LỜI MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Trong thời gian qua cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng diễn ra mạnh mẽ, từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, trong đó đáng chú ý là sự phát triển của các ngành công nghiệp chế tạo, láp ráp sản phẩm linh kiện điện tử, công nghiệp chế biến. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu dẫn tới quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động.
Thực tế cho thấy giai đoạn vưa qua sự xuất hiện
62 trang |
Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1404 | Lượt tải: 0
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng giải quyết việc làm gđ 2006-2008 và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động tỉnh Vĩnh Phúc đến 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng nhiều các khu công nghiệp, doanh nghiệp quy mô lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài và hàng ngàn doanh nghiệp hoạt động theo quy mô hộ gia đình khác… đã và đang không ngừng thu hút một bộ phận không nhỏ lao động trong và ngoài tỉnh tìm đến tỉnh Vĩnh Phúc dẫn tới hiện tượng giao lưu và mở rộng thị trường lao động của tỉnh. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng dẫn tới việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, đất nông nghiệp bị thu hẹp lại. Người dân tại các vùng nông thôn của tỉnh phải di chuyển đến các khu công nghiệp, khu đô thị để kiếm việc làm. Thị trường lao động của tỉnh đang chịu áp lức lớn về tăng dân số và tăng cung lao động. Tình trạng người lao động mất việc và không có việc làm đang là vấn đề cấp thiết nhất là trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế như hiện nay. Khi mà các doanh nghiệp luôn phải đối mặt với những khó khăn tài chính cũng như thị trường tiêu thụ. Giải pháp mà các doanh nghiệp hay sử dụng là cắt giảm nhân công làm cho tình trạng thất nghiệp của tỉnh ngày càng trở nên trầm trọng hơn. Những người công nhân mất việc, những người lao động chưa có việc đang đứng trước những khó khăn tìm được việc làm phù hợp.
Mục đích nghiên cứu
Phân tích thực trạng giải quyết việc làm giai đoạn 2006-2008 và đưa ra các giải pháp giải quyết việc làm cho lao động tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010.
Kết cấu dự kiến của đề tài
Gồm 3 chương:
Chương I: Một số vấn đề cơ bản về việc làm và tạo việc làm
Chương II: Đánh giá thực trạng giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009-2010
Chương III: Một số giải pháp giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2009-2010
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu của chuyên đề
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008
Phương pháp nghiên cứu: Chuyên đề sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê
Phương pháp phân tích thực chứng dựa trên những số liệu điều tra về lao động việc làm của tỉnh đã được công bố
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành tốt bài chuyên đề thực tập này, tôi xin được gửi lời cảm ơn tới giảng viên hướng dẫn Th.s Nguyễn Thị Hoa và các anh chị trên Viện khoa học xã hội - động thương binh xã hội, đặc biệt là các anh chị thuộc trung tâm nghiên cứu lao động nữ và giới thuộc viện khoa học xã hội - bộ lao động thương binh xã hội đã nhiệt tình huớng dẫn và giúp đỡ tôi rất nhiều trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành chuyên đề thực tập này.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VIỆC LÀM VÀ TẠO VIỆC LÀM
I. VIỆC LÀM VÀ CƠ CẤU VIỆC LÀM
1. Khái niệm việc làm
Việc làm là mối quan tâm lớn nhất của mỗi quốc gia, của mọi người dân. Nhìn chung các lý thuyết về việc làm, các học giả đều thống nhất rằng một hoạt động được coi là việc làm khi đáp ứng được các yêu cầu sau:
Thứ nhất: đó là các hoạt động không bị pháp luật ngăn cấm
Thứ hai: hoạt động đó phải đem lại thu nhập cho người lao động hoặc tạo điều kiện cho người lao động tham gia để tạo ra thu nhập hoặc giảm chi phí trong gia đình hoặc tạo ra quyền có thể mang lại thu nhập trong tương lai.
Việc làm là những hoạt động cần thiết của người lao động, trong khuôn khổ pháp luật cho phép và có thu nhập chính đáng cho bản thân, gia đình và đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Hoạt động đem lại thu nhập có thể lượng hóa hoặc cụ thể hóa dưới dạng như: người lao động được nhận tiền công, tiền lương bằng tiền hoặc hiện vật từ người sử dụng lao động, tự đem lại thu nhập cho bản thân thông qua các hoạt động kinh tế mà bản thân người lao động làm chủ, đem lại thu nhập cho hộ gia đình mà bản thân người thực hiện công việc đó là thành viên của hộ gia đình, do gia đình quản lý. Như vậy một hoạt động được coi là việc làm hay không phải được xem xét chủ yếu dựa trên tính hợp pháp và kết quả hoạt động đó.
Theo các nhà kinh tế học lao động thì việc làm được hiểu là sự kết hợp giữa sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi tư liệu lao động theo mục đích của con người. Theo quan điểm này việc làm có những đặc trưng sau:
Trước hết việc làm là sự biểu hiện quan hệ của hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất(C)
Hai là lấy lợi ích( vật chất, tinh thần) mà các hoạt động đem lại cho cá nhân, xã hội và không bị ngăn cấm để xem xét hoạt động đó có được coi là việc làm hay không. Trạng thái phù hợp giữa sức lao động và tư liệu sản xuất được thể hiện bằng công thức sau:
VL= C/L
Trong đó: VL: Việc làm
C : Tư liệu sản xuất
V : Lượng lao động
Còn theo bộ luật lao động nước ta, khái niệm việc làm được xác định là: “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều dược thừa nhận là việc làm”.
2. Cơ cấu việc làm
Cơ cấu việc làm là sự tương quan giữa các bộ phận hợp thành tổng thể việc làm trong nền kinh tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động qua lại về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận việc làm với nhau.
Xu hướng chuyển dịch của cơ cấu việc làm phản ánh sự thay đổi về chất, là dấu hiệu đánh giá, so sánh các giai đoạn với nhau. Cơ cấu việc làm biểu hiện dưới nhiều dạng khác nhau như: cơ cấu việc làm theo ngành, cơ cấu việc làm theo khu vực, Cơ cấu việc làm theo thành phần kinh tế, cơ cấu việc làm theo khu vực thể chế... Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề, tôi chỉ đi sâu phân tích hai loại cơ cấu là cơ cấu việc làm theo ngành và cơ cấu việc làm theo khu vực.
Cơ cấu việc làm theo ngành: Cơ cấu việc làm theo ngành là sự tương quan giữa việc làm trong các ngành với nhau, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và mối quan hệ qua lại cả về số và chất lượng giữa việc làm của các ngành với nhau.
Cơ cấu việc làm theo ngành bao gồm ba bộ phận cấu thành, bộ phận thứ nhất là việc làm trong ngành nông nghiệp- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành nông lâm nghiệp như: hoạt động sản xuất trong chăn nuôi, trồng trọt, trồng rừng và các hoạt động kinh doanh dịch vụ phục vụ cho sản xuất nông lâm nghiệp. Bộ phận thứ hai là việc làm trong ngành công nghiệp xây dựng- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các hoạt động sản xuất kinh doanh trong ngành công nghiệp xây dựng như: hoạt động khai thác và chế biến các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẵn có trong lòng đất, hoạt động gia công và chế biến sản phẩm có nguồn gốc từ nông lâm nghiệp, hoạt động xây dựng trong các ngành xây dựng và các dịch vụ phục vụ cho các hoạt động sản xuất trên. Bộ phận thứ ba là việc làm trong ngành dịch vụ- đó là các việc làm được tạo ra trên cơ sở các hoạt động kinh doanh thương mại, dịch vụ nhà hàng, du lịch, khách sạn…
Trong quá trình hoạt động sản xuất các ngành kinh tế có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển dẫn tới việc làm giữa các ngành kinh tế cũng có có mối quan hệ tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển và hướng tới mục tiêu chung là tạo ra nhiều việc làm trong nền kinh tế. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành là tăng nhanh tỷ trọng việc làm trong ngành công nghiệp- xây dựng và dịch vụ và giảm dần tỷ trọng việc làm trong ngành nông- lâm nghiệp.
Cơ cấu việc làm theo khu vực: Cơ cấu việc làm theo khu vực là sự tương quan giữa việc làm theo khu vực với nhau, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và mối quan hệ qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa việc làm trong khu vực này với việc làm trong khu vực kia.
Nếu như cơ cấu việc làm theo ngành được hình thành trên cơ sở chuyên môn hóa sản xuất thì cơ cấu việc làm theo khu vực lại được hình trên cơ sở việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Mỗi khu vực kinh tế là một bộ phận tổ hợp của nền kinh tế quốc dân, do đó sự khác nhau về điều kiện tự nhiên, kinh tế, kết cấu hạ tầng và các điều kiện xã hội khác tạo cho mỗi khu vực có những đặc thù, những thế mạnh riêng trong việc tạo ra việc làm cho người lao động. Cơ cấu việc làm theo khu vực phản ánh thế mạnh của từng khu vực, nó bao gồm hai bộ phận như sau: bộ phận thứ nhất là việc làm trong khu vực nông thôn- đó là các việc làm được tạo ra chủ yếu dựa trên thế mạnh sản xuất nông lâm nghiệp. Bộ phận thứ hai là việc làm trong khu vực thành thị- đó là các việc làm được tạo ra chủ yếu dựa trên thế mạnh trong hoạt động sản xuất công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Các bộ phận có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển, mối quan hệ này bao hàm cả về số lượng và chất lượng.
