hiểm. Chi phí dụng cụ, đồ dùng: là trị giá của các công cụ, dụng cụ đồ dùng, phục vụ cho quá trình bán sản phẩm bảo hiểm. Chi phí ấn chỉ: là chi phí cho việc mua và quản lý các ấn chỉ trong khai thác quản lý các hoạt động bảo hiểm. Chi khấu hao tài sản cố định : là các khoản tiền để trả cho các đơn vị cá nhân bên ngoài do cung cấp dịch vụ, lao vụ cho quá trình bán sản phẩm bảo hiểm. Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi khác trong quá trình bán sản phẩm bảo hiểm, bao gồm: chi quảng cáo thương mại hóa sản phẩm bảo hiểm, chi tiếp khách, tổ chức hội nghị, tuyên truyền… Chi phí quản lý doanh nghiệp Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí cho việc quản lý điều hành, quản lý kinh doanh chung, quản lý hành chính và phục vụ chung khác liên quan hoạt động của DNBH. Cũng như chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm các khoản chủ yếu là: Chi phí nhân viên quản lý; Chi phí vật tư quản lý; Chi phí đồ dùng văn phòng, Chi phí khấu hao tài sản cố định dùng trong quản lý, Chi trích dự phòng giảm giá hàng hóa tồn kho, nợ phải thu khó đòi; Chi phí dịch vụ mua ngoài; Chi phí bằng tiền khác; Thuế và các khoản phí, lệ phí, lãi vay. Do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, DNBH có các khoản phải thu nhưng lại không được coi là doanh thu mà là khoản để giảm chi phát sinh trong kỳ, bao gồm: Thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm: khi có tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, DNBH phải có trách nhiệm bồi thường tổn thất cho bên tham gia bảo hiểm. Nhưng nếu hợp đồng bảo hiểm này đã được tái bảo hiểm, DNBH sẽ được công ty nhận tái bảo hiểm trả cho một phần số tiền đã bồi thường theo cam kết trong hợp đồng tái bảo hiểm. Đây được coi là thu bồi thường nhượng tái bảo hiểm, làm giảm chi bồi thường bảo hiểm gốc. Thu đòi người thứ ba bồi hoàn: theo nguyên tắc “ thế quyền” trong bảo hiểm, nếu tổn thất xảy ra có liên quan đến trách nhiệm của bên thứ ba, bảo hiểm vẫn bồi thường tổn thất đó nhưng sẽ thế quyền người được bảo hiểm đòi bên thứ ba. Thu hàng đã xử lý, bồi thường 100% : trong kinh doanh bảo hiểm, nếu có tổn thất toàn bộ (bao gồm tổn thất toàn bộ thực tế và tổn thất toàn bộ ước tính) thuộc phạm vi bảo hiểm, DNBH bồi thường 100% giá trị thiệt hại. Tuy nhiên giá trị còn lại của đối tượng bảo hiểm hay giá trị của hàng đã xử lý bồi thường 100% là thuộc về DNBH và đây cũng được coi là khoản thu làm giảm chi bồi thường bảo hiểm gốc của DNBH. 2.2.3. Chi phí hoạt động tài chính Chi phí hoạt động tài chính là toàn ._.bộ các khoản chi phí cho các hoạt động về tài chính của DNBH trong kỳ. Chi phí hoạt động tài chính bao gồm: Chi phí hoạt động đầu tư vốn Khoản chi này bao gồm các khoản: chi phí mua giới, chi thủ tục phí ngân hàng, chi thù lao cho các tổ chức đầu tư tín thác, chi giao dịch khác, trích dự phòng giảm giá tài sản đầu tư. Những hoạt động đầu tư chủ yếu mà DNBH tiến hành là: Hoạt động mua, bán và nắm giữ chứng khoán các loại; Hoạt động tham gia góp vốn liên doanh liên kết; Hoạt động kinh doanh bất động sản; Hoạt động cho vay, gửi tiền tại các tổ chức tín dụng; Các hoạt động tài chính khác. Lãi trả cho các chủ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ: là khoản tiền doanh nghiệp bảo hiểm cam kết chắc chắn trả cho chủ hợp đồng theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã ký kết. Cần phân biệt lãi trả theo cam kết với khoản lãi chia thêm cho chủ hợp đồng. Lãi chia thêm là khoản tiền doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ chia thêm cho khác hàng từ lợi nhuận của doanh nghiệp, đây là khoản lãi được chia không có sự đảm bảo chắc chắn của doanh nghiệp. Chi phí cho thuê tài sản: là các khoản chi bằng tiền phát sinh trong việc DNBH cho thuê tài sản các tổ chức cá nhân bên ngoài. 2.2..4. Chi phí khác Chi phí hoạt động khác là những khoản chi cho những hoạt động xảy ra không thường xuyên của DNBH trong kỳ. Chi phí hoạt động khác gồm: chi về nhượng bán thanh lý tài sản cố định, chi phí cho việc thu hồi khoản nợ thu khó đòi đã xóa nay thu hồi được, chi tiền phạt do vi phạm hợp đồng, chi phí do kế toán ghi nhầm hoặc bỏ xót khi ghi sổ kế toán, giá trị còn lại của tài sản cố định khi mang đi thanh lý nhượng bán… Các nhân tố ảnh hưởng đến doanh thu và chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm 3.1. Các nhân tố ảnh hưởng doanh thu Doanh thu là một chỉ tiêu đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này đặc biệt có ý nghĩa đối với hoạt động của các DNBH vì cơ sở hoạt động kinh doanh bảo hiểm là quy luật số lớn, lấy “số đông bù số ít”. Doanh thu của DNBH chịu tác động của nhiều nhân tố trong đó có các nhân tố cơ bản sau: Mức phí bảo hiểm: Đây là nguồn thu đầu tiên và có vai trò quyết định đối với hoạt động của DNBH. Việc định phí của các DNBH được dựa trên các nhân tố: Xác suất rủi ro: Đây là cơ sở khoa học không thể thiếu khi DNBH định phí bảo hiểm. Xác suất rủi ro cao thì mức phí cũng phải cao và ngược lại. Điều kiện bảo hiểm: Điều kiện bảo hiểm thể hiện phạm vi trách nhiệm đối với các rủi ro được DNBH nhận bảo hiểm. Điều kiện bảo hiểm càng nhiều, phạm vi bảo hiểm càng mở rộng, phí bảo hiểm càng cao do khả năng chi trả bồi thường của DNBH càng lớn. Thời hạn bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm luôn được giới hạn về mặt thời gian. Khi thời hạn bảo hiểm dài có nghĩa là khả năng gặp rủi ro lớn hơn và tất nhiên mức phí cũng phải tăng lên. Trong bảo hiểm nhân thọ, việc tính phí bảo hiểm chịu ảnh hưởng lớn của thời hạn bảo hiểm. Bảo hiểm nhân thọ không chỉ mang tính rủi ro mà còn mang tính tiết kiệm, khi định phí còn phải tính đến giá trị thời gian của đồng tiền. Giá trị bảo hiểm, số tiền bảo hiểm và hạn mức trách nhiệm của DNBH. Đây cũng là nhân tố rất cơ bản ảnh hưởng trực tiếp đến mức phí bảo hiểm. Đối với phần lớn các nghiệp vụ, các sản phẩm bảo hiểm, mức phí bảo hiểm được tính toán trên cơ sở những nhân tố này và tỷ lệ phí bảo hiểm. Chi phí quản lý doanh nghiệp: vì chi phí quản lý, điều hành doanh nghiệp là một bộ phần cấu thành phí bảo hiểm toàn phần. Ngoài ra, khi định phí bảo hiểm, DNBH không thể bỏ qua một số nhân tố quan trọng khác như tình hình cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, lợi nhuận từ hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, quy định của pháp luật về mức phí sàn, phí trần… Số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm: đối với DNBH đây là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới doanh thu. Để cạnh tranh, DNBH có thể giảm phí bảo hiểm nhưng tổng doanh thu của doanh nghiệp vẫn không bị giảm và thậm chí còn tăng vì lượng khách hàng mua bảo hiểm tại doanh nghiệp cũng tăng lên khi phí giảm. Khi số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm lớn còn làm cho việc định phí của DNBH đảm bảo được quy luật số đông. Quy định của pháp luật: hoạt động của DNBH không nằm ngoài khuôn khổ pháp luật và chịu sự tác động của pháp luật. Doanh thu của DNBH sẽ bị ảnh hưởng khi Nhà Nước quy định mức phí trần, mức phí sàn. Thị phần của DNBH có thể tăng, giảm dẫn tới doanh thu bị ảnh hưởng khi Nhà Nước thực hiện chính sách đóng cửa hay mở cửa thị trường bảo hiểm. Một số quy định của pháp luật làm tăng lượng khách hàng tham gia bảo hiểm, ví dụ: quy định bắt buộc mua bảo hiểm trách nhiệm của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba, bảo hiểm trách nhiệm của chủ sử dụng lao động đối với người lao động, bảo hiểm cháy… điều đó rất có lợi cho các DNBH vì khách hàng tham gia tăng sẽ làm cho doanh thu phí tăng. Hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm Bên cạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bản thân hoạt động đầu tư cũng tạo ra doanh thu cho DNBH. Ngoài ra, hoạt động đầu tư còn ảnh hưởng đến việc định phí sản phẩm bảo hiểm. Những sản phẩm bảo hiểm nhân thọ được thiết kế có tỷ lệ lãi kỹ thuật cao mà hoạt động đầu tư không đáp ứng được sẽ rất khó cho các DNBH nhân thọ tung những sản phẩm đó ra thị trường. 