Phân tích thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Xí nghiệp may đo X19 thuộc Công ty 247 - Bộ quốc phòng

Phần i Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ là nhân tố cơ bản tạo điều kiện cho doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường I Quan điểm cơ bản về thị trường 1 Các khái niệm về thị trường Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi trường để tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi Doanh nghiệp công nghiệp. Trong một Xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết chỉ là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và người

doc88 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Xí nghiệp may đo X19 thuộc Công ty 247 - Bộ quốc phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bán mà Doanh nghiệp và khách hàng có thể chỉ dao dịch thoả thuận với nhau thông qua các phương tiện thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, khái niệm về thị trường ngày càng chở nên phong phú. Có một số khái niệm phổ biến về thị trường như sau: Theo Các Mác hễ ở đâu và khi nào có sự phân công lao động Xã hội và có sản xuất hàng hoá thì ở đó và khi ấy sẽ có thị trường. Thị trường chẳng qua là sự biểu hiện của phân công lao động Xã hội và do đó có thể phát triển vô cùng tận Theo David Beg thì thị trường là tập hợp các sự thoả mãn thông qua đó người bán và người mua tiếp xúc với nhau để chao đổi hàng hoá và dịch vụ Theo quan điểm của Marketing hiện đại: Thị trường bao gồm những khách hàng tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể; sẵn sàng có khả năng tham gia chao đổi để thoả mãn nhu cầu và mong muốn đó Theo quan điểm chung thì thị trường bao gồm toàn bộ các hoạt động chao đổi hàng hoá được diễn ra trong sự thống nhất hữu cơ với các mối quan hệ do chúng phát sinh và gắn liền với một không gian nhất định 2 Vai trò và chức năng của thị trường 2.1 Vai trò của thị trường Thị trường có vai trò quan trọng đối với sản xuất hàng hoá, kinh doanh và quản lý kinh tế Bất kỳ quá trình sản xuất hàng hoá nào cũng đều qua khâu lưu thông và phải qua thị trường. Như vậy thị trường là khâu tất yếu của sản xuất hàng hoá. Thị trường chỉ mất khi sản xuất hàng hoá không còn. Như vậy, không thể coi phạm trù thị trường chỉ gắn với nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Thị trường là chiếc “cầu nối “ của sản xuất và tiêu dùng. Thị trường là mục tiêu của quá trình sản xuất hàng hoá ( hiểu theo nghĩa rộng ). Thị trường là khâu quan trọng nhất của quá trình tái sản xuất hàng hoá. Để sản xuất hàng hoá, Xã hội phải chi phí sản xuất, chi phí lưu thông. Thị trường là nơi kiểm nghiệm các chi phí đó và thực hiện yêu cầu quy luật tiết kiệm lao động Xã hội Thị trường không chỉ là nơi diễn ra các hoạt động mua bán nó còn thể hiện các quan hệ hàng hoá tiền tệ. Do đó thị trường được coi là môi trường của kinh doanh, kích thích mở rộng nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ từ đó mở rộng sản xuất, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thị trường phá vỡ danh giới về sản xuất tự nhiên, tự cấp, tự túc, chuyển nền kinh tế này sang nền kinh tế thị trường Thị trường hướng dẫn sản suất kinh doanh thông qua sự biểu hiện về cung cầu – giá cả trên thị trường. Các nhà sản xuất kinh doanh nghiên cứu những biểu hiện đó để xác định nhu cầu của khách hàng từ đó tìm cách giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản của mình là: Sản xuất cái gì ? Cho ai ? Bằng cách nào ? Do vậy thị trường được coi là “ tấm gương” để các cơ sở sản xuất kinh doanh nhận biết được nhu cầu của Xã hội và để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của chính bản thân mình. Thị trường là thước đo khách quan của mọi cơ sở sản xuất kinh doanh Trong quản lý kinh tế thị trường có vai trò vô cùng quan trọng. Thị trường là đối tượng, là căn cứ của kế hoạch hoá. Thị trường là công cụ bổ xung cho các công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế của nhà nước. Thị trường là môi trường kinh doanh, là nơi nhà nước tác động vào quá trình kinh doanh cơ sở 2.2 Chức năng của thị trường Chức năng của thị trường là những tác động khách quan vốn có bắt nguồn từ bản chất của thị trường tới quá trình sản suất và đời sống kinh tế Xã hội. Thị trường có một số chức năng cơ bản sau a Chức năng thừa nhận Hàng hoá được sản xuất ra , người sản xuất phải bán nó. Việc bán hàng được thực hiện thông qua chức năng thừa nhận của thị trường. Thị trường thừa nhận chính là người mua chấp nhận thì cũng có nghĩa là về cơ bản quá trình tái sản xuất Xã hội sủa hàng hoá đã được hoàn thành. Bởi vì bản thân việc tiêu dùng sản phẩm và các chi phí tiêu dùng cũng khẳng định trên thị trường hàng hoá đã được bán Thị trường thừa nhận tổng khối lượng hàng hoá đưa ra thị trường, cơ cấu của cung cầu, quan hệ cung cầu đối với từng hàng hoá, thừa nhân giá trị sử dụng và giá trị của hàng hoá, chuyển giá trị sử dụng và giá trị cá biệt thành giá trị sử dụng và giá trị Xã hội, thừa nhận các giá trị mua và bán ... Thị trường không phải chỉ thừa nhận thụ động các kết quả của quá trình tái sản xuất, quá trình mua bán mà thông qua sự hoạt động của các quy luật kinh tế trên thị trường và thị trường còn kiểm nghiệm quá trình tái sản xuất, quá trình mua bán đó b Chức năng thực hiện Hoạt động mua bán là hoạt động lớn nhất, bao trùm cả thị trường. Thực hiện hoạt động này là cơ sở quan trọng có tính chất quyết định đối với việc thực hiện các quan hệ và hoạt động khác Thị trường thực hiện bao gồm: Hành vi trao đổi hàng hoá, thực hiện tổng số cung và tổng số cầu trên thị trường thực hiện cân bằng cung – cầu từng thứ hàng hoá, thực hiện giá trị ( thông qua giá cả ) thực hiện trao đổi giá trị. Thông qua chức năng thực hiện của thị trường, các hàng hoá hình thành nên các giá trị chao đổi của mình. Giá trị trao đổi là cơ sở vô cùng quan trọng để hình thành nên cơ cấu sản phẩm, các quan hệ tỷ lệ và kinh tế trên thị trường c Chức năng điều tiết, kích thích Chức năng điều tiết và kích thích thể hiện ở chỗ: Thông qua nhu cầu của thị trường người sản xuất tự động di chuyển tư liệu sản xuất, vốn và lao động từ ngành này sang ngành khác, từ sản suất sản phẩm này sang sản xuất sản phẩm khác để thu lợi nhuận cao hơn Thông qua các hoạt động của các quy luật kinh tế thị trường, người sản suất có lợi thế trong cạnh tranh sẽ tận dụng khả năng của mình để phát triển sản xuất Thông qua sự hoạt động của các qui luật kinh tế trên thị trường người tiêu dùng buộc phải cân nhắc, tính toán giá thành tiêu dùng của mình. Do đó thị trường có vai trò to lớn đối với việc hướng dẫn người tiêu dùng Trong quá trình tái sản suất, không phải người sản xuất tự thực hiện lưu thông, tự đặt ra mức chi phí thấp hơn hoặc bằng mức trung bình của Xã hội. Do đó thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với kích thích tiết kiệm chi phí, tiết kiệm lao động d Chức năng thông tin Thông tin thị trường về tổng số cung và tổng số cầu, cơ cấu cung cầu, quan hệ cung cầu về từng loại hàng hoá, giá cả,thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường, đến mua và bán, các quan hệ về tỷ lệ đối với từng loại sản phẩm Thông tin thị trường có vai trò vô cùng quan trọng đối với quản lý kinh tế. Trong quản lý kinh tế, một trong những nội dung quan trọng nhất là ra quyết định. Để có quyết định thì phải có thông tin. Các thông tin quan trọng nhất là các thông tin từ thị trường. Bởi vì các thông tin đó là khách quan, được Xã hội thừa nhận 3 Các cách phân loại thị trường Một trong những điều kiện cơ bản để sản xuất kinh doanh có hiệu quả là Doanh nghiệp hiểu biết về thị trường và việc nghiên cứu phân loại thị trường là rất cần thiết. Có bốn cách phân loại thị trường như sau 3.1 Phân loại theo phạm vi lãnh thổ -Thị trường địa phương: Bao gồm tập hợp khách hàng trong phạm vi địa phương nơi thuộc địa phận phân bố của Doanh nghiệp -Thị trường vùng: Bao gồm tập hợp các khách hàng ở một vùng địa lý nhất định. Vùng này được hiểu như một khu vực địa lý rộng lớn có sự đồng nhất về kinh tế – Xã hội -Thị trường toàn quốc: Hàng hoá và dịch vụ được lưu thông trên tất cả các vùng, các địa phương của một nước -Thị trường quốc tế: Là nơi diễn ra các giao dịch buôn bán hàng hoá và dịch vụ giữa các chủ thể kinh tế thuộc các quốc gia khác nhau 3.2 Phân loại theo mối quan hệ giữa người mua và người bán -Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Trên thị trường này có nhiều người mua và người bán cùng một thứ hàng hoá và dịch vụ. Hàng hoá đó mang tính đồng nhất và giá cả là do thị trường quyết định -Thị trường cạnh tranh không hoàn hảo: Trên thị trường có nhiều người mua và người bán cùng một loại hàng hoá, sản phẩm nhưng chúng không đồng nhất. Điều này có nghĩa là loại hàng hoá sản phẩm đó có nhiều kiểu dáng, mẫu mã, bao bì, nhãn mác, kích thước... khác nhau Giá cả hàng hoá được ấn định một cách linh hoạt theo hình thức tiêu thụ trên thị trường -Thị trường độc quyền: Trên thị trường chỉ có một hoặc một nhóm người liên kết với nhau cùng sản suất ra một loại hàng hoá. Họ có thể kiểm soát hoàn toàn số lượng dự định bán ra thị trường cũng như giá cả của chúng 3.3 Phân loại theo mục đích sử dụng của hàng hoá -Thị trường tư liệu sản suất: Đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị trường là các loại tư liệu sản xuất như nguyên vật liệu, năng lượng, động lực, máy móc, thiết bị -Thị trường tư liệu tiêu dùng: Đối tượng hàng hoá lưu thông trên thị trường là các vật phẩm tiêu dùng phục vụ trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của dân cư như: Quần áo, các loại thức ăn chế biến, đồ dùng dân dụng ... 3.4 Phân loại theo quá trình tái sản xuất của Doanh nghiệp -Thị trường đầu vào: Là nơi Doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm mua các yếu tố đầu vào cần thiết cho sản xuất. Có bao nhiêu yếu tố đầu vào thì có bấy nhiêu thị trường đầu vào (Thị trường lao động, thị trường tài chính chính- tiền tệ, thị trường khoa học- công nghệ, thị trường bất động sản...) -Thị trường đầu ra: Là nơi Doanh nghiệp tiến hành các giao dịch nhằm bán các sản phẩm đầu ra của mình. Tuỳ theo tính chất sử dụng sản phẩm hàng hoá của Doanh nghiệp mà thị trường đầu ra là thị trường tư liệu sản suất hay tư liệu tiêu dùng 4 Các yếu tố hợp thành thị trường Thị trường ra đời và phát triển gắn liền với nền sản suất hàng hoá, sự phân công lao động Xã hội và việc sử dụng đồng tiền làm đồng tiền làm thước đo trong quá trình trao đổi hàng hoá và dịch vụ. Từ đó ta thấy thị trường muốn tồn tại và phát triển phải có đủ các các điêù kiện sau; Phải có khách hàng tức là phải có người mua hàng hoá và dịch vụ Phải có người cung ứng tức người bán hàng hoá và dịch vụ Người bán hàng hoá và dịch vụ cho người mua phải được bồi hoàn ( được trả giá) Như vậy bất kì thị trường nào cũng chứa đựng ba yếu tố là: cung- cầu-giá cả hàng hoá và dịch vụ và ba yếu tố này có mối quan hệ chặt với nhau và hợp thành thị trường 4.1 Yếu tố cung Cung của một hàng hoá hoặc dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người bán sẵn sàng bán ở mỗi mức giá nhất định với các điều kiện khác không đổi Trên thị trường chỉ có những lọai hàng hoá có nhu cầu mới được cung ứng và phải chú ý hàng hoá được cung ứng không phải bằng bất cứ giá nào mà phải căn cứ vào khả năng sẵn sàng bán. Cần phải nhận thấy rằng điều mấu chốt mà người tiêu dùng quan tâm khi mua một loại hàng hoá hay dịch vụ chính là những lợi ích cho việc tiêu dùng hàng hoá hay dịch vụ đem lại. Như vậy, những hàng hoá và dịch vụ nào người kinh doanh đem cung ứng chỉ là những phương tiện chuyền tải những lợi ích mà người tiêu dùng chờ đợi. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra cho nhà kinh doanh là phải xác định được nhu cầu, lợi ích của người tiêu dùng để từ đó sản suất và cung ứng những hàng hoá và dịch vụ để có thể đảm bảo tốt nhất những lợi ích cho người tiêu dùng 4.2 Yếu tố cầu Cầu về một loại hàng hoá, dịch vụ là khối lượng hàng hoá hoặc dịch vụ mà người mua sẵn sàng mua và có khã năng thanh toán ở mỗi mức giá nhất định với các điều kiện khác không thay đổi Trong thực tế cuộc sống chúng ta hiểu rằng, nhiều người thích mua hàng hoá là do sự tác động của nhiều yếu tố, thể hiện chung qua mức độ hấp dẫn của hàng. Muốn tạo ra sự hấp dẫn hàng hoá của Doanh nghiệp mình so với hàng hoá của đối thủ cạnh tranh khác thì Doanh nghiệp cần tạo cho nó một khả năng thích ứng lớn hơn với nhu cầu. Vì vậy, nghiên cứu để nhận dạng và hiểu biết cặn kẽ nhu cầu của khách hàng trở thành vấn đề cốt lõi của Doanh nghiệp, trong đó phải đặc biệt chú ý đến nhu cầu có khả năng thanh toán. Doanh nghiệp có thể chế tạo nhiều loại hàng hoá với những đặc tính cực kì hoàn mĩ, rút cục họ cũng chẳng bán được bao nhiêu nếu không bám sát vào nhu cầu của thị trường. Hơn nữa, nếu chi phí suất của nó là quá lớn , giá quá cao thì người ta không thể mua được mặc dù người ta rất thích dùng nó. Do vậy mong muốn hay nhu cầu tiềm năng không thể biến thành nhu cầu thực, thành sức mua của hàng hoá Chừng nào nhà kinh doanh đoán biết được khách hàng cần những loại hàng hoá nào với những đặc điểm gì là đặc trưng quan trọng nhất? Để tạo ra nó người ta phải tốn chi phí bao nhiêu? Tương ứng với nó là mức giá nào?... thì khi đó họ mới thực sự mới nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và mới hi vọng đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh 4.3 Giá cả thị trường Về mặt giá trị, giá cả là biểu hiện bằng tiền mà người mua phải trả cho người bán để có được giá trị sử dụng của của một loại hàng hoá hay dịch vụ nào đó. Giá cả trên thị trường thường được xác định bằng sự gặp gỡ giữa cung và cầu. Nó phản ánh việc đáp ứng nhu cầu của thị trường về hàng hoá và dịch vụ, luôn luôn gắn liền với việc sử dụng các nguồn lực có hạn của Xã hội và phải được trả giá Đối với người tiêu dùng, giá cả hàng hoá luôn luôn được coi là yếu tố đầu tiên để họ đánh giá phần lợi thu được và chi phí phải bỏ ra để sở hữu và tiêu dùng hàng hoá đó. Vì vậy, những quyết định về giá luôn giữ vai trò quan trọng và phức tạp nhất mà Doanh nghiệp phải đối mặt. Thông thường thị trường xác định giá trần của hàng hoá, mặc dù vậy trong một thị trường Doanh nghiệp có thể thay đổi giá cả, khi đó Doanh nghiệp cần đặc biệt quan tâm đến mối quan hệ giữa giá cả và nhu cầu, tốc độ co dãn của cầu đối với giá 5 Các nhân tố ảnh hưởng tới thị trường 5.1 Nhân tố vĩ mô Nhân khẩu học Nhân khẩu học nghiên cứu dân cư theo các quan điểm con người, qui mô và tốc độ tăng dân số, mật độ, sự di chuyển dân cư, trình độ học vấn... Thị trường vốn do con người hợp thành. Mục tiêu hoạt động sản suất kinh doanh cũng xuất phát từ nhu cầu của con người, nhằm phục vụ con người và hướng tới con người. Qui mô và tốc độ tăng dân số phản ánh trực tiếp quy mô nhu cầu khái quát trong hiện tại và trong tương lai. Do đó nó cũng thể hiện sự phát triển hay suy thoái của thị trường Dân số tăng kéo theo nhu cầu của con người cũng tăng và thị trường cũng tăng với sức mua khá lớn, nhưng nếu sức mua giảm sút thì thị trường sẽ bị thụ hẹp Sự gia tăng số người có học vấn làm sinh động thị trường hàng hoá chất lượng cao ( sách vở, báo chí, công nghệ và du lịch ) Sự thay đổi về cơ cấu tuổi tác trong dân cư sẽ dẫn tới tình trạng thay đổi cơ cấu khách hàng tiềm năng theo độ tuổi. Đến lượt nó, những thay đổi này sẽ tác động quan trọng đến cơ cấu tiêu dùng và nhu cầu về các loại hàng hoá Kinh tế Môi trường kinh tế trước hết được phản ánh qua tình hình phát triển và tốc độ tăng trưởng kinh tế chung và cơ cấu nghành kinh tế, cơ cấu vùng. Tình hình đó có thể tạo nên tính hấp dẫn về thị trường và sức mua khác nhau đối với các thị trường khác nhau. Bởi vì ngoài bản thân con người ra thì sức mua của họ cũng rất quan trọng đối với các thị trường. Nói chung sức mua phụ thuộc vào mức thu nhập hiện tại, giá cả hàng hoá, số tiền tiết kiệm, khả năng vay nợ của khách hàng, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất vay tín dụng Môi trường kinh tế ảnh hưởng đến cơ cấu chi tiêu của người tiêu dùng. Những người thuộc tầng lờp thượng lưu thường là thị trường của các loại mặt hàng xa xỉ và ngược lại tầng lớp hạ lưu trong Xã hội buộc phải ính toán từng xu ngay cả khi mua những cái không thể đừng. Trong thời kì nền kinh tế tăng trưởng thì cơ hội phát triển thị trường sẽ thuận lợi hơn rất nhiêù so với thời kỳ nền kinh tế suy thoái Tự nhiên Môi trường tự nhiên bao gồm hệ thống các yếu tố tự nhiên ( khí hậu, đất đai, nguyên vật liệu, năng lượng dùng cho sản suất...) ảnh hưởng nhiều mặt tới các nguồn lực đầu vào cần thiết cho các Doanh nghiệp và do vậy chúng có thể gây biến động lớn trên thị trường Sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thô, sự gia tăng chi phí năng lượng, sự cạn kiệt của các nguyên liệu không phục hồi như dầu mỏ, than đá, các loại khoáng sản khác ngày càng chở nên quan trọng. Xu thế chung đòi hỏi các Doanh nghiệp phải tìm kiếm, nghiên cứu sử dụng các nguồn nguyên liệu khác để thay thế Hoạt động công nghiệp hầu như bao giờ cũng gây tổn hại cho môi trường. Các nhà chức trách đang lên tiếng kêu gọi mọi người cùng suy nghĩ về cách loại trừ các chất thải độc hại phát sinh trong quá trình sản suất và trong quá trình sử dụng sản phẩm. Ngày nay, ý thức bảo vệ môi trường của người dân đang lên cao nên đòi hỏi các doanh nghiệp phải tạo ra những sản phẩm có độ an toàn cao về sinh học và môi trường, mặc dù giá cả có thể tăng thêm nhưng người tiêu dùng vẫn chấp nhận. Thị trường về các sản phẩm mang nhiều chất độc hại tới môi trường qua đó bị thu hẹp và thị trường công nghệ xử lý các chất thải được mở rộng hơn Công nghệ kĩ thuật Khoa học kĩ thuật và khoa học ứng dụng là lực lượng mang đầy kịch tính nhất. Nó chứa đựng trong đó các bí quyết dẫn đến thành công cho các Doanh nghiệp. Hệ thống khoa học công nghệ đã sinh ra cả những điều kì diệu lẫn những nỗi khủng khiếp cho nhân loại. Môi trường công nghệ gây tác động mạnh tới sức sáng tạo sản phẩm và cơ hội tìm kiếm thị trường mới. Sự cạnh tranh về kĩ thuật công nghệ mới không chỉ cho phép các Doanh nghiệp giành được thắng lợi mà còn thay đổi bản chất của quá trình cạnh tranh, bởi vì chúng có ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và năng xuất lao động. Mỗi khi trên thị trường xuất hiện một công nghệ mới sẽ làm mất đi vị trí vốn có của công nghệ cũ, máy photocopy đã gây thiệt hại cho nền sản xuất giấy than, còn vô tuyến truyền hình lại gây thiệt hại cho ngành chiếu phim Ngày nay, khoa học kĩ thuật đang không ngừng phát triển và làm xuất hiện những khả năng vô tận thị trường năng lượng mặt trời, thị trường máy vi tính các loại, thị trường thuốc và dụng cụ y tế với tính năng thần kì chữa các loại bệnh hiểm nghèo như ung thư, gan, phổi, thay đổi gen ADN... Do vậy các Doanh nghiệp cần phải nắm bắt và hiểu rõ được bản chất của những thay đổi trong môi trường công nghệ kĩ thuật cùng nhiều phương thức khác nhau. Mặt khác phải cảnh giác và kịp thời phát hiện các khả năng xấu có thể xẩy ra gây thiệt hại tới người tiêu dùng Chính trị Môi trường chính trị bao gồm hệ thống luật pháp, các công cụ chính sách của nhà nước, cũng như các cơ chế điều hành của Chính phủ. Tất cả đều tác động đến thị trường thông qua sự khuyến khích hay hạn chế các Doanh nghiệp tham gia thị trường Luật pháp ra đời là để điều tiết hoạt động sản suất kinh doanh. Nó bảo vệ lợi ích cho Doanh nghiệp trước sự cạnh tranh không lành mạnh, bảo vệ lợi ích người tiêu dùng trước những việc làm gian giối như sản xuất hàng kém chất lượng, quảng cáo không đúng sự thật, đánh lừa khách hàng bằng thủ đoạn bao bì, nhãn gói và mức giá cả, bảo vệ lợi ích tối cao của Xã hội, chống lại sự lộng hành của các nhà sản suất Môi trường chính trị ảnh hưởng rất lớn đến thị trường. Chẳng hạn như việc điều hành xuất nhập khẩu của Chính phủ, nếu giá cả, số lượng, thời điểm ... hàng nhập khẩu không được điều hành tốt đều có thể làm cho thị trường trong nước biến động Văn hoá Xã hội Môi trường văn hoá bao gồm bao gồm các nhân tố đa dạng như: Phong tục, tập quán, các giá trị văn hoá truyền thống, thái độ, thị hiếu, thói quen, định hướng tiêu dùng... của mỗi dân tộc Những giá trị văn hoá đôi khi sẽ chở thành “ hàng rào gai góc” đối với việc thâm nhập thị trường của Doanh nghiệp. Các giá trị văn hoá truyền thống khó thay đổi tác động mạnh mẽ tới thái độ hành vi và tiêu dùng hàng hoá của các cá nhân, nhóm người Tuy nhiên, những giá trị văn hoá mang tính thứ phát thì dễ thay đổi hơn và sẽ tạo ra cơ hội thị trường hay khuynh hướng tiêu dùng mới. Do vậy các Doanh nghiệp cần phải chú ý thích đáng tới yếu tố văn hoá trước khi tiến hành tham nhập hay phát triển thị tường nào đó Ngày nay, đặc trưng môi trường văn hoá ở Việt nam đang thay đổi theo xu hướng tôn trọng các giá trị truyền thống của dân tộc, đồng thời mong muốn thoả mãn nhu cầu một cách nhanh chóng và có định hướng chí tụê trong tiêu dùng 5.2 Nhân tố vi mô Nhóm nhân tố thuộc về bản thân Doanh nghiệp Nhiệm vụ cơ bản của Doanh nghiệp là thoả mãn tốt nhất nhu cầu về tiêu dùng hàng hoá của thị trường. Công việc này thành công hay không lại phụ thuộc vào nhiều nhân tố và lực lượng. Trước hết là các chính sách và định hướng phát triển do ban lãnh đạo Doanh nghiệp vạch ra. Tuỳ thuộc vào từng giai đoạn cụ thể, từng thực trạng kinh doanh của mỗi Doanh nghiệp mà họ có thể có những kế hoạch ngắn hạn, trung hạn và dài hạn phù hợp. Đối với một Doanh nghiệp muốn đứng vững trên thị trường thì bộ phận lãnh đạo phải đưa ra mục tiêu, chiến lược, phương châm và quyết định trên cơ sở lợi ích chung của tập thể và chúng phải chứa đựng trong đó thế mạnh tổng hợp của mọi bộ phận. Phòng tài chính quan tâm đến vấn đề về vốn và hiệu quả sử dụng vốn, phòng vật tư chú trọng giải quyết việc bảo đảm cung cấp đủ, đúng thành phẩm, bán thành phẩm cần thiết, phòng kế toán theo dõi chặt chẽ các khoản thu chi, phòng thiết kế kĩ thuật bảo đảm về chất lượng, độ an toàn, độ bền đẹp của sản phẩm. Tất cả phải được hợp tác chặt chẽ với phòng thị trường Các nhà cung cấp Những người cung ứng là các tổ chức và các cá nhân đảm bảo cung cấp cho Doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh những yếu tố cần thiết để sản suất ra hàng hoá, dịch vụ nhất định. Để sản suất vải lụa, họ phải mua sợi, bông,thuốc nhuộm và cả sức lao động, máy móc thiết bị, năng lượng và các vật tư cần thiết khác. Bất kì sự biến đổi nào từ phía những người cung ứng đều ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ sản phẩm của Doanh nghiệp. Người sản suất phải luôn theo dõi đầy đủ các thông tin có liên quan đến thực trạng số lượng, chất lượng, giá cả... hiện tại và tương lai của các yếu tố nguồn lực cho sản suất hàng hoá và dịch vụ. Nguồn lực khan hiếm, giá cả tăng trước hết có thể làm xấu đi cơ hội thị trường cho việc kinh doanh những hàng hoá và dịch vụ nhất định, thậm chi phải ngừng sản suất Khách hàng Khách hàng của Doanh nghiệp là đối tượng mà Doanh nghiệp phục vụ, là yếu tố quyết định đến sự thành bại của Doanh nghiệp, bởi vì khách hàng tạo nên thị trường, qui mô khách hàng tạo nên qui mô thị trường. Khách hàng có thể là người tiêu dùng, các tổ chức mua bán thương mại, nhà bán buôn, các trung gian, các cơ quan nhà nước, các tổ chức quốc tế. Nhu cầu của họ luôn luôn biến đổi và do đó người bán