3. Thất nghiệp và các hình thức thất nghiệp
3.1. Khái niệm thất nghiệp
Thất nghiệp là một hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại trong nhiều chế độ xã hội.
Thất nghiệp theo đúng nghĩa của từ là, mất việc làm hay là sự tách rời sức lao động khỏi tư liệu sản xuất.
Một số quan niệm khác cho rằng thất nghiệp là hiện tượng gồm những người mất thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm, trong khi họ còn trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động, muốn làm việc và đã đăng ký ở trung tâm môi giới nhưng chưa được giải quyết.
Theo tổ chức lao động quốc tế( ILO): thất nghiệp là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền lương đang thịnh hành.
Bên cạnh thất ngiệp còn tồn tại những người có việc làm không đầy đủ hay còn gọi là thiếu việc làm, đó là những người đang có việc làm nhưng do nguyên nhân nào đó họ không sử dụng hết thời gian lao động theo quy định hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống, muốn tìm thêm việc làm. Hiện tượng này tương đối phổ biến ở các nước đang phát triển như Việt Nam.
3.2. Phân loại thất nghiệp
Thất nghiệp hữu hình: Thất nghiệp hữu hình là tình trạng thất nghiệp xảy ra khi một bộ phận lực lượng lao động có khả năng và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm. Đây là hình thức thất nghiệp mà ta có thể nhìn thấy, hình thức thất nghiệp này chủ yếu xảy ra đối với lao động ở khu vực thành thị, nơi hình thức lao động làm công ăn lương là chủ yếu.
Thất nghiệp trá hình: Hay còn gọi là thiếu việc làm là một trong những đặc trưng cơ bản của của nền kinh tế nông nghiệp, chậm phát triển. Đây là tình trạng xảy ra khi người lao động được sử dụng dưới mức khả năng mà bình thường người lao động sẵn sàng làm việc, hay nói cách khác là tình trạng sử dụng không hết thời gian lao động. Hình thức thất nghiệp này xảy ra đối với cả lao động làm việc ở khu vực thành thị và nông thôn.
Trong khu vực thành thị hình thức thất nghiệp này tồn tại dưới các dạng khác nhau như: làm việc với năng suất thấp, không góp phần tạo ra thu nhập cho xã hội mà chủ yếu là tạo ra thu nhập đủ sống( nhiều khi dưới mức sống tối thiểu). Trong khu vực nông thôn thất nghiệp trá hình chủ yếu tồn tại dưới dạng thiếu việc làm. Nguyên nhân là do giới hạn của đất đai nông nghiệp, do khu vực kinh tế phi nông nghiệp nông thông phát triển chậm và do tính thời vụ của việc làm nông nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, ở một số vùng nông thôn do lấy đất nông nghiệp để xây dựng các công trình công cộng, phát triển công nghiệp và nhà ở nên đã xuất hiện tình trạng thất nghiệp trá hình.
Thất nghiệp tạm thời: hay còn gọi là thất nghiệp cơ cấu, là hình thức thất nghiệp trong thời gian chuyển đổi nghề nghiệp, thay đổi nơi làm việc vì muốn tìm việc làm tốt hơn, sinh viên ra trường đi tìm việc.
Thất nghiệp tự nguyện: là hình thức thất nghiệp ẩn náu trong những người làm nội trợ trong gia đình do các mức tiền công thấp không đủ bù đắp, thường là phụ nữ.
II. TẠO VIỆC LÀM VÀ MỘT SỐ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG
1. Tạo việc làm
Thực chất của việc làm là trạng thái phù hợp giữa hai yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất bao gồm cả về mặt số lượng và chất lượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là những điều kiện cần thiết để có được việc làm. Hay nói cách khác những điều kiện về tư liệu sản xuất và sức lao động mới tồn tại như một khả năng. Muốn biến khả năng thành hiện thực cần phải có môi trường thuận lợi cho sự kết hợp hai yếu tố đó. Việc tạo ra môi trường là vai trò quản lý nhà nước trong lĩnh vực việc làm. Thực tế chỉ ra rằng, khi khả năng quản lý nhà nước yếu kém nhiều việc làm được tạo ra nhưng không hiệu quả, năng suất thấp.
Do vậy, tạo việc làm là một quá trình tạo ra môi trường hình thành các chỗ làm việc và sắp xếp người lao động phù hợp với chỗ làm việc để có các việc làm chất lượng, đảm bảo nhu cầu của cả người lao động và người sử dụng lao động đồng thời phải đáp ứng được mục tiêu phát triển đất nước.
Hình thành môi trường cho sự kết hợp các yếu tố sức lao động và tư liệu sản xuất: Môi trường cho sự kết hợp các yếu tố bao gồm hệ thống các chính sách phát triển kinh tế xã hội, chính sách khuyến khích thu hút người lao động, chính sách bảo hộ sản xuất, chính sách thất nghiệp, chính sách khuyến khích và thu hút vốn đầu tư, hệ thống các dịch vụ việc làm…
Thực hiện các giải pháp để phát triển việc làm và việc làm có hiệu quả cao: Các giải pháp này có thể kể đến các nhóm giải pháp về quản lý và điều hành, các biện pháp khai thác có hiệu quả công suất của máy móc thiết bị cải tiến công nghệ, duy trì và nâng cao chất lượng của sức lao động, kinh nghiệm quản trị kinh doanh của người sử dụng lao động…
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm cho người lao động
2.1. Điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, khí hậu thổ nhưỡng, đất đai…có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó có công tác tạo việc làm của mỗi quốc gia, mỗi vùng, mỗi địa phương.
2.1.1. Vị trí địa lý:
Do đặc điểm tự nhiên mà mỗi địa phương đều nằm trên những vị trí địa lý nhất định, từ đó mà có những đặc điểm khác biệt về khí hậu, thời tiết, nhiệt độ, lượng gió, lượng mưa, bão lụt…ảnh hưởng đến điều kiện sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là sản xuất nông lâm ngư nghiệp vì thế nó có thể cho phép mỗi địa phương hình thành một phương thức tổ chức sản xuất, lao động khác nhau.
Những vùng có vị trí thuận lợi thì cây cối xanh tươi, bốn mùa hoa trái, có các loại cây con hải sản hết sức đa dạng phong phú. Với điều kiện đất đai màu mỡ con người có thể phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp chế biến… xuất khẩu các mặt hàng đặc sản quý hiếm trên thị trường quốc tế. Đây cũng chính là những lợi thế nhất định của mỗi địa phương trong việc tạo ra công ăn việc làm thu hút người lao động.
Tuy nhiên có những vùng vị trí không thuận lợi sẽ ảnh hưởng xấu đến lao động sản xuất: hạn hán, lũ lụt…những vùng địa hình chia cắt, giao thông không thuận lợi, vùng không chịu sự phát triển lan tỏa từ các vùng kinh tế lân cận cũng gây khó khăn cho phát triển kinh tế, thu hút đầu tư giải quyết công ăn việc làm.
2.1.2. Khí hậu
Ở mỗi vùng, địa phương, quốc gia có những đặc điểm tự nhiên ảnh hưởng rất lớn tới khí hậu của mỗi quốc gia. Ngay trong một quốc gia những vùng khác nhau cũng có khí hậu khác nhau. Nhiệt độ nóng lạnh, mưa gió bão lụt, độ ẩm… là những đặc trưng cơ bản của khí hậu của mỗi vùng, miền, quốc gia. Ở mỗi quốc gia khí hậu ảnh hưởng mang tính chất quyết định đến các vấn đề kinh tế xã hội, khí hậu có thể ảnh hưởng đến sự phát triển của dân cư, phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt khí hậu ảnh hưởng đến sự phát triển của nông nghiệp, quyết định cây con mùa vụ, canh tác, năng suất cây trồng… do đó khí hậu ảnh hưởng đến công ăn việc làm của người lao động.
Với những địa phương mà khí hậu ưu đãi có thể tạo ra nhiều công ăn việc làm một cách dễ dàng qua việc phát triển nông, công nghiệp chế biến bằng cách thâm canh tăng vụ, tạo ra nhiều ngành nghề mới gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp.
Tuy nhiên những địa phương có khí hậu không thuận lợi thường xuyên hạn hán lũ lụt, mưa gió bất thường… như các tỉnh miền trung cũng gây không ít khó khăn cho việc tổ chức sản xuất, làm giảm sút thậm chí cướp không những thành quả lao động của mọi người. Vì vậy tổ chức tạo việc làm cho người lao động ở các địa phương này gặp không ít khó khăn.