3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí Đối với DNBH, chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là khoản chi phí cơ bản và luôn chiếm tỷ trọng lớn, do đó khi nói đến các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí của DNBH, trước hết phải kể đến một số nhân tố cơ bản sau: Giá trị thiệt hại thực tế thuộc phạm vi bảo hiểm của đối tượng bảo hiểm: giá trị thiệt hại thực tế này sẽ quyết định số tiền bồi thường của DNBH, là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chi của doanh nghiệp. Nó được xác định dựa trên: Mức độ thiệt hại thực tế: khi định phí bảo hiểm, phải dựa vào xác suất rủi ro tính theo số liệu thống kê quá khứ, còn số tiền bồi thường phát sinh lại phụ thuộc vào mức độ thiệt hại thực tế xảy ra trong năm nghiệp vụ. Mức độ thiệt hại thực tế có thể cao hơn mức dự đoán do có nhiều yếu tố khách quan không lường trước được tác động, làm cho mức độ rủi ro tăng lên xét cả về số vụ và mức độ thiệt hại bình quân một vụ, dẫn đến số tiền bồi thường cũng tăng cao hơn so với dự kiến. Ngược lại, mức độ thiệt hại thực tế cũng có thể thấp hơn mức dự đoán của DNBH, từ đó làm giảm chi phí bồi thường. Khi quản lý chi phí, DNBH phải đặc biệt chú ý tới nhân tố này. Phạm vi bảo hiểm: phạm vi bảo hiểm thể hiện giới hạn trách nhiệm của DNBH về phạm vi rủi ro bảo hiểm, phạm vi không gian và thời gian, phạm vi số tiền bảo hiểm. Chính vì vậy phạm vi bảo hiểm ảnh hưởng trực tiếp đến số tiền bồi thường hoặc chi trả tiền bảo hiểm. Phạm vi bảo hiểm càng rộng, mức độ thiệt hại thực tế của đối tượng bảo hiểm thuộc phạm vi trách nhiệm của bảo hiểm càng lớn và ngược lại. Công tác quản lý rủi ro: đây là nhân tố có tính chủ quan, ảnh hưởng lớn đến số tiền chi trả, bồi thường của DNBH. Nếu DNBH làm tốt công tác này, mức độ thiệt hại thực tế thuộc phạm vi bảo hiểm sẽ giảm, kéo theo số tiền bồi thường hay chi trả bảo hiểm cũng giảm. Số tiền bồi thường hay chi trả bảo hiểm giảm có thể lớn hơn nhiều so với chi phí DNBH bỏ ra để thực hiện công tác quản lý rủi ro. Nếu công tác quản lý rủi ro làm không tốt thì hậu quả là ngược lại. Tình hình trục lợi bảo hiểm: trục lợi bảo hiểm là hành vi của người tham gia bảo hiểm cố tình gian dối, lừa đảo, có ý định ngay từ khi tham gia bảo hiểm hoặc sau khi rủi ro xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm nhằm chiếm đoạt số tiền bồi thường của bảo hiểm mà lẽ ra họ không được hưởng. Có nhiều hình thức trục lợi bảo hiểm như: hợp lý hóa ngày và hiệu lực bảo hiểm khi rủi ro xảy ra vào thời điểm đã hết hiệu lực hợp đồng; lập hồ sơ đòi bồi thường nhiều lần không tuân theo nguyên tắc “ đóng góp” trong bảo hiểm tài sản; khai tăng mức độ thiệt hại… ngoài ra, các hành vi trục lợi của khách hàng bảo hiểm còn có sự tiếp tay của nhân viên bảo hiểm, của các cơ quan chức năng có liên quan. Các hành vi này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh, làm tăng chi phí của DNBH. Đồng thời, hành vi trục lợi bảo hiểm còn ảnh hưởng xấu đến đạo đức xã hội, kỷ cương pháp luật, làm nhiễu thông tin và mất uy tín của DNBH. Trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ: Các quỹ dự phòng nghiệp vụ được tính là một khoản chi và chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các DNBH. DNBH phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo quy định của pháp luật, đây là một khoản chi rất đặc thù và nhạy cảm đối với DNBH. Mặc dù dự phòng nghiệp vụ là một khoản chi, nhưng thực chất DNBH vẫn nắm giữ lượng tiền này. Và chỉ cần một thay đổi nhỏ trong việc trích lập dự phòng nghiệp vụ cũng làm ảnh hưởng đến tổng chi từ đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của DNBH. Quy định của pháp luật: quy định của pháp luật không chỉ ảnh hưởng đến doanh thu mà còn ảnh hưởng đến chi phí của DNBH. Ví dụ: Nhà Nước quy định về lập dự phòng nghiệp vụ, hay Nhà Nước khống chế mức trả hoa hồng của DNBH cho các đại lý và môi giới bảo hiểm. Tổ chức bộ máy hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm: đây là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí quản lý của doanh nghiệp. Để đảm bảo nguyên tắc dàn trải và phân chia rủi ro, để phân phối sản phẩm đến tận tay khách hàng, các DNBH thường phải hoạt động trên phạm vi địa lý rộng. Điều đó yêu cầu doanh nghiệp phải có một bộ máy tổ chức vừa tập trung, vừa phân tán, với những trang thiết bị và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại hỗ trợ cho công tác quản lý. Vì vậy, một mô hình tổ chức bộ máy hoạt động hợp lý, bao gồm cả tổ chức mạng lưới đại lý, môi giới hay cộng tác viên bảo hiểm, sẽ giúp DNBH tiết kiệm được các chi phí quản lý của mình. Phương pháp và các chỉ tiêu phân tích tình hình doanh thu, chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm. 4.1. Sự cần thiết khách quan của phân tích doanh thu và chi phí Doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một trong những chỉ tiêu được sử dụng để phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Phân tích hoạt động kinh doanh đi vào các kết quả đạt được, những hoạt động hiện hành và dựa trên kết quả phân tích đó để ra các quyết định quản trị kịp thời trước mắt – ngắn hạn hoặc xây dựng kế hoạch chiến lược – dài hạn. Phân tích hoạt động kinh doanh chiếm một vị trí quan trọng trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường vấn đề đặt lên hàng đầu đối với mọi doanh nghiệp là hiệu quả kinh doanh, từ đó mới có thể đứng vững trên thị trường, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp khác lại vừa có điều kiện tích lũy và mở rộng sản xuất kinh doanh. Hoạt động phân tích vì vậy mang tính ý thức, nó có tác dụng giúp doanh nghiệp tự đánh giá mình về thế mạnh, thế yếu để củng cố, phát huy hoặc khắc phục, cải tiến quản lý. Phát huy mọi tiềm năng của thị trường, khai thác tối đa nguồn lực của doanh nghiệp, nhằm đạt đến hiệu quả cao nhất trong kinh doanh. Phân tích kinh doanh giúp dự báo, đề phòng những hạn chế rủi ro bất định trong kinh doanh. 4.2. Các phương pháp phân tích Khi phân tích tình hình doanh thu và chi phí DNBH có thể sử dụng kết hợp các phương pháp thống kê và toán kinh tế, trong đó có cả các phương pháp truyền thống và các phương pháp hiện đại. Việc lựa chọn phương pháp phân tích phụ thuộc chủ yếu vào mục đích, yêu cầu; vào hệ thống chỉ tiêu và mối liên hệ giữa các hiện tượng, các yếu tố phân tích; vào thời gian, không gian và nguồn tài liệu phân tích… Các phương pháp phân tích cụ thể bao gồm rất nhiều loại, song có thể tổng hợp lại thành 4 loại sau đây: Phương pháp chi tiết Mọi kết quả kinh doanh trong DNBH đều cần thiết và có thể chi tiết theo những hướng khác nhau. Thông thường trong phân tích, phương pháp phân tích được thực hiện theo các hướng: Chi tiết theo bộ phận cấu thành chỉ tiêu để biểu hiện về mặt lượng và xác định cơ cấu của từng bộ phận trong tổng thể. Qua đó đánh giá mức độ đạt được và vai trò của từng bộ phận cấu thành chỉ tiêu phân tích. Ví dụ, doanh thu phí bảo hiểm có thể chi tiết theo nghiệp vụ, theo đối tượng, theo loại hình kinh doanh và tính chất của rủi ro được bảo hiểm… Chi tiết theo thời gian để kiểm tra, đánh giá mức độ đạt được về một chỉ tiêu nào đó theo tiến độ thời gian đã đặt ra, từ đó giúp DNBH tìm ra các biện pháp hữu hiệu trong chỉ đạo hoạt động kinh doanh của mình nhằm hoàn thành kế hoạch đặt ra. Chi tiết theo không gian nhằm đánh giá kết quả thực hiện của từng bộ phận, từng đơn vị, qua đó phát hiện các bộ phận, các đơn vị tiên tiến hay yếu kém trong việc thực hiện các mục tiêu kinh doanh. Phương pháp này không chỉ giúp đánh giá thực trạng ở từng đơn vị, từng bộ phận mà còn phát hiện được khả năng tiềm tàng để mở rộng thị trường, triển khai sản phẩm mới, tuyển dụng đại lý bảo hiểm…chẳng hạn số đơn bảo hiểm hỏa hoạn đã cấp có thể chi tiết theo đơn vị hành chính, vùng, thành thị và nông thôn, các đơn vị trong cổ đông và ngoài cổ đông tham gia bảo hiểm… b. Phương pháp so sánh So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích hoạt động kinh doanh để xác định xu hướng, mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Khi vận dụng phương pháp này phải giải quyết những vấn đề cơ bản sau: Xác định gốc so sánh: Gốc so sánh phụ thuộc vào mục đích và yêu cầu của quá trình phân tích. Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu thì gốc so sánh là trị số của chỉ tiêu kỳ trước (tháng trước, quý trước và năm trước…). Khi nghiên cứu tình hình thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong các khoảng thời gian của một năm thường so sánh với cùng kỳ năm trước (tháng hoặc quý). Khi đánh giá mức độ biến động so với các mục tiêu đặt ra, thì trị số thực tế sẽ được so sánh với mục tiêu đề ra…Các trị số của chỉ tiêu của kỳ trước, kế hoạch, mục tiêu hoặc cùng kỳ năm trước gọi chung là trị số kỳ gốc. Thời kỳ chọn để phân tích gọi là kỳ phân tích. Ngoài việc so sánh theo thời gian, phân tích hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn tiến hành so sánh giữa các đơn vị, bộ phận về một chỉ tiêu nào đó. Khi ấy, gốc so sánh có thể là mức độ đạt được của một đơn vị tiên tiến nào đó hoặc là mức độ đạt được bình quân của cả DNBH. Ví dụ, so sánh mức thu nhập bình quân của một cán bộ nhân viên chi nhánh bảo hiểm A so với mức thu nhập bình quân của cả doanh nghiệp bảo hiểm. Điều kiện so sánh: khi so sánh theo thời gian cần đảm bảo các điều kiện về nội dung kinh tế của chỉ tiêu, phương pháp và đơn vị tính toán… nội dung kinh tế của chỉ tiêu thường có tính ổn định, nó chỉ thay đổi khi phân chia lại các đơn vị, bộ phận quản lý hoặc thay đổi chính sách quản lý. Nếu có sự thay đổi phải tính toán lại trị số gốc theo nội dung mới để so sánh. Khi so sánh mức độ đạt được về một chỉ tiêu nào đó, các đơn vị, các bộ phận khác nhau cần đảm bảo tính chất “so sánh được” giữa chúng. Tính “so sánh được” hay còn gọi là “tổng thể đồng chất” thể hiện tính thống nhất ở phương hướng và điều kiện kinh doanh, thời gian và đơn vị tính toán Mục tiêu so sánh: là xác định mức biến động tuyệt đối, tương đối và xu hướng biến động của mỗi chỉ tiêu phân tích. Mức biến động tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu giữa hai kỳ, còn mức biến động tương đối là kết quả so sánh giữa trị số kỳ phân tích với trị số kỳ gốc. Hoặc giữa trị số kỳ phân tích và trị số kỳ gốc nhưng đã được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có liên quan, mà chỉ tiêu liên quan này quyết định quy mô và chỉ tiêu phân tích. Nếu sử dụng một chuỗi các so sánh liên tục về một chỉ tiêu nào đó theo thời gian, có thể thấy rõ xu hướng của sự biến động. Phương pháp loại trừ Có nhiều trường hợp khi phân tích hoạt động kinh doanh trong doanh nghiệp, cần nghiên cứu ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh nhờ phương pháp loại trừ. Loại trừ là một phương pháp nhằm xác định mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến kết quả kinh doanh, bằng cách khi xác định ảnh hưởng của nhân tố này, thì loại trừ ảnh hưởng của nhân tố khác. Chẳng hạn, khi phân tích doanh thu phí bảo hiểm vật chất xe cơ giới, có thể quy về sự ảnh hưởng của 3 nhân tố sau: số xe tham gia bảo hiểm, phí bảo hiểm bình quân mỗi loại xe, cơ cấu các loại xe tham gia bảo hiểm. Rõ ràng, cả 3 nhân tố đó cùng đồng thời ảnh hưởng đến doanh thu phí bảo hiểm vật chất thân xe cơ giới; nhưng để xác định mức độ ảnh hưởng của một nhân tố nào đó phải loại trừ ảnh hưởng của hai nhân tố kia. Phương pháp loại trừ thể hiện rõ nhất khi phân tích “chỉ số tổng hợp” hoặc “chỉ số bình quân” về một chỉ tiêu nào đó. Hoặc cũng có thể dựa vào phương pháp “số chênh lệch” hay phương pháp “thay thế liên hoàn” để loại trừ. Tuy nhiên, khi sử dụng phương pháp loại trừ phải chú ý đến điều kiện vận dụng, chẳng hạn các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích phải được biểu hiện dưới dạng tích số (hay thương số) và việc sắp xếp trình tự các nhân tố ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích cần tuân theo quy luật “lượng biến dẫn đến chất biến”. Phương pháp liên hệ Mọi kết quả kinh doanh của DNBH đều có mối liên hệ mật thiết với các bộ phận, các mặt, các yếu tố trong quá trình hoạt động kinh doanh. Để lượng hóa các mối quan hệ đó, ngoài các phương pháp đã nêu, có thể sử dụng phổ biến các mối liên hệ sau đây để phân tích Liên hệ cân đối (như: cân đối thu chi, cân đối giữa tài sản cố định với tài sản lưu động, cân đối giữa vốn chủ sở hữu với tổng ngồn vốn…) Liên hệ cùng chiều và ngược chiều (như: chi phí tuyên truyền quảng cáo với doanh thu phí bảo hiểm, chi phí đề phòng hạn chế tổn thất với chi bồi thường…) Liên hệ trực tiếp với liên hệ gián tiếp; Liên hệ tuyến tính và phi tuyến tính; Liên hệ một chiều và liên hệ nhiều chiều; Liên hệ thực (liên hệ tương quan hay liên hệ hàm số) 4.3. Các chỉ tiêu phân tích Trong hoạt động kinh doanh người ta thường sử dụng các chỉ tiêu chi phí để đánh giá việc sử dụng quản lý các chi phí cũng như hạch toán chi phí cho thuận lợi. Đặc biệt trong phân tích choạt động kinh doanh sử dụng nhiều chỉ tiêu chi phí khác nhau nhằm đánh giá đầy đủ và chính xác chi phí hoạt động của doanh nghiệp. Tổng chi phí: là chỉ tiêu tuyệt đối nói lên quy mô của chi phí. Chỉ tiêu này phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh có liên quan đến sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp (hoặc một bộ phận, một loại sản phẩm của doanh nghiệp). Tỷ suất chi phí: đây là chỉ tiêu tương đối nói lên trình độ tổ chức hoạt động kinh doanh, chất lượng quản lý chi phí. Nhìn chung doanh nghiệp nào có tỷ suất chi phí thấp có thể sơ bộ kết luận doanh nghiệp đó kinh doanh có hiệu quả. Tỷ suất chi phí thấp đưa đến lợi nhuận cao và từ đó tạo điều kiện để lợi nhuận càng nhiều. P = * 100 Trong đó: P : Tỷ suất chi phí T : Tổng chi phí M : Doanh thu Tỷ suất chi phí được coi là một chỉ tiêu chất lượng, tỷ suất chi phí của sản phẩm nào thấp, của bộ phận nào thấp thì doanh nghiệp cần đẩy mạnh chất lượng sản xuất kinh doanh ở những sản phẩm, bộ phận đó thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Tỷ trọng chi phí: là chỉ tiêu tương đối phản ánh chi phí đó chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng phí. Pi = *100 Trong đó Pi : Tỷ trọng chi phí của khoản mục i ti :Chi phí của khoản mục i Tỷ trọng chi phí của từng sản phẩm giúp chúng ta so sánh với tỷ trọng doanh thu, tỷ trọng lợi nhuận của từng mặt hàng trong tổng số chung để tìm ra những mặt hàng thuận lợi mở rộng sản xuất kinh doanh và nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp. Một số chỉ tiêu khác Mức tăng giảm tỷ suất chi phí P = P1 - P0 Tốc độ tăng giảm của tỷ suất chi phí Tm = * 100 Do đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là thu phí trước, bồi thường và chi trả bảo hiểm sau nên số phí thu được thực chất là tiền của khách hàng chứ không phải của DNBH, bởi vậy DNBH phải sử dụng thế nào cho có hiệu quả. Mục tiêu của ngành kinh doanh bảo hiểm nói chung và mỗi DNBH nói riêng là khắc phục rủi ro, ổn định cuộc sống và sản xuất cho khách hàng từ đó góp phần ổn định xã hội. Bởi vậy số tiền bảo hiểm thu được sử dụng hiệu quả thì DNBH cũng như ngành bảo hiểm cũng sẽ không thực hiện được mục tiêu này. Căn cứ vào mục đích sử dụng phí của các doanh nghiệp có thể xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng phí như sau: Hiệu quả bồi thường và chi trả tiền bảo hiểm Tổng số tiền bồi thường (chi trả) trong kỳ Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Chỉ tiêu này nói lên một đồng phí bảo hiểm trong kỳ nhà bảo hiểm đã tiến hành bồi thường bao nhiêu đồng cho khách hàng từ đó ổn định cuộc sống cho họ. Hiệu quả đầu tư trở lại nền kinh tế Giá trị đầu tư trở lại nền kinh tế trong kỳ Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Chỉ tiêu này nói lên một đồng phí bảo hiểm thu được trong kỳ nhà bảo hiểm đã đầu tư lại nền kinh tế - xã hội được bao nhiêu đồng. Hiệu quả thu nộp ngân sách Tổng số tiền thu nộp ngân sách trong kỳ Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Chỉ tiêu này cho thấy cứ một đồng phí bảo hiểm thu được trong kỳ thì nhà bảo hiểm thu nộp ngân sách bao nhiêu đồng. Hiệu quả sử dụng chi phí bán hàng Tổng chi phí bán hàng Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Tỷ số này cho biết cứ một đồng phí bảo hiểm thu được trong kỳ thì nhà bảo hiểm phải sử dụng bao nhiêu đồng để chi bán hàng. Hiệu quả giám định và đề phòng hạn chế tổn thất Chi phí giám định, đề phòng hạn chế tổn thất Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Chỉ tiêu này cho thấy cứ một đồng phí bảo hiểm thu được trong kỳ thì nhà bảo hiểm sử dụng bao nhiêu đồng để chi cho công tác giám định, đề phòng hạn chế tổn thất. Hiệu quả sử dụng phí để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp bảo hiểm Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Chỉ tiêu này cho thấy cứ một đồng phí bảo hiểm thu được trong kỳ thì nhà bảo hiểm tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Hiệu quả xã hội Tổng số khách hàng được chi trả bồi thường trong kỳ Doanh thu phí bảo hiểm trong kỳ = Chỉ tiêu này cho thấy cứ một đồng phí bảo hiểm thu được trong kỳ đã góp phần ổn định cuộc sống cho bao nhiêu người. Ngoài các chỉ số áp dụng cho các doanh nghiệp nói chung, đánh giá về sự vững mạnh về tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm còn cần xem xét một số chỉ tiêu riêng cho kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và bảo hiểm nhân thọ như sau: Tỷ lệ phí giữ lại Tổng phí bảo hiểm – phí nhượng tái bảo hiểm Tổng phí bảo hiểm Tỷ lệ phí giữ lại = Tỷ lệ này càng lớn thể hiện khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm càng cao. Ngoài ra, phần giữ lại mức trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm cao còn góp phần tăng nguồn dự trữ ngoại tệ cho đất nước. Tỷ lệ chi quản lý Chi phí quản lý Tổng phí bảo hiểm Tỷ lệ chi quản lý = * 100 Tỷ lệ này cho biết để khai thác một đồng doanh thu phí, thì doanh nghiệp bảo hiểm phải mất bao nhiêu đồng chi phí, từ đó để có biện pháp tiết kiệm chi phí. Tỷ lệ hoa hồng Chi hoa hồng Tổng phí bảo hiểm Tỷ lệ hoa hồng = * 100 Tỷ lệ này cho biết để khai thác được một đồng doanh thu thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chi bao nhiêu đồng hoa hồng. Tổng số tiền bồi thường (chi trả) Tổng chi phí Tỷ lệ chi bồi thường Tỷ lệ chi bồi thường = *100 Tỷ lệ bồi thường Tổng số tiền bồi thường (chi trả) trong kỳ Tổng phí bảo hiểm thu được trong kỳ Tỷ lệ bồi thường = *100 Tỷ lệ duy trì hợp đồng của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Số HĐBH có hiệu lực + đầu năm Số HĐBH khai thác mới - trong năm Số HĐBH hủy bỏ - trong năm Số HĐBH đáo hạn Số HĐBH có hiệu lực + đầu năm Số HĐBH khai thác mới - trong năm Số HĐBH đáo hạn Tỷ lệ duy trì = hợp đồng *100 Tỷ lệ hủy bỏ hợp đồng của các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ Tỷ lệ hủy bỏ = hợp đồng Số hợp đồng bảo hiểm hủy bỏ trong năm Số HĐBH có hiệu lực + đầu năm Số HĐBH khai thác mới - trong năm Số HĐBH đáo hạn * 100 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp là thước đo sự phát triển của bản thân doanh nghiệp và phản ánh trình độ sử dụng chi phí trong việc tạo ra những kết quả kinh doanh nhất định, nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh chỉ có thể xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả với chi phí. Nếu lấy mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so với một chỉ tiêu phản ánh chi phí, ta được một chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh. Xét trên phương diện thống kê, để biểu hiện và đo lường hiệu quả kinh doanh của DNBH không thể dùng một chỉ tiêu mà phải có một hệ thống chỉ tiêu. Bởi vì, nội dung của phạm trù hiệu quả kinh doanh rất rộng và rất phức tạp. Tính chất phức tạp thể hiện ngay ở bản chất mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Chi phí với tư cách là những yếu tố đầu vào của hoạt động kinh doanh rất đa dạng và bao gồm nhiều loại. Ở góc độ kinh tế vi mô, nếu hiểu theo nghĩa rộng, chi phí bao gồm toàn bộ nguồn nhân tài, vật lực huy động vào hoạt động kinh doanh. Còn đại lượng kết quả lại được thể hiện ở nhiều chỉ tiêu khác nhau. Việc tính toán và xác định mỗi chỉ tiêu, việc lựa chọn chỉ tiêu nào để phản ánh hiệu quả là những vấn đề phức tạp. Vì thế, để đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNBH phải sử dụng một hề thống các chỉ tiêu. Mỗi chỉ tiêu phản ánh một mặt, một quá trình kinh tế nào đó. Nếu ký hiệu một chỉ tiêu chi phí nào đó là C và một chỉ tiêu kết quả kinh doanh nào đó là K, thì chỉ tiêu hiệu quả H được tính từ hai chỉ tiêu trên sẽ là: H = hoặc H = Như vậy về nguyên tắc cứ mỗi chỉ tiêu phản ánh kết quả kinh doanh so sánh với một chỉ tiêu chi phí nào đó sẽ tạo thành một chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh tính theo chiều thuận K/C hoặc chiều ngược lại C/K. Nếu có n chỉ tiêu kết quả và m chỉ tiêu chi phí thì số lượng chỉ tiêu hiệu quả sẽ là 2m.n. Nếu xét trên góc độ kinh tế: hiệu quả kinh doanh của DNBH được đo bằng tỷ số giữa doanh thu hoặc lợi nhuận với tổng chi phí chi ra trong kỳ: Hd = He = Trong đó: Hd, He - Hiệu quả kinh doanh của DNBH; D - Doanh thu trong kỳ; L - Lợi nhuận thu được trong kỳ; C - Tổng chi phí chi ra trong kỳ; Chỉ tiêu Hd nói lên cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ, tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, còn chỉ tiêu He phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận cho DNBH. Các chỉ tiêu trên càng lớn càng tốt, vì với chi phí nhất định, doanh nghiệp sẽ có mức doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng. Nếu xét trên góc độ xã hội: hiệu quả kinh doanh của DNBH được thể hiện ở hai chỉ tiêu sau: Hx = Hx = Trong đó: Hx - Hiệu quả xã hội của công ty bảo hiểm; CBH - Tổng chi phí cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong kỳ; KTG - Số khách hàng tham gia bảo hiểm trong kỳ; KBT - Số khách hàng được bồi thường trong kỳ; Chỉ tiêu Hx = phản ánh cứ một đồng chi phí chi ra trong kỳ đã thu hút được bao nhiêu khách hàng tham gia bảo hiểm. Chỉ tiêu Hx = nói lên với cùng chi phí đó đã góp phần giải quyết và khắc phục hậu quả cho bao nhiêu khách hàng gặp rủi ro trong kỳ nghiên cứu. Tất cả các chỉ tiêu trên phản ánh tổng hợp nhất mọi mặt hoạt động kinh doanh của DNBH. Nếu xem xét ở từng mặt, từng khâu và từng nghiệp vụ bảo hiểm có thể tính được các chỉ tiêu hiệu quả khác nhau để phục vụ cho quá trình đánh giá và phân tích hoạt động kinh doanh. Tuy vậy, tất cả các chỉ tiêu hiệu quả đều phải đảm bảo nguyên tắc khi xây dựng, điều đó có nghĩa là mỗi chỉ tiêu phải phản ánh được trình độ sử dụng loại chi phí nào đó trong việc tạo ra những kết quả nhất định. Chương II: Phân tích tình hình doanh thu và chi phí hoạt động kinh doanh bảo hiểm của công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex giai đoạn 2003 – 2007. I. Giới thiệu về Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO). 1. Lịch sử hình thành và phát triển của PJICO Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (gọi tắt là PJICO) là doanh nghiệp cổ phần được thành lập theo Giấy phép số 1873/GP-UB ngày 8 tháng 6 năm 1995 do Chủ tịch ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp với thời gian hoạt động 25 năm. PJICO là doanh nghiệp cổ phần đầu tiên được thành lập trong lĩnh vực bảo hiểm do các cổ đông lớn là các Tổng công ty lớn của Nhà Nước sáng lập đó là: Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex), Tổng công ty thép Việt Nam (VSC), Ngân Hàng ngoại thương Việt Nam(Vietcombank), Công ty vật tư và thiết bị toàn bộ(Matexim), Công ty Tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam(VINARE), CĐ Liên hiệp đường sắt Việt Nam, Công ty điện tử Hà Nội(Hanel). Với số vốn điều lệ ban đầu của công ty là 55 tỷ đồng. Công ty được cấp giấy chứng nhận đủ tiêu chuẩn và điều kiện hoạt động kinh doanh bảo hiểm số 06/TC/GCN ngày 27/5/1995 của Bộ Tài Chính. Ngày 15/4/2004 PJICO nhận giấy phép điều chỉnh số 06/GPĐC 12/KDBH của Bộ Tài Chính cho phép công ty bổ sung vốn điều lệ lên 70 tỷ đồng. Ngày 26/4/2007, PJICO nhận Giấy phép điều chỉnh số 06/GPĐC 19/KDBH của Bộ Tài Chính cho phép công ty bổ sung vốn điều lệ lên 140 tỷ đồng. PJICO hoạt động theo Lật kinh doanh bảo hiểm và Điều lệ hoạt động đã được Đại Hội Đồng cổ đông thông qua. Doanh nghiệp được Sở Kế Hoạch và Đầu Tư thành phố Hà Nội cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ngày 15/06/1995 và Đăng ký kinh doanh thay đổi lần 4 số 060256 ngày 21/12/2006. Lĩnh vực hoạt động kinh doanh chính của PJICO gồm kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ, tái bảo hiểm và đầu tư tài chính. Tên đơn vị: CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM PETROLIMEX Tên giao dịch quốc tế: PETROLIMEX JOINT STOCK COMPANY Tên viết tắt: PJICO Lô gô: Địa chỉ: Số 532 Đường Láng – Đống Đa – Hà Nội Điện thoại: (04) 776 0865 – (04) 776 0926 Fax: (04) 776 0868 Từ khi thành lập đến nay công ty PJICO đã luôn kinh doanh có hiệu quả cao. Với tốc độ tăng trưởng doanh thu bình quân trên 40% /năm PJICO không những bảo toàn mà còn phát triển vốn kinh doanh lên gấp 10 lần vốn góp ban đầu của các Cổ Đông. Công ty bảo hiểm PJICO đã thực sự tạo ra một thương hiệu và biểu tượng ngày càng phổ biến, có uy tín trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, được khách hàng tin tưởng và các Nhà tái bảo hiểm trên thế giới như Munich Re, Swiss Re, ERC, Goling Global, BEST RE…hậu thuẫn tích cực. Trong những năm gần đây, năm 2004 thực sự đã là một năm đột phá ấn tượng nhất đối với công ty PJICO, doanh thu tăng gần 80% so với năm 2003. Năm 2005 là một năm đầy khó khăn, tuy nhiên với sự đồng lòng của toàn thể cán bộ nhân viên PJICO đã vượt qua được khó khăn đó và đạt được kết quả doanh thu phí bảo hiểm gốc là 729 tỷ đồng tăng 22% so với năm 2004 cao hơn mức tăng trưởng chung của toàn thị trường là 15% Năm 2006 mặc dù doanh thu bảo hiểm gốc có giảm so với 2005 nhưng lợi nhuận lại tăng 2.5 lần so với 2005. Điều này khẳng định PJICO đang trên con đường phát triển ổn định, an toàn hiệu quả. Trong năm 2007 vừa qua, PJICO đã đạt được._.iá đúng khả năng. Vì vậy bên cạnh chính sách đào tạo bồi dưỡng trình độ, công ty cần phải chú ý đến việc phân phối thù lao lao động và thu nhập đúng với khả năng và công sức của người lao động, có chế độ thưởng phạt rõ ràng, gắn chặt quyền lợi của người lao động với quyền lợi của công ty, thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa như: dã ngoại, văn nghệ, thể thao để tăng cường sự đoàn kết giữa các nhân viên trong công ty cũng như tạo không khí thoải mái trong công việc hàng ngày. Làm như vậy sẽ tạo ra động lực thúc đẩy người lao động tự nâng cao trình độ và năng lực để tiến hành công việc có chất lượng và hiệu quả cao góp phần tăng kết quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nhìn chung công ty đã nhận thức được vai trò quan trọng của vấn đề phát triển nguồn nhân lực thông qua đào tạo nâng cao trình độ người lao động. Hiệu quả của việc bồi dưỡng đội ngũ lao động là rất lớn. Việc công ty quan tâm đến đào tạo con người chắc chắn sẽ ảnh hưởng tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh, từ đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả tài chính cho công ty. Thiết nghĩ, PJICO là công ty kinh doanh dịch vụ bảo hiểm, giao dịch với khách hàng là ở sự tiếp xúc giữa nhân viên công ty với khách hàng. Nhân viên nhiệt tình, đủ trình độ, nhanh chóng giải quyết bồi thường cho khách hàng và trả lời những vướng mắc của khách hàng về sản phẩm… Đây cũng là một trong những biện pháp Maketing dễ gây cảm tình, thu hút khách hàng mà lại tiết kiệm được chi phí cho công ty. Ngoài việc nâng cao trình độ người lao động thì việc nâng cao trình độ của người quản lý là hết sức cần thiết. Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý công ty có nghĩa là nâng cao hiệu quả hoạt động của công tác quản lý. Cán bộ quản lý có năng lực sẽ biết bố trí đúng người đúng việc, góp phần vào việc sử dụng có hiệu quả tài sản và sức lao động của công ty qua đó tác động tích cực đến việc nâng cao kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Nhà quản trị kinh doanh có trình độ cao có khả năng chớp được thời cơ và biết cách động viên khuyến khích huy động mọi nguồn lực trong công ty để biến cơ hội kinh doanh thành khả năng sinh lợi cao. Tóm lại: việc đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân viên của công ty có thể đem lại hiệu quả vô cùng lớn đối với việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ quản lý có vai trò như những người chèo lái con thuyền công ty nếu được đào tạo bồi dưỡng có đủ năng lực trình độ sẽ đưa con thuyền đến những đích chiến lược đã vạch ra bằng con đường ngắn nhất và trong thời gian ngắn nhất. 2. Nâng cấp cơ sở hạ tầng Hiện nay công ty đã trang bị cho các phòng ban đầy đủ máy vi tính và đã kết nối mạng Internet cho toàn bộ các cán bộ công nhân viên của công ty, nhằm thúc đẩy giao dịch qua mạng Internet, thực hiện chiến lược kinh doanh mở rộng mạng lưới phân phối qua hệ thống máy tính của công ty. Thiết lập hệ thống truyền số liệu và xử lý sự cố từ chi nhánh về công ty trên ứng dụng ADSL. Công ty cũng đã triển khai việc phòng chống virus tại văn phòng công ty và các đơn vị, tiếp tục cải tiến hệ thống trả lời tự động cho thấy hiệu quả và hình ảnh mới của PJICO đối với khách hàng. Tuy nhiên hiện nay công ty mới chỉ có một phòng tin học, chuyên nhiệm vụ sửa chữa, lập trình các phần mềm kế toán, nhưng với chiến lược kinh doanh của mình thì một phòng tin học không đủ, cần thiết phải đào tạo toàn bộ cán bộ nhân viên trong công ty khả năng sử dụng thành thạo máy tính, nhất là giao dịch với khách hàng thông qua Internet, đặc biệt phải quan tâm đến những địa bàn ở xa trụ sở chính. Việc thuê trụ sở mới đã nâng cao cơ sở hạ tầng của công ty, tạo cho mình một hạ tầng bề thế hơn, phù hợp với tầm vóc về nền tài chính hiện nay của công ty. Dù gì thì đây cũng là bộ mặt của công ty, góp phần tạo niềm tin cũng như sự tin tưởng của khách hàng đối với công ty, đặc biệt những khách hàng tiềm năng. Hiện nay công ty cũng đang xúc tiến việc tìm địa điểm và xây dựng trụ sở chính tại Hà Nội. Ngoài ra, đối với các địa bàn đóng trên địa bàn khác nhau của công ty, công ty cũng cần có sự quan tâm hơn nữa về trang thiết bị và cơ sở vật chất. 3. Quản lý chặt chẽ công tác doanh thu và chi phí các nghiệp vụ Bồi thường và chi trả bảo hiểm cho khách hàng thường là khoản chi lớn nhất đối với doanh nghiệp bảo hiểm, do đó công ty cần phải có kế hoạch để luôn đảm bảo sẵn sàng bồi thường, chi trả cho khách hàng khi có rủi ro hay sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm. Việc giải quyết bồi thường, chi trả nhanh chong, kịp thời, đầy đủ, chính xác cho khách hàng là việc làm rất cần thiết để tăng tính “hữu hình” của sản phẩm bảo hiểm, từ đó làm tăng uy tín cho công ty. Bên cạnh đó công ty cũng cần phải xây dựng các quy trình quản lý rủi ro cho từng loại nghiệp vụ, từng sản phẩm bảo hiểm. Công tác đánh giá rủi ro ban đầu là cơ sở để quyết định có nhận bảo hiểm hay không, phát hiện kịp thời những trường hợp có ý định trục lợi bảo hiểm. Nếu công ty chấp nhận bảo hiểm thì phí phải đóng là bao nhiêu cho phù hợp với mức độ rủi ro được bảo hiểm. Những hợp đồng có số tiền bảo hiểm nhỏ, để tiết kiệm chi phí, công ty có thể sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên để đánh giá rủi ro ban đầu. Đối với công tác đề phòng hạn chế tổn thất, công ty cần tiến hành thường xuyên và kết hợp với các cơ quan, ban, ngành có liên quan như: ngành giao thông vận tải, công an, giáo dục, y tế. Công ty PJICO cũng đã có những định hướng cụ thể đối với hoạt động của từng nghiệp vụ để đảm bảo quản lý công tác thu – chi được chặt chẽ và hoàn thành kế hoạch đặt ra vào năm 2008. Theo đó, nghiệp vụ xe máy sẽ gặp nhiều kho khăn do năm 2007 nhiều khách hàng đã tham gia bảo hiểm 2 năm để được tặng mũ bảo hiểm, để đạt được chỉ tiêu 160 tỷ đồng, trước hết cần phải tiếp tục cơ chế khoán mạnh (chỉ áp dụng một tiêu chí là không lỗ) và có chính sách khuyến mãi, phát triển thị trường thích hợp. Còn nghiệp vụ ô tô cũng cần có cơ chế khoán mạnh nhưng vẫn phải có biện pháp để đảm bảo sức cạnh tranh về cơ chế chi phí (đặc biệt khai thác qua các tổ chức trung gian như: Ngân hàng, công ty cho thuê tài chính…) mà vẫn đảm bảo hiệu quả. Về nghiệp vụ bảo hiểm học sinh, sinh viên có thể gần tới điểm bão hòa, khồng thể hy vọng có tăng trưởng đột biến, vì vậy công ty sẽ phải tập trung mạnh hơn vào triển khai các sản phẩm bảo hiểm mới như: bảo hiểm sức khỏe mức cao, bảo hiểm tai nạn con người có bổ sung thêm các dịch vụ giá trị gia tăng; hỗ trợ y tế khẩn cấp; tư vấn y tế; khám chữa bệnh tại nhà theo yêu cầu…Bảo hiểm trọn gói hộ gia đình, và các sản phẩm bảo hiểm du lịch đang có hiệu quả rất cao. Công ty sẽ tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát công tác khai thác tính phí bảo hiểm và bồi thường của nghiệp vụ bảo hiểm con người tại các chi nhánh, rà soát và điều chỉnh sửa đổi bộ tiêu chuẩn ISO cho phù hợp với yêu cầu thực tế của hoạt động kinh doanh, tích cực xây dựng đề án hệ thống bán hàng qua mạng cho các sản phẩm bảo hiểm con người. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa, để đạt được kế hoạch đề ra trong năm 2008 là tăng trưởng 20% so với 2007, công ty sẽ phải tiếp tục nỗ lực hoàn thiện các công việc như: tổ chức tốt khâu khai thác bán hàng theo hướng chọn các khách hàng có uy tín, mở rộng khách hàng mới là các công ty liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài, các khách hàng kinh doanh các mặt hàng chiến lược như: sắt thép, xăng dầu, thức ăn chăn nuôi, gạo, máy móc thiết bị…Sẽ có giá trị lớn dẫn đến doanh thu tăng mạnh. Công ty cũng cần tăng cường đào tạo để nâng cao chất lượng cán bộ nhất là những khu vực thị trường trọng điểm, đảm bảo đủ khả năng khai thác các đối tượng khách hàng lớn, khách hàng nước ngoài. Đồng thời đẩy mạnh hơn nữa kênh khai thác qua môi giới la kênh hiện PJICO còn khai thác rất yếu. Để nghiệp vụ tàu thủy đạt mục tiêu tăng trưởng 28% so với năm 2007 tỷ lệ bồi thường giữ ở mức dưới 40% công ty cần tiếp tục tập trung mạnh vào bảo hiểm tàu biển, phấn đấu khai thác bảo hiểm được thêm 3-5 tàu mới. Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh công tác khai thác tàu thủy nội địa, có những điều chỉnh thích hợp để phù hợp với thị trường. Đối với nghiệp vụ bảo hiểm tài sản, kỹ thuật, trách nhiệm, bảo hiểm khác công ty đặt mục tiêu doanh thu tăng trưởng 38% so với 2007. Vì vậy ngoài việc tăng cường tổ chức đào tạo cấp tốc lực lượng bán hàng, thực hiện các chương trình tuyên truyền quảng cáo cho sản phẩm công ty sẽ phải có cơ chế khoán mạnh đối với nghiệp vụ này để tận dụng tối đa cơ hội thị trường trong năm 2008. Ngoài những sản phẩm hiện có tại công ty thì công ty cần tiếp tục nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, tìm hiểu những sản phẩm bảo hiểm đã và đang được áp dụng trên thị trường quốc tế, cải tạo sửa đổi cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của Việt Nam để tạo ra những sản phẩm mới thiết thực hơn. Đây cũng là một trong những giải pháp để nâng cao khả năng cạnh tranh, lôi kéo khách hàng. Sản phẩm mới công ty tạo ra thỏa mãn nhu cầu của khách hàng cũng có nghĩa là công ty thắng được đối thủ cạnh tranh một bước. Phát triển các sản phẩm bảo hiểm là một trong những giải pháp thu hút khách hàng nâng cao doanh thu của công ty từ hoạt động thu phí bảo hiểm, tức là nâng cao hơn nữa hiệu quả tài chính của công ty bảo hiểm PJICO. 4. Tổ chức hoạt động đầu tư từ vốn nhàn rỗi. Bên cạnh nguồn thu từ phí bảo hiểm, nguồn thu từ hoạt động đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp bảo hiểm. PJICO cần xây dựng cho mình một chiến lược đầu tư thích hợp. Khi đầu tư tiền nhàn rỗi cần phải đảm bảo nguyên tắc an toàn, hiệu quả vì đây là tiền đóng góp của khách hàng dùng để chi trả, bồi thường bảo hiểm. Khi giá trị các khoản đầu tư thị giảm, công ty phải lập các khoản dự phòng giảm giá theo đúng quy định của pháp luật. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bắt buộc và quỹ dự trữ tự nguyện, các khoản lãi của những năm trước chưa sư dụng và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ. Do đó việc trích lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ công ty cần phải lựa chọn được phương án tối ưu và theo đúng quy định của pháp luật. Nếu lập quỹ dự phòng quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng chi trả hay bồi thường của các năm tiếp theo nhưng nếu lập dự phòng nghiệp vụ quá cao lại ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của công ty. Để đảm bảo nguyên tắc an toàn và đồng thời đảm bảo sinh lời cho công ty thì việc xây dựng và thực hiên nghiêm các quy chế, quy trình đầu tư và ra quyết định đầu tư chặt chẽ, đúng pháp luật để có thể hạn chế tối đa những rủi ro gặp phải trong quá trình sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi để đầu tư. Về lau dài, lĩnh vực đầu tư chủ yếu sẽ là các lĩnh vực sau: Trái phiếu( gồm trái phiếu chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp): trái phiếu được coi là công cụ đầu tư dài hạn tạo ra nguồn thu nhập ổn định, thông qua việc trả lãi định kỳ( 6 tháng hoặc 1 năm) và trả số tiền gốc theo mệnh giá lúc đáo hạn. Đầu tư vào trái phiếu chính phủ có độ rủi ro thấp và tạo ra độ chắc chắn cao hơn về tỷ suất lợi nhuận, tuy nhiên đầu tư vào lĩnh vực này chỉ đảm bảo được khả năng chắc chắn thu được lợi nhuận mà lợi nhuận chưa chắc đã nhiều bằng các loại hình khác. Cho vay thế chấp và đầu tư vào bất động sản. Góp vốn liên doanh. Để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư công ty cần chú ý các biện pháo sau: Thứ nhất: Đa dạng hóa và mở rộng hoạt động đầu tư. Là một nội dung quan trọng trong quá trình nâng cao hiệu quả đầu tư của PJICO, là một hoạt động không thể thiếu nhằm phân tán rủi ro và đem lại lợi nhuận từ việc sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư có thể sử dụng. Với chiến lược phát triển trở thành một Tổng công ty bảo hiểm và dịch vụ tài chính, kinh doanh đa ngành, việc mở rộng hoạt động đầu tư tài chính của PJICO là hoàn toàn phù hợp. Để sử dụng tối đa và có hiệu quả nguồn vốn có thể đầu tư PJICO cần xem xét tách bạch rõ vốn đầu tư từ nguồn nào để có thể đánh giá đúng hiệu quả đầu tư từng nguồn vốn và giới hạn an toàn về số vốn có thể sử dụng cho hoạt động đầu tư. Đồng thời, cần căn cứ vào tình hình thực tế của doanh nghiệp trong từng giai đoạn cụ thể để lựa chọn cơ cấu danh mục hợp lý, có hiệu quả. PJICO cũng có thể lựa chọn các hình thức đầu tư khác phù hợp với quy chế pháp luật như kinh doanh bất động sản… Thứ hai: Tạo sự gắn kết giữa các hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động kinh doanh bảo hiểm và hoạt động đầu tư là hai mặt của quá trình kinh doanh đối với một công ty bảo hiểm. Chúng có mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, do đó nếu hoạt động đầu tư hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm thì ngược lại hoạt động kinh doanh bảo hiểm cũng phải hỗ trợ cho hoạt động đầu tư tài chính. Thông qua hoạt động kinh doanh bảo hiểm, PJICO có thể sử dụng hình ảnh của mình để hỗ trợ cho hoạt động đầu tư. Trong tương lai, khi thành lập theo mô hình Tổng công ty sẽ tạo điều kiện để công ty phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ tài chính. Còn trong hiện tại, PJICO đã xây dựng một hình ảnh về nhà đầu tư tài chính chuyên nghiệp, tạo điều kiện để các khách hàng của mình có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh thông qua các hình thức cho vay ủy thác… Thứ ba: Xây dựng một chiến lược đầu tư thích hợp và tương thích với chiến lược kinh doanh. Trong tình hình trước mắt, hoạt động đầu tư của PJICO vẫn được thực hiện tập trung tại Phòng Đầu Tư - Chứng Khoán trực thuộc tổng công ty thì việc xây dựng các quy chế, quy trình nghiệp vụ hợp lý, khoa học là một trong những biện pháp cơ bản để nâng cao hiệu quả của hoạt động đầu tư. Do vậy, cần phải xây dựng một chiến lược đầu tư thích hợp phù hợp với chiến lược kinh doanh. Những giải pháp cụ thể là: Phải áp dụng chính sách quản lý danh mục đầu tư linh hoạt và theo từng loại nguồn vốn. Xác định rõ ràng nhiệm vụ cho hoạt động đầu tư về cả thời hạn và mức sinh lời. Trong đó mức sinh lợi phải được xác định trên cơ sở chi phí vốn của hoạt động đầu tư. Chi phí này được xác định là lãi kỹ thuật dùng trong thiết kế sản phẩm bảo hiểm và các chi phí khác liên quan như chi phí tập trung vốn, chi phí quản lý vốn… Về quy trình đầu tư, dựa trên những kết quả đầu tư trong quá khứ và những dự đoán trong tương lai. Quy trình đầu tư có thể được đổi mới như sau: Tiến hành thăm dò thị trường, tìm kiếm các cơ hội đầu tư từ các khách hàng trực tiếp hoặc gián tiếp, thu thập thông tin của khách hàng như báo cáo tài chính, hồ sơ thế chấp, tình hình và kế hoạch đầu tư trong tương lai đông thời tạo thêm khách hàng cho