cần nghiên cứu kĩ những biến động đó Các trung gian phân phối và tiêu thụ Những người trung gian và các hãng phân phối chuyên nghiệp đóng vai trò rất quan trọng trong việc hỗ trợ cho các Doanh nghiệp đi lên, tiêu thụ và phổ biến hàng hoá đối với khách hàng. Họ có thể là những người môi giới thương mại, đại lý, người bán buôn, bán lẻ, tổ chức dịch vụ marketing, lưu thông hàng hoá, tổ chức tài chính tín dụng. Những tổ chức này có ảnh hưởng trực tiếp tới hình ảnh của Doanh nghiệp trên thị trường, ảnh hưởng tới chất lượng dịch vụ, tính sáng tạo và chi phí, vì vậy điều nên làm đối với các Doanh nghiệp là phải cân nhắc cẩn thận trước khi quýêt định công tác với một loại hình trung gian phân phối cụ thể nào. Cần phải tiến hành đánh giá hoạt động của họ để tránh bị ràng buộc, đồng thời thiết lập những mối quan hệ bền vững với những tổ chức có tính chất quyết định nhất đối với mình Các đối thủ cạnh tranh Cạnh tranh là quy luật của nền kinh tế thị trường. Mỗi quyết định của đối thủ cạh tranh đều ảnh hưởng tới thị trường nói chung và của Doanh nghiệp nói riêng. Nhiều Doanh nghiệp cứ lầm tưởng người tiêu dùng có nhu cầu về giá trị hàng hoá của mình nhưng về bản chất là họ cần giá trị sử dụng hàng hoá đó và trên thị trường có rất nhiều sản phẩm thay thế cho họ lựa chọn, đôi khi các nhu cầu này bị triệt tiêu nhau, tức sự thành công của doanh nghệp này lại chính là sự thất bại của Doanh nghiệp khác, sự phát triển thị trường của Doanh nghiệp này chính là sự thu hẹp thị trường của doanh nghiêp khác và ngược lại. Vì vậy, mọi Doanh nghiệp không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh II Mối quan hệ giữa công tác tiêu thụ và thị trường tiêu thụ 1 Quan điểm cơ bản về công tác tiêu thụ 1.1. Thực chất của công tác tiêu thụ Tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn tiến hành sản suất của bất kì nhà sản suất nào. Mà thực chất đó là quá trình thu hồi lại giá trị đã bỏ ra trong sản suất bằng cách bán các sản phẩm của mình Như vậy xét về mặt nội dung của công tác tiêu thụ sản phẩm nó bao gồm những vấn đề cơ bản sau a Nghiên cứu thị trường, tổ chức thu thập thông tin về nhu cầu sản phẩm Trong bất kì một Doanh nghiệp nào, muốn có một quyết định đúng đắn thì phải dựa trên những tông tin thu thập được. Đối với công tác tiêu thụ sản phẩm, để có được một chiến lược sản phẩm hợp lý, một mạng lưới phân phối tiêu thụ có hiệu quả nhất thì phải nghiên cứu nhu cầu thị trường. Việc nghiên cứu nhu cầu thị trường phải coi trọng là hoạt động có tính chất tiên đề của công tác kế hoạch hoá hoạt động sản suất Doanh nghiệp công nghiệp. Nó có tầm quan trọng trong việc xác định đúng đắn phương hướng sản xuất kinh doanh. Trong quá trình nghiên cứu thị trường Doanh nghiệp cần thu thập các thồng tin về thị trường như: Qui mô thị trường Việc xác định qui mô thị trường rất có lợi cho Doanh nghiệp, đặc biệt khi Doanh nghiệp dự định tham gia vào một thị trường hoàn toàn mới. Khi xác định được qui mô thị trường thì Doanh nghiệp có thể biết được tiềm năng của thị trường đối với mình. Người ta có thể đánh giá qui mô thị trường bằng các tiêu thức khác nhau -Số lượng người tiêu dùng - Khối lượng hiện vật hàng hoá tiêu thụ - Doanh số bán thực tế Môi trường dân cư Doanh nghiệp cần nắm được số dân, cơ cấu dân cư theo tuổi, theo nghề nghiệp, theo vùng để từ đó xác định được khối lượng sản phẩm thoả mãn những bộ phận cơ cấu dan cư ấy Môi trường kinh tế Môi trường kinh tế ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp thông qua việc tác động đến các yếu tố đầu vào. Bên cạnh đó nó cũng ảnh hưởng đến khối lượng tiêu thụ của Doanh nghiệp do đó làm thay đổi thu nhập của người dân Môi trường văn hoá Cần phải nắm được tỷ lệ dân cư theo trình độ văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của từng vùng, từng tầng lớp cũng như lối sống, nguyên tắc và các gía trị Xã hội Môi trường công nghệ Doanh nghiệp phải biết trình độ phát triển kĩ thuật và công nghệ ở các khu vực và các vùng và các khu vực đó Môi trường luật pháp Doanh nghiệp phải nắm chắc các nguyên tắc chủ yếu có tác động đến hoạt động của mình và phải tuân thủ các nguyên tắc đó b Xây dựng và lựa chọn chiến lược sán phẩm và chiến lược thị trường Ngày nay khoa học kĩ thuật đã chở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, do vậy nhiều hàng hoá đồng dạng xuất hiện ngày càng nhiều trên thị trường và do sự cạnh tranh ngày càng chở nên gay gắt và quyết liệt, nhân tố của sự cạnh tranh đó là sự chuỷên đổi từ giá cả sang chất lượng sản phẩm. Trước tình hình đó nhiều Doanh nghiệp đã tìm cách cải tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm liên tục đưa ra thị trường những sản phẩm mới. Việc đưa ra những sản phẩm mới sẽ đem lại những lợi ích sau đây: Đối phó và giải quýêt kịp thời với hiện tượng trì trệ của sán xuất kinh doanh đảm bảo sự hoạt động liên tục của hoạt động sản suất kinh doanh Hiệu quả kinh tế cao do thu được lợi nhuận: Trong cơ chế thị trường hiện nay, do có sự cạnh tranh gay gắt giữa các Doanh nghiệp nên việc xác định chiến lược sản phẩm đúng lại càng có tầm quan trọng. Nội dung của chiến lược sản phẩm bao gồm những vấn đề + Xác định xem các loại sản phẩm mà Doanh nghiệp đã và đang sản xuất kinh doanh có còn được thị trường và giới tiêu thụ chấp nhận nữa hay không + Nếu như những sản phẩm đang sản xuất kinh doanh không được thị trường và giới tiêu thụ chấp nhận nữa thì phải tiến hành đa dạng hoá sản phẩm như thế nào cho có hiệu quả + Thời điểm thay đổi sản phẩm cũ được tién hành vào lúc nào là thích hợp. Ngày nay, ngoài các sản phẩm chuỳên thống hoặc đã có một thời gian sản suất nhất định, các Doanh nghiệp cần phải phát sinh sản phẩm mới. Sản phẩm mới đối với các Doanh nghiệp có thể thuộc các dạng cải tiến, hoàn hiện, mới hoàn toàn. Điều đặc biệt cần chú ý là dù thuộc dạng nào các sản phẩm nào phải đảm bảo thoả mãn tốt hơn nhu cầu thị trường và người tiêu dùng thì mới tiêu thụ nhanh tạo ra thị trường mới và đạt hiệu quả kinh tế cao - Việc phát triển sản phẩm mới là nhu cầu có tính khách quan đối với Doanh nghiệp vì + Mỗi loại sản phẩm đều có chu kì sống do đó việc tạo sản phẩm mới để thay thế sản phẩm cũ là tất yếu + Việc phát triển sản phẩm mới là phù hợp với yêu cầu của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật + Có phát triển sản phẩm mới, mới đảm bảo được yêu cầu phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ, bảo đảm sản xuất kinh doanh liên tục với hiệu quả kinh tế ngày càng cao * Để phát triển sản phẩm mới có hiệu quả phải có những điều kiện cơ bản sau: + Tổ chức thu thập thông tin về sản phẩm mới + Phân tích và xử lý có hiệu quả các thông tin về sản phẩm mới + Tổ chức nghiên cứu chế thử sản phẩm mới và đưa vào sản xuất hàng loạt + Tổ chức chào hàng, quảng cáo và quyết định thời điểm đưa sản phẩm mới ra thị trường c Lựa chọn phương thức tiêu thụ sản phẩm Trong công tác tiêu thụ sản phẩm, việc lựa chọn phương thức tiêu thụ sản phẩm được coi là vấn đề có tính chất quan trọng bởi vì đây là lúc chuyển giao việc sở hữu sản phẩm từ người sản suất sang người tiêu dùng. Đồng thời đây là giai đoạn thực hiện giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm Về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho thấy có nhiều phương thức, vấn đề đặt ra đối với các Doanh nghiệp là phải lựa chọn phương thức phân phối, tiêu thụ nào là hợp lý nhất và có hiệu quả nhất. Căn cứ vào quá trình vận động của hàng hoá từ sản suất đến người tiêu dùng ta có các phương thức phân phối tiêu thụ như sau Phương thức phân phối tiêu thụ trực tiếp Theo phương thức này Doanh nghiệp sẽ bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng thông qua cửa hàng bán và tiêu thị sản phẩm do Doanh nghiệp lập ra Ưu điểm của phương thức này là: Doanh nghiệp quan hệ trực tiếp với người tiêu dùng và thị trường điêù đó giúp Doanh nghiệp biết rõ về nhu cầu của thị trường, kiểm soát và thống kê được giá cả, có cơ hội để gây uy tín đối với người tiêu dùng, hiểu rõ được tình hình bán hàng do vậy có thể thay đổi kịp nhu cầu về sản phẩm Nhược điểm: Chi phí cho công tác tiêu thụ khá lớn do phải thiết lập các cửa hàng, mà theo phương thức này thì khả năng phân phối của Doanh nghiệp không được rộng và không được nhiều Phương thức tiêu thụ gián tiếp Phương thức này tiến hành t._.hông qua các khâu trung gian như hệ thống người bán buôn, người môi giới. Phương thức này được áp dụng đối với các doanh ngiệp có qui mô sản suất lớn, lượng hàng hoá sản suất ra vượt nhu cầu tiêu dùng của một vùng, một địa phương... Ưu điểm của phương thức này là Doanh nghiệp có thể tiêu thụ được một lượng hàng hoá, dịch vụ lớn mà không phải mất nhiều chi phí vào việc bán hàng do đó Doanh nghiệp có thể tập chung vốn sản suất, tạo điều kiện cho Doanh nghiệp chuyên môn hoá sản xuất Nhược điểm của phương thức này là Doanh nghiệp không thu được lợi ích tối đa do phải bán buôn và trả tiền hoa hồng cho các đại lý. Mặt khác do phải qua nhiều khâu trung gian nên Doanh nghiệp nhận thông tin phản hồi từ khách hàng chậm do đó không kịp thời đưa ra những quyết định và có thể gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp Phương thức phân phối tiêu thụ hỗn hợp Phương thức này là sự vận dụng cả hai phương thức tiêu thụ trực tiếp và gián tiếp. Việc sử dụng hai phương thức tiêu thụ này sẽ tận dụng được những ưu điểm và khắc phục được những nhược điểm của hai phương thức trên. Nhờ phương thức này mà quá trình phân phối tiêu thụ diễn ra linh hoạt và đem lại hiệu quả cao. Một điều cần chú ý là giá cả trong phương thức phân phối hỗn hợp này phải được qui định cho phù hợp. Doanh nghiệp bán lẻ tại các cơ sở thì không nên bán giá quá rẻ vì nó ảnh hưởng đến lợi ích của các đại lý d Công tác hỗ trợ tiêu thụ Nhằm đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm thì Doanh nghiệp cần phải có những biện pháp hỗ trợ, kích thích tiêu thụ, những biện pháp đó là: Quảng cáo Là nghệ thuật sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng nhằm tuyên chuyền cho các phần tử trung gian và cho người tiêu dùng cuối cùng nhận biết về sản phẩm của Doanh nghiệp trong một khoảng thời gian và không gian nhất định. Quảng cáo làm cho hàng hoá bán được nhiều hơn, nhanh hơn, làm cho nhu cầu được gợi mở và được biểu hiện nhanh hơn. Quảng cáo là phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cạnh tranh, quảng cáo phải bảo đảm tính trung thực Chức năng của quảng cáo là gây sự chú ý- diễn biến tâm lý đầu tiên. Để tạo ra sự chú ý thì quảng cáo phải đảm bảo Với lượng thời gian đưa tin ngắn nhất nhưng lại chuyền tải được một lượng thông tin nhiều nhất. Lượng thông tin càng cao thì sự chú ý của người nhận tin càng cao Số lần lặp lại vừa phải, không gây nhàm chán cho người xem Chào hàng Là một phương pháp chiêu thị qua các nhân viên của Doanh nghiệp đi tìm kiếm khách hàng để bán hàng Hội nghị khách hàng Trong hội nghị phải đảm bảo có mặt các khách hàng lớn, các mặt hàng quan trọng. Hội nghị phải có các nội dung gợi ý để khách hàng nói về ưu nhược điểm của sản phẩm, những vướng mắc trong mua bán, trong thanh toán, yêu cầu của khách hàng về sản phẩm và nhu cầu trong thời gian tới. Đồng thời trong hội nghị. Doanh nghiệp sẽ công bố các dự án,các chính sách của mình trong thời gian tới mà có liên quan đến vấn đề tiêu thụ sản phẩm Ngoài các hình thức trên, tuỳ theo điều kiện cụ thể Doanh nghiệp có thể linh hoạt áp dụng các hình thức sau: Giá theo tỉ lệ khối lượng: Để khuyến khích khách hàng mua nhiều sản phẩm, Doanh nghiệp sẽ có mức giá thấp dần theo mức tăng khối lượng sản phẩm tiêu thụ được Thanh toán: Doanh nghiệp có thể cho các khách hàng trả chậm trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu khách hàng trả ngay có thể cho khách hàng hưởng một tỷ lệ hoa hồng nào đó Phiếu có thưởng: Khi bán hàng thì Doanh nghiệp phát cho người tiêu dùng phiếu dự thưởng và tổ chức quay sổ số và phát phần thưởng cho người trúng thưởng Tuỳ theo từng Doanh nghiệp và tuỳ theo từng loại sản phẩm mà doanh ngiệp có thể lựa chọn một hay các hình thức trên để hỗ trợ cho công tác tiêu thụ của mình 1.2.Vai trò của công tác tiêu thụ Trong cơ chế thị trường hiện nay, việc tiêu thụ sản phẩm luôn là vấn đề quan tâm của các Doanh nghiệp công nghiệp. Có tiêu thụ được sản phẩm làm ra thì Doanh nghiệp mới thu hồi được vốn bỏ ra, mới có thể thông qua đó để thu được lợi nhuận từ đó mới có tích luỹ để tiến hành tái sản suất mở rộng. Khi nền kinh tế hàng hoá càng phát triển, cơ chế thị trường được hình thành và hoàn thiện thì vấn đề tiêu thụ đối với mỗi Doanh nghiệp lại càng khó khăn và phức tạp. Nó là một chỉ tiêu tổng hợp nhất, thông qua đó mới đánh được cả một quá trình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Phân tích quá trình tiêu thụ sản phẩm ta thấy có những vai trò sau: -Tiêu thụ sản phẩm là khâu quan trọng của quá trình tái sản suất trong các Doanh nghiệp công nghiệp. Việc tiêu thụ sản phẩm nhanh gọn trên thị trường sẽ giúp cho các Doanh nghiệp thu hồi được vốn nhanh, từ đó mới có cơ hội để đầu tư cho quá trình sản suất tiếp theo có hiệu quả. Trong cơ chế thị trường hiện nay, tiêu thụ sản phẩm với hiệu quả cao là mục tiêu vươn tới của mọi Doanh nghiệp -Kết quả đạt được ở khâu tiêu thụ phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp công nghiệp. Sản phẩm công nghiệp bao gồm cả hai mặt chủ yếu là giá trị và chất lượng. Gía trị là cơ sở để hình thành giá cả của hàng hoá còn chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu phản ánh tổng hợp của toàn bộ quá trình hoạt động sản suất kinh doanh của Doanh nghiệp. Khi sản phẩm đưa ra thị trường và được thị trường chấp nhận tức là thị trường cũng đã chấp nhận gía cả và chất lượng của sản phẩm, điêù đó làm cho sản phẩm tiêu thụ được nhiêù hơn, lợi nhuận thu được lớn hơn và tất nhiên hiệu quả kinh doanh thu được sẽ cao hơn -Tiêu thụ sản phẩm góp phần quan trọng trong việc duy trì phát triển và mở rộng thị trường tiêu thụ. Rõ ràng khi hoạt động tốt công tác tiêu thụ sẽ làm cho mối quan hệ giữa Doanh nghiệp với khách hàng khách hàng truyền thống ngày càng củng cố, mật thiết hơn. Mặt khác uy tín về sản phẩm của Doanh nghiệp càng được tăng lên, những khách hàng mới và những người tiêu dùng mới sẽ tìm đến Doanh nghiệp và tiêu dùng sản phẩm của Doanh nghiệp. Đây chính là cơ sở để Doanh nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình. Doanh nghiệp sẽ nắm bắt được nhu cầu mới cần phải được thoả mãn của thị trường. Từ đó có kế hoạch sản suất phù hợp, có chính sách tối ưu và đề ra chiến lược kinh doanh tiếp theo có hiệu quả -Quá trình hoạt động tích cực ở khâu tiêu thụ góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu qủa sản suất kinh doanh được xét trên hai góc độ khác nhau: Đối với Doanh nghiệp công nghiệp thì mang lại lợi nhuận cao, mở rộng sản suất, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên. Đối với nghành công nghiệp nói riêng và trong nền kinh tế quốc dân nói chung thì góp phần tạo ra nhiều của cải vật chất cho Xã hội, làm cho cung cầu hàng hoá được ổn định, đặc biệt góp phần quan trọng tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động 2. Mối quan hệ giữa công tác tiêu thụ và vấn đề duy trì và mở rộng thị trường 2.1 Thực chất của vấn đề duy trì và mở rộng thị trường Duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm là việc duy trì và mở rộng nơi chao đổi, mua bán hàng hoá và dịch vụ. Thực chất của nó là giữ vững và tăng thêm khách hàng của Doanh nghiệp Có hai hình thức mở rộng thị trường là Mở rộng theo chiều rộng: Là việc Doanh nghiệp thực hiện xâm nhập vào thị trường mới, thị trường của đối thủ cạnh tranh và thị trường của những người không tiêu dùng tương đối Mở rộng thị trường theo chiều sâu là việc Doanh nghiệp khai thác một cách tốt hơn trên thị trường hiện có của Doanh nghiệp bằng cách phân đoạn, cắt lớp thị trường, tìm ra những nhu cầu mới và đáp ứng ngày càng đa dạng và cao hơn về nhu cầu của từng đoạn và từng lớp thị trường đó Tóm lại việc mở rộng thị trường theo chiều rộng hay chiều sâu cuối cùng phải dẫn đến tăng tổng doanh số bán hàng, tiến tới công suất thiết kế và xa hơn nữa là vượt công suất thiết kế. Để từ đó Doanh nghiệp đầu tư phát triển qui mô lớn hơn 2.2 Mối quan hệ giữa công tác tiêu thụ và vấn đề duy trì và mở rộng thị trường Thị trường là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán về sản phẩm hay dịch vụ. Như vậy thị trường chính là nơi xẩy ra quả trình tiêu thụ, thông qua thị trường thì sản phẩm hàng hoá mới được chuyển từ người bán sang người mua. Quá trình tiêu thụ mới được thực hiện tốt thì còn tuỳ thuộc vào đặc điểm của thị trường Việc phân khúc và lựa chọn khúc thị trường có khả năng nhất đối với Doanh nghiệp thì sẽ đẩy nhanh được tốc độ tiêu thụ Tiêu thụ là quá trình chuyển giao sản phẩm hàng hoá từ người bán sang người mua trên thị trường. Nếu quá trình tiêu thụ không xẩy ra thì thị trường chẳng qua chỉ là thị trường giả tạo. Nếu người sản suất tổ chức tốt quá trình tiêu thụ như sử dụng các hình thức phân phối , các chính sách hỗ trợ tiêu thụ thì thị trường sẽ được mở rộng Để thực hiện tốt quá trình tiêu thụ Doanh nghiệp phải tiến hành lập kế hoạch tiêu thụ là những thông tin thị trường. Doanh nghiệp phải tiến hành nghiên cứu thu thập thông tin từ thị trường từ đó mới phân tích xem nên đưa ra thị trường đó loại sản phẩm gì với phương thức tiêu thụ nào Như vây, giữa thị trường và tiêu thụ không thể tách rời mà nó có tác động qua lại lẫn nhau, sản phẩm của Doanh nghiệp muốn tiêu thụ được thì phải có mặt trên thị trường. Doanh nghiệp không thể coi nhẹ vấn đề thị trường nếu như muốn phát triển hoạt động sản suất kinh doanh của mình 2.3 Sự cần thiết phải duy trì và mở rộng thị trường Hoạt động sản xuất của Doanh nghiệp chịu nhiều yếu tố tác động từ thị trường mối quan hệ này được thể hiện thông qua sơ đồ sau Thị trường lao động Thị trường nguyên vật liệu Thị trường trang thiết bị Thị trường vốn Thị trường công nghệ Doanh nghiệp công nghiệp Thị trường hàng hoá và dịch vụ ( Thị trường đầu vào ) ( Sản xuất ) ( Thị trường đầu ra ) Doanh nghiệp là người mua các yếu tố đầu vào và bán các sản phẩm mình làm ra đều được thực hiện thông qua thị trường. Quy mô của việc mua vào và bán ra này sẽ quyết định quy mô của sản suất. Nếu coi các Doanh nghiệp như các cơ thể sống thì thị trường là nơi đảm bảo các yếu tố cho các sự sống đó và cũng là nơi thực hiện việc chao đổi chất để sự sống đó tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó thị trường chính là điều kiện và là môi trường cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghệp Mặt khác, thị trường là tồn tại khách quan, từng Doanh nghiệp chỉ có thể hoạt động thích ứng với thị trường. Mỗi Doanh nghiệp phải nhận biết nhu cầu của thị trường và Xã hội cũng như thế mạnh của mình trong sản xuất. Để có chiến lược, kế hoạch và phương án kinh doanh phù hợp với những đòi hỏi của thi trường và Xã hội Trong cơ chế thị trường các Doanh nghiệp phải tự hạch toán kinh doanh với phương châm là phải bám vào thị trường để tồn tại và phá triển. Phải nghiên cứu thị trường đầu ra, xác định được dung lượng toàn bộ thị trường và dự báo về khả năng thị phần của mình nhờ lợi thế tương đối Khi nghiên cứu về sản phẩm của mình thì trước hết phải xác định dung lượng toàn bộ thị trường về loại hàng hoá của mình thông qua các số liệu thống kê và dự báo đồng thời xem xét khả năng của mình có thể sản xuất được bao nhiêu nó sẽ cho biết thị phần của Doanh nghiệp trên thị trường Lượng hàng hoá tiêu thụ của Doanh nghiệp Thị phần của Doanh nghiệp = Tổng lượng hàng hoá tiêu thụ của thị trường Mong muốn của mỗi Doanh nghiệp là làm sao để thị phần của mình chiếm một tỉ lệ ngày càng cao hay là tăng dược số lượng hàng bán, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Khi đó Doanh nghiệp có điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho Doanh nghiệp Nói tóm lại, thị trường của Doanh nghiệp gắn liền với các vấn đề doanh thu, lợi nhuận,uy tín khả năng phát triển của Doanh nghiệp. Mọi yếu trên thị trường của Doanh nghiệp cần được xem xét cả trong hiện tại và trong tương lai. Quá trình duy trì và phát triển thị trường là quá trình đảm bảo cho các yếu tố trên đây luôn được ổn định và phát triển 3. Nguyên tắc của việc mở rộng thị trường 3.1.Mở rộng thị trường trên cơ sở đã đảm bảo vững chắc thị phần hiện có Đối với Doanh nghiệp, thị trường tiêu thụ ổn định là cơ sở cho hoạt động kinh doanh.Để tạo nên một thị trường tiêu thụ ổn định Doanh nghiệp phải xây dựng và thực hiện các biện pháp khai thác và mở rộng thị trường hiện có cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Thông qua hoạt động này sẽ nâng cao uy tín sản phẩm của Doanh nghiệp trên thị trường Mặt khác giữ vững thị trường hiện có là biểu hiện sự ổn định trong sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Sự ổn định này lại là tiền đề cho hoạt động tìm kiếm thị trường mới hay mở rộng thị trường. Do đó muốn mở rộng thị trường doanh ngiệp phải đảm bảo vững chắc phần thị trường hiện có và khai thác tối đa tiềm năng của thị trường. Đó là cơ sở để mở rộng thị trường và tạo nên thị trường kinh doanh ổn định 3.2.Mở rộng thị trường phải dựa trên cơ sở huy động tối đa các nguồn lực trong Doanh nghiệp Mỗi sản phẩm bán ra trên thị trường đều phải thoả mãn các yêu cầu về số lượng, chất lượng và giá cả. Những yêu cầu tuỳ thuộc vào quy mô của thị trường mà sản phẩm cần phải đáp ứng Trong Doanh nghiệp các nguồn lực như lao động, tài chính, vật tư, thiết bị ... sẽ có ảnh hưởng trực tiếp tới số lượng, chất lượng, giá cả sản phẩm. Mọi kế hoạch sản suất đều dựa trên cơ sở cân đối giữa yêu cầu của thị trường và các khả năng về các nguồn lực trong Doanh nghiệp Khi Doanh nghiệp mở rộng thị trường , nhu cầu tất yếu sẽ được tăng lên mà các nguồn lực là không đổi dẫn đến sự chênh lệch giữa nhu cầu của thị trường và khả năng của Doanh nghiệp. Do đó muốn mở rộng thị trường Doanh nghiệp cần tìm mọi biện pháp tăng tính hiệu quả và huy động tối đa các nguồn lực để đảm bảo thoả mãn nhu cầu thị trường 3.3.Mở rộng thị trường phải dựa trên cơ sở phân tích đầy đủ các loại nhu cầu và khả năng thanh toán của của người tiêu dùng Trên thị trường luôn tồn tại mối quan hệ cung cầu của tất cả các loại hàng hoá và dịch vụ. Cơ sở để tạo nên mối quan hệ cung-cầu của một mặt hàng chính là nhu cầu của người tiêu dùng về hàng hoá và dịch vụ đó. Muốn sản xuất đáp ứng được nhu cầu thị trường các Doanh nghiệp phải thường xuyên dựa trên kết quả phân tích các thông tin trong đó phải đặc biệt chú ý đến các thông tin về các nhu cầu có khả năng thanh toán. Trên cơ sở các thông tin thu thập được, Doanh nghiệp chia thành nhóm người tiêu dùng với đầy đủ các đặc điểm của nhóm đó. Những hoạt động trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với thị trường mới vì thông qua thu thập, xử lý và rút ra qui mô nhu cầu có khả năng thanh toán, Doanh nghiệp sẽ xây dựng chính sách thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường mới. Phân tích đầy đủ nhu cầu sẽ giúp cho Doanh nghiệp tạo được chỗ đứng vững chắc trên thị trường 3.4. Mở rộng thị trường phải phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế Xã hội của Đảng và Nhà nước trong từng thời kì Mục tiêu phát triển kinh tế Xã hội của Đảng và nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp tới những biến động và sự ổn định của thị trừơng. Trong kinh doanh, mọi hoạt động phải tuân thủ pháp luật cả Nhà nưỡc, hướng hoạt động của Doanh nghiệp đi theo các mục tiêu kinh tế- Xã hội đã đặt ra. Mở rộng thị trường của Doanh nghiệp cũng trong khuôn khổ tuân theo qui định cảu pháp luật vì mọi hoạt động vi phạm chính sách sẽ ảnh hưởng xấu tới hoạt kinh doanh của Doanh nghiệp tạo ra sự bất ổn trên thị trường Do đó mở rộng thị trường tiêu thụ phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế- Xã hội trong từng thời kì, hoạt động có tính nguyên tắc, đảm bảo cho Doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Phần II Phân tích thực trạng về thị trường tiêu thụ sản phẩm ở Xí nghiệp may đo X19 thuộc Công ty 247- bộ quốc phòng I Một số đặc điểm kinh tế kỹ thuật chủ yếu của Xí nghiệp may đo X19 ảnh hưởng tới thị trường tiêu thụ 1 Quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp may đo X19-Công ty 247-Bộ quốc phòng Xí nghiệp được thành lập ngày 1/4/1983 theo quyết định của Quân chủng không quân, lúc đầu chỉ là một phân xưởng may đo phục vụ cho nội bộ Quân chủng với con số ít ỏi khoảng 30 người, máy móc lạc hậu, kỹ thuật thô sơ, sản phẩm chỉ là những bộ quân phục được may theo mẫu qui định của quân chủng. Với sự nỗ lực của công nhân viên, xưởng may đo luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ mà quân chủng giao phó. Thực hiện tốt những chỉ thị của Đảng và Nhà nước về tăng cường hoạt động kinh tế trong các đơn vị Quân đội và quán triệt tinh thần bộ đội làm kinh tế. Quân chủng không quân trên cơ sở đánh giá tốt những kết quả đạt được của xưởng may đo nên đã đề nghị Bộ quốc phòng cho thành lập Xí nghiệp may X19 phát triển của xưởng may cũ. Ngày 21/5/1991, Xí nghiệp may X19 chính thức được bộ quốc phòng cho phép thành lập với nhiệm chủ yếu là: May đo các loại quân phục cho quân chủng không quân và các đơn vị Quân đội khác thuộc phía Bắc. Tuy nhiên, cho đến nay theo quyết định số 1820/QD_UB ngày 16/9/1995 của Quân chủng không quân, Xí nghiệp được quyền mở rộng sản xuất kinh doanh. Đây là một quyết định vô cùng đúng đắn, sáng suốt của Bộ quốc phòng, tạo điều kiện cho Xí nghiệp mở rộng thị trường tiêu thụ, có khả năng phục vụ các nhu cầu về quần áo may sẵn cho các cá nhân, các đơn vị Quân đội hay đơn vị hành chính nhà nứơc. Sau khi có nghị định 388-NĐ về thành lập lại các Doanh nghiệp nhà nước, Xí nghiệp may X19 đựơc thành lập lại là một Doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập để phù hợp với sự phát triển của thị trường. Đến tháng 10/1996, thực hiện nghị quyết của Đảng uỷ quân sự Trung ương, Xí nghiệp đã được xác lập với 3 Xí nghiệp khác thành Công ty 247: Xí nghiệp may X19, chi nhánh phía Nam chuyên may hàng xuất khẩu, X92 và X93 trực thuộc Bộ quốc phòng. Năm 1996, Công ty 247 có số vốn sản xuất kinh doanh là khoảng 30 tỷ đồng, mặc dù có doanh thu từ các hoạt động sản xuất kinh doanh là rất lớn 60 tỷ đồng nhưng tổng lợi nhuận thu được lại không đáng kể chỉ khoảng 350 triệu đồng lại là của riêng X19 còn các thành viên khác đều làm ăn thua lỗ, thậm chí X92 và chi nhánh phía Nam còn bị thâm hụt vào vốn sản suất kinh doanh. Xuất phát từ thực tế này, tháng 12/1997 được sự đồng ý của tư lệnh quân chủng, với nguyên tắc: Tinh, gọn, hiệu quả trong xây dựng mô hình trong cơ chế quản lý và điều hành, Công ty 247 đã tách các Xí nghiệp làm ăn thua lỗ ra chở thành một Công ty 247 với hai thành viên là Xí nghiệp may X19 và chi nhánh hàng may xuất khẩu ở phía Nam. Từ ngày được thành lập lại cho tới nay, với nỗ lực cố gắng của ban quản lý và của toàn thể công nhân viên, Xí nghiệp may X19 đã từng bước đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả hơn, giải quyết tốt phần nợ tồn đọng của Xí nghiệp thành viên cũ, mở rộng sản xuất kinh doanh có lãi và từng bước đứng vững trên thị trường. Xí nghiệp đã phát huy được hiệu quả sản xuất kinh doanh của thời kì trước và không ngừng vươn lên và phát triển, hoàn thiện công tác quản lý và công tác sản xuất tiêu thụ. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, Xí nghiệp đã duy trì một cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý được thể hiện thông qua sơ đồ như sau: Sơ đồ I.1: Tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp may đo X19 Phòng kinh doanh Phân xửơng cắt Giám đốc Công ty Pgđ kinh doanh Phòng kế koạch Phòng chính trị Phòng hành chính xí nghiệp may x19 Phân xưởng may I Phân xưởng may II Phân xưởng may cao cấp Cửa hàng Pgđ kỹ thuật Phòng tài vụ Phòng kỹ thuật Phòng thiết kế Theo sơ đồ trên ta thấy bộ máy quản lý của Xí nghiệp được tổ chức theo cơ cấu trực tuyến Giám đốc là người chỉ huy cao nhất và điều hành mọi hoạt động của công ty Phó giám đốc, các Phòng ban, chức năng là người giúp việc cho giám đốc Nhiệm vụ của các phòng ban - Phòng kinh doanh: Tổ chức tốt công tác tiêu thụ như phụ trách công tác marketing, quảng cáo, công tác xuất nhập khẩu , ký kết các đơn hàng Phòng kế hoạch-vật tư: Đảm bảo các yêu cầu về nguyên vật liệu, phụ tùng thay thế, lập và theo dõi tình hình thực hiện kế hoạch. Một chức năng khác là phụ trách tuyển dụng, xa thải lao động và các vấn đề liên quan đến lao động khác Phòng chính trị: Có nhiệm vụ chăm lo xây dựng công tác Đảng, công tác chính trị cho toàn thể công nhân viên trong Xí nghiệp Phòng hành chính: Giúp giám đốc quản lý công tác hành chính văn thư, quản lý các phương tiện phục vụ sinh hoạt, tổ chức phục vụ đời sống, chăm lo đời sống tinh thần, sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên. Chịu trách nhiệm tiếp khách và phục vụ các hội nghị trong xí nghiệp Phòng tài vụ: Trực tiếp làm công tác hạch toán kế toán theo đúng chế độ ban hành, làm nhiệm vụ tham mưu cho giám đốc về toàn bộ hạt đông tài chính của xí nghiệp, theo dõi hạch toán quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành, xác định kết quả sản xuất kinh doanh của công ty hàng tháng, hàng quí, hàng năm một cách kịp tkời và chính xác. Tham gia phân tích hoạt động kinh tế của công ty giúp giám đốc trong việc ra quyết định điều hành sản xuất, cân đối và xử lý về tài chính, cũng như chính sách tiêu thụ sản phẩm thích hợp, góp phần tạo ra hiệu quả cao trong công ty Phòng kỹ thuật: Quản lí công tác kỹ thuật và chất lượng sản phẩm trong công ty. Cụ thể xây dựng qui trình công nghệ, quy phạm ký thuật trong các công đoạn sản xuất, lập kế hoạch trung tu, tiểu tu máy móc thiết bị và sửa chữa bổ xung đầu tư mới thiết bị phụ tùng. Giúp giám đốc theo dõi, xem xét các đề tài cải tiến kĩ thuật, xây dựng kế hoạch tiến độ kỹ thuật. Ngoài ra phòng còn thường xuyên kiểm tra chất lượng sản phẩm góp phần tiết kiệm nguyên vật liệu và bảo đảm chất lượng sản phẩm Phòng thiết kế: Nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới, đa dạng hoá mẫu mã phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng Nhìn chung, cơ cấu quản lý của Xí nghiệp đã hình thành các phòng ban chức năng cụ thể. Nhưng các chức năng còn chồng chéo như chưa có phòng tổ chức lao động riêng mà chức năng của phòng lại nằm trong phòng kế hoạch-vật tư. Do vậy gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh nói chung và cho công tác quản lý lao động nói riêng. Vì vậy Xí nghiệp cần phải hoàn thiện hơn nữa bộ máy quản lý của mình. Qua một số quá trình hoàn thiện, đổi mới, cho tới nay Xí nghiệp may X19 đã lựa chọn cơ cấu sản xuất phù hợp với địa hình Doanh nghiệp, đặc điểm sản xuất, đặc điểm sản phẩm như sau: Sơ đồ I.2: Cơ cấu tổ chức sản xuất của Xí nghiệp may X19 Xí nghiệp X19 Phân xưởng phù trợ Phân xưởng sản xuất chính Phân xưởng phục vụ Phân xưởng cắt Phân xưởng may Phân xưởng hoàn tất Cơ cấu sản xuất của Xí nghiệp bao gồm các bộ phận sau: Bộ phận sản xuất chính bao gồm phân xưởng cắt, phân xưởng may cao cấp và phân xưởng hoàn tất. Bộ phận này chiếm khoảng 80% tài sản của Xí nghiệp và chiếm 93% tổng số lao động Bộ phận sản xuất phù trợ bao gồm: Tổ cơ điện bao gồm 6 công nhân với tay nghề bậc thợ trung bình là 4. Tổ này có nhiệm vụ sửa chữa bảo hành các thiết bị may, ở Xí nghiệp công tác bảo hành được tiến hành 6 tháng một lần, các hỏng hóc nhỏ đều được các nhân viên khắc phục ngay. Nhìn chung bộ phận này đã hoàn thành được nhiệm vụ, máy móc luôn hoạt động tốt, hệ số hoạt động đều cao. Tuy nhiên bộ phận này phải đảm nhận một công việc khá lớn, thường xuyên kiểm tra bảo hành cho 400 máy công nghiệp và nhiều thiết bị chuyên dùng khác do đó nên cần phải bổ xung cho bộ phận này Bộ phận phục vụ sản xuất gồm: Tổ bảo vệ, tổ y tế, hệ thống kho tàng phương tiện vận tải và công trình phúc lợi công cộng khác. Bộ phận này gồm cả hệ thống kho tàng được bố trí một cách hợp lý tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển thành phẩm, bán thành phẩm và nguyên vật liệu. Các kho tàng mới được tu sửa khang trang, hiện đại, với các kệ, tủ để sắp xếp hàng hoá rất thuận lợi ngăn nắp, đảm bảo tốt cho công tác dự trữ, lưu kho thành phẩm hay nguyên vật liệu, tránh mối mọt ẩm ướt ... Hệ thống phòng trống cháy, chống ẩm được bảo đảm ở khắp mọi nơi, riêng hệ thống chống cháy mới được sửa sang nâng cấp hiện đại đảm bảo nhanh chóng kịp thời dập tắt lửa khi có hoả hoạn xảy ra 2 Một số đặc điểm kinh tế kĩ thuật chủ yếu của Xí nghiệp ảnh hưởng đến thị trường tiêu thụ 2.1 Tính chất và nhiệm vụ sản suất Xí nghiệp có nhiệm vụ là chuyên may quân phục đông, hè cho cán bộ chiến sĩ thuộc quân chủng phòng không, không quân và các sản phẩm của các ngành khác như: ngành Công an, ngành Quản lý thị trường, Kiểm lâm, Hải quan, Viện kiểm sát, Điện lực,... Bên cạnh đó Xí nghiệp còn sản xuất các sản phẩm khác như: comple, veston, áo sơ mi, áo jacket, quần âu để phục vụ cho thị trường trong nước và cho xuất khẩu. Đây là những sản phẩm may cao cấp và phục vụ cho các thị trường đặc biệt cho nên tính phức tạp trong mỗi sản phẩm là tương đối cao do đó đòi hỏi trình độ chuyên môn hoá trong Xí nghiệp phải tương xứng. Xuất phát từ những đặc điểm này mà sản phẩm làm ra của Xí nghiệp rất phong phú và đa dạng có thể đáp ứng cho nhiều loại khách hàng khác nhau, tạo điều kiện cho Xí nghiệp duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình Hiện nay sản phẩm của Xí nghiệp được thực hiện theo hai giai đoạn công nghệ là cắt-may và hoàn thiện sản phẩm Khi vải được xuất kho xuống phân xưởng cắt theo phiếu xuất kho ( ghi vào cuối ngày trên phòng kế hoạch-vật tư ) Phân xưởng cắt thực hiện công nghệ cắt- đóng gói đơn chiếc bán thành phẩm, đánh số thứ tự theo từng đơn hàng. Sau đó bán thành phẩm được chuyển đến hai phân xưởng: Phân xưởng may chính và phân xưởng may cao cấp. Tại hai phân xưởng này, mỗi một công nhân phải hoàn thiện sản phẩm hoàn chỉnh. Cũng tại mỗi phân xưởng đó đều có nhân viên KCS kiểm tra chất lượng sản phẩm cho nên sản phẩm cuả Xí nghiệp luôn có chất lượng cao tạo uy tín cho Xí nghiệp đối với khách hàng trong và ngoài nước. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho Xí nghiệp củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Giai đoạn cuối cùng là sản phẩm được chuyển nhập kho thành phẩm và xuất trả cho khách hàng 2.2 Cơ sở vật chất kỹ thuật a Kho tàng nhà xưởng - Diện tích của toàn Xí nghiệp là : 9282 m2 - Diện tích sử dụng: 6280 m2 - Diện tích nhà kho: 500 m2 -Nơi đặt phân xưởng sản xuất: 311-Trường Trinh-Đống Đa-Hà Nội Đặc điểm chính của kiến trúc nhà xưởng là nhà xây 3 tầng có cầu thang đi lại thuận tiện cho việc vận chuyển nguyên vật liệu cho các phân xưởng. Xung quanh phân xưởng được lắp kính tạo ra một không gian rộng rãi thoải mái cho công nhân. Các phân xưởng đều có hệ thống điều hoà không khí. đường xá trong Xí nghiệp đều được đổ bê tông Nhận xét Xí nghiệp may đo X19 đã tạo điều kiện làm việc tốt cho công nhân vào việc đầu tư nhà xưởng, nâng cấp chất lượng môi trường làm việc. Điều đó đã tạo ra sự an toàn trong sản xuất, vệ sinh cho các sản phẩm làm ra. Chính điều kiện sản xuất cũng ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Do đó để khách hàng trong và ngoài nước chấp nhận sản phẩm thì tất yếu Xí nghiệp ngày càng phải hoàn thiện điều kiện làm việc trong nhà xưởng. Điều kiện làm việc tốt cũng góp phần nâng cao năng xuất lao động của công nhân. Nhà kho của Xí nghiệp được đặt ở tầng 1 tạo điều kiện dễ dàng cho việc vận chuyển nguyên vật liệu lên tầng và chuyển thành phẩm từ tầng xuống. Điều kiện bảo quản nhà kho rất tốt giúp cho sản phẩm không bị hỏng do bị ẩm hay mất vệ sinh. Với hệ thống nhà kho rộng 500m2 sẽ tạo điều kiện cho Xí nghiệp dự trữ các khối lượng lớn để cung cấp kịp thời cho các thị trường khi có nhu cầu tạo điều kiện mở rộng thị trường cho Xí nghiệp Tuy nhiên do Xí nghiệp nằm trong nội thành nên diện tích mặt bằng hạn hẹp, Xí nghiệp không thể mở rộng sản xuất, xây dựng thêm kho tàng nhà xưởng b Máy móc thiết bị Do đặc điểm nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp là may hàng phục vụ cho các ngành Quân đội, Công an, Kiểm lâm, Hải quan, Quản lý thị trường... và cho xuất khẩu do đó Xí nghiệp phải đảm bảo chất lượng sản phẩm làm ra. Chính vì vậy mà Xí nghiệp đã không ngừng đổi mới máy móc trang thiết bị, công nghệ. Phần lớn máy móc thiết bị của Xí nghiệp là do Nhật và Đức chế tạo và có năm sản xuất từ năm 1994 đến năm 1999. Như vậy máy móc thiết bị và công nghệ của Xí nghiệp thuộc vào loại mới, tiên tiến và hiện đại đảm bảo cho chất lượng sản phẩm làm ra. Xí nghiệp có 25 loại máy chuyên dùng khác nhau ( Số liệu cụ thể ở biểu số 1 ). Chính điều này sẽ tạo cho Xí nghiệp điều kiện làm việc hoàn thiện các công đoạn của quá trình sản suất sản phẩm, làm cho sản phẩm hoàn thiện hơn, chất lượng tốt hơn, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của khách hàng trong và ngoài nước từ đó tạo lòng tin đối với khách hàng nâng cao chữ “tín” cho Xí nghiệp góp phần vào việc mở rộng thị trường. Biểu II.1: Các loại máy móc thiết bị của Xí nghiệp may X19 stt Tên thiết bị Năm sử dụng ĐVT Số lượng Nguyên giá Giá trị còn lại 1 Máy may một kim bằng brother 1994 Cái 80 528000000 174240000 2 Máy may một kim bằng brother 1995 Cái 20 132960000 53184000 3 Máy may một kim bằng brother 1995 Cái 25 126181150 81090575 4 Máy may một kim bằng juki 1996 Cái 20 135766400 70598528 5 Máy may một kim bằng juki 1996 Cái 14 95036480 58147725 6 Máy may một kim bằng juki 1996 Cái 10 71825000 44531500 7 Máy may một kim bằng juki 1997 Cái 24 175580064 1229060448 8 Máy may một kim bằng juki 1998 Cái 11 93275710 78351596 9 Máy may một kim bằng juki 1999 Cái 20 167268010 153886570 10 Máy may một kim bằng juki 1999 Cái 14 115946432 111308566 11 Máy may một kim bằng juki5 1998 Cái 1 8475950 7289317 12 Máy may 5một kim bằng juki3 1996 Cái 5 42500000 13 Máy may 1một kim bằng juki2 1998 Cái 15 117761700 91854126 14 Máy vắt sổ 2 kim 5 chỉ brother1 1995 Cái 3 41260992 15541644 15 Máy vắt sổ 2 kim 5 chỉ juki1 1997 Cái 1 27756528 27965527 16 Máy vắt sổ 2 kim 3 chỉ juki 1998 Cái 2 30350000 26708000 17 Máy vắt sổ 1 kim 3 chỉ juki 1998 Cái 1 14825965 12750330 18 Phương tiện vận tải xe jeep 1994 Cái 1 45296000 22648000 19 Phương tiện vận tải xe kpa 1994 Cái 1 30000000 24000000 20 Trạm điện, thiết bị điện 1998 Cái 1 270264600 2096955105 21 Máy vắt sổ singer 1996 Cái 2 18000000 10080000 22 Máy vắt gấu 1996 Cái 1 14300000 8294000 23 Máy vắt gấu jukj 1999 Cái 1 38586415 35499502 24 Máy thùa juki 1995 Cái 1 38292368 19146185 25 Máy thùa đầu tròn singer 1996 Cái 1 150646000 85868220 2.3 Nguyên vật liệu Nguyên vật liệu là yếu tố đầu vào quan trọng của mọi Doanh nghiệp đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra một cách đều đặn, liên tục. Đặc biệt đối với ngành may mặc, nguyên vật liệu c._.c dù trong những năm qua Xí nghiệp thường xuyên quan tâm đến việc xây dựng định mức, điều chỉnh lại các chỉ tiêu này nhưng trên thực tế các phân xưởng thực hiện còn dễ dàng vì định mức giao phần còn chưa sát với thực tế và vì điều kiện sản xuất ngày càng hoàn thiện hơn. Chính vì vậy việc điều chỉnh định mức tiêu hao nguyên vật liệu là việc làm cần thiết thường xuyên Việc điều chỉnh định mức tiêu hao nguyên vật liệu đối với các sản phẩm sẽ làm giảm đáng kể giá thành của sản phẩm . Cụ thể được thể hiện thông qua bảng số liệu sau: Biểu III.4 : Định mức NVL cho một chiếc áo chiết gấu. ĐVT: ( mét) Loại NVL Định mức thực hiện Chênh lệch Đơn giá (đồng/mét) Chênh lệch (đồng) Vải 1,5 1,47 0,03 15.000 450 Mex 0,15 0,135 0,015 8.000 120 Chỉ 74 71 3 3,8 11,4 Như vậy mỗi một áo chiết gấu xí nghiệp tiết kiệm được 581,4 đồng. Nếu lấy áo chiết gấu làm sản phẩm quy đổi thì trong quá I năm 2001 Xí nghiệp sản xuất được 280.000 áo chiết gấu và theo bảng định mức trên thì Xí nghiệp sẽ tiết kiệm được 581,4 x 280.000 = 162.792.000 đồng, tiền nguyên vật liệu Tổ chức tốt công tác thu mua Xí nghiệp cần tìm nguồn mua nguyên vật liệu để tối ưu hoá hoạt động mua, giảm giá mua mà chất lượng vẫn đảm bảo. Cố gắng mua tận gốc, hạn chế mua qua trung gian đẫn đến gía cao. Đồng thời phải tổ chức tốt công tác thu mua để giảm chi phí thu mua Từ cuối năm 1997 Xí nghiệp đã được quyền xuất nhập khẩu trực tiếp, tạo điều kiện thuận lợi cho Xí nghiệp trong kinh doanh. Xí nghiệp có thể chủ động nhập vật tư cho sản xuất, lựa chọn bạn hàng với giá rẻ hơn tiết kiệm đựơc chi phí uỷ thác xuát nhập khẩu. Điều đó cho phép Xí nghiệp có thể giảm chi phí nguyên vật liệu giá thành sản phẩm khoảng 0,2 -> 0,3% Giảm chi phí bảo quản Hầu hết nguyên vật liệu của Xí nghiệp phải đi mua ngoài, có những loại phải dự trữ cho chu kì sản xuất từ 3 -> 6 tháng, do đó việc bảo quản nguyên vật liệu dự trữ là rất quan trọng Trong những năm qua Xí nghiệp đẫ quan tâm đến cải tạo kho tàng, nâng cao trình độ đội ngũ thủ kho. Tuy vậy vẫn cần phải đầu tư thêm các điều kiện bảo quản, xếp đặt. Phải thực hiện xuất nhập kho rõ ràng, bảo đảm chính xác về số lượng, đúng chủng loại và yêu cầu về chất lượng. Cần tăng cường hơn nữa các biện pháp chống chuột, bọ, gây hao hụt, ẩm mốc nguyên vật liệu. Đối với kho đựng nguyên vật liệu cần bảo đảm các điều kiện để có thể bảo đảm để có thể bảo quản tốt, không để hư hỏng giảm chất lượng, gây hao hụt, lãng phí. Xí nghiệp cần tính toán lượng nguyên vật liệu gối đầu hợp lý, vừa bảo đảm đủ sản xuất nhưng vẫn bảo đảm không bị thời hạn làm giảm phẩm cấp chất lượng nguyên vật liệu Các biện pháp làm giảm chi phí tiền lương Trong giá thành sản phẩm tiền lương là một khoản chi phí không nhỏ. Vì vậy giảm chi phí tiền lương sẽ làm giảm gía thành của sản phẩm. Những năm qua năng xuất lao động của Xí nghiệp có mức tăng khá nhanh nhưng do Xí nghiệp nâng cao mức thu nhập cho người lao động nên tốc dộ tăng tiền lương nhanh hơn tốc độ tăng năng xuất lao động. Trong thời gian tới Xí nghiệp cần đầu tư các biện pháp nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng năng xuất lao động, bên cạnh đó cần áp dụng các biện pháp nhằm giảm chi phí tiền lương Giảm chi phí tiền lương có thể thực hiện thông qua việc xây dựng và áp dụng định mức lao động Để giảm chi phí tiền lương phải giảm đơn giá tiền lương. Đơn giá tiền lương giảm không có nghĩa là giảm tiền lương của công nhân mà là dựa trên cơ sở giảm định mức lao động. Việc giảm định mức lao động sẽ là điều kiện để giảm chi phí tiền lương. Vì vậy Xí nghiệp cần nghiên cứu hoàn thiện định mức lao động trên cơ sở điều kiện mới về cơ sở vật chất kĩ thuật. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được thông qua các biện pháp hợp lý hoá sản xuất, đầu tư đổi mới công nghệ bảo đảm tính đồng bộ của dây chuyền sản xuất, đặc biệt là ở các công đoạn còn nhiều lao động thủ công và các công đoạn công nhân còn phải làm việc trên những trang thiết bị máy móc lạc hậu, cũ kỹ. Các biện pháp tiết kiệm chi phí cố định, nhiên liệu, điện nước Các biện pháp tiết kiệm chi phí cố định Chi phí cố định bao gồm chi phí sử dụng máy móc, thiết bị ( Khấu hao tài sản cố định ), chi phí quản lý. Để giảm các chi phí này cần thực hiện các biện pháp sau: Phấn đấu tăng nhanh sản lượng. So với mức tăng sản lượng các chi phí cố định thường tăng ít hơn. Vì vậy nếu sản lượng tăng sẽ làm giảm chi phí cố định tính trên đơn vị sản phẩm, có nghĩa là lợi nhuận của mỗi loại sản phẩm sẽ tăng lên. Xí nghiệp nên tận dụng lượng lao động và công xuất máy móc thiết bị hiện có, hợp lý hoá sản xuất và mở rộng qui mô sản xuất để tăng sản lượng Đi đôi với tăng khối lượng sản xuất Xí nghiệp cần làm tốt công tác tiêu thụ sản phẩm, sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó Sử dụng có hiệu quả tài sản cố định. Đối với những tài sản cố định dư thừa không cần dùng vào các dây chuyền sản xuất nên chuyển nhượng hoặc bán. Thanh lý những tài sản đã khấu hao hết, không dùng nữa để thu hồi giá trị còn lại. Bảo quản tài sản cố định để giảm chi phí sửa chữa Lựa chọn đầu tư các dây chuyền máy móc thiết bị phù hợp với điều kiện sản xuất của ngành dệt may nước ta, phù hợp với trình độ sử dụng để có thể phát huy hết công xuất của máy móc Sử dụng có hiệu quả vốn lưu động. Điều đó có nghĩa là tăng nhanh vòng quay vốn, bằng nhiều biện pháp khác nhau để giảm tiền vay ngân hàng có thể giảm chi phí lãi vay từ 7 -> 10% trong giá thành sản phẩm Ngoài những biện pháp trên Xí nghiệp cũng còn có thể thực hiện các biện pháp để giảm các chi phí cố định khác, nhất là các chi phí gián tiếp Các biện pháp giảm chi phí nhiên liệu, điện, nước Mặc dù các chi phí này chiếm tỷ lệ nhỏ trong giá thành sản phẩm ( trên dưới 2% ), nhưng tiết kiệm nó cũng sẽ làm lợi đáng kể cho Xí nghiệp Để tiết kiệm điện trong sản xuất Xí nghiệp nên lắp các công tơ đo điện và giao định mức sử dụng điện cho các phân xưởng. Thiết kế lại, nâng cao năng lực sản xuất của các máy may, máy vắt sổ, dàn là hơi... ở các công đoạn sản xuất để giảm tiêu hao điện năng trên một đơn vị sản phẩm Để tiết kiệm nước sản xuất Xí nghiệp cần tiếp tục đầu tư thêm thiết bị lọc và dẫn nước tới các phân xưởng, lắp đồng đo nước cho các phân xửơng. Giáo dục ý thức tiết kiệm nước không để các van nước chảy tự do Để tiết kiệm nhiên liệu Xí nghiệp nên mua loại than có chất lượng cao, nhiệt lượng lớn để tăng hiệu quả sử dụng. Trang bị mới hoặc cải tiến các thiết bị cũ để giảm mức tiêu hao nhiên liệu Xây dựng kênh phân phối hợp lý Hiện nay việc phân phôi sản phẩm của Xí nghiệp may X19 diễn ra theo hai hình thức. Phân phối trực tiếp và phân phối gián tiếp song thực trạng hiện nay việc phân phối sản phẩm chủ yêú thông qua hình thức trực tiếp. Trong cơ chế thị trường hiện nay hình thức này không còn phù hợp bởi vì Thứ nhất: Hiện nay có rất nhiều Doanh nghiệp nằm rải rác trên các tỉnh, thành phố suốt từ Bắc vào Nam đều sản suất những loại sản phẩm này. Khách hàng ở các địa phương đó không ngần ngại sử dụng những sản phẩm của địa phương do yếu tố thuận tiện, nhanh chóng, kịp thời quyết định Thứ hai: Nếu cứ tiếp tục duy trì hình thức phân phối tiêu thụ sản phẩm như hiện nay thì Xí nghiệp may X19 sẽ rất khó khăn trong việc nắm bắt điều tiết lượng hàng hoá cũng như giá cả mỗi khi thị trường có biến động do không nắm bắt được đầy đủ thông tin kịp thời chính xác Việc tổ chức mạng lưới phân phối sản phẩm của Xí nghiệp may X19 là rất cần thiết, có nhiều cách để tổ chức mạng lưới phân phối sản phẩm như đặt các văn phòng đại diện hoặc các cưả hàng giới thiệu sản phẩm ở các tỉnh và thành phố trong cả nước hoặc một số nơi trọng điểm ...Theo cách này xét thấy không phù hợp với qui mô của Xí nghiệp bởi vì như vậy Xí nghiệp phải trả thêm nhiều khoản chi phí. Tiền thuê điạ điểm, trả lương cho công nhân bán hàng tăng lượng lao động gián tiếp của Xí nghiệp Để tổ chức mạng lưới phân phối sản phẩm cho Xí nghiệp thì cách tốt nhất xí nghiệp may X19 nên chọn cho mình tại mỗi tỉnh, thành phố hoặc các địa điẻm trọng tâm một người tại địa phương đó đứng ra làm tổng đại lý tiêu thụ, thông qua việc thành lập các tổng đại lý, các đại lý vệ tinh. Các đại lý nhỏ nhận hàng tại các tổng đại lý theo giá cả trên thị trường có sự quản lý, chỉ đạo cua Xí nghiệp may X19. Như vậy sẽ hình thành hai cấp phân phối đó là + Cấp phân phối trực tiếp: Giữa Xí nghiệp may X19 và các tổng đại lý + Cấp phân phối giữa các tổng đại lý và các đại lý nhỏ vệ tinh quanh nó. Có thể hiểu sự bố trí này thông qua sơ đồ sau Sơ đồ III.2: Mạng lưới phân phối của Xí nghiệp may X19 Bộ phận marketing của xí nghiệp Tổng đại lý A-B-C Các đại lý vệ tinh A- B- C Biểu hiện sự quản lý trực tiếp Biểu hiện sự phản hồi các thông tin Cách tổ chức mạng lưới tiêu thụ này sẽ rất có lợi cho Xí nghiệp may X19 Thứ nhất Xí nghiệp may X19 sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí trong khâu tiêu thụ như thuê địa điểm vận chuyển hàng hoá, trả lương cho lao động gián tiếp. Nghĩa là Xí nghiệp may X19 sẽ không phải trả thêm lương, giảm nhiều chi phí trong việc nghiên cứu thị trường, giảm bớt công tác quản lý mạng lưới tiêu thụ Thứ hai sản phẩm của Xí nghiệp sẽ có mặt trên klhắp mọi miền của tổ quốc và một số thị trường quốc tế , tạo điều kiện cho Xí nghiệp duy trì và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của mình . Điều đó được thực hiện thông qua kết quả dự kiến của Xí nghiệp như sau: Biểu III.5: Tỷ xuất lợi nhuận so với doanh thu của Xí nghiệp Đơn vị tính: % Thị trường Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Miền bắc 4,58 4,90 5,49 Miền trung 3,85 4,81 5,63 Miền nam 3,72 4,57 5,71 Xuất khẩu 5,02 5,77 6,06 Thứ ba Xí nghiệp sẽ nắm bắt đầy đủ kịp thời thông tin cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình mà không mất nhiều thời gian, chi phí nghiên cứu nhu cầu thị trường. Các thông tin này thiết thực và có độ chính xác cao Để đưa bộ máy này vào hoạt động có hiệu quả, Xí nghiệp cần tiến hành các bước sau Luôn duy trì và củng cố mối quan hệ tốt giữa các đại lý, Xí nghiệp có thể bỏ ra một khoản chi phí nhỏ nhằm đào tạo cho các đại lý về nghiệp vụ bán hàng, đẩy nhanh lượng hàng tiêu thụ, nâng cao uy tín của Xí nghiệp trên thương trường kinh doanh Xem xét mức hoa hồng mà các đại lý được hưởng một cách hợp lý dựa trên việc tăng mức doanh lợi của Xí nghiệp khi sử dụng mạng lưới đại lý và mức hoa hồng hường xuyên phải có sự điều chỉnh. Mục đích là nhằm khuyến khích các đại lý tích cực nhận hàng đẩy nhanh lượng hàng hoá. Ngoài ra Xí nghiệp nên áp dụng chế độ thưởng cho các đại lý theo số lượng tiêu thụ từng tháng để khuyến khích họ Thường xuyên có sự liên hệ chặt chẽ với các tổng đại lý để tổng hợp nhu cầu nhằm chủ động kết hợp vận chuyển hàng theo chuyến. Như vậy sẽ giảm bớt được chi phí lưu thông để nắm vững tình hình thị trường qua đó kịp thời tham mưu cho lãnh đạo Xí nghiệp có quyết định đúng đắn để ổn định thị trường giá cả Xí nghiệp cần có biện pháp kiểm tra, kiểm sóat chặt chẽ với các tổng đại lý phát hiện kịp thời tổng đại lý hoạt động kém hiệu quả để thu hồi nhanh chóng. Tóm lại cùng với việc áp dụng các hình thức phân phối gián tiếp thông qua việc lập một mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Khi đã lập được một mạng lưới tiêu thụ thì Xí nghiệp mayđo X19 cần phải thực hiện một số biện pháp nhằm lôi kéo các đại lý về phía mình 5 Đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng 5.1. Tăng cường công tác quảng cáo khuếch trương sản phẩm Ngày nay việc quảng cáo cho sản phẩm không còn xa lạ đối với các Doanh nghiệp. Vấn đề đặt ra là quảng cáo như thế nào sao cho có hiệu quả nhất, quảng cáo là để khuếch chương sản phẩm, nâng cao uy tín và lưu dữ hình ảnh của Xí nghiệp. Vì vậy, quảng cáo là cần thiết, là sự hỗ trợ quan trọng để thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm. Do đó quảng cáo phải đáp ứng được các yêu cầu sau Phải lôi cuốn, tạo ấn tượng riêng biệt đối với khách hàng như sử dụng biển quảng cáo, hình ảnh âm thanh sống động, lời văn phải gây được lòng tin cho khách hàng, hình ảnh ngôn ngữ phải thích hợp với trình độ tập quán của khách hàng, phù hợp với lối sống và bảo đảm tính trung thực trong quảng cáo Phương thức quảng cáo có phù hợp với từng sản phẩm và qui mô của Xí nghiệp. Sau mỗi lần quảng cáo cần xác định hiệu quả của quảng cáo đó xem có thực sự thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm hay không. Công tác quảng cáo phải thực hiện theo chương tình sau Biểu III. 6 : Bảng chương trình quảng cáo Tên sản phẩm Mục tiêu Người nhận thông tin Nội dung quảng cáo Phương tiện quảng cáo Thời điểm quảng cáo Phương thức quảng cao Kinh phí quảng cáo Đồng phục, comple, sơ mi, jacket, quần âu ... Khuếch trương nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Khách hàng và cá đại lý Tính năng tác dụng, chất lượng và mẫu mã mới Tivi, đơn chào hàng, báo, tạp chí Tập chung chủ yếu vào quí I và quí II Tivi 1 tháng 1 lần, báo, tạp chí tuần một lần 50% chi phí marketing Do sản lượng tiêu thụ trong quí I và quí II thấp nên Xí nghiệp cần tập chung quảng cáo vào thời điểm này, đồng thời Xí nghiệp cần chú ý Giới thiệu sản phẩm đồng phục đông, đồng phục hè nên tập chung vào nhóm khách hàng chuyền thống do đó cần phải quảng cáo nhiều trên báo, tạp chí ngành Quân đội, Công an, Kiểm lâm Với các áo sơ mi, jacket, quần âu,comple, quần âu,... thì cần quảng cáo trên tạp chí thời trang, bào phụ nữ, báo tuổi trẻ và đời sống Sau khi quảng cáo Xí nghiệp cần đánh giá hiệu quả của quảng cáo + Sản phẩm được tiêu thụ bao nhiêu? + Người tiêu dùng đánh giá sản phảm như thế nào? cần phải hoàn thiện chi tiết sản phẩm nào cho phù hợp với yêu cầu của khách hàng + ấn tượng và uy tín của Xí nghiệp có tăng lên hay không? Nếu kết quả đánh giá là không hiệu quả Xí nghiệp cần chuyển quảng cáo sang hướng khác Ngoài ra để hỗ trợ bán hàng Xí nghiệp cũng cần phải thực hiện các biện pháp xúc tiến và yểm trợ bán hàng -Đối với công tác xúc tiến bán hàng Xí nghiệp cần tập chung vào việc xây dựng các mối quan hệ với Khách hàng thông qua hình thức hội nghị khách hàng, hội thảo, tặng quà. Mục tiêu của xây dựng các mối quan hệ với khách hàng là tạo ra lòng tin của họ đối với Xí nghiệp và hàng hoá của Xí nghiệp, tranh thủ sự ủng hộ và tạo ra sự ràng buộc của họ đối với Xí nghiệp. Khách hàng của Xí nghiệp không phải chỉ là những bạn hàng mà còn là người quảng cáo các sản phẩm của Xí nghiệp. Xí nghiệp phải có cách ứng xử đối với từng loại công chúng trên. Thông qua việc xây dựng các mối quan hệ quân chúng để + Khách hàng mô tả, nói về thái độ của họ đối với Xí nghiệp và các sản phẩm của Xí nghiệp. Qua thái độ của khách hàng mà Xí nghiệp biết được các thành công và những mặt tồn tại cần giải quyết của mình + Xí nghiệp lắng nghe các ý kiến của khách hàng, công bố các chính sách, các điều kiện mua bán. thông qua các mối quan hệ để Xí nghiệp kiểm tra lại các chính sách các biện pháp để nâng cao độ an toàn của các hoạt động kinh doanh... - Đối với công tác yểm trợ bán hàng Xí nghiệp nên thông qua hoạt động của các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, các hội trợ và các hoạt động sau khi bán hàng + Cửa hàng giới thiệu sản phẩm có ba chức năng cơ bản là quảng cáo, yểm trợ, bán hàng. Vì cửa hàng giới thiệu sản phẩm có các chức năng nên khi hình thành các các cửa hàng cần phải đảm bảo một số yếu cầu sau Thứ nhất; Phải có địa điểm phù hợp với yêu cầu của quảng cáo thường là các tụ điểm mua bán, các thị trấn, thị xã, các đầu mối giao thông Thứ hai: Tổ chức quảng cáo tốt ở các cửa hàng giới thiệu sản phẩm Thứ ba: Trong cửa hàng không những chỉ trình bày những mặt hàng của Xí nghiệp mà còn trình bày cả những mặt hàng được sản xuát ra từ các sản phẩm của Xí nghiệp hoặc trình bày cả những mặt hàng khác cần phải có khi sử dụng, tiêu dùng các mặt hàng của Xí nghiệp Thứ tư: Các điều kiện mua bán phải rất thuận tiện, thu hút khách hàng + Tham gia triển lãm hội trợ: Triển lãm hội trợ là nơi trưng bày, giới thiệu sản phẩm của các Công ty, Xí nghiệp từ nhiều nơi khác nhau, là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán. Tuỳ theo những điều kiện mà Xí nghiệp có nên tham gia hay không. Nếu tham gia hội trợ Xí nghiệp cần phải Khai thác triệt để lợi thế quảng cáo của hội trợ để quảng cáo cho sản phẩm của mình Nâng cao uy tín của Xí nghiệp và của sản phẩm, bằng nhiều biện pháp khuếch trương đó Nắm bắt chính xác nhu cầu, tìm hiểu kĩ lưỡng, chính xác các bạn hàng. Đây là dịp tốt nhất để tìm hiểu các bạn hàng Tận dụng các thời cơ để bán hàng. Bởi vì bán hàng cũng là một chức năng năng quan trọng của hội trợ Thông qua hội trợ để tăng cường giao tiếp và tìm hiểu thị trường + Hoạt động sau khi bán hàng của Xí nghiệp phải được thông qua bảo hành sản phẩm của mình, chịu mọi chi phí cho khách hàng nếu sản phẩm không đạt chất lượng, khách hàng sẽ được đổi lại hoặc trả lại sản phẩm 5.2. Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt Việc xác định chính sách giá bán hợp lý là việc cực kì khó khăn đối với tất cả các Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường hiện nay. Một mặt nó phải bảo đảm được chi phí sản xuất kinh doanh và có lãi, mặt khác nó phải bảo đảm được khả năng thanh toán của khách hàng. Trước tiên Doanh nghiệp mục tiêu đạt được đối với việc tiêu thụ sản phẩm . Các Doanh nghiệp thường theo đuổi các mục tiêu chính sách thông qua việc định giá bán - Đảm bảo sống sót - Đạt được doanh thu, lợi nhuận đề ra - Số lượng sản phẩm tiêu thụ - Thâm nhập thị trường Trước khi xác định giá Xí nghiệp cần phải hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng tới mức độ nhạy cảm với giá bán của người mua + Người mua ít nhạy cảm với giá bán hơn khi sản phẩm đó độc đaó đặc biệt + Người mua ít nhạy cảm với giá bán hơn khi họ không biết đến sản phẩm thay thế + Người mua ít nhạy cảm với giá khi số tiền chi tiêu nhỏ hơn so với thu nhập + Người mua ít nhạy cảm với giá hơn khi sản phẩm đó được đối tượng khác trả tiền Với chính sách ổn định giá bán ( giá bán cố định ) qua các năm Xí nghiệp may X19 đã tạo ra một chính sách giá cuả mình. Thực tế cho thấy thị trường luôn biến động, các khách hàng thường xuyên mua sản phẩm với số lượng khác nhau, thời điểm khác nhau nên áp dụng chính sách giá này sẽ gặp rầt nhiều hạn chế . Vì vậy để khắc phục hạn chế này Xí nghiệp nên áp dụng chính sách giá linh hoạt ( có sự điều chỉnh giá dưạ trên chi phí sản xuất kinh doanh ) * Xí nghiệp vẫn bán theo gia cố định nhưng có kèm theo những khoản khuyến mại cho những khách hàng mua với khối lượng lớn hoặc bớt giá cho những người mua với khối lượng lớn điều này sẽ thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, chú trọng vào những khách hàng quan trọng, duy trì mối quan hệ tốt với nhóm khách hàng này + Nếu khách hàng mua số lượng sản phẩm có gía trị từ 100 đến 200 triệu giảm 1,5% giả bán + Nếu khách hàng mua số lượng sản phẩm có giá trị từ 200 đến 500 triệu giảm 2,5% giá bán + Nếu khách hàng mua số lượng sản phẩm có gí trị từ 500 triệu chở lên thì giảm từ 3% đến 4% giá bán * Sử dụng các phương thức thanh toán khác nhau để khuyến khích khách hàng tiêu thụ sản phẩm của mình + Nếu khách hàng trả tiền ngay giảm 1% giá bán + Nếu khách hàng trả tiền chậm dưới 1 tháng giảm 0,5% giá bán + Nếu khách hàng trả tiền chậm dưới 