2.1.3. Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi, núi non
Đất đai, hầm mỏ, sông ngòi núi non là những đối tượng lao động sẵn có của thiên nhiên cho mỗi địa phương. Có thể nói đất đai, như William petty đã viết “ lao động là cha và đất đai là mẹ của của cải”. Các nguồn tài nguyên này phong phú sẽ có cơ hội phát triển nhiều khu công nghiệp, trang trại nông lâm nghiệp chiếm ưu thế của vùng.
Vai trò của đất đối với lao động việc làm cực kỳ quan trọng. Đất đai giúp phát triển nông, lâm nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến từ các sản phẩm nông nghiệp; đất đai cho phép xây dựng các công trình xây dựng, nhà ở, cụm công nghiệp. Từ đó gián tiếp tạo ra rất nhiều công việc khác nhau cho con người.
Về tài nguyên dưới lòng đất, hầm mỏ cũng rất quan trọng với việc tạo ra việc làm cho con người. Các loại khoáng sản dưới lòng đất như than đá, vàng, thiếc, sắt nhôm… Giúp con người phát triển các ngành công nghiệp khai thác, chế biến từ các sản phẩm khai thác, từ đó tạo nhiều việc làm cho con người.
Các loại tài nguyên khác như sông ngòi, núi non cũng giúp con người tạo ra nhiều công ăn việc làm bằng cách phát triển các ngành nghề khai thác, nuôi trồng thủy sản, trồng cây công nghiệp…
Như vậy có thể nói những tiềm năng trên cho phép chúng ta tổ chức phân công lao động tạo ra hàng trăm nghìn loại hình công việc khai thác từ các lợi thế tài nguyên trên. Với các địa phương có các điều kiện ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên sẽ có cơ hội tạo ra nhiều việc làm hơn cho con người, và ngược lại với những địa phương không có các điều kiện ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên sẽ ít có cơ hội tạo ra nhiều việc làm cho con người.
2.2. Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế: Kinh tế tăng trưởng ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ tiết kiệm dành cho tái sản xuất và do đó ảnh hưởng vốn đầu tư sản xuất cho giai đoạn sau của nền kinh tế. Kinh tế tăng trưởng cao, tỷ lệ tiết kiệm dành cho tái suất cao, vốn đầu tư sản xuất cho giai đoạn sau cao, và như như vậy quy mô sản xuất nền kinh tế được mở rộng, quy mô việc làm cũng được tăng theo. Và ngược lại tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, tỷ lệ tiết kiệm cho tái sản xuất thấp, vốn đầu tư thấp, quy mô sản xuất không được mở rộng thêm thậm chí bị thu hẹp để cắt giảm chi phí, việc làm mới không được tạo thêm thậm chí còn gia tăng tỷ lệ mất việc làm do bị sa thải.
Xuất khẩu sản phẩm: Các địa phương có lợi thế về xuất khẩu sản phẩm sẽ giúp các địa phương đó phát triển những ngành có lợi thế riêng. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao sẽ đóng góp vào GDP cao, góp phần tăng trưởng kinh tế, mở rộng quy mô các ngành có lợi thế riêng, từ đó mở rộng quy mô việc làm góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động.
Và ngược lại các địa phương nào không có lợi thế để xuất khẩu sản phẩm thì ít có cơ hội phát triển kinh tế, mở rộng quy mô ngành kinh tế có lợi thế, từ đó ít có điều kiện tạo nhiều việc làm cho người lao động.
Tái cơ cấu kinh tế: Việc cơ cấu lại kinh tế có ảnh hưởng đến việc bố trí, sắp xếp lại lao động trong toàn bộ nền kinh tế. Một mặt tái cơ cấu kinh tế làm giảm số lượng việc làm trong nền kinh tế quốc dân. Thực chất của tái cơ cấu kinh tế là việc bố trí sắp xếp lại ngành nghề sản xuất kinh doanh sao cho hợp lý, cân đối phù hợp với thế mạnh của từng vùng, miền. Như vậy trong một chừng mực nào đó thì tái cơ cấu sẽ giảm nhu cầu về lao động hoặc dôi dư một số lao động do không đáp ứng được yêu cầu của ngành nghề mới.
Mặt khác tái cơ cấu kinh tế cũng có tác dụng làm tăng thêm nhu cầu về lao động, tức là tăng thêm nhu cầu về việc làm. Việc cơ cấu lại kinh tế góp phần phát triển, mở rộng quy mô trong mỗi ngành nghề mà mỗi vùng, địa phương có thế mạnh. Nhiều ngành nghề mới ra đời nhờ lợi thế so sánh và đầu tư của chính phủ nhằm tăng cường năng lực sản xuất phục vụ trong nước và xuất khẩu. Đương nhiên nhu cầu lao động tăng thêm và từ đó tạo thêm việc làm cho người lao động.
2.3. Nhân tố về công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm
Khoa học công nghệ: Khoa học công nghệ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức lao động sản xuất. Hoạt động lao động của con người phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố, tiến bộ khoa học kỹ thuật, máy móc thiết bị, công cụ lao động và công nghệ sản xuất. Để có việc làm với năng suất chất lượng cao, cần phải có kỹ thuật, máy móc thiết bị, công cụ lao động, công nghệ tiên tiến. Khoa học công nghệ cải tiến quy mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động giúp kinh tế phát triển, quy mô nền kinh tế mở rộng tạo điều kiện giải quyết được nhiều việc làm cho lao động. Nhưng khoa học công nghệ phát triển cũng sẽ góp phần tạo ra nhiều việc làm có năng suất chất lượng cao, sử dụng ít lao động chân tay và đòi hỏi người lao động phải có trình độ chuyên môn, hay đòi hỏi trình độ chất xám từ người lao động nhiều hơn. Và như vậy người lao động không có trình độ sẽ có nguy cơ mất việc và không tìm được việc làm cao hơn. Nhưng tác động tiêu cực này chỉ có thể xảy ra khi nền kinh tế áp dụng trình độ khoa học công nghệ ở mức cao.
Tuy nhiên có một tác dụng tích cực nữa là việc ứng dụng khoa học công nghệ đã và đang tạo ra nhiều ngành nghề mới trong xã hội, mà trước đây loài người chưa từng biết tới( công nghệ điện tử và tin học). Ngành nghề mới và quy mô của mỗi ngành không ngừng mở rộng đã tạo cho con người những việc làm mới trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài lĩnh vực truyền thống như công, nông nghiệp còn phát triển nhiều lĩnh vực mới về công nghệ mới, dịch vụ… Tuy nhiên ngành nghề mới này cũng đòi hỏi người lao động phải có trình độ, tiêu chuẩn nghề nghiệp cao hơn nhiều so với trước.
Chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm: Vốn đầu tư là nhân tố quan trọng hàng đầu để mở rộng quy mô sản xuất trong nền kinh tế. Trong lĩnh vực sản xuất vật chất muốn tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động yếu tố đầu tiên là vốn đầu tư. Việc thu hút vốn đầu tư phụ thuộc rất lớn vào chính sách thu hút vốn. Nếu chính sách thu hút vốn đầu tư thông thoáng thì càng thu hút được nhiều vốn, càng có điều kiện tạo ra nhiều chỗ việc làm mới. Ngược lại chính sách thu hút vốn không thông thoáng, vốn đầu tư càng ít và càng ít có điều kiện tạo ra nhiều việc làm mới.
2.4. Tốc độ đô thị hóa
Tốc độ đô thị hóa tăng nhanh sẽ có cơ hội tạo ra nhiều việc làm cho người lao động do các trung tâm công nghiệp, trường học, dịch vụ mọc lên nhiều. Nhưng đô thị hóa kèm theo dân số nhập cư tăng nhanh gây khó khăn cho giải quyết việc làm, đồng thời đất đai được chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp thành đất xây dựng các cụm khu công nghiệp, công trình công cộng… đã khiến không ít người lao động dựa vào canh tác đất rơi vào tình trạng mất việc và khó tìm được việc làm mới.
Tóm lại, khung lý thuyết được trình bày trong chương này sẽ cung cấp đầy đủ những cơ sở lý luận cần thiết về việc làm, tạo việc làm và các nhân tố ảnh hưởng đến tạo việc làm để nghiên cứu, phân tích thực trạng của giải quyết việc làm và từ đó có cơ sở đưa ra những giải pháp cần thiết để giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh Vĩnh Phúc đến năm 2010. Cụ thể phần lý thuyết này sẽ được sử dụng làm cơ sở để phân tích đánh giá trong chương hai.
CHƯƠNG II: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG CỦA TỈNH VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
I. TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
Trong giai đoạn 2006-2008 vừa qua, Vĩnh Phúc đã thực hiện một loạt các giải pháp, chính sách sau để tạo việc làm cho người lao động của tỉnh:
1. Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng đầu tư của Vĩnh Phúc bước đầu đem lại hiệu quả rõ rệt. Ngoài những chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi, thông thoáng, chính sách phát huy mọi nguồn lực thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước; đặc biệt là kể từ thời điểm các luật khuyến khích đầu tư, luật doanh nghiệp được sửa đổi ban hành; khu vực doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc đã và đang phát triển mạnh mẽ( trên 1700 doanh nghiệp năm 2007 và theo thống kê mới nhất cho tới thời điểm tháng 10/2008 là 2500 doanh nghiệp). Các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng vạn lao động. Nhiều doanh nghiệp được cấp giấy phép đầu tư vào Vĩnh Phúc, nhiều nhà máy đã xây dựng xong và bắt đầu đi vào hoạt động, thu hút nhiều lao động. Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đang trên đà phát triển trong hai năm qua( doanh thu bình quân hàng năm đã tăng từ 116,57 tỷ năm 2006 lên 137,2 tỷ năm 2008). Tổng số lao động và số lao động làm việc bình quân/doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể trong giai đoạn 2006-2008. Cụ thể, tổng số lao động trong các doanh nghiệp năm 2006 là 14972 người và năm 2008 là 20785 người. Quy mô số lao động bình quân/doanh nghiệp đã tăng lên từ 155,96 lao động/doanh nghiệp năm 2006 lên 173,20 lao động/doanh nghiệp năm 2008. Đặc biệt mức độ thu hút lao động vào làm việc trong các doanh nghiệp mới được thành lập thời kỳ này cao hơn nhiều so với trước đây, lao động địa phương chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp.
Đó là kết quả cho thấy các chính sách khuyến khích doanh nghiệp mở rộng đầu tư có hiệu quả cao. Các doanh nghiệp mới đầu tư đi vào hoạt động thu hút nhiều lao động, các doanh nghiệp cũ hoạt động có doanh thu tăng cao qua các năm và do đó cơ hội tiết kiệm cho tái đầu tư mở rộng quy mô sẽ cao, là điều kiện để góp phần giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh.
2. Chính sách về đào tạo nghề trong các doanh nghiệp
Một trong những chính sách mà Vĩnh Phúc đã sử dụng trong giải quyết việc làm là Vĩnh Phúc đã khuyến khích các công ty, doanh nghiệp tự mở các lớp, các trung tâm đào tạo để chủ động về nhân lực. Một số công ty, doanh nghiệp lớn như Toyota, Honda, VinaKorea…cũng có những mô hình này. Công ty Toyota mỗi năm đã tổ chức 25-30 khoa học, đào tạo được khoảng 300 kỹ thuật viên, cố vấn dịch vụ cho công ty. Nhằm nâng cao năng lực quản lý cho các chủ doanh nghiệp, các cán bộ quản lý, cán bộ nòng cốt, năm 2007 các doanh nghiệp đã phối hợp cùng trung tâm khuyến công của tỉnh hợp tác với viện kinh tế và phát triển- trường Đại học kinh tế quốc dân và trung tâm dạy nghề và giới thiệu việc làm- Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh tổ chức 4 lớp bồi dưỡng kiến thức cho 198 lãnh đạo, cán bộ quản lý doanh nghiệp và một số đoàn viên. Ngoài ra một số doanh nghiệp còn phối hợp với trường cao đẳng công nghiệp thực phẩm tổ chức 2 lớp tin học văn phòng và ứng dụng thương mại điện tử cho 22 cán bộ quản lý doanh nghiệp.
Kết quả của chính sách này là chất lượng lao động làm việc trong các doanh nghiệp tốt hơn so với chất lượng của lực lượng lao động toàn tỉnh với trên 50% lao động đã qua đào tạo( trong đó chủ yếu là đã qua đào tạo nghề-23,21% năm 2006 và 35,71% năm 2008).
3. Tạo việc làm thông qua trung tâm giới thiệu việc làm, xuất khẩu lao động, hội chợ việc làm
Hình thức tuyển dụng lao động phổ biến nhất vẫn là “ qua các mối quan hệ cá nhân” và tiếp theo đó là hình thức “lao động tự tìm đến”. Hình thức tuyển dụng tiếp theo là “ thông qua thông báo tuyển dụng lao động gián tại các doanh nghiệp”. Trong khi hình thức tuyển dụng lao động thông qua hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm, sàn giao dịch/ hội chợ việc làm vẫn chưa được doanh nghiệp quan tâm nhiều. Các trung tâm môi giới ở trên địa bàn tỉnh hoạt động vẫn chưa nhiều và hiệu quả hoạt động kém. Đến năm 2008, số người được trung tâm tư vấn giới thiệu việc làm là 20.000 người trong đó chỉ có 5000 người là tìm được việc làm. Một kết quả cho thấy hiệu quả hoạt động của trung tâm giới thiệu việc làm còn kém. Do sự lắm bắt thông tin của các trung tâm về hoạt động sản xuất kinh doanh, hoạt động tuyển dụng của các doanh nghiệp chưa cao cũng như chưa lắm bắt rõ nhu cầu cầu của người lao động, vì vậy việc đưa thông tin đến người lao động và các nhà tuyển dụng gặp nhiều khó khăn.
Tuy tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị của Vĩnh Phúc thấp( tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị là 1.74%) nhưng tiếp cận dịch vụ giới thiệu việc làm của người thất nghiệp không đáng kể( chỉ có 3% trong số người thất nghiệp đến trung tâm giới thiệu việc làm).
Như vậy nhìn từ góc độ tuyển dụng lao động qua các kênh giao dịch chính thức trên thị trường lao động vẫn chưa thực sự phát triển trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Mặc dù các kênh giao dịch chính thức trên thị trường lao động vẫn chưa được các doanh nghiệp sử dụng nhiều, nhưng trong thực tế các doanh nghiệp cũng không thực sự gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động, số doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động chỉ chiếm 30% tổng số doanh nghiệp. Nhưng nhìn góc độ này về lâu dài thì đó là một hạn chế cần khắc phục trong tương lai khi mà diễn biến trên thị trường lao động ngày càng phức tạp. Trong số những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải trong quá trình tuyển dụng lao động, khó khăn lớn nhất đối với họ là không tìm được lao động có tay nghề và cấp trình độ chuyên môn kỹ thuật phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chất lượng của lao động tuyển mới cũng không được doanh nghiệp đánh giá cao.
Xuất khẩu lao động là một trong những chủ trương cơ bản nhằm xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động hiện đang được thực hiện một cách có hiệu quả không chỉ ở Vĩnh Phúc mà là chủ chương cơ bản của cả quốc gia. Chính vì thế công tác quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động đã được tỉnh quan tâm. Đến nay Vĩnh Phúc có 27 đơn vị tham gia tuyển dụng lao động đi xuất khẩu, trong đó 4 đơn vị nhà nước, còn lại là các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân. Kết quả năm 2006 tỉnh đã đưa đi xuất khẩu lao động 1536 người, năm 2007 là 1634 người( tăng 6,38% so với năm 2006), năm 2008 là 1036 người( giảm 36,7% so với năm 2007). Nhìn chung cả giai đoạn 2006-2008 số lao động đi xuất khẩu là giảm và đạt thấp chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh, do thu nhập của lao động ở khu vực Đông nam á thấp, một số doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết theo hợp đồng với người lao động, trình độ lao động còn thấp, một số lao động bỏ trốn, vi phạm pháp luật gây tác động tiêu cực và ảnh hưởng về tâm lý đối với lao động khác.
4. Phát triển đa dạng các thành phần kinh tế để thu hút lao động
Các thành phần kinh tế tiếp tục phát triển, nhất là kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực tư nhân. Khu vực kinh tế nhà nước tiếp tục được đổi mới, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, năm 2008 tăng trưởng 15,65%, tỷ trọng chiếm 18,5% trong GDP( theo giá cố định 1994). Cơ bản việc hoàn thàn._.h sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn tỉnh. Kinh tế hợp tác xã tiếp tục phát triển với nhiều loại hình, hoạt động từng bước có hiệu quả. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, năm 2008 chiếm tỷ trọng 29,11 % GDP( theo cố định 1994), tăng trưởng 14,59%. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng cao, năm 2008 tăng 32,27%, chiếm 44,7% GDP. Quy mô kinh tế hộ gia đình lớn nhưng kém phát triển.
Các thành phần kinh tế phát triển đa dạng góp phần giải quyết nhiều việc làm cho lao động của tỉnh. Lao động có việc làm cũng có sự chuyển dịch về khu vực kinh tế. Xu hướng chuyển dịch là tăng tỷ trọng lao động làm việc trong khu vực nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài , giảm tỷ trọng lao động trong khu vực cá thể hộ gia đình. Tỷ trọng lao động trong khu vực kinh tư nhân có xu hướng giảm.
Biểu đồ 2.1: Tỷ trọng lao động làm việc trong các thành phần kinh tế qua các năm
tỉ trọng lao động(%)
Nguồn: Báo cáo tổng hợp viện khoa học lao động và xã hội
5. Chính sách về giáo dục đào tạo của tỉnh
Đào tạo nghề là một trong những hình thức nâng cao chất lượng nguồn lao động nhằm thỏa mãn và đáp ứng nhu cầu lao động có trình độ trên thị trường lao động. Chính vì vậy, công tác này đã được tỉnh quan tâm đầu tư cơ sở vật chất, số lượng cơ sở dạy nghề, quy mô và chất lượng đào tạo cũng đã có sự thay đổi để từng bước đáp ứng nhu cầu trên thị trường lao động và phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Vĩnh Phúc, góp phần giải quyết công ăn việc làm cho nhiều lao động.