lĩnh vực kinh doanh nghiệp vụ. Xác định nguồn vốn đầu tư căn cứ vào cơ cấu nguồn vốn đầu tư các kế hoạch và dự báo dòng tiền…Việc xác định vốn đầu tư còn bao gồm xác định mục tiêu đầu tư. Để xác định mục tiêu đầu tư cần phải căn cứ vào chính sách đầu tư và thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Phải xác định được mức lãi đạt hòa vốn. Phải xác định được một cách hợp lý các yêu cầu của nguồn vốn nhằm hướng hoạt động đầu tư theo các yêu cầu đặt ra. Phân tích, đánh giá cơ hội đầu tư, xem xét về mặt pháp lý các giấy tờ của khách hàng và quan trọng hơn là phải nắm bắt được những nội dung cốt lõi của kế hoạch đầu tư trong tương lai, nhu cầu huy động vốn, khả năng sinh lợi của kế hoạch đó. Dự kiến danh mục đầu tư: Căn cứ để dự kiến danh mục đầu tư là cơ cấu của nguồn vốn dự báo, mục tiêu đầu tư, các báo cáo phân tích về thị trường đầu tư, mức độ rủi ro của các dự án và chính sách đầu tư của PJICO. Các khoản mục trong danh mục đầu tư của PJICO phải thể hiện mục tiêu và chính sách của công ty, trong đó tỷ lệ đầu tư ngắn hạn, dài hạn, tỷ lệ đầu tư ngân quỹ, hưởng lợi phải phù hợp với đặc điểm nguồn vốn đầu tư và đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Để có được danh mục đầu tư dự kiến sát với thực tế, các công tác dự báo đòi hỏi phải được thực hiện khoa học và đồng bộ. Quy trình ra quyết định đầu tư được phân định theo các cấp chức năng và quyền hạn khác nhau, từ thấp đến cao và trên cơ sở quản lý các bộ phận riêng biệt của từng lĩnh vực đầu tư. Trong quá trình xét duyệt sẽ đánh giá lại cơ hội, thách thức, cân đối giữa doanh thu và chi phí, kiểm toán lại lợi nhuận tiềm năng cũng như chi phí của cơ hội đầu tư để có thể ra quyêt định thực hiện cơ hội đầu tư đó hay không. Sau khi đã thông qua quyết định đầu tư, bộ phận nghiệp vụ sẽ thực hiện đầu tư theo đúng yêu cầu và tiến hành quản lý danh mục đầu tư. Việc quản lý ở đây không chỉ là giám sát thông thường mà phải cung cấp các điều kiện cần thiết, tháo gỡ những khó khăn và thường xuyên đánh giá kết quả để đưa ra những điều chỉnh hợp lý cho danh mục đầu tư. Có chính sách thu hút khách hàng và phát triển thương hiệu Có rất nhiều yếu tố có thể tác động tới quyết định sử dụng dịch vụ của khách hàng. Công ty có thể thu hút khách hàng thông qua các biện pháp khác nhau như: hạ phí bảo hiểm, tăng tỷ lệ hoa hồng khai thác để từ đó tăng danh thu. Nhưng cần phải quan tâm đến hiệu quả kinh doanh đến chất lượng khai thác, tránh tình trạng phải chi trả bồi thường lớn hoặc hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn. Ngoài yếu tố giá cả thì hình ảnh về uy tín và tiềm lực tài chính của công ty cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến quyết định sử dụng dịch vụ bảo hiểm của khách hàng. Vì kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh rủi ro, vậy nên khách hàng có xu hướng thích tham gia bảo hiểm ở những công ty nổi tiếng có tiềm lực tài chính mạnh và có uy tín trên thị trường. Vì vậy công ty cần có những chính sách tuyên truyền quảng cáo nhằm đẩy mạnh phát triển thương hiệu, nâng cao hình ảnh và vị thế của mình đối với khách hàng. Các phương tiện thông tin đại chúng được sử dụng để quảng cáo bao gồm: vô tuyến truyền hình, đài phát thanh, gửi thư trực tiếp, tạp chí hay các phương tiện ngoài trời như: bảng hiệu, áp phích. Mạng internet cũng đang trở thành một dạng phương tiện thông tin đại chúng được chấp nhận bởi vì các trang web của công ty cho phép người sử dụng máy tính có thể tìm hiểu các thông tin về sản phẩm và về doanh nghiệp bảo hiểm. Quảng cáo là công cụ truyền thông mang tính kinh tế hơn so với bán hàng cá nhân vì nó tiếp cận số lượng lớn khách hàng tiềm năng. Tuy nhiên cần phải xem xet kĩ những quy định pháp luật liên quan đến quảng cáo cũng như các phương tiện thông tin đại chúng sử dụng để tiếp cận thị trường mục tiêu. Đó là do chi phí gắn với từng loại phương tiện thông tin sử dụng sẽ rất khác nhau. Quan hệ với công chúng là một hình thức truyền thông phi cá nhân cung cấp thông tin về sản phẩm, về doanh nghiệp và được truyền đi dưới dạng tin tức qua các phương tiện thông tin đại chúng. Như vậy, cũng giống như quảng cáo, hình thức quan hệ công chúng có sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên khác với quảng cáo ở chỗ doanh nghiệp bảo hiểm sẽ không phải trả tiền để các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng không kiểm soát nội dung các thông điệp được truyền đạt. Quan hệ với công chúng là công cụ truyền thông rất quan trọng trong giai đoạn giới thiệu sản phẩm. Bởi vì doanh nghiệp bảo hiểm không phải chi trả các chi phí cho các phương tiện thông tin đại chúng một cách trực tiếp nên đây là hình thức nhanh nhất và tiết kiệm nhất nhằm giúp khách hàng và các nhà phân phối nhận được thông tin về sản phẩm. Ngoài ra, do thông tin được trình bày dưới dạng tin tức nên những người nhận thông tin coi đó là nguồn tin rất đáng tin cậy. Tuy vậy, với hình thức này doanh nghiệp bảo hiểm khó có thể đảm bảo được nỗ lực của mình có thu được kết qủa hay không, bởi vì nế các phương tiện thông tin đại chúng không coi những thông điệp của doanh nghiệp là những tin tức có giá trị thì họ sẽ không chú ý đến các nỗ lực của doanh nghiệp. Trong năm 2007 vừa qua, công ty PJICO chưa có kế hoạch đầu tư mạnh cho các hoạt động tuyên truyền quảng cáo xây dựng hình ảnh công ty, thay vào đó dành nhiều cơ cấu chi phí cho việc bán sản phẩm trực tiếp (ví dụ: bán bảo hiểm xe máy được tặng mũ) thông qua đó cũng nâng cao uy tín và hình ảnh của công ty. Các đơn vị toàn công ty đã tặng trên 1 triệu mũ bảo hiểm có gắn logo PJICO cho khách hàng. Ngoài ra, công ty đã thực hiện một số công việc như: làm 2 biển quảng cáo tấm lớn tại khu vực thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ninh, sửa chữa nâng cấp một số biển quảng cáo cũ đã xuống cấp, tài trợ làm một số biển hiệu quảng cáo về an toàn giao thông tại một số tỉnh. Tham gia triển lãm Ngân hàng - Tài chính - Bảo hiểm, cập nhật thông tin trên trang web hàng ngày, chuyển các yêu cầu tư vấn bảo hiểm của khách hàng qua trang web tai các địa bàn cho các chi nhánh, phòng nghiệp vụ liên quan. Công ty cung thực hiện các bài giới thiệu về nghiệp vụ (dạng bài viết hoặc trả lời phỏng vấn cho một số báo: Thương mại, Đầu tư, Diễn đàn Doanh Nghiệp, Thời báo Kinh tế, Tiền Phong, Thanh Niên, Tạp chí giáo dục thời đại…). Và năm 2008 này PJICO đang co những chủ trương thực hiện chương trình đầu tư lớn nhằm phát triển thương hiệu hơn nữa. 6. Các biện pháp chống trục lợi bảo hiểm. Mỗi nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai đều có những hành vi trục lợi bảo hiểm. Song hình thức trục lợi đối với mỗi nghiệp vụ bảo hiểm khác nhau cũng có những nét khác nhau. Các hình thức trục lợi phổ biến như: hợp lý hóa ngày và hiệu lực bảo hiểm, thay đổi tình tiết vụ tai nạn, tạo hiện trường giả, khai tăng số tiền tổn thất, lập hồ sơ khiếu nại nhiều lần, khai bảo rủi ro không trung thực hay cố ý gây tai nạn… Cho dù là trục lợi bằng bất cứ hình thức nào đối với doanh nghiệp bảo hiểm hậu quả có thể tính toán được do hành vi trục lợi bảo hiểm là làm giảm lợi nhuận, hiệu quả kinh doanh bị hạn chế. Thậm chí còn gây tác động xấu đến uy tín ủa doanh nghiệp. Đối với công ty PJICO thì một số biên pháp phòng chống trục lợi bảo hiểm có thể sử dụng như: - Doanh nghiệp phải tổ chức đầu mối quản lý, theo dõi và kiểm tra chặt chẽ các cán bộ, đại lý, các cộng tác viên khai thác bảo hiểm. Mặt khác phải nhắc nhở họ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đồng thời phải đề ra những cơ chế quản lý phù hợp như: phí bảo hiểm thu được trong ngày cuối ngày phải nộp, giấy chứng nhận bảo hiểm cấp trong ngày phải thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm vào cuối ngày, khi khách hàng tham gia bảo hiểm với số tiền lớn là bao nhiêu thì phải báo cáo về công ty kiểm tra, theo dõi. - Quá trình giám định và bồi thường, chi trả tiền bảo hiểm phải thực hiện đúng nguyên tắc và trình tự mỗi khâu. Nếu thấy nghi ngờ một loại giấy tờ nào đó hoặc không rõ về thời gian, không gian trong các vụ tổn thất cần xác minh lại ngay. Nếu thấy cần thiết phải báo ngay