2 tháng thì không giảm giá + Nếu khách hàng trả tiền trậm từ 2 tháng trở lên thì khách hàng phải trả thêm 2% giả bán Như vậy, với chính sách giá linh hoạt sẽ làm cho mối quan hệ giữa Xí nghiệp và khách hàng thêm mềm dẻo hơn, gắn bó chặt chẽ với nhau hơn. Từ đó Xí nghiệp có thể đẩy nhanh được tốc độ tiêu thụ sản phẩm và tăng khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp trên thương trường kinh doanh. Với cách làm đó, chính sách này sẽ đem lại kết quả dự kiến cho Xí nghiệp thông qua bảng số liệu sau Biểu III.7: Doanh thu tiêu thụ tăng thêm nhờ áp dụng chính sách giá cả linh hoạt Đvt: 1000 đồng Thị trường Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 A Thị trường trong nước 1047731 1218140 1377437 1 Công an 317068 405847 454548 2 Viện kiểm sát 120217 134643 168303 3 Kiểm lâm 57795 66464 79757 4 Kiểm lâm 266601 285263 308084 5 Quản lý thị trường 110048 121052 130737 6 Điện lực 40849 49018 61273 7 Hàng không 71269 76970 83897 8 Thi hành án 48570 59741 66910 9 Xăng dầu 15314 19142 23928 B Thị trường nước ngoài 813617 1008522 1250074 1 Đức 255785 306942 383677 2 Bỉ 155884 194855 243568 3 Lỉtva 154730 196507 245633 4 Nhật 79341 98382 119042 5 Hongkong 35740 43960 54510 6 Đài loan 62920 79279 99099 7 Hàn quốc 69217 88597 104545 Tổng cộng 1861348 2226662 2627511 6. Nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động 6.1. Đào tạo công nhân nhằm nâng cao tay nghề Muốn xâm nhập vào thị trường mới thì việc giữ chữ tín là rất quan trọng. Điều đó đòi hỏi chất lượng sản phẩm phải được bảo đảm. chất lượng sản phẩm ở đây bao gồm kiểu dáng, đường may, chất liệu vải. Tay nghề của người công nhân và dây chuyền sản xuất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm và năng xuất lao động Thành công hay thất bại trong mọi hoạt động phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố con người. Để có được đội ngũ công nhân lành nghề thì Xí nghiệp phải đào tạo, giáo giục toàn diện về chính trị, tư tưởng, văn hoá, khoa học, kĩ thuật ( nâng cao tay nghề ) * Về tư tưởng: Thường xuyên và trực tiếp thông qua đoàn thể công đoàn, đoàn thanh niên mở lớp tập huấn, bồi dưỡng tư tưởng chính trị để mọi người hiểu rằng sản xuất sản phẩm có chất lượng là lương tâm, vinh dự, đạo đức của mỗi người công nhân. Mỗi người góp phần vào việc củng cố và nâng cao uy tín của Xí nghiệp. Uy tín này được khẳng định qua việc sản phẩm của Xí nghiệp được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận. Xí nghiệp cần phải làm cho mỗi công nhân thấy rằng lợi ích kinh tế của họ gắn liền với sản phẩm có chất lượng cao hay không. Đồng thời Xí nghiệp cũng nên có chế độ khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với những người thợ giỏi, có sáng kiến. Có như vậy mới kích thích lòng say mê và sự tận tâm với công việc của công nhân * Về văn hoá: Có kế hoạch nâng cao trình độ văn hoá cho công nhân. Khi có trình độ văn hoá, khoa học kĩ thuật người công nhân sẽ có nhiều sáng tạo trong sản xuất, làm cho năng xuất lao động và chất lượng sản phẩm ngày càng tăng * Về tay nghề: Xí nghiệp phải quan tâm, thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề của công nhân. Công nhân sử dụng tinh thông máy móc thiết bị, công cụ lao động, hiểu biết các yếu tố cấu thành sản phẩm, nguyên nhân gây ra phế phẩm , từ đó có những biện pháp với sự cố sai lầm hoặc phát hiện lỗi và khắc phục chúng một cách nhanh chóng Mặt khác công nhân có đủ trình độ sẽ tự kiểm tra chất lượng sản phẩm của mình. Không có sự kiểm tra nào hiệu quả bằng công nhân tự mình kiểm tra lấy chất lượng sản phẩm do chính mình làm ra, khi họ được trang bị kiến thức đầy đủ và giác ngộ cao về quyền lợi chung gắn liền với quyền lợi cá nhân - Trong sản xuất cần quản lý chặt chẽ về chất lượng và số lượng sản phẩm , định mức số lượng sản phẩm một công nhân phải hoàn thành. Thực hiện khoán sản phẩm đến từng phân xưởng, tổ đội sản xuất, có biện pháp khen thưởng xứng đáng đối với công nhân vượt định mức được giao, tìm nguyên nhân của sản phẩm sai hỏng. Thưởng phạt phải công minh, có như vậy mới cho phép Xí nghiệp khích lệ sự say mê của công nhân với công việc, tăng năng xuất lao động, tăng thêm sự gắn bó giữa quyền lợi và trách nhiệm của công nhân với sản phẩm của Xí nghiệp. Đó là tiền đề cho xuất khẩu đúng về chất lượng, số lượng và thời gian giao hàng - Xí nghiệp nên liên tục hàng tháng, hàng quý mở các kì thi công nhân có tay nghề giỏi. Qua đó làm gương cho toàn bộ công nhân cùng ganh đua sản xuất để hoàn thiện kế hoạch sản xuất của Xí nghiệp 6.2. Đào tạo cán bộ quản lý Xí nghiệp chủ động bồi dưỡng đào tạo cán bộ chuyên môn giỏi gắn với thị trường. Hàng năm Xí nghiệp cần có kế hoạch chi phí cho việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ kinh doanh cho cán bộ quản lý. Đây là một cách đầu tư lâu dài, tạo ra động lực thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp. Việc bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ đã có tác động - Tạo ra động lực trong kinh doanh, thích nghi với sự biến động của thị trường, tránh rủi ro trong kinh doanh và nắm bắt được cơ hội kinh doanh có lợi - Tiếp thu công nghệ sản xuất mới hiện đại do phía nước ngoài cung cấp - Nâng cao uy tín Xí nghiệp với các đối tác - Biết phân tích , đánh giá, tổng hợp tình hình, đưa ra được các thông tin tin cậy giúp cho việc đề ra chủ chương, trương trình hành động thích hợp. Thị trường may thế giới phức tạp, nhu cầu về hàng may biến động theo mùa. Hơn nữa, tập quán thương mại, ngôn ngữ giao dịch với các nước ở các thị trường khác nhau thì có sự khác nhau. Vì những nhiệm vụ đó mà nhân viên ở phòng kinh doanh phải hết sức linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ ngoại thương, giỏi ngoại ngữ, hiểu biết chuên môn về ngành may Việc đào tạo và đào tạo lại không chỉ tập chung vào trình độ tay nghề của lực lượng lao động trong Xí nghiệp mà còn phải giáo giục ý thức, tư tưởng,văn hoá cho cán bộ công nhân viên tạo dựng được bầu không khí đoàn kết nhất trí nội bộ trong Xí nghiệp, xây dựng Xí nghiệp thành một khối thống nhất, xây dựng nếp sống văn minh, tạo nên một nền văn hoá riêng biệt cho Xí nghiệp. Đây là tiền đề giúp cho Xí nghiệp phát triểmn một cách bền vững và lâu dài 7. Những kiến nghị đối với nhà nước để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm của Xí nghiệp Thực trạng sản suất kinh doanh của ngành dệt may từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường tuy có sự biến đổi quan trọng từ các mặt cơ sở vật chất đến nhận thức tư duy, nhưng cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết. Là ngành kinh tế sản xuất hành tiêu dùng và hàng xuất khẩu chiếm một vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, nghành có thể mang lại nhiều công ăn việc làm cho người lao động, nhưng cũng là ngành đang đứng trước những thử thách to lớn, phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ nước ngoài hùng mạnh nên Nhà nước cần phải thực hiện nhiều biện pháp đồng bộ để hỗ trợ, khuyến khích cho ngành dệt may phát triển. Trong đó tập trung vào các biện pháp sau 7.1. Giảm thuế Một số sản phẩm của Xí nghiệp may X19 chủ yếu sản xuất bằng nguyên vật liệu ngoại nhập ( vì nguyên vật liệu trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu ). Hiện nay 40% nguyên vật liệu sản xuất Xí nghiệp phải nhập khẩu với thuế cao lại phải cộng thêm thuế VAT 10%. Khi chuyển sang thực hiện sản xuất kinh doanh năm 2001 Xí nghiệp có lượng tồn kho khá lớn , nếu coi giá trị sản phẩm tồn kho bằng giá trị sản phẩm đưa vào sản xuất để chịu mức thuế 10% là không hợp lý. Nhà nước nên qui định lại mức thuế cho lượng tồn kho này Trong khi đó thuế thu nhập đối với Doanh nghiệp nhà nước là 32% , thuế thu nhập Doanh nghiệp tư nhân là 35%, còn thuế thu nhập Doanh nghiệp đối với Doanh nghiệp nước ngoài là 25%. Như vậy, vô hình dung Nhà nước đã đẩy các Doanh nghiệp trong nước khó cạnh tranh với các Doanh nghiệp nứơc ngoài. Mặc dù sản phẩm của họ có tính cạnh tranh cao hơn vì người Việt nam rất " sính " dùng đồ ngoại, một mặt công nghệ sản xuất cao hơn nên sản phẩm có chất lượng cao hơn lại có ưu đãi về thuế Vậy kiến nghị đối với nhà nước là: - Giảm thuế VAT ngành dệt xuống còn 5% -Giảm thuế thu nhập Doanh nghiệp xuống còn 25% ngang bằng với Doanh nghiệp nước ngoài 7.2. Chính sách khuyến khích xuất khẩu Nhà nước cần có biện pháp nhằm hỗ trợ các Doanh nghiệp để mở rộng thị trường nước ngoài như: - Cung cấp các thông tin về thị trường cho các Doanh nghiệp tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp tìm kiếm thị trường và lựa chọn các đối tác kinh doanh - Đàm phán với các nước khác mở rộng cửa cho sản phẩm Việt nam, tạo điều kiện cho ngành dệt may Việt nam tham gia mạnh hơn vào sự phân công hơp tác quốc tế Để khuyến khích xuất khẩu Nhà nước phải có những biện pháp thiết thực như giảm thuế xuất khẩu, với những Doanh nghiệp khó khăn về vốn có thể thực hiện xoá nợ và tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp này vay vốn... Bằng các hình thức trên tạo điều kiện cho các Doanh nghiệp yên tâm sản xuất và tìm kiếm thị trường nước ngoài để xuất khẩu 7.3. Chính sách hạn chế nhập khẩu, khuyến khích tiêu dùng trong nước - Hạn chế nhập khẩu, đưa ra những qui chế chặt chẽ về hạn ngạch nhập khẩu ngành dệt may - Tăng cường các biện pháp kiểm soát nhập khẩu hàng dệt may, triệt để chống buôn lậu và hạn chế nhập khẩu tiểu ngạch. Trong những năm qua theo thống kê chưa đầy đủ lượng hàng nhập khẩu tiểu ngạch sấp xỉ bằng hàng nhập khẩu chính ngạch. Điều đó hạn chế sự kiểm soát của nhà nước về hàng nhập khẩu , ảnh hưởng đến điều tiết vĩ mô của nhà nước, gây rối loạn thị trường - Nhà nước cần có các biện pháp ngăn chặn hàng nhập lậu. Hiện nay trên thị trường xuất hiện ngày càng nhiều các sản phẩm dệt may nhập lậu từ Trung quốc. Hàng nhập lậu mẫu mã đẹp, chất lượng không cao nhưng giá thấp do không phải đóng thuế nhập khẩu nên vẫn được người tiêu dùng chấp nhận. Vậy kiến nghị với ngành Hải quan cần có sự giám sát chặt chẽ tình hình nhập khẩu, quản lý chặt và giúp Doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả , chống gian lận thương mại trong lĩnh vực Hải quan, cải cách thủ tục hành chính của ngành Hải quan và sử lý nghiêm minh cán bộ Hải quan nếu vi phạm 7.4. Có chính sách đầu tư thoả đáng đối với ngành Dệt Hiện nay ngành dệt Việt nam đang trong tình trạng rất khó cạnh tranh vì nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân chủ yếu là số máy móc đã quá cũ, lạc hậu, không có đủ vồn để đầu tư máy móc thiết bị. Cho nên dẫn đến thiếu vồn để đầu tư cho công nghệ, sản phẩm sản xuất theo công nghệ cũ thì tất nhiên sẽ rất khó khăn trong quá trình cạnh tranh Vậy kiến nghị với nhà nước là: * Tăng vốn đầu tư cho ngành dệt *Có chính sách ưu đãi đối với ngành - Cho các Doanh nghiệp dệt vay vốn với lãi xuất thấp: Hiện tại lãi xuất vay là 6,5%, nhà nước chỉ nên qui định lãi xuất vay vốn đối với ngành dệt may chỉ 3-4% hoặc thấp hơn nữa để tạo điều kiện cho họ có khả năng đổi mới trang thiết bị - Sử dụng một phần nguồn tài trợ nước ngoài để tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cán bộ quản lý công nhân dệt. Có chế độ lương đặc biệt cho công nhân lành nghề, kĩ sư giỏi - Khuyến khích các Doanh nghiệp dệt xuất khẩu sản phẩm sản xuất ra nước ngoài dưới hai hình thức: Hỗ trợ và đào tạo mọi điều kiện thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu được dễ dàng, cung cấp những thông tin về thị trường xuất khẩu, môi giới khách hàng và tìm hiểu thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các Doanh nghiệp trong ngành Dệt. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24021.doc