Phát triển mạnh về mạng lưới dạy nghề và quy mô dạy nghề:
Mạng lưới dạy nghề: phát triển theo đúng định hướng quy hoạch phát triển hệ thống đào tạo nghề, từng bước khắc phục tình trạng mất cân đối về phân bố giữa các vùng và các ngành. Năm 2006 toàn tỉnh có 52 cơ sở dạy nghề, thì đến năm 2008 trên địa bàn tỉnh có 55 cơ sở dạy nghề bao gồm: 4 trường cao đẳng dạy nghề, 4 trường trung cấp dạy nghề, 8 trung tâm dạy nghề và 29 cơ sở dạy nghề khác. Nhìn chung các cơ sở dạy nghề vẫn còn thiếu so với yêu cầu thực tế.
Quy mô nghề: Quy mô đào tạo của các cơ sở dạy nghề tăng từ 22550 học viên năm 2006 lên 36400 học viên năm 2008. Hàng năm số học viên được đào tạo nghề tương đối lớn được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.1: Số học sinh được đào tạo nghề ra trường hàng năm
Đơn vị: người
Năm
Số học sinh
2006
2007
2008
Sơ cấp nghề
13180
17840
19076
Dạy nghề thường xuyên
4100
8626
8700
Dạy nghề dài hạn
3207
3593
4712
Tổng số học sinh
20487
30059
32488
Nguồn: sở lao động thương binh Xã hội Vĩnh Phúc
Qua bảng số liệu ta thấy quy mô dạy nghề tăng qua các năm thể hiện qua số học sinh được đào tạo nghề tốt nghiệp ra trường. Năm 2007 số học sinh ra trường tăng mạnh 46,72%, năm 2008 có tăng nhưng tăng nhẹ 8,1%. Nhìn chung bình quân mỗi năm Vĩnh Phúc đã đào tạo nghề cho 27678 người/ năm. Tuy nhiên quy mô số học sinh dạy nghề tốt nghiệp của dạy nghề dài hạn và dạy nghề thường xuyên vẫn chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu dạy nghề đặc biệt là dạy nghề dài hạn, sơ cấp dạy nghề vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất qua các năm. Điều này cho thấy quy mô dạy nghề dài hạn vẫn còn thấp so với tổng số lao động được đào tạo nghề ra trường hàng năm.
Mở rộng ngành nghề, đa dạng hóa các loại hình, hình thức đào tạo nghề: Để đáp ứng nhu cầu học nghề của người lao động, cũng như nhu cầu của thị trường lao động, một số cơ sở dạy nghề đã chủ động xây dựng kế hoạch mở rộng đào tạo các nghề mới, nâng cao quy mô năng lực đào tạo nghề.
Bên cạnh việc đào tạo nghề cho người lao động thường xuyên, dạy nghề dài hạn, ngắn hạn; sơ cấp nghề; các cơ sở dạy nghề còn tổ chức đào tạo nghề cho người lao động dưới nhiều hình thức như: dạy nghề gắn với giải quyết việc làm, dạy nghề theo hợp đồng lao động của các doanh nghiệp, dạy nghề theo hình thức vừa học vừa làm tại các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các làng nghề truyền thống, dạy nghề lưu động tại các địa phương, các khu, cụm công nghiệp.
Tăng cường đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý: Đội ngũ giáo viên phát triển về số lượng, chất lượng từng bước được nâng cao. Đại bộ phận cán bộ quản lý tại các trường dạy nghề, trung tâm dạy nghề là những giáo viên có trình độ có kinh nghiệm nhưng nhìn chung năng lực tổ chức quản lý đào tạo còn hạn chế.
Đầu tư nguồn lực, tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy nghề:
Việc xây dựng các cơ sở dạy nghề được đẩy mạnh, trường đào tạo nghề Vĩnh Phúc, trung tâm dạy nghề thị xã Phúc Yên, trung tâm dạy nghề Lập Thạch và Vĩnh Tường cơ bản đã hoàn thành và đưa vào sử dụng, các cơ sở dạy nghề này đã cơ bản có đủ phòng học lý thuyết, xưởng thực hành.
Để đáp ứng công tác đào tạo nghề được thực hiện tốt, Vĩnh Phúc đã đầu tư vào cơ sở vật chất thiết bị dạy nghề. Năm 2006, tỉnh đã đầu tư trên 70 tỷ đồng cho đào tạo nghề trong đó mua sắm máy móc thiết bị dạy nghề cho các cơ sở đào tạo nghề công lập gần 15 tỷ đồng. Năm 2007 chỉ đầu tư được gần 4 tỷ đồng cho cơ sở vật chất đào tạo nghề, không đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra( kế hoạch là 14,5 tỷ). Đến năm 2008, kinh phí hỗ trợ đào tạo nghề là 7,1 tỷ đồng, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên trang thiết bị dạy và học nghề của nhiều cơ sở, nhất là trung tâm dạy nghề vẫn còn thiếu và lạc hậu.
Chất lượng đào tạo nghề:. Chất lượng đào tạo nghề cũng chưa được sát với yêu cầu công việc trong thực tế và kỹ năng nghề, ý thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, sức khỏe và ngoại ngữ của các học viên học nghề còn nhiều hạn chế.
Nguồn kinh phí cho dạy nghề: Kinh phí cho đào tạo nghề thời gian qua theo xu hướng, nguồn từ ngân sách giảm và đóng góp của học viên tăng. Năm 2006 là kinh phí sự nghiệp đào tạo nghề là 10,5 tỷ đồng trong đó ngân sách là 7,8 tỷ đồng, đóng góp của học viên là 2,5 tỷ, nguồn khác 0,2 tỷ. Nhưng đến năm 2007 kinh phí là 11,3 tỷ trong đó ngân sách là 4,9 tỷ( giảm 2,9 tỷ), đóng góp của học viên là 3,8 tỷ( tăng 1,3 tỷ), nguồn khác 2,7 tỷ. Như vậy kinh phí cho học nghề do học viên đóng góp tăng cao, và do đó sẽ hạn chế số học theo học đào vì không có đủ kinh phí theo học.
Tóm lại, chính sách giáo dục đào tạo của tỉnh cho người lao động đã có bước phát triển, cụ thể là phát triển về mạng lưới dạy nghề, quy mô dạy nghề được mở rộng, đội ngũ giáo viên dạy nghề được tăng cường cả về số và chất lượng, cũng như đầu tư vào các trang thiết bị dạy nghề. Các chính sách giáo dục đào tạo này đã tác động đến chất lượng nguồn lao động của tỉnh, từng bước đáp ứng nhu cầu tuyển dụng lao động của các doanh nghiệp, từ đó gián tiếp góp phần giải quyết việc làm cho người lao động của tỉnh.
6. Giải quyết việc làm thông qua chương trình vay vốn giải quyết việc làm
Cho vay vốn hỗ trợ giải quyết việc làm theo nghị quyết 120/HĐBT ( nay là chính phủ) ra đời năm 1992 nhằm thực hiện chính sách tín dụng hỗ trợ cho các đối tượng tạo việc làm, tăng thu nhập với lãi suất ưu đãi khuyến khích mọi thành phần kinh tế phát triển, tạo ra nhiều việc làm mới và ổn định việc làm cho người lao động trong các cơ sở sản xuất. Thực hiện chủ trương đó trong những năm qua Vĩnh Phúc đã triển khai nguồn vốn cho vay đối với các đối tượng lao động trong tỉnh. Trong giai đoạn 2006-2008:
Bảng 2.2: Quỹ quốc gia cho vay hỗ trợ việc làm giai đoạn 2006-2008
Đơn vị
2006
2007
2008
1. Tổng nguồn quỹ( cả TW-ĐP)
Triệu đồng
12000
11500
11500
Trong đo: tổng số vốn thu hồi
Vốn bổ sung mới
Triệu đồng
8000
8000
8000
Triệu đồng
4000
3500
3500
2. Số dự án được duyệt vay vốn
Số tiền cho các dự án vay
Dự án
49
60
54
Triệu đồng
12000
11500
11500
3. Số lao động được tạo việc làm
Người
600
1855
Nguồn: Sở lao động thương binh và xã hội Vĩnh Phúc
Qua bảng số liệu cho thấy, quỹ quốc gia giải quyết việc làm năm 2006 đã duyệt được 49 dự án với tổng số tiền cho vay là 12 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 4 tỷ đồng. Năm 2007, quỹ đã duyệt được 60 dự án với tổng số tiền cho vay 11,5 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 3,5 tỷ đồng. Như vậy năm 2007 số dự án được duyệt cho vay đã tăng thêm 11 dự án so với năm 2006 nhưng số tiền cho vay lại giảm 0,5 tỷ đồng. Năm 2008, quỹ đã duyệt được 54 dự án với tổng số tiền cho vay 11,5 tỷ đồng trong đó vốn mới bổ sung là 3,5 tỷ đồng. Năm 2008, số dự án được duyệt lại giảm so với năm 2007 là 6 dự án nhưng quy mô tiền vốn cho vay lại không đổi. Nhìn chung cả thời kỳ 2006-2008, quy mô vay vốn của tỉnh đã mở rộng hơn về số dự án, thu hẹp hơn về số tiền vay. Năm 2008, số dự án cho vay tăng thêm nhưng số tiền vay không đổi và số lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn cho vay này tăng thêm 1255 lao động so với năm 2007, có được điều này là do sự thay đổi chính sách cho vay vốn của tỉnh, các dự án tỉnh duyệt đều là các dự án sử dụng ít vốn nhưng lại sử dụng nhiều lao động. Đó là một một giải pháp tốt mà tỉnh đã sử dụng, góp phần giải quyết được nhiệu việc làm cho lao động, tuy nhiên tổng số tiền cho vay còn thấp và trong thời gian tới cần tăng quy mô số tiền cho vay lên.