để công ty tổ chức điều tra, xác minh cho rõ. Ngoài phương án điều tra độc lập, cần tranh thủ sự giúp đỡ của các bên liên quan như: chính quyền địa phương, công an, y bác sỹ và những người làm chứng… Theo kinh nghiệm của nhiều nước là cần phải tập trung điều tra các đối tượng sau: + Những người tham gia nhiều loại bảo hiểm khác nhau, ở nhiều doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau + Tai nạn xảy ra gần với ngày ký hợp đồng, hoặc tai nạn xảy ra ngay sau khi khách hàng mua bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn + Số vụ tai nạn tăng cùng một địa điểm + Số vụ tai nạn xảy ra do cùng một nguyên nhân + Giấy yêu cầu bảo hiểm không phải do chính người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng bảo hiểm đề nghị Một điều rất quan trọng là hầu hết trong các vụ trục lợi bảo hiểm thì ít nhiều đều có sự tham gia của nhân viên bảo hiểm. Do đó quan tâm giáo dục ý thức trách nhiệm, tính kỷ luật trong tất cả các khâu công việc do cán bộ nhân viên, kể cả đại lý và cộng tác viên trong doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với họ, thưởng phạt phải hết sức nghiêm túc và có nền nếp. Trong năm 2007 vừa qua, PJICO cũng đã tiến hành kiểm tra thực tế công tác giám định, bồi thường ở những chi nhánh có tỷ lệ bồi thường cao trong toàn công ty. Kiểm tra, giám định hồ sơ nghi ngờ có trục lợi bảo hiểm trên 100 hồ sơ yêu cầu bồi thường, từ chối gần 30 hồ sơ và giảm chi bồi thường cho công ty với số tiền 11 tỷ đồng. Làm thủ tục chuyển hồ sơ sang cơ quan pháp luật giải quyết một số trường hợp cá nhân cán bộ chiếm dụng phí bảo hiểm. 7. Kiện toàn công tác quản lý và phát triển hệ thống. Xây dựng mô hình tổ chức thích hợp là một nội dung của thực hiện chiến lược kinh doanh, bộ máy tổ chức là công cụ quan trọng để thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế, tổ chức bộ máy doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để thực hiện mục tiêu chiến lược đề ra. Tổ chức bộ máy phải tiến hành phân công lao động cụ thể, rõ ràng theo chức năng, nhưng cũng phải kết hợp giữa các bộ phận với nhau để đảm bảo sự thống nhất vì mục tiêu chung của doanh nghiệp. Trong định hướng phát triển của PJICO trong năm 2008 công ty sẽ củng cố, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Hội Sở Hà Nội, tập trung theo dõi, giám sát và tiếp tục hoàn thiện tổ chức khu vực thành phố Hồ Chí Minh. Cấu trúc lại bộ máy tổ chức tại Văn phòng công ty: Thay đổi chức năng nhiệm vụ, thay đổi phân cấp, thành lập mới một số phòng ban, sắp xếp bố trí lại theo đúng yêu cầu công việc và năng lực chuyên môn từng người… Giao quyền chủ động trong kinh doanh và tổ chức công việc cho các đơn vị trên cơ sở quản lý, kiểm soát được hoạt động của từng đơn vị, tiếp tục củng cố kiện toàn tổ chức ở một số đơn vị còn yếu kém trong năm 2007. Rà soát, xây dựng, ban hành đồng bộ hệ thống văn bản, quy chế về công tác tổ chức, triển khai hiệu quả chương trình quản lý nhân sự toàn hệ thống… Về chính sách tiền lương, tiền thưởng: Tiếp tục thực thi chính sách giao quỹ tiền lương cho các đơn vị theo doanh thu và hiệu quả kinh doanh. Trong điều kiện thị trường cạnh tranh hiện nay đặc biệt là việc gia tăng hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm mới tham gia…Công ty sẽ đề xuất Hội Đồng Quản Trị phương án theo hướng tăng giao khoán tiền lương doanh thu. Tăng biên chế lao động lên khoảng 10% tổ chức 52 đầu mối chi nhánh (bổ sung Hội Sở Hà Nội, Vĩnh Long, Quảng Trị, Sơn La khi có đủ điều kiện), tiền lương bình quân cán bộ tăng từ 16% - 20% so với 2006. Tiếp tục tăng cường hoạt động hướng dẫn kiểm tra, giám sát công tác tài chính – kế toán, kiên quyết trong việc xử lý các vi phạm. Tiếp tục tăng cường hoạt động đào tạo cán bộ và đại lý, thực hiện đào tạo được chương trình cán bộ cơ sở bảo hiểm PJICO cho tất cả các cán bộ mới được tuyển dụng, đào tạo và cấp chứng chỉ cho 100% đại lý. Hoàn thành mục tiêu xây dựng hệ thống ISO: 9000 và triển khai áp dụng trên toàn quốc. Công ty sẽ thực hiện kế hoạch phát triển thương hiệu phù hợp, cân đối giữa các chương trình phát triển thương hiệu chung của công ty và các chương trình tuyên truyền, quảng cáo giới thiệu sản phẩm bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm ô tô. Kết Luận Hiện nay công ty PJICO đã tăng vốn điều lệ của mình lên trên 336 tỷ đồng và chuẩn bị tăng lên 500 tỷ đồng trong năm nay. Công ty cũng thay đổi chiến lược theo hướng phát triển ổn định, bền vững. Nhờ vậy hiện nay công ty đang hoạt động rất tốt, có khả năng tài chính ổn định vững mạnh. Từ khi Việt Nam gia nhập WTO đến nay, với nhiều chuyển biến về tình hình kinh tế xã hội trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới đã tạo ra rất nhiều cơ hội nhưng cũng không it thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và trong đó có cả PJICO. Đây là một số vấn đề lý luận thực tế về doanh thu và chi phí của công ty PJICO. Căn cứ vào việc phân tích những số liệu thực tế về hoạt động kinh doanh của PJICO trong thời gian qua cũng như năng lực cạnh tranh của công ty trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, tôi đã đưa ra một số giải pháp nhằm tăng doanh thu và lợi nhuận cho công ty PJICO. Xin chúc cho PJICO sẽ thực hiện thành công mục tiêu đặt ra để tiến lên phía trước để trở thành nhà bảo hiểm chuyên nghiệp hàng đầu Việt Nam. Trong quá trình hình thành chuyên đề, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo ThS.Tôn Thị Thanh Huyền và các anh chị ở công ty PJICO đặc biệt là phòng bảo hiểm khu vực VII. Tuy nhiên do thời gian có hạn nên bài chuyên đề không thể tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Em xin chân thành cảm ơn! Tài Liệu Tham Khảo TS. Nguyễn Văn Định (2004), Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống Kê. TS. Nguyễn Văn Định (2005), Giáo trình Bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống Kê. Học viện tài chính (2002), Giáo trình kế toán bảo hiểm, Nhà xuất bản Tài Chính. PGS. PTS Bùi Huy Thảo (1996), Thống kê bảo hiểm, Nhà xuất bản Thống Kê. Nguyễn Thị Mỵ (2005), Phân tích hoạt động kinh doanh, Nhà xuất bản Thống Kê. Nguyễn Tấn Bình (2003), Phân tích hoạt động doanh nghiệp –Phân tích kinh doanh – Phân tích báo cáo tài chính – Phân tích kinh tế các dự án, Nhà xuất bản Đại Học Quốc Gia Thành Phố Hồ Chí Minh. Luật Kinh Doanh Bảo Hiểm (2000), Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia. Hồ sơ năng lực bảo hiểm của PJICO Bản cáo bạch của PJICO. Báo cáo tổng kết năm 2007 của công ty PJICCO. DANH MỤC BẢNG BIỂU Trang Bảng 1: Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 42 Bảng 2: Thu về hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 44 Bảng 3: Thị phần phí bảo hiểm gốc năm 2006 – 2007 45 Bảng 4: Cơ cấu doanh thu phí bảo hiểm gốc của PJICO từ 2003 – 2007 47 Bảng 5: Thu về tái bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 57 Bảng 6: Tổng chi hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 58 Bảng 7: Các khoản giảm trừ của PJICO từ 2003 – 2007 60 Bảng 8: Cơ cấu chi hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 62 Bảng 9: Tỷ lệ bồi thường nhận tái bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 66 Bảng 10 : Chi khác hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 68 Bảng 11 : Hiệu quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc của PJICO từ 2003 – 2007 70 Bảng 12 : Hiệu quả hoạt động tái bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 72 Bảng 13 : Hiệu quả kinh doanh của công ty PJICO từ 2003 – 2007 74 Biểu 1 : Sơ đồ tổ chức cơ cấu bộ máy hoạt động của PJICO 40 Biểu 2 : Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm của PJICO từ 2003 – 2007 43 Biểu 3 : Thị phần phí bảo hiểm gốc năm 2006 – 2007 45 Biểu 4 : Doanh thu phí bảo hiểm gốc của PJICO từ 2003 – 2007 48 Biểu 5 : Cơ cấu doanh thu các nghiệp vụ của PJICO từ 2003 – 2007 51 Biểu 6 : Tổng chi hoạt động kinh doanh bảo hiểm gốc của PJICO từ 2003 – 2007 58 Danh Mục Các Từ Viết Tắt PJICO Petrolimex Joint Stock Insurance Company DNBH Doanh nghiệp bảo hiểm BH Bảo hiểm STBT Số tiền bồi thường Mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11674.doc