Tóm lại, qua một loạt những cố gắng trong công tác giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008, và để thấy rõ hơn những kết quả đạt được cũng như những tồn tại trong công tác giải quyết việc làm của tỉnh, tôi sẽ tiến hành phân tích thực trạng về việc làm theo ngành và theo khu vực của tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008 ở mục II sau.
II. THỰC TRẠNG VỀ VIỆC LÀM Ở VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
1. Thực trạng việc làm theo ngành kinh tế
Số lao động được tạo việc làm theo ngành có xu hướng tăng trong giai đoạn 2006-2008( năm 2008 tăng 3,23% so với năm 2006), trong đó ngành dịch vụ có xu hướng tăng dần tỷ trọng số lao động được tạo việc làm, ngành nông nghiệp và công nghiệp có xu hướng giảm dần tỷ trọng số lao động được tạo việc làm. Ngành công nghiệp vẫn là ngành tạo ra nhiều việc làm nhất cho lao động của tỉnh( chiếm 52,77% năm 2006, 60,45% năm 2007 và 48,56% năm 2008 trong tổng số lao động được tạo việc làm từng năm). Do đặc điểm Vĩnh Phúc là tỉnh có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp phát triển. Xu hướng chuyển dịch số lao động được tạo việc làm qua các năm của Vĩnh Phúc được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng2.3: Tổng số lao động được tạo việc làm theo ngành và Tỷ lệ lao động được tạo việc làm
Năm
Ngành
2006
2007
2008
I. Số lao động được tạo việc làm (lao động)
20.064
22.000
20.712
1. Nông- Lâm- Ngư nghiệp
5.800
5.100
5.274
2. Công nghiệp- xây dựng
10.587
13.300
10.058
3. Dịch vụ
3.677
3.600
5.380
II. Phần trăm lao động được tạo việc làm(%)
100
100
100
1. Nông- Lâm- Ngư nghiệp
28,9
23,18
25,46
2. Công nghiệp- Xây dựng
52,77
60,45
48,56
3. Dịch vụ
18,33
16,36
25,98
Nguồn: Sở lao động thương binh xã hội Vĩnh Phúc
Qua bảng số liệu ta thấy, tỷ trọng số lao động được tạo việc làm giữa các năm có sự biến đổi tăng giảm giữa các ngành trong nền kinh tế. Cụ thể, trong năm 2006, ngành nông nghiệp đã tạo được việc làm cho 5.800 lao động, chiếm 28,9% trong tổng số lao động được tạo việc làm; ngành công nghiệp xây dựng tạo ra việc làm cho 10.587 lao động chiếm 52,77% trong tổng số lao động được tạo việc làm; trong đó ngành dịch vụ chỉ tạo ra được việc làm cho 3.677 lao động chiếm 18,33% trong tổng số lao động được tạo việc làm toàn tỉnh. Như vậy ngành dịch vụ tạo ra ít việc làm nhất.
Nhưng sang năm 2007, Vĩnh phúc đã thực hiện rất nhiều chính sách thu hút vốn đầu tư, xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, thì tổng số lao động được tạo việc làm tăng so với năm trước là 1936 người. Cơ cấu việc làm đã có sự chuyển dịch từ ngành nông nghiệp, ngành dịch vụ sang ngành công nghiệp xây dựng, điều đó được giải thích bởi chính sách thu hút đầu tư của tỉnh. Trong năm 2006 và 2007 là hai năm mà UBND tỉnh có chính sách mở rộng các khu công nghiệp, thu hút các nhà đầu tư vào đầu tư do đó công tác xây dựng ban đầu tại các khu công nghiệp đã thu hút không ít lao động vào làm việc. Khi hoàn thành đầu tư các dự án vào khu công nghiệp các doanh nghiệp thu hút thêm lượng lớn lao động nữa vào làm việc, bên cạnh đó việc thu hồi đất xây dựng các dự án đã đẩy nhiều hộ gia đình mất đất nông nghiệp và các gia đình đang kinh doanh dịch vụ phải chuyển sang làm trong lĩnh vực khác làm cho cơ cấu nông nghiệp và dịch vụ cũng chuyển sang ngành công nghiệp xây dựng. Cụ thể ngành nông nghiệp do mất đất sử dụng, lao động bị thu hút sang các ngành khác một phần nên số lao động được tạo việc làm giảm 700 người tương đương giảm 5.72%; còn ngành công nghiệp số lao động được tạo việc làm tăng mạnh 2.713 người tương đương tăng 7,68%; trong đó ngành dịch vụ có giảm nhưng giảm nhẹ, chỉ giảm đi 77 người tương đương 1,97%.
Năm 2008, tổng số lao động được tạo việc làm ít hơn năm 2007 nhưng vẫn cao hơn năm 2006, cơ cấu việc làm lại có chiều hướng chuyển dịch ngược lại. Ngành nông nghiệp và dịch vụ lại thu hút lao động từ ngành công nghiệp- xây dựng chuyển sang. Công tác quản lý vốn không hiệu quả gây nhiều thất thoát, và do một nguyên nhân khách quan nữa là cơn bão giá toàn cầu đã làm các khu công nghiệp bắt đầu đi vào hoạt động vốn gặp nhiều khó khăn lại càng khó khăn hơn, các doanh nghiệp buộc cắt giảm nhân công để giảm giá thành, các công trình xây dựng dở dang trì hoãn xây dựng do giá đầu vào tăng khiến không ít người lao động mất việc. Trong tình hình đó những lao động không có trình độ sẽ bị sa thải khỏi ngành công nghiệp làm số lao động được tạo việc làm của ngành giảm 3.242 lao động tương đương giảm 11,89%. Số lao động không có trình độ chuyển sang làm việc trong những ngành không đòi nhiều về trình độ chuyên môn như nông nghiệp, các dịch vụ nông nghiệp, chủ yếu là dịch vụ nhỏ lẻ khác, và như vậy làm cho lao động được tạo việc làm trong các ngành này tăng tương tương ứng 174 và 1780 lao động. Và số lao động toàn nền kinh tế của tỉnh giảm 1.288 lao động.
Nhìn chung số lao động được tạo việc làm trong toàn tỉnh có sự biến động không đồng đều giữa các năm nhưng nhìn chung có biến động nhẹ theo chiều hướng tốt. Trong ba năm lao động trong ngành nông nghiệp có giảm, ngành dịch vụ tăng và ngành công nghiệp tuy có giảm nhưng giảm nhẹ so với năm 2006. Hay nói khác chuyển đổi việc làm có xu hướng chuyển từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, nhưng vẫn ở những công việc có trình độ thấp. Và tính tổng số lao động được tạo việc làm năm 2008 so với 2006 là có tăng 648 người.
3. Thực trạng việc làm theo khu vực kinh tế
Số lượng lao động có việc làm theo khu vực có xu hướng tăng liên tục trong ba năm giai đoạn 2006-2008, năm 2007 tăng 10.815 người tương đương 1,61%, năm 2008 tăng mạnh so với năm 2007 với quy mô tăng 27.022 người tương đương 4%. Cơ cấu lao động có việc làm có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông thông sang thành thị. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.4: Số lao động và tỷ lệ lao động có việc làm chia theo khu vực thành thị nông thôn
2006
2007
2008
I. Số lao động có việc làm theo khu vực ( người)
671.592
682.407
709.429
1. Thành thị
84.891
84.569
103.757
2. Nông thôn
596.701
597.838
605.672
II. Tỷ lệ số lao động có việc làm theo khu vực(%)
100,00
100,00
100,00
1. Thành thị
12,64
12,39
14,63
2. Nông thôn
87,36
87,61
85,37
Nguồn: Cục thống kê Vĩnh Phúc
Qua bảng số liệu ta thấy, về quy mô số lao động có việc làm ở khu vực nông thôn có xu hướng tăng nhưng tỷ trọng số lao động có việc làm khu vực nông thôn có xu hướng tăng vào năm 2007 nhưng lại tỷ trọng này lại giảm mạnh vào năm 2008. Cụ thể năm 2007 số lao động có việc làm tăng 1.137 người tương đương tăng tỷ trọng 0,25 % so với năm 2006. Năm 2008, số lao động có việc làm khu vực nông thôn tăng 7.834 người nhưng tỷ trọng số lao động có việc làm khu vực nông thôn lại giảm mạnh 2,24%.
Ở khu vực thành thị số lao động có việc làm và tỷ trọng lao động có việc làm đều có xu hướng tăng trong cả giai đoạn 2006-2008. Năm 2007, số lao động có việc làm giảm người, tương đương giảm 0,25% về tỷ trọng. Nhưng sang năm 2008, số lao động có việc làm tăng nhanh đột biến với số lượng tăng 19.188 người, tương đương tăng 2,24% về tỷ trọng.
Có sự thay đổi tăng lên về quy mô số lao động có việc làm trong cả hai khu vực là do các khu vực kinh tế mở rộng quy mô các ngành nghề, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới cho nền kinh tế. Tuy nhiên lại có sự chuyển dịch trong tỷ trọng số lao động có việc làm từ khu vực nông thôn sang khu vực thành thị, do tốc độ đô thị hóa tăng nhanh, việc mở rộng hoạt động sản xuất trong khu vực thành thị đã làm mở rộng quy mô sử dụng lao động trong khu vực thành thị thu hút nhiều lao động ở khu vực nông thông chuyển sang.
Nhìn chung cả giai đoạn 2006-2008, số lao động có việc làm có xu hướng tăng lên và tỷ trọng số lao động khu vực thành thị có xu hướng chuyển dịch từ khu vực nông thôn sang. Đây là xu hướng chuyển dịch tốt, thể hiện sự phát triển trong nền kinh tế. Tuy nhiên xét về mặt cơ cấu thì vẫn chưa đồng đều, số lao động có việc làm cao hơn rất nhiều so với khu vực thành thị và tỷ trọng lao động có việc làm khu vực nông thôn vẫn chiếm tỷ lệ lớn trong tổng cơ cấu( trên 85%).
Tóm lại, sau khi phân tích thực trạng việc làm của Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008 là cơ sở để để mục III đưa ra những nhận xét, những đánh giá về giải quyết việc làm của Vĩnh Phúc giai đoạn 2006-2008, tìm ra những nguyên nhân dẫn đến còn tồn tại trong giải quyết việc làm.
III. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CỦA VĨNH PHÚC GIAI ĐOẠN 2006-2008
Trước khi tiến hành đánh giá về công tác giải quyết việc làm của tỉnh Vĩnh Phúc, thì phải phân tích, đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm để thấy được những kết quả đạt được chịu ảnh hưởng tích cực từ các nhân tố nào, và những tồn tại chịu ảnh hưởng tiêu cực của những nhân tố nào, từ đó giúp tìm ra được các nguyên nhân của những tồn tại đó để có các giải pháp giải quyết phù hợp.
1. Các nhân tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm
1.1. Điều kiện tự nhiên Vĩnh Phúc
1.1.1.. Vị trí địa lý:
Vĩnh Phúc là tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ tiếp giáp với Hà Nội và một số tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Tây, Phú Thọ với diện tích tự nhiên vào khoảng 1371,41km2.
Vĩnh Phúc có vị trí thuận lợi, nằm trên quốc lộ số 2 và tuyến đường sắt Hà Nội- Lào Cai, là cầu nối giữa vùng trung du miền núi phía bắc với thủ đô Hà Nội; liền kề cảng hàng không quốc tế Nội Bài, qua đường quốc lộ số 5 thông với cảng Hải Phòng và trục đường 18 thông với cảng nước sâu Cái Lân. Vĩnh Phúc có vị trí quan trọng đối với vùng kinh tế trọng điểm bắc bộ, đặc biệt đối với thủ đô Hà Nội, góp phần cùng với thủ đô Hà Nội thúc đẩy tiến trình đô thị hóa, phát triển công nghiệp, giải quyết việc làm, giảm sức ép về đất đai, dân số, các nhu cầu về xã hội, du lịch, dịch vụ của Thủ đô Hà Nội.
Với vị trí thuận lợi đó, đã giúp Vĩnh phúc có những lợi thế mới để phát triển kinh tế như; tỉnh đã trở thành một bộ phận cấu thành của vành đai phát triển công nghiệp các tỉnh phía bắc; chịu ảnh hưởng mạnh mẽ trước sự lan tỏa của các khu công nghiệp lớn thuộc Hà Nội như Bắc Thăng Long, Sóc Sơn… Sự hình thành phát triển các tuyến hành lang giao thông quốc tế và quốc gia liên quan đến Vĩnh Phúc đã đưa tỉnh xích gần hơn với các trung tâm kinh tế.
Từ các lợi thế về kinh tế đã tạo nhiều cơ hội cho Vĩnh Phúc thu hút được nhiều nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh, nhà đầu tư nước ngoài đầu tư phát triển các vào các ngành, các khu công nghiệp tỉnh. Nhiều ngành nghề mới phát triển góp phần giải quyết công ăn việc làm cho lao động của tỉnh.
1.1.2.. Tài nguyên thiên nhiên( đất, hầm mỏ, sông ngòi, núi non):
Tài nguyên đất: Tỉnh Vĩnh Phúc có 219.200ha diện tích đất tự nhiên. Trong đó: diện tích đất nông nghiệp là 66.781 ha chiếm 48,69 %; diện tích đất lâm nghiệp là 30433 ha chiếm 22,18 %, diện tích đất chuyên dung là 18693 ha chiếm 13,63 %, diện tích đất ở là 5.158 ha chiếm 3,67%, diện tích đất chưa sử dụng và song suối đá là 16017 ha chiếm 11,71 %. Trong đất nông nghiệp, diện tích đất trồng cây hàng năm là 53.587 ha chiếm 89,64%, riêng đất lúa chiếm 96,18%, gieo trồng hai vụ; diện tích đất trồng cây lâu năm là 1.139 ha chiếm 1,7%; diện tích đất cơ mặt nước nuôi trồng thủy sản là 2.171 ha chiếm 3,25%. Diện tích đất trống đồi trọc cần phủ xanh là 7608 ha, bãi bồi có thể sử dụng là 1.426 ha, đất mặt nước chưa được khai thác 533 ha.
Với tài nguyên đất phong phú như thế giúp cho Vĩnh Phúc phát triển đa dạng loại ngành nghề: nông lâm nghiệp và các ngành công nghiệp chế biến sản phẩm từ nông, lâm nghiệp, các ngành dịch vụ phục vụ cho các ngành nông lâm nghiệp; từ đó tạo cơ hội giải quyết nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong tỉnh. Nhưng hiện nay một phần đất nông nghiệp bị thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã gây không ít khó khăn cho công tác giải quyết việc làm cho người lao động ở vùng bị thu hồi đất tìm kiếm việc làm và chuyển đổi nghề nghiệp; bởi trình họ là những lao động không có trình độ cao.
Tài nguyên rừng: Toàn tỉnh có 30.439 ha rừng, trong đó: diện tích rừng tự nhiên là 9592 ha, diện tích rừng trống là 20.847 ha. Khu bảo tồn thiên nhiên có 15.482 ha thuộc vườn quốc gia Tam Đảo quản lý.
Diện tích rừng rộng, tài nguyên rừng phong phú về chủng loại, tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc phát triển các ngành lâm nghiệp, nuôi trồng cây công nghiệp, cây dược liệu quý từ rừng; đặc biệt khu rừng sinh thái Tam Đảo giúp tỉnh phát triển ngành du lịch tạo điều kiện giải quyết nhiều việc làm cho lao động của tỉnh.
Tài nguyên khoáng sản: Tài nguyên khoáng sản cũng phong phú về chủng loại, có 4 loại khoáng sản đó là:
Khoáng sản nguyên vật liệu xây dựng và nguyên liệu làm sứ gốm: đất sét làm gạch ngói, trữ lượng hàng tỷ m3; cát sỏi lòng sông và bậc thềm, trữ lượng hàng chục m3; đá xây dựng, trữ lượng hàng tỷ m3 gồm đá khối, đá tảng, đá dăm. Nhóm nguyên vật liệu làm sứ: đất cao lanh có trữ lượng hàng triệu m3 để sản xuất gốm sứ và gạch chịu lửa.
Khoáng sản kim loại gồm có: đồng, vàng, thiếc, sắt.
Khoáng sản là than chưa khai thác gồm: than đá antraxit có khoảng 1000 tấn ở xã Đạo Trù, than nâu trữ lượng vài nghìn tấn, than bùn ở nhiều điểm.
Với trữ lượng khoáng sản phong phú về chủng loại, nhiều về số lượng đã tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc phát triển nhiều ngành nghề liên quan đến công nghiệp thác và chế biến các sản phẩm khai thác, tạo cơ hội cho Vĩnh Phúc giải quyết được nhiều việc làm cho lao động trong tỉnh.
1.2. Tăng trưởng kinh tế
Nền kinh tế Vĩnh Phúc( kể từ khi tái lập tỉnh trên cơ sở tách ra từ tỉnh Vĩnh Phú) đã có những phát triển mạnh mẽ, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trong 10 năm qua đạt khoảng 17%, GDP bình quân đầu người ước đạt 21,6 triệu đồng, tăng 37,4% so với năm 2007. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp-xây dựng và dịch vụ năm 2008 đạt 82% trong cơ cấu kinh tế. Tăng trưởng kinh tế(GDP-giá so sánh 1994) tuy không đạt kế hoạch, nhưng vẫn tăng trưởng ở mức cao so với cả nước, ước đạt 14,78%( kế hoạch là trên 18%), trong đó khu vực công nghiệp-xây dựng tăng14,91%, khu vực dịch vụ tăng 18,99%, khu vực nông lâm nghiệp thủy sản tăng 6,89%. Kinh tế tăng trưởng cao, từ đó tỷ lệ tiết kiệm cho tái đầu tư mở rộng quy mô sản xuất cao, từ đó giúp tỉnh có điều kiện giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cũng gây ra sự mất cân đối giữa việc làm khu vực nông thôn và thành thị.
Hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Vĩnh Phúc có bước phát triển mạnh mẽ, kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2006-2008 có tốc độ tăng trưởng bình quân gần 30%, trong đó kim ngạch xuất khẩu năm 2008 trên địa bàn tỉnh ước đạt 425 triệu USD. Hàng công nghiệp xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch, năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 248 triệu USD chiếm 96% tổng kim ngạch, năm 2007 đạt 315 triệu USD chiếm 92%, riêng 7 tháng đầu năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt 248 triệu USD chiếm 97% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu được mở rộng, hiện nay sản phẩm xuất khẩu của doanh nghiệp Vĩnh Phúc đã có mặt tại hơn 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó có các nước EU, ASEAN, Nhật Bản, Nam Mỹ và Hoa Kỳ. Kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu này có tác động rất lớn đến mức tăng trưởng kinh tế cũng như mức thay đổi cơ cấu GDP các ngành của tỉnh, cụ thể xuất khẩu giúp các ngành mở rộng quy mô theo hướng sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm có lợi thế của tỉnh, từ đó tác động tới mở rộng quy mô việc làm trong tỉnh.
Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế nói chung và xuất khẩu nói riêng mà Vĩnh Phúc đạt được trong thời gian qua kết hợp với chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng thuận lợi thông thoáng đã giúp tỉnh thu hút được vốn đầu tư mạnh ( với khoảng 4 tỷ USD và trên 600 dự án đầu tư), giúp mở rộng đầu tư phát triển quy mô sản xuất, tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động trong tỉnh.
Tái cơ cấu kinh tế diễn ra theo chiều hướng tích cực, các ngành nghề mới nhiều do đó đã tăng thêm nhu cầu về lao động trong các ngành nghề góp phần giải quyết việc làm cho nhiều lao động, đặc biệt là những lao động có trình độ trong tỉnh. Tái cơ cấu trong tỉnh đã làm cho một bộ phận lớn lao động không có trình độ mất việc làm, gây không ít khó khăn cho giải quyết việc làm cho bộ phận lao động này.
1.3. Nhân tố công nghệ, chính sách thu hút vốn đầu tư tạo việc làm
1.3.1. Tác động của khoa học công nghệ
Trong những năm qua, khoa học công nghệ đã thực sự góp phần thúc đẩy nông nghiệp phát triển, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng trong sản xuất nông nghiệp đạt kết quả. Một số giống lúa mới có năng suất cao, thích hợp với các vùng sinh thái được tuyển chọn và đưa vào sản xuất đại trà. Sự kết hợp giữa các giống lúa mới có năng suất cao với khả năng thâm canh tăng vụ của nông dân nên năng suất lúa đại trà năm sau cao hơn năm trước. Nhiều tiến bộ kỹ thuật trong chăn nuôi như lai tạo giống con có năng suất cao, chương trình Sind hóa đàn bò, nạc hóa đàn lợn, gà công nghiệp, đưa đàn cá lai nhập lội đã tăng lên rõ rệt về số lượng và chất lượng sản phẩm. Các kết quả trong việc áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp đã giúp kinh tế nông nghiệp phát triển, giúp người lao động vùng nông thôn đạt hiệu quả trong sản xuất, mở rộng thâm canh tăng vụ, nhân rộng các mô hình kinh tế, góp phần giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở khu vực này.
Trong công nghiệp dịch vụ, bước đầu đã thúc đẩy cải tiến công nghệ, nhập các công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch góp phần nâng cao trình độ công nghệ trên địa bàn tỉnh, tăng sản phẩm và năng suất lao động, bảo vệ môi trường. Trong những năm qua đã nhập và đưa vào sản xuất 12 công nghệ tiên tiến trên các lĩnh vực như công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông, công nghệ lắp ráp xe máy Honda, xe ô tô Toyota của Nhật, ứng dụng cả công nghệ mới trong như chất phụ gia Con-acid, xây dựng lò gạch tuy len, chế biến sản xuất thuốc tân dược, các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Công nghệ đã giúp ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm. Những tác động của công nghệ đó đã trực tiếp làm tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế của các ngành này từ đó gián tiếp tác động giải quyết việc làm cho lao động của tỉnh.
Trình độ áp dụng khoa học công nghệ của tỉnh còn ở mức thấp, hầu hết các công nghệ, trang thiết bị cũ và lạc hậu, đã thiếu lại không đồng bộ, trình độ cán bộ còn hạn chế, chưa có chuyên gia đầu ngành giỏi đáp ứng yêu cầu hiện nay. Do đó những tác động tích cực của khoa học công nghệ trên chỉ ở mức thấp, hay nói khác yếu tố khoa học công nghệ chưa giúp tỉnh giải quyết được nhiều việc làm cho lao động.
1.3.2. Chính sách thu hút vốn đầu tư
Vĩnh Phúc đã ban hành các chính sách ưu đãi để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước, đầu tư trực tiếp vào Vĩnh Phúc, đó là:
Miễn tiền thuê đất: Dự án đầu tư vào lĩnh vực sản xuất tại địa bàn huyện Lập Thạch và các xã miền núi của các huyện Tam dương, Mê Linh, Bình Xuyên được miễn thêm 8 năm; đầu tư cào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp và các địa bàn khác được miễn thêm 5 năm.
Hỗ trợ tiền đền bù giải phóng mặt bằng: Đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp, cụm công nghiệp được hỗ trợ 8%; các ngành nghề sử dụng công nghệ cao và sử dụng từ 50 lao động trở lên được hỗ trợ 10%; doanh nghiệp có vốn đầu tư từ 10 tỷ đồng trở lên và sử dụng từ 50 lao động trở lên cũng được hỗ trợ 10%; doanh nghiệp chế biến nông sản sử dụng trên 30% nguồn nguyên liệu của tỉnh và sử dụng trên 50 lao động trở lên được hỗ trợ 15%; đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp vùng đồng bằng các huyện Tam Dương, Vĩnh Tường, Yên Lạc được hỗ trợ 20%; Đầu tư chung cư cao tầng để cho thuê đô thị, phục vụ khu công nghiệp, cụm công nghiệp ở thị xã Vĩnh Yên, các huyện Bình Xuyên, Vĩnh Tường, Yên Lạc, Lập Thạch và các công trình văn hóa thể thao, vui chơi giải trí, y tế giáo dục được hỗ trợ từ 50-100%.
Hỗ trợ tiền vay: Dự án đầu tư để xây dựng chung cư cao tầng( 3 tầng trở lên), nhà ở cho thuê đô thị, phục vụ cụm công nghiệp và các công trình văn hóa, thể thao, vui chơi giải trí trên địa bàn tỉnh được UBND tỉnh xem xét hỗ trợ lãi suất tiền vay của các tổ các tổ chức tín dụng cho từng dự án cụ thể.
Hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho lao động của tỉnh: Các dự án được hưởng ưu đãi trên là các dự án đầu tư mới, sử dụng chưa qua đào tạo là người của tỉnh Vĩnh Phúc được ngân sách hỗ trợ kinh phí một lần để đào tạo nghề là 500.000 đồng/ người.
Hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng: Vĩnh Phúc đảm bảo xây dựng kết cấu hạ tầng gồm đường giao thông, hệ thống cấp điện, cấp nước, thông tin liên lạc đến hàng rào của khu công nghiệp, cụm công nghiệp; khu xử lý chất thải rắn công nghiệp tập trung; khu quy hoạch chi tiết khu công nghiệp, cụm công nghiệp đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các dự án đầu tư vào địa bàn ngoài khu công nghiệp theo yêu cầu của tỉnh gắn với vùng nguyên liệu được hỗ trợ 30% kinh phí xây dựng đường giao thông, đường cấp nước ngoài hàng rào.
Thủ tục hành chính: bớt rườm rà và được quy định rõ ràng đối với từng dự án.
Các chính sách thu hút vốn rất hấp dẫn thông thoáng trên, tạo điều kiện thu hút được nhiều nhà đầu tư mới vào các dự án đang thực hiện, dự án mới. Kéo theo là sự phát triển nhiều ngành nghề như dịch vụ xây dựng, cấp thoát nước… cũng như quy mô nền kinh tế của tỉnh được mở rộng, góp phần giải quyết._.